Tải bản đầy đủ (.pdf) (66 trang)

Chân dung nhà nho qua một số sán tác phú chữ nôm tiêu biểu (khảo sát qua phú nôm của nguyễn công trứ và cao bà quát)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (906.03 KB, 66 trang )





TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

TRẦN THỊ MÙI



CHÂN DUNG NHÀ NHO QUA MỘT SỐ
SÁNG TÁC PHÚ CHỮ NÔM TIÊU BIỂU
(Khảo sát qua phú Nôm của Nguyễn Công Trứ và Cao Bá Quát)



KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam



HÀ NỘI – 2014



TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

TRẦN THỊ MÙI



CHÂN DUNG NHÀ NHO QUA MỘT SỐ SÁNG
TÁC PHÚ CHỮ NÔM TIÊU BIỂU
(Khảo sát qua phú Nôm của Nguyễn Công Trứ và Cao Bá Quát)

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
TS. NGUYỄN THỊ NHÀN



HÀ NỘI - 2014



LỜI CẢM ƠN

Tác giả khóa luận xin gửi lời cảm ơn chân thành và bày tỏ lòng biết ơn
sâu sắc tới cô giáo, TS Nguyễn Thị Nhàn - ngƣời trực tiếp hƣớng dẫn, chỉ bảo
tận tình giúp tôi hoàn thành khóa luận.
Tác giả cũng xin đƣợc gửi lời cảm ơn các thầy cô giáo khoa Ngữ văn,
các thầy cô giáo trong tổ Văn học Việt Nam đã giúp đỡ và tạo mọi điều kiện
thuận lợi để tôi hoàn thành khóa luận này.
Khóa luận đƣợc hoàn thành, song không tránh khỏi những hạn chế, thiếu
sót. Tác giả rất mong nhận đƣợc sự đóng góp ý kiến từ thầy cô giáo để đề tài
nghiên cứu đƣợc hoàn thiện.
Tác giả xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày tháng năm

Sinh viên

Trần Thị Mùi








LỜI CAM ĐOAN

Tác giả xin cam đoan khóa luận này là kết quả nghiên cứu của bản thân
tôi dƣới sự hƣớng dẫn của cô giáo, TS. Nguyễn Thị Nhàn. Khóa luận không
trùng với kết quả của bất kỳ công trình nghiên cứu nào.
Nếu sai, tác giả xin hoàn toàn chịu trách nhiệm!

Hà Nội, ngày tháng năm
Sinh viên

Trần Thị Mùi



MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 2

3. Mục đích nghiên cứu 7
4. Nhiệm vụ nghiên cứu 8
5. Phạm vi, đối tƣợng nghiên cứu 8
6. Phƣơng pháp nghiên cứu 8
7. Đóng góp của khóa luận 8
8. Cấu trúc của khóa luận 9
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỂ PHÚ VÀ LOẠI
HÌNH NHÀ NHO 10
1.1. Sơ lược về thể phú 10
1.2. Thể Phú trong các giai đoạn văn học Việt Nam trung đại 13
1.3. Mấy nét về loại hình nhà nho 17
CHƢƠNG 2. CHÂN DUNG NHÀ NHO NGUYỄN CÔNG TRỨ VÀ
CAO BÁ QUÁT QUA HÀN NHO PHONG VỊ PHÚ VÀ TÀI TỬ ĐA
CÙNG PHÚ 22
2.1. Chân dung Nguyễn Công Trứ qua Hàn nho phong vị phú 22
2.1.1. Cuộc đời và sự nghiệp…. 22
2.1.2. Chân dung Nguyễn Công Trứ qua Hàn nho phong vị phú 25
2.2. Chân dung Cao Bá Quát qua Tài tử đa cùng phú 33
2.2.1. Cuộc đời và sự nghiệp 33
2.2.2. Chân dung Cao Bá Quát qua Tài tử đa cùng phú 36
2.3. So sánh điểm tương đồng và khác biệt của chân dung hai nhà nho qua
Hàn nho phong vị phú và Tài tử đa cùng phú 41


2.3.1. Sự tƣơng đồng 41
2.3.2. Sự khác biệt 43
CHƢƠNG 3. NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN CHÂN DUNG NHÀ NHO
QUA HÀN NHO PHONG VỊ PHÚ VÀ TÀI TỬ ĐA CÙNG PHÚ 48
3.1. Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ 48
3.1.1. Sử dụng ngôn ngữ địa phƣơng, khẩu ngữ 48

3.1.2. Ngôn ngữ văn xuôi 50
3.1.3. Sử dụng những từ loại đắc dụng 50
3.2. Nghệ thuật xây dựng hình ảnh 51
3.2.1. Hình ảnh chân thực, sinh động 51
3.2.2. Hình ảnh hoa mĩ, diễm lệ 54
KẾT LUẬN 58
TÀI LIỆU THAM KHẢO




1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Trong làng văn học trung đại Việt Nam, Nguyễn Công Trứ chiếm
một vị trí khá đặc biệt. Sáng tác văn chƣơng Nguyễn Công Trứ hàm chứa
những vấn đề quan trọng, phức tạp và lý thú.
Nguyễn Công Trứ đƣợc xem là một trong những nhà nho có bản tính
phóng túng mạnh mẽ, có triết lý sống “ngất ngƣởng” nhƣng lại bị khuôn phép
trong tƣ tƣởng Nho giáo và để hành đạo phụng sự quân vƣơng. Đấy chính là
sự phức hợp trong tƣ tƣởng và hành động của con ngƣời Nguyễn Công Trứ.
Chữ Nôm là hình thức văn tự đƣợc Nguyễn Công Trứ lựa chọn cho hầu hết
sáng tác văn chƣơng trong cuộc đời. Hàn nho phong vị phú thuộc trong số đó.
Bài phú giúp ngƣời đời hiểu thêm chân dung một nho sinh thuở hàn vi. Cũng
qua đó, con ngƣời bản ngã của Nguyễn Công Trứ đã bắt đầu hé lộ. Đọc thơ
ông, chúng ta luôn có những mĩ cảm đa dạng.
1.2. Cao Bá Quát là một nhà thơ lớn, có phong cách độc đáo ở giai đoạn
nửa sau thế kỉ XVIII, nửa đầu thế kỉ XIX. Sự nghiệp văn chƣơng của ông gắn
liền với cuộc đời sóng gió, bi kịch nhƣng bản lĩnh kiên cƣờng không khuất

phục trƣớc cƣờng quyền. Tâm hồn phóng khoáng khao khát vƣơn tới tự do,
tình thơ chân thành, dạt dào những cảm xúc cao đẹp là giá trị tinh thần vô giá
mà Cao Bá Quát để lại cho di sản văn hóa truyền thống dân tộc.
Cao Bá Quát để lại khối lƣợng sáng tác khá đồ sộ. Chúng bao gồm hai bộ
phận chữ Hán và chữ Nôm. Tài tử đa cùng phú là một tác phẩm viết bằng chữ
Nôm của Chu Thần. Bài phú góp thêm một tiếng nói để ngƣời đời hiểu sâu
sắc hơn về một con ngƣời trong một giai đoạn chƣa thành danh nhƣng đã bộc
lộ rõ cốt cách tài tử.
2

1.3. Lâu nay, việc tìm hiểu chân dung Nguyễn Công Trứ và Cao Bá Quát
qua hai sáng tác Hàn nho phong vị phú và Tài tử đa cùng phú chƣa đƣợc nhìn
nhận thỏa đáng. Điều đó khuyến khích chúng tôi thực hiện đề tài này.
1.4. Trong trƣờng trung học phổ thông cũng nhƣ cao đẳng, đại học, thơ
văn Nguyễn Công Trứ và Cao Bá Quát chiếm một vị trí đáng kể. Chúng tôi
mong muốn thực hiện đề tài sẽ góp phần nhỏ bé để tìm hiểu cụ thể, sâu sắc,
bổ sung đầy đặn hơn về hai tác giả. Đồng thời, đề tài góp phần hữu ích vào
công việc phục vụ học tập, giảng dạy và nghiên cứu sau này của bản thân.
2. Lịch sử vấn đề
Xƣa nay việc nghiên cứu hai tác giả Nguyễn Công Trứ và Cao Bá Quát
đã có nhiều thành tựu. Sau đây, phần “Lịch sử vấn đề”, khóa luận xin trích
một số ý kiến tiêu biểu.
2.1. Hướng nghiên cứu về Nguyễn Công Trứ
Khóa luận điểm qua những công trình, ý kiến liên quan đến sáng tác của
Nguyễn Công Trứ và Cao Bá Quát nói chung.
Nguyễn Công Trứ là một nhà thơ có vị trí đáng kể trong văn học Việt
Nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX. Mặc dù sự nghiệp thơ văn của ông
không quá lớn và đồ sộ về số lƣợng, nhƣng nó lại chứa đựng nhiều vấn đề
quan trọng, khá phức tạp và lý thú. Vì vậy nó thu hút sự quan tâm, tìm hiểu
của các nhà phê bình, nghiên cứu về thơ văn, cuộc đời của Nguyễn Công Trứ.

Xƣa nay đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về cuộc đời, sự nghiệp
và một số biểu hiện con ngƣời cá nhân trong thơ văn ông. Trong quá trình làm
khóa luận, thông qua sự tìm hiểu, chúng tôi quan tâm đến một số công trình
của các tác giả sau:
- Tác giả Phạm Thế Ngũ nhìn từ khuynh hƣớng thời đại đi đến quan
niệm sống của Nguyễn Công Trứ. Nhà nghiên cứu đã có cái nhìn tƣơng đối
toàn diện và sâu sắc. Bài viết có nhan đề Sáng tác của Nguyễn Công Trứ. Ông
3

đề cập đến những vấn đề nhƣ: Chí nam nhi, quan niệm công danh, quan niệm
hƣởng lạc, triết lý nhân sinh. Đặc biệt, tác giả còn nêu ra điểm tƣơng đồng và
khác biệt giữa Nguyễn Công Trứ và một số nhà nho khác nhƣ: Nguyễn Trãi,
Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Hàng…
- Bài viết của tác giả Lê Thƣớc về Sự nghiệp và thơ văn của Uy Viễn
tướng công Nguyễn Công Trứ là công trình biên khảo có ý nghĩa nền tảng làm
tƣ liệu khi nghiên cứu về tác giả Nguyễn Công Trứ. Lê Thƣớc phân chia các
giai đoạn trong cuộc đời và đánh giá nhà thơ theo tiêu chí lập công, lập đức và
lập ngôn.
- Nguyễn Khắc Hoạch có tiểu luận Lý tưởng kẻ sĩ trong thi văn và ngoài
cuộc đời Nguyễn Công Trứ. Bài viết không đi sâu nghiên cứu tƣ tƣởng của tác
giả mà tìm hiểu quá trình trƣởng thành cho đến cuối cuộc đời của nhà thơ.
Mỗi giai đoạn nhƣ vậy có một lý tƣởng, một cách sống riêng. Thời xuất
chính, ông tích cực hành đạo, thời trí sĩ ông vui hƣởng cuộc đời nhàn lạc của
ngƣời đã làm tròn phận sự.
- Phạm Vĩnh Cƣ khi bàn về Thơ hành lạc của Nguyễn Công Trứ với
dòng thơ an lạc, đã xem đó là mảng sáng tác rất đặc sắc lâu nay. Tác giả
khẳng định: “Nhu cầu hƣởng thụ của con ngƣời, nâng nó lên thành một triết
lý có sức thu phục nhân tâm thì không mấy ai làm đƣợc nhƣ Nguyễn Công
Trứ”. Ở Nguyễn Công Trứ hành lạc lẫn hành đạo, cả sự hƣởng thú vui lẫn
việc thực hiện sứ mệnh của ngƣời anh hùng trên đời đều khát khao hƣởng lạc.

Tác giả cũng khẳng định rằng: “Bậc trƣợng phu ấy vì vậy vừa khao khát công
danh, vừa vô cầu yên sở ngộ, vừa hăng say nhập cuộc, vừa biết thanh thản
xuất thế, vừa biết hành vừa biết tàng, coi hành tàng thực chất không khác gì
nhau” (“hành tàng bất nhị kì quan”). Nguyễn Công Trứ luôn thể hiện cái khí
phách cứng cỏi, bản lĩnh cao cƣờng của mình trong thơ. Thơ ông vừa giễu cợt
ngƣời đời, vừa giễu cợt bản thân mình.
4

- Năm 1978, Tác giả Nguyễn Lộc trong cuốn Văn học Việt Nam nửa cuối
thế kỉ XVII- nửa đầu thế kỉ XIX (tập 2) đã nhận định: “Thơ văn Nguyễn Công
Trứ bao hàm một nội dung khá phức tạp, kết tinh một trạng thái ý thức của
thời đại: vừa ca tụng con ngƣời hành động, vừa ca tụng lối sống hƣởng lạc,
cầu nhàn; vừa ca tụng Nho giáo lại vừa ca tụng Đạo giáo; vừa lạc quan tin
tƣởng lại vừa bi quan thất vọng; vừa tự khẳng định mình lại vừa phủ định
mình… Nguyễn Công Trứ là khối mâu thuẫn lớn” [tr.312]. Đúng vậy, khi tìm
hiểu về cuộc đời cũng nhƣ thơ văn của ông, ta thấy sự mâu thuẫn thể hiện khá
rõ trong sáng tác Nguyễn Công Trứ. Tác giả Nguyễn Lộc còn khẳng định:
“Xét trong toàn bộ cuộc đời và thơ văn Nguyễn Công Trứ, phải thấy quan
niệm công danh của nhà thơ trƣớc hết có nghĩa là nhiệm vụ của ngƣời làm
trai, là một món “nợ nần” phải trả. Nguyễn Công Trứ không có quan niệm
nào khác là con ngƣời sống trong xã hội phải chiếm lấy một địa vị để trên cơ
sở đó làm việc “trí quân, trạch dân” [tr.318 -319]. Nghiên cứu thơ văn
Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Lộc tập trung vào ba chủ đề chính: Chí nam nhi,
cuộc sống nghèo khổ và thế thái nhân tình, những bài thơ xoay quanh triết lý
hƣởng lạc.
- Năm 1983, trong cuốn Thơ văn Nguyễn Công Trứ, tác giả Trƣơng
Chính đã chia thơ văn ông thành “thơ lãng mạn, thơ hành lạc, thơ triết lý, thơ
cầu nhàn. Nhƣng cũng nhƣ các nhà thơ chân chính, thơ ông là thơ ký thác tâm
sự, không có những bài không đau mà rên, không có thơ thù tạc. Thơ ông gắn
liền với cuộc đời ông” [tr.41]. Tác giả đã có cách nhìn nhận sâu sắc về mảng

thơ của Nguyễn Công Trứ. Trƣơng Chính cũng khẳng định: “bất cứ nỗi buồn
nào cũng đƣợc phản ánh vào thơ, không giấu giếm, không tô vẽ, nghĩ thế nào
thì viết thế ấy, mộc mạc nôm na nhƣng ý nghĩa chân thành sâu sắc, yêu ghét
rõ ràng: đọc rất thấm thía” [tr.41]. Ý kiến của tác giả gần với ý kiến của
5

Nguyễn Lộc, Nguyễn Lộc cũng cho rằng: “thơ văn ông (Nguyễn Công Trứ)
không chạm trỗ, đẽo gọt, mộc mạc: nôm na mà vẫn gây xúc cảm”.
- Năm 2003 có công trình Nguyễn Công Trứ - tác gia và tác phẩm do
Trần Nho Thìn chủ biên (Nxb Giáo dục). Đây là cuốn sách tập hợp ý kiến của
nhiều tác giả, có nhiều bài viết, nhiều nhận xét và phát hiện có giá trị về cuộc
đời cũng nhƣ thơ văn Nguyễn Công Trứ. Chẳng hạn, trong bài viết “Nguyễn
Công Trứ và thời đại chúng ta”, Trần Nho Thìn đã đề cập tới yếu tố hành lạc,
triết lý cầu nhàn hƣởng lạc biểu hiện rất rõ trong thơ Nguyễn Công Trứ. Có thể
nói, đây không phải là một phát hiện mới mẻ nhƣng điều đó nó chứng tỏ các
nhà nghiên cứu đã đồng nhất trong quan điểm nhìn con ngƣời của nhà thơ.
- Năm 2007, trong bộ giáo trình Văn học trung đại Việt Nam (tập 2) do
Nguyễn Đăng Na chủ biên, tác giả Nguyễn Phong Nam viết về Nguyễn Công
Trứ nhƣ sau: “Tiếng nói chí nam nhi là chủ đề lớn nhất tập trung xuất hiện
trong sáng tác của Nguyễn Công Trứ thuở hàn vi và thời làm quan đắc
chí” [tr.236]. Đồng thời, các tác giả cũng khẳng định công lao to lớn của ông
“Nguyễn Công Trứ đã mang vào khái niệm chí nam nhi của Nho gia cái ý
thức cá nhân về sự tự do phóng túng trong lối sống tạo nên nét riêng độc đáo
và mang đến một màu sắc mới cho thời đại. Nguyễn Công Trứ nhất quán giữa
con ngƣời trong mối quan hệ với cộng đồng và con ngƣời trong mối quan hệ
với bản thân; giữa ý thức về trách nhiệm và ý thức về quyền lợi, giữa hành
động và hƣởng thụ” [tr.239].
Có thể khẳng định rằng, ý kiến của giới nghiên cứu phê bình đã có thành
tựu đáng kể khi đánh giá nhận xét về thơ văn của Nguyễn Công Trứ. Tuy mỗi
ngƣời có một cách nhìn nhận, đánh giá khác nhau nhƣng tựu chung đều thấy

đƣợc vẻ đẹp trong con ngƣời cũng nhƣ giá trị tƣ tƣởng trong thơ văn của ông.


6

2.2. Hướng nghiên cứu về Cao Bá Quát
Cao Bá Quát là một nhà thơ có phong cách độc đáo. Do hành động
chống lại chế độ phong kiến nhà Nguyễn vào năm 1854, dƣới triều Tự Đức,
ông bị khép vào tội phản nghịch. Thơ văn của ông bị liệt vào loại quốc cấm,
không đƣợc lƣu truyền. Tuy nhiên, do thi tài tuyệt diệu, thơ văn ông vẫn đƣợc
ngƣời đƣơng thời sao chép, truyền tụng. Di sản thơ vô giá ông để lại là đối
tƣợng hấp dẫn cho giới nghiên cứu, phê bình văn học. Một khối lƣợng đồ sộ
các công trình nghiên cứu ra đời, các cuộc hội thảo cấp quốc gia đƣợc tổ chức
làm sáng tỏ nhiều giá trị vĩ đại trong sáng tác của một nghệ sĩ lớn. Có thể kể
đến một số công trình nghiên cứu nhƣ Luận đề về Cao Bá Quát (1957) của
Nguyễn Duy Diễn, Cao Bá Quát, thân thế - văn chương luận đề (1958) của
hai tác giả Bằng Phong và Nguyễn Duy Diễn, Khảo luận về Cao Bá Quát
(1959) của Doãn Quốc Sỹ và Việt Tử, Khảo luận thi văn Cao Bá Quát
(1959); công trình Cao Bá Quát và Cao Bá Nhạ (1960) của Thuần Phong …
Về văn chƣơng, các học giả đều nhất trí Cao Bá Quát là một nhà thơ tài
năng, độc đáo, nhƣng họ chủ yếu đi vào khía cạnh tài tử của Cao Bá Quát. Và
dĩ nhiên, các giai thoại văn học nói về tài ứng đối chơi chữ của ông lại đƣợc
xem nhƣ những minh hoạ đắc địa. Tính phiến diện cũng thể hiện khá rõ ở sự
lúng túng trong việc cố gắng xếp Cao Bá Quát vào một khuynh hƣớng nào đó:
lý tƣởng, tình cảm, hoặc kiêu hãnh, nhàn hạ, hƣởng lạc, hoặc bi quan, …
- Bài viết của Nguyễn Huệ Chi – Tìm hiểu nhân sinh quan tích cực
trong thơ Cao Bá Quát (1961) đã đánh dấu một hƣớng nghiên cứu mới,
trên quan điểm mác xít về Cao Bá Quát. Đó là sự khắc phục cái nhìn còn
phiến diện có từ trƣớc Cách mạng tháng Tám để trên quan điểm mới “xác
định được mối liên hệ vốn rất chặt chẽ giữa thơ văn Cao Bá Quát và cuộc

đời chìm nổi của ông”, để tìm hiểu “tư tưởng thống nhất đã chi phối các
quá trình khác nhau của cuộc đời ông”. Quan điểm nghiên cứu này vừa
7

khoa học vừa có ý thức tích cực trong việc thúc đẩy quá trình nghiên cứu,
xử lý tƣ liệu thơ văn Cao Bá Quát.
- Một công trình khác rất đáng chú ý, dù không phải là công trình chuyên
biệt về Cao Bá Quát, đó là công trình Nhà Nho tài tử và văn học Việt Nam
(1995) của Trần Ngọc Vƣơng. Ở đây, nhà nghiên cứu Trần Ngọc Vƣơng và
tác giả Trần Đình Hƣợu trƣớc đó đã xác lập đƣợc cái nhìn khoa học trên cơ sở
khảo sát nhiều gƣơng mặt tác giả. Cao Bá Quát thuộc trong số đó. Các nhà
nghiên cứu đã nêu ra những đặc trƣng có tính đến loại hình của một kiểu tác
giả giai đoạn văn học cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. Từ góc nhìn này,
Trần Ngọc Vƣơng đã ghi nhận “Nguyễn Du và Cao Bá Quát có lẽ là hai tác
giả tiêu biểu nhất” cho loại hình nhà nho “coi tài năng, trước hết là tài năng
văn học là thước đo quan trọng” và họ “chỉ có thể lưu lại tên tuổi mình như
và chỉ như những nhà thơ xuất sắc”. Đây là hƣớng tiếp cận đầy triển vọng cho
phép đi sâu hơn vào việc nghiên cứu Cao Bá Quát trên nhiều bình diện, mà
trƣớc hết là một Cao Bá Quát với tƣ cách là một tác gia văn học có tính tiêu
biểu cho một loại hình, một khuynh hƣớng văn học đặc sắc trong lịch sử văn
học Việt Nam trung đại.
Khó có thể bao quát hết đƣợc các tƣ liệu đã nghiên cứu về Cao Bá Quát
cũng nhƣ những vấn đề các nhà nghiên cứu đã đặt ra và giải quyết.Tuy nhiên,
với tầm vóc một Cao Bá Quát đƣợc khẳng định nhƣ vậy, rõ ràng những nghiên
cứu về Cao Bá Quát vẫn còn là những nghiên cứu có tính chất bƣớc đầu.
Cho đến nay, công việc nghiên cứu về tác giả cũng nhƣ tác phẩm
Nguyễn Công Trứ và Cao Bá Quát vẫn đƣợc tiếp tục.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của chúng tôi khi nghiên cứu đề tài này là:
- Thông qua tìm hiểu hai tác phẩm phú Nôm tiêu biểu của Nguyễn Công Trứ

và Cao Bá Quát để hiểu sâu sắc hơn, đầy đặn hơn về hình tƣợng hai nhà nho.
8

- Thấy đƣợc vị trí và giá trị của hai tác phẩm trong sự nghiệp văn chƣơng
của hai nhà thơ.
- Bản thân ngƣời làm khóa luận có thể tìm hiểu rõ hơn về thể loại phú, góp
phần thiết thực vào công tác giảng dạy của một giáo viên Ngữ Văn sau này.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu kiến thức lí luận có liên quan đến đề tài.
- Tìm hiểu đặc trƣng của thể phú, đặc biệt là đặc trƣng của thể phú Nôm
trong văn học trung đại.
- Tìm hiểu hai sáng tác Hàn nho phong vị phú và Tài tử đa cùng phú để
thấy rõ chân dung hai nhà nho; khảo sát nghệ thuật xây dựng tƣợng hai nhà nho.
5. Phạm vi, đối tƣợng nghiên cứu
- Khóa luận khảo sát hai tác phẩm Hàn nho phong vị phú và Tài tử đa
cùng phú trong cuốn Phú Việt Nam chọn lọc do Phong Châu tuyển chọn (Nhà
xuất bản Văn học 2008).
- Khóa luận tìm hiểu chân dung hai nhà nho Nguyễn Công Trứ và Cao
Bá Quát; nghệ thuật thể hiện chân dung hai nhà nho qua hai tác phẩm.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phƣơng pháp nghiên cứu văn học theo thể loại
- Phƣơng pháp so sánh đối chiếu
- Kết hợp các thao tác khoa học khác nhƣ phân tích, miêu tả, bình giảng…
7. Đóng góp của khóa luận
- Khóa luận góp phần tái hiện hình tƣợng, chân dung nhà nho Nguyễn
Công Trứ và Cao Bá Quát qua một chặng đời một cách sâu sắc hơn.
- Khóa luận cũng tìm hiểu cụ thể hơn về thể phú Nôm của văn học trung
đại Việt Nam.
- Khóa luận cũng giúp ích cho bản thân tác giả trong quá trình học tập
nghiên cứu và giảng dạy môn Ngữ Văn sau này.

9

8. Cấu trúc của khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, Nội dung, Tài liệu tham khảo, Nội dung chính của
khoá luận đƣợc triển khai thành 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Những vấn đề chung về thể phú và loại hình nhà nho
Chƣơng 2: Chân dung nhà nho Nguyễn Công Trứ và Cao Bá Quát qua
Hàn nho phong vị phú và Tài tử đa cùng phú
Chƣơng 3: Nghệ thuật thể hiện chân dung nhà nho qua Hàn nho phong vị
phú và tài tử đa cùng phú

10

CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỂ PHÚ
VÀ LOẠI HÌNH NHÀ NHO
1.1. Sơ lƣợc về thể phú
Phú là thể loại có bề dày phát triển trong lịch sử văn học Trung Hoa.
Ngay từ những thế kỷ trƣớc công nguyên, nó đã trở thành một phƣơng tiện
biểu đạt quan trọng không thể thiếu trong đời sống tình cảm của họ thời đó.
Từ cái nôi văn hóa này, phú đã ảnh hƣởng sâu sắc đến các nền văn học khác,
trong đó có Việt Nam.
Theo Từ điển thuật ngữ văn học: Phú là một thể văn cổ của Trung Quốc,
du nhập vào Việt Nam từ sớm nhƣng đƣợc sáng tác rộng rãi bắt đầu từ thời
Trần. Phú có thể đƣợc viết bằng văn vần, văn xuôi hoặc văn biền ngẫu nhằm
miêu tả phong cảnh, kể sự việc, bàn chuyện đời. Phú vốn nghĩa là “phô bày”.
Trong cuốn Văn học Việt Nam sử yếu, tác giả Dƣơng Quảng Hàm cho
rằng: “Phú (nghĩa đen là bày tỏ) là một thể văn có vần dùng để tả cảnh vật,
phong tục hoặc tính tình” [tr.129].
Ban đầu, phú đƣợc dùng nhƣ khái niệm chỉ phƣơng thức sáng tác, sau

đó mới dần dần đƣợc hoàn chỉnh và trở thành một thể tài văn học. Nét độc
đáo làm nên đặc trƣng của thể phú là ở chỗ nó thiên về mô tả, phô bày trực
tiếp: “phú giả, phô giã” (phú nghĩa là phô bày. Phô bày vẻ đẹp, viết thành văn
chƣơng, thể hiện sự vật, thuật tả tình ý).
Về nguồn gốc và tên gọi của thể tài, theo cách giải thích lƣu truyền từ
đời Hán, “Kinh thi có sáu nghĩa: một là phong, hai là phú, ba là tỷ, bốn là
hứng, năm là nhã, sáu là tụng”. Lƣu Hiệp trong Văn tâm điêu long cũng cho
rằng, tên gọi thể phú bắt nguồn từ Kinh thi: “Kinh thi có sáu nghĩa, nghĩa thứ
hai là phú”.
11

Nhiều học giả cho rằng, chữ cổ thi mà ngƣời xƣa nói (phú giả cổ thi
chi lƣu) bao gồm cả Sở từ. Nhƣ vậy Kinh thi và Sở từ đều góp phần hình
thành thể phú.
Loại câu chủ yếu trong Kinh thi gồm bốn tiếng, loại chủ yếu trong Sở từ
gồm sáu tiếng, thỉnh thoảng có tiếng đệm “hề”, đƣợc bảo lƣu trong thể phú,
nhất là phú đời Hán. Cách gieo vần chân ở thể phú cũng là sự bảo lƣu cách
gieo vần của hai loại cổ thi này. Thủ pháp phô bày trong Kinh thi, phong cách
trữ tình nồng đƣợm và nguồn gốc của Sở từ cũng có vai trò trong việc hình
thành thể phú.
Bên cạnh đó, văn xuôi tiên Tần cũng là một ngọn nguồn quan trọng để
hình thành thể phú. Hình thức đối thoại rất phổ biến trong văn xuôi chƣ tử đã
trở thành lối chủ - khách vấn đáp trong phú. Hình tƣợng mang tính chất ngụ
ngôn của văn chƣ tử cũng đƣợc các tác giả tiếp thu.
Diễn biến của thể phú qua các triều đại có nhiều thay đổi lớn, dẫn đến
sự phân chia thành nhiều kiểu loại khác nhau. Có bốn loại phú: cổ phú, bài
phú, luật phú và văn phú.
Cổ phú chủ yếu để chỉ phú ra đời từ thời Hán. Cổ phú còn có tên gọi
khác là từ phú. Cổ phú có thể chia làm ba loại: phú tản văn, phú tao thể và
tiểu phú. Cổ phú có cách kết cấu rộng rãi, không có quy định chặt chẽ, chỉ

cần vần, không cần đối, cũng không hạn về số vần nhất định. Mỗi câu có thể
là bốn từ (gọi là phú tứ tự), bảy từ (gọi là phú thất tự). Những bài phú theo lối
trƣờng đoản cú (câu dài, ngắn đan xen nhau), lối văn xuôi có vần gọi là phú
lƣu thủy (câu văn xuôi nhƣ nƣớc chảy).
Bài phú còn gọi là biền phú là thể phú mới, đƣợc biến đổi và phát triển
trên cơ sở cổ phú. Bài phú có từ thời Ngụy - Tấn và thịnh hành vào thời
Nam - Bắc triều (thế kỷ III – IV). Bài hay biền đều có nghĩa là câu chữ đối
nhau. Đặc điểm chủ yếu của bài phú là cân đối về câu chữ, hài hòa về âm
12

thanh. Phú đời Hán ít dùng các cặp câu đối nhau mà thƣờng dùng nhiều câu
liên tiếp và có hiện tƣợng đối cùng chữ. Đối xứng chỉnh tề, đó là chỗ làm bài
phú khác hẳn cổ phú.
Luật phú (phú cận thể) là một biến thể của biền phú. Luật phú rất chú
trọng âm vận. Luật phú được đặt theo luật lệ quy định chặt chẽ nhằm thích
ứng chế độ khoa cử đời Đường - Tống. Vần trong phú đƣợc gieo theo nhiều
lối khác nhau: độc vận hoặc năm, sáu, bảy, tám vần, tùy sự hạn vận hoặc
phóng vận. Phú cận thể bao giờ cũng đặt câu gồm hai vế đối nhau, vần nằm ở
cuối vế dưới. Bố cục của một bài luật phú thƣờng có sáu phần:
1 - Lung khởi (mở đầu, nói một ý nghĩa bao quát toàn bài).
2 - Biện nguyên (nói gốc tích, ý nghĩa của đầu bài).
3 - Thích thực (giải thích, phân tích ý nghĩa của đầu bài).
4 - Phu diễn (trình bày, dẫn chứng, minh họa làm rõ phần giải thích,
phân tích).
5 - Nghị luận (bình luận, nhận xét ý nghĩa của đầu bài).
6 - Kết (thắt lại, kết thúc).
Luật phú yêu cầu đối phải chặt chẽ hơn cả biền phú. Luật phú cũng hạn
định cả số chữ, thƣờng không quá bốn trăm chữ.
Văn phú ra đời do ảnh hƣởng của phong trào cổ văn đời Đƣờng - Tống.
Đặc điểm chủ yếu của văn phú là chống lại sự hạn chế của biền ngẫu, vần

điệu, cũng có nghĩa là đi theo xu hướng tản văn. Văn phú không chạy theo sự
hoa lệ mà vần của nó tƣơng đối tự do. Câu của tiểu loại này vẫn lấy bốn chữ,
sáu chữ làm chính nhƣng ngoài ra còn một số lƣợng đáng kể loại câu trƣờng cú.
Về nội dung, phú vốn nghĩa là phô bày, mô tả. Nếu thơ thiên về tả tình
thì phú thiên về tả cảnh. Tuy nhiên phú “tả vật nói chí”, nên bên cạnh tả cảnh,
phú còn chú ý đến việc nói chí, thông qua miêu tả sự vật mà bày tỏ tình, chí.
13

Về nghệ thuật, phú chú trọng “phô trƣơng văn vẻ”. Trong phú thƣờng có
nhiều từ ngữ, hình ảnh hoa mĩ, diễm lệ, chú trọng cái đẹp về thanh điệu, vần
điệu, tiết tấu, sử dụng nhiều biện pháp tu từ. Tất cả những điều này làm cho
phú trở thành một thể văn vừa linh hoạt vừa chặt chẽ, vừa phô bày sự vật, vừa
nói chí, vừa đậm chất trữ tình, triết lí.
Trên đây là những đặc trƣng cơ bản của thể phú. Tất nhiên khi du nhập
vào Việt Nam nó sẽ không bắt chƣớc cấu trúc chức năng của phú Trung Quốc
một cách máy móc mà nó sẽ phản ánh đặc thù đời sống con ngƣời và lịch sử
Việt Nam uyển chuyển hơn.
1.2. Thể Phú trong các giai đoạn văn học Việt Nam trung đại
Trƣớc hết, khóa luận có cái nhìn khái lƣợc về phú trong các giai đoạn
phát triển của văn học trung đại. Phú đƣợc du nhập vào Việt Nam từ khá sớm,
có thể từ đời Đƣờng (giai đoạn phong kiến phƣơng Bắc đô hộ Việt Nam). Đến
thời Trần, phú đã trở thành một thể loại khá thông dụng. Phú Việt Nam bao
gồm có cả phú chữ Hán và phú chữ Nôm.
Theo giới nghiên cứu, cụ thể là một số tác giả nhƣ Nguyễn Đổng Chi và
Vũ Khắc Tiệp thì phú chữ Hán có từ đời Lý, nhƣng đến nay không còn lƣu
truyền lại tác phẩm nào minh chứng cho thể loại này. Phú chữ Hán đời Trần
viết về nhiều đề tài và thể hiện nhiều chủ đề. Bạch Đằng giang phú viết về
chiến công giữ nƣớc để ca ngợi đƣờng lối chính trị nhân nghĩa. Ngọc tỉnh liên
phú là bài phú vịnh vật, ngụ ý tự tiến. Đời Trần để lại cho hậu thế số lƣợng
phú chữ Hán tuy không nhiều nhƣng lại có giá trị và ý nghĩa to lớn. Có thể

dẫn ra ý kiến đóng góp của học giả Lê Quý Đôn trong Kiến văn tiểu lục về
phú đời Trần nhƣ sau: “Đời Trần có nhiều bài phú lạ kỳ, hùng vĩ, trôi chảy,
tốt đẹp, bố cục và cách điệu thì gần đƣợc nhƣ lối phú của đời Tống” [tr 218].
Giai đoạn Lê sơ (thế kỉ XV) là giai đoạn hƣng thịnh nhất của phú chữ
Hán. Đây là giai đoạn có nhiều cây bút viết phú nhất, có số lƣợng tác phẩm
14

lớn nhất, có tác giả sáng tác nhiều tác phẩm nhất, có sáng tác quy mô nhất
nhƣ Lam Sơn Lương Thủy phú của Lê Thánh Tông gần 2200 chữ.
Mặc dù số lƣợng tác phẩm lớn nhƣng đề tài và chủ đề phú giai đoạn này
lại khá tập trung, hình thức thể tài khá thuần nhất. Hàng loạt sáng tác thể hiện
đề tài chiến công vệ quốc. Cả một chùm bài ca ngợi địa danh lịch sử Lam Sơn
nhƣ: Chí Linh sơn phú của Nguyễn Mộng Tuân, Phú núi Chí Linh của
Nguyễn Trãi, Lam Sơn Lương Thủy phú của Lê Thánh Tông Các giai tác
này quy tụ về chủ đề: ngợi ca địa linh nhân kiệt, ngợi ca nhà vua.
Đến giữa thời Lê sơ, phú có sự chuyển đổi đề tài. Phần lớn các tác giả
khai thác đề tài trong sử sách Trung Quốc.
Thời Lê - Mạc (thế kỷ XVI- XVIII) phú chữ Hán không hƣng thịnh nhƣ
ở thời Lê sơ. Các tác giả nhƣ Nguyễn Bá Lân, anh em dòng họ Ngô Thì đều
có những tác phẩm phú nổi tiếng đƣợc ngợi ca và chép trong nhiều tuyển tập.
Lấy đề tài nhân vật và phong cảnh Trung Quốc là nội dung của phú giai đoạn
này: Hoàng Hạc lâu phú (Ngô Thì Nhậm), Dịch đình thừa dương xa phú
(Nguyễn Bá Lân) Cũng có tác phẩm biểu hiện tình cảm riêng của con
ngƣời, miêu tả phong cảnh đất nƣớc: Đăng ải Vân sơn phú (Ngô Thì Nhậm),
Tây Hồ phong cảnh phú (Ngô Thì Sĩ). Thiên nhiên trong phú thời kỳ này đơn
thuần là hiện tƣợng tự nhiên, không phải thiên nhiên gắn với chiến công giữ
nƣớc nhƣ trong phú thời Lê sơ.
Sang thế kỷ XIX, phú chữ Hán đời Nguyễn (nhƣ đánh giá của nhà
nghiên cứu Nguyễn Lộc) là “thụt lùi so với các thế kỷ trƣớc” [7,tr. 32]. Điều
này là do văn học chữ Nôm sau khi đạt đến đỉnh cao ở thế kỷ XVIII vẫn tiếp

tục khẳng định ƣu thế của mình.
Các tác giả nổi tiếng nhƣ Nguyễn Khuyến, Tú Xƣơng sáng tác theo
khuynh hƣớng phê phán hiện thực nên dùng chữ Nôm thuận lợi hơn nhiều.
Giai đoạn này, phú chữ Hán không có tác phẩm đặc sắc. Tiến trình phát triển
15

của phú chữ Hán càng về sau càng ít thành tựu, bởi phú chữ Nôm càng ngày
càng chiếm ƣu thế.
Phú Nôm chỉ xuất hiện khi ngƣời Việt đã dùng chữ Hán để làm phú và
khi chữ Nôm đã phát triển đến độ có số lƣợng lớn, vốn liếng từ ngữ, phép tắc
tƣơng đối thuần thục. Một số tác phẩm phú chữ Nôm theo xu hƣớng tả thực
đã đi sát với thực tiễn đất nƣớc, khiến màu sắc dân tộc ở thể phú thêm đậm
đà. Điều này nhà nghiên cứu Trần Đình Sử đã khái quát: “Trong quá trình
Việt hóa phú đã từ thể loại ngợi ca tụng tán vua chúa dần dần chuyển hóa và
phân hóa thành phú tỏ chí, phú giáo huấn, phú phong cảnh, phú ẩn cƣ, phú
tuyên truyền và phú tự trào, châm biếm, phê phán” [9, tr.280].
Văn chƣơng chữ Nôm xuất hiện thì phú chữ Nôm cũng bắt đầu hình
thành. Thời Trần để lại năm bài phú Nôm: Cư trần lạc đạo và Đắc thú lâm
tuyền thành đạo của Trần Nhân Tông, Vịnh Vân Yên tự phú của Huyền
Quang, Giáo tử phú của Mạc Đĩnh Chi và Nam dược quốc ngữ phú của Tuệ
Tĩnh. Nhƣ vậy, Phú Nôm thời Trần chủ yếu chuyển tải những nội dung tôn
giáo, giáo huấn, gần với văn học chức năng.
Sang thời Lê sơ (thế kỷ XV), văn học chữ Nôm có bƣớc tiến vƣợt bậc. Ở
thể phú, đây cũng là giai đoạn xuất hiện số lƣợng tác giả đông đảo với nhiều
tác phẩm lớn.
Thế kỷ XVI –XVII (thời Lê – Mạc) có nhiều tác giả làm phú bằng chữ
Nôm hơn, số lƣợng tác phẩm có dấu ấn riêng cũng nhiều hơn. Tƣ tƣởng chán
ghét chế độ phong kiến, xanh lánh cuộc đời nhơ bụi, sống ẩn, vui thú với cảnh
thiên nhiên đƣợc thể hiện trong các bài phú.
Từ thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX, phú Nôm phát triển mạnh cùng

với sự trƣởng thành của ngôn ngữ tiếng Việt. Tác giả Nguyễn Lộc cho rằng:
Phú có giá trị nhất của giai đoạn này thuộc bộ phận phú chữ Nôm: Hàn nho
phong vị phú, Tài tử đa cùng phú, Tụng Tây Hồ phú. Điểm nổi bật trong nội
16

dung của phú thời này là tính chất hiện thực đã đƣợc thể hiện một cách khá cụ
thể, phơi bày những cảnh nghèo khổ đau đớn của con ngƣời dƣới chế độ phong
kiến và tố cáo thói đời đen bạc với bất công của xã hội. Tinh thần nhân đaọ chủ
nghĩa cũng là điểm nổi bật trong các bài phú Nôm ở giai đoạn này.
Cuối thế kỷ XIX, văn học giai đoạn triều Nguyễn thời Pháp xâm lƣợc, văn
học chữ Nôm không đạt đƣợc thành tựu nhƣ văn học từ nửa thế kỷ XVIII đến
nửa đầu thế kỷ XIX, nhƣng phú Nôm trong giai đoạn này cũng khá nhiều, đến
nay chƣa sƣu tầm hết. Nội dung của phú giai đoạn này đƣợc các tác giả tập
trung theo các chủ đề sau: Nêu cao tinh thần yêu nƣớc thƣơng dân, cổ vũ nhân
dân đứng lên chiến đấu, ca ngợi lòng hy sinh dũng cảm, xót xa về những cảnh
lầm than của nhân dân, vạch trần tội ác của bè lũ cƣớp nƣớc và bán nƣớc.
Ngoài xu hƣớng yêu nƣớc còn có xu hƣớng trào phúng. Tiêu biểu nhƣ
Nguyễn Khuyến, Tú Xƣơng, Nguyễn Thiện Kế và nhiều sáng tác khuyết
danh. Một số sáng tác tiêu biểu nhƣ: Phú thầy đồ, Phú hỏng thi, Phú ông đồ
ngông đã diễu nhà nho và chán ngán cho cảnh thi cử trong tình trạng cuối
mùa. Đặc điểm nổi bật của phú ở chủ đề này là tính phi nho rõ rệt, và có mối
liên hệ nhiều mặt với văn hóa dân gian.
Tác giả Phong Châu và Nguyễn Văn Phú trong Phú Việt Nam cổ và kim
đã kết luận: “Về mặt nghệ thuật, lối văn biền ngẫu rất thịnh hành vì nó có khả
năng đi vào quần chúng làm nhiệm vụ kêu gọi, hô hào thúc giục, ca ngợi tinh
thần hi sinh chiến đấu và châm biếm mọi thói hƣ tật xấu của xã hội. Ngôn ngữ
bình dân tràn ngập trong các bài văn” [tr.24].
Tóm lại, phú là một thể loại nghệ thuật cổ điển có vị trí quan trọng
trong văn học Việt Nam. Nó không những có nội dung độc đáo mà còn “cung
cấp một môi trƣờng rèn luyện ngôn ngữ, có tác dụng làm cho các bài cáo, bài

hịch, bài văn tế thêm điêu luyện. Một mặt khác, với cái nhìn của tƣ duy văn
17

xuôi, phú là thể loại có vai trò tiên phong dẫn nhập ngôn từ văn xuôi, đời
thƣờng vào văn học” [9,tr 279-280] .
Phú khi du nhập vào Việt Nam thì hình thức văn thể của nó cơ bản vẫn
tuân thủ những phép tắc chung của thể phú. Về nội dung, phú tiếng Việt phản
ánh đặc thù đời sống, con ngƣời và lịch sử Việt Nam. Chính điều này làm cho
màu sắc dân tộc ở phú thêm đậm đà.
Phú Việt Nam (kể cả phú chữ Hán và phú chữ Nôm) tồn tại và phát
triển trong nền văn học nƣớc nhà hơn bảy thế kỷ. Trong thời gian đó mặc dù
có lúc “thăng” lúc “trầm” nhƣng phú vẫn đứng ở “thế quân bình” với các
thể tài văn chƣơng khác.
1.3. Mấy nét về loại hình nhà nho
Trƣớc khi trở thành tên gọi của học thuyết, chữ “nho” về mặt từ
nguyên, dùng để chỉ một trong rất nhiều loại ngƣời thuộc tầng lớp hoạt động
văn hóa tinh thần thời cổ đại. Theo giới nghiên cứu, trong sách Pháp ngôn
của Dƣơng Hùng đời Hán, có đƣa ra một cách giải thích tƣơng tự nhƣ định
nghĩa: “thông thiên, đạt địa, tri nhân viết nho” (Hiểu thấu cả tam tài trời, đất,
ngƣời thì gọi là nho).
Xét từ loại hình kiểu tác giả Nho gia, một số nhà nghiên cứu tiêu biểu
nhƣ Trần Đình Hƣợu, Trần Ngọc Vƣơng đã chia thành ba loại nhà nho: Nhà
nho hành đạo, nhà nho ẩn dật, nhà nho tài tử. Cả ba loại hình nhà nho này
đều xuất hiện trong văn học trung đại. Từ thế kỷ X đến thế kỷ XVIII tồn tại
song song hai loại nhà nho hành đạo và nhà nho ẩn dật. Đến đầu thế kỷ XVIII
xuất hiện thêm loại hình nhà nho tài tử.
Nhà nho hành đạo là mẫu ngƣời cơ bản, chính thống nhất của Nho giáo.
Chữ “hành đạo” theo quan niệm Nho giáo là ra giúp đời, làm tròn bổn phận
của kẻ sĩ, đem hết tài năng, tâm sức ra phò vua giúp nƣớc. Các nhà nho ngày
xƣa tiến đến đƣờng công danh bằng khoa cử văn chƣơng, nhà nho hành đạo

18

cũng vậy. Muốn giúp đời trƣớc hết họ phải tự rèn luyện bản thân để giúp vua
trị vì đất nƣớc, để giúp nhân dân có cuộc sống yên bình, ấm no, hạnh phúc.
Con ngƣời hành đạo đƣợc trang bị hệ thống giáo lí của Nho giáo. Những vấn
đề thuộc phạm trù đạo lí khuyên răn con ngƣời sống có nhân cách, giữ vững
trật tự cƣơng thƣờng: nhân - lễ - nghĩa - trí - dũng; vua - tôi, cha - con, vợ -
chồng… đƣợc họ thấm nhuần.
Hình mẫu nhà nho hành đạo đƣợc thể hiện rõ ở những sáng tác thơ văn
của họ. Trong số đó phải kể đến các tác giả nhƣ: Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh
Khiêm, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến… Ở họ, tinh thần nhập thế thể
hiện rất tích cực. Đó là những con ngƣời có khí phách, có chí hƣớng làm
quan, quan tâm đến sự vững bền, thịnh vƣợng của dân tộc; đó là những tấm
lòng ƣu quốc ái dân, lo lắng đến sự tồn vong của quốc gia, cuộc sống no đủ
của nhân dân. Với họ, đã sinh ra ở trên đời thì phải cống hiến cả đức độ và tài
năng mà phò vua giúp nƣớc, giúp dân, sống phải có chí hƣớng, đồng thời phải
mang trong mình nhân cách cao đẹp. Đó là cái đạo để giúp đời. Bởi vậy, ở họ
vấn đề đạo đức đƣợc đƣa lên hàng đầu.
Các nhà nho thời kỳ trung đại thƣờng đi theo một con đƣờng chung đó
là: học, thi cử và đỗ đạt ra làm quan. Mô hình (nếu phát triển trọn vẹn) của
cuộc đời một nhà nho thƣờng có thể đƣợc quy vào sơ đồ sau:

Không có sự ngăn cách tuyệt đối giữa hai loại hình nhà nho hành đạo và
ẩn dật. Ngƣợc lại, thƣờng có sự chu chuyển, sự đổi chỗ giữa họ. Trong tâm
hồn nhà nho có hai nửa: hành và tàng. Trong xử sự của họ có hai khả năng:
19

xuất và xử. Họ không nhất định gắn cuộc đời mình vào chỉ một trong hai khả
năng nói trên.
Khi nhà nho ẩn dật trở thành một định hƣớng tồn tại độc lập, văn chƣơng

ẩn dật cũng trở thành bộ phận thứ hai của văn chƣơng Nho giáo. Cũng vẫn
chịu sự chi phối của những quan điểm văn dĩ tải đạo, thi dĩ ngôn chí, tuy
nhiên, ở ngƣời ẩn dật, chí lại thƣờng đồng nghĩa với bất đắc chí. Ở văn
chƣơng ẩn dật ta tìm thấy những tâm sự, những cảm xúc thành thực hơn,
mang nhiều sắc thái chiêm nghiệm. Chán nản với thực tế của chế độ chuyên
chế, chán nản cảnh “chông gai, bụi bặm” của con đƣờng công danh, nhà nho
ẩn dật rút lui về chốn làng quê “cày ăn, đào uống yên đời phận”. Ngƣời ẩn dật
tự cho phép mình phóng túng trong sinh hoạt, có thể ung dung thƣởng thức cái
đẹp của tạo vật, cái lạc thú của cuộc sống an nhàn, không lo âu, không vƣớng bận
đến bổn phận và trách nhiệm.
Cho đến đầu thế kỷ XVIII, hai loại hình nhà nho hành đạo và ẩn dật đều đã
đƣợc hoàn thiện đến trình độ cổ điển, với những đại biểu xuất sắc, để lại tên tuổi
mình lâu dài trong lịch sử dân tộc. Tuy nhiên, từ giữa thế kỷ XVIII, đã xuất hiện
đồng loạt những tên tuổi của một loại hình nhà nho mới: nhà nho tài tử.
Nhà nho tài tử, trƣớc hết vẫn là nhà nho kể từ nguồn gốc xuất thân, học vấn và
quy trình đào tạo, lẫn hệ thống cơ bản trong nhân sinh quan và thế giới quan. Là nhà
nho, họ cũng trải qua một qua trình học tập, tu dƣỡng dƣới cửa Khổng sân Trình
nhƣ bất cứ một trí thức nào của thời đại mình. Nếm trải một môi trƣờng sống mới,
cảm quan và nhận thức về đời sống ở họ dần dần tự phát biến đổi. Các nhà nho tài
tử nằm ở tầng thƣợng lƣu của giới trí thức. Để tự nhận và coi là ngƣời tài tử, họ
từng phải là những học trò xuất sắc - nếu không toàn diện thì cũng là trên một số
phƣơng diện chính. Đƣợc số phận ƣu đãi, thiên nhiên phú cho những phẩm chất
hơn ngƣời, ngƣời tài tử đã luôn tâm niệm về tính trội của mình và luôn sử dụng khi

×