Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Vấn đề áp dụng pháp luật hình sự trong việc giải quyết tranh chấp thương mại trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (804.32 KB, 110 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT






NGUYỄN THỊ NGỌC




VẤN ĐỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƢƠNG MẠI
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG





LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC





Hà Nội – 2014

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI


KHOA LUẬT




NGUYỄN THỊ NGỌC




VẤN ĐỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƢƠNG MẠI
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG


Chuyên ngành : Luật Kinh Tế
Mã số : 60 38 01 07


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS. TRỊNH QUỐC TOẢN


Hà Nội – 2014

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết

quả nêu trong Luận văn chƣa đƣợc công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung
thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài
chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo
vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


NGƢỜI CAM ĐOAN



Nguyễn Thị Ngọc



MỤC LỤC
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục chữ viết tắt
MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TRANH CHẤP THƢƠNG MẠI VÀ CÁC
PHƢƠNG THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƢƠNG MẠI 7
1.1. Khái niệm và đặc điểm tranh chấp thƣơng mại 7
1.1.1. Hoạt động thƣơng mại 7
1.1.2. Tranh chấp thƣơng mại 9
1.2. Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp thƣơng mại 15
1.2.1. Nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của các đƣơng sự 16
1.2.2. Nguyên tắc bình đẳng trƣớc pháp luật 17

1.2.3. Nguyên tắc Tòa án không tiến hành điều tra mà chỉ xác minh thu thập
chứng cứ 18
1.2.4. Nguyên tắc hòa giải 20
1.2.5. Nguyên tắc giải quyết vụ án nhanh chóng, kịp thời 21
1.3. Các phƣơng thức giải quyết tranh chấp thƣơng mại 22
1.3.1. Thƣơng lƣợng giữa các bên 22
1.3.2. Hòa giải giữa các bên do một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân đƣợc các
bên thỏa thuận chọn làm trung gian hoà giải 23
1.3.3. Giải quyết tranh chấp thƣơng mại bằng con đƣờng trọng tài 25
1.3.4. Giải quyết tranh chấp thƣơng mại tại Tòa án 27
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN CỦA VIỆC ÁP DỤNG
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƢƠNG
MẠI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG 30
2.1. Áp dụng pháp luật hình sự trong giải quyết tranh chấp thƣơng mại 30
2.1.1. Khái niệm áp dụng pháp luật 30

2.1.2. Áp dụng pháp luật để giải quyết tranh chấp thƣơng mại 35
2.1.3. Áp dụng pháp luật hình sự để giải quyết tranh chấp thƣơng mại 36
2.1.4. Hậu quả tiêu cực của việc áp dụng pháp luật hình sự trong giải quyết
tranh chấp thƣơng mại 40
2.2. Thực trạng của việc áp dụng pháp luật hình sự trong giải quyết tranh chấp
thƣơng mại trên địa bàn thành phố Đà Nẵng 42
2.2.1. Áp dụng pháp luật hình sự để giải quyết việc vi phạm trong việc thực
hiện hợp đồng đặt cọc 42
2.2.2. Áp dụng pháp luật hình sự để giải quyết tranh chấp hợp đồng góp vốn
liên doanh 45
2.2.3. Áp dụng pháp luật hình sự để giải quyết tranh chấp trong hoạt động dịch vụ
môi giới thƣơng mại trong lĩnh vực xuất khẩu lao động, tƣ vấn lao động 47
2.2.4. Áp dụng pháp luật hình sự để giải quyết vi phạm các quy định về quản
lý kinh tế, chức vụ 50

2.2.5. Áp dụng pháp luật hình sự để giải quyết tranh chấp hợp đồng vay tài sản . 56
2.2.6. Áp dụng pháp luật hình sự đối với việc vi phạm nghĩa vụ trả nợ trong
hợp đồng mua bán hàng hoá bị xác định chiếm đoạt 60
2.3. Những nguyên nhân của việc áp dụng pháp luật hình sự trong giải quyết
tranh chấp trong thƣơng mại 62
2.3.1. Những nguyên nhân từ hệ thống pháp luật 62
2.3.2. Nguyên nhân từ các quy định liên quan đến tài phán trong tranh chấp
thƣơng mại 68
CHƢƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HẠN CHẾ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ TRONG GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP THƢƠNG MẠI 77
3.1. Giải pháp tăng cƣờng công tác xây dựng và hoàn thiện pháp luật 77
3.1.1. Giải pháp tăng cƣờng công tác xây dựng pháp luật về thƣơng mại và
giải quyết tranh chấp trong thƣơng mại 77

3.1.2. Đổi mới chính sách hình sự phục vụ đấu tranh với các nhóm tội phạm
xâm phạm sở hữu, xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và tội phạm về chức vụ 84
3.2. Giải pháp tăng cƣờng công tác giải thích và hƣớng dẫn áp dụng pháp luật 87
3.3. Giải pháp tăng cƣờng năng lực của cán bộ tƣ pháp và bổ trợ tƣ pháp 90
3.3.1. Tăng cƣờng năng lực của cán bộ tƣ pháp 91
3.3.2. Hoàn thiện các chế định về bổ trợ tƣ pháp cũng nhƣ xây dựng đội ngũ
những ngƣời bổ trợ cho hoạt động tƣ pháp 93
3.4. Các giải pháp khác hạn chế áp dụng pháp luật hình sự trong giải quyết
các tranh chấp thƣơng mại 94
KẾT LUẬN 99
TÀI LIỆU THAM KHẢO 101


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

1. BLDS : Bộ luật Dân sự

2. BLTTDS : Bộ luật Tố tụng dân sự
3. LTM : Luật Thƣơng mại
4. TAND : Toà án nhân dân
6. VKSND : Viện Kiểm sát nhân dân
7. BLHS : Bộ luật Hình sự
8. BLTTHS : Bộ luật tố tụng Hình sự
9. LTM : Luật Thƣơng mại
10. LTTTM : Luật Trọng tài thƣơng mại
11. VBQPPL : Văn bản quy phạm pháp luật
12. UBTVQH : Uỷ ban Thƣờng vụ Quốc hội.










1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, mặc dù tình hình kinh tế thế giới có những
chuyển biến phức tạp, nhƣng nền kinh tế Việt Nam đạt đƣợc những bƣớc phát
triển đáng ghi nhận, đƣợc đánh giá là điểm đến lý tƣởng cho hoạt động đầu tƣ
của các tổ chức, doanh nghiệp. Năm 2007, Việt Nam đạt đƣợc dấu mốc quan
trọng khi chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức thƣơng mại thế
giới (WTO). Bƣớc tiến này đánh dấu bƣớc phát triển mới cho nền kinh tế

nhƣng cũng đem lại nhiều thách thức, nhất là việc giải quyết các tranh chấp
phát sinh trong hoạt động thƣơng mại. Điều này đòi hỏi các nhà làm luật và cả
các doanh nghiệp Việt Nam cần có cái nhìn nghiêm túc về tranh chấp và các
phƣơng thức giải quyết tranh chấp thƣơng mại.
Với ý nghĩa quan trọng là mở ra cho Việt Nam bƣớc vào giai đoạn hội
nhập kinh tế quốc tế một cách toàn diện, sâu sắc. Sự chính xác, nhất quán, đầy
đủ của hệ thống các quy định pháp luật cũng nhƣ các phƣơng thức giải quyết
tranh chấp trong thƣơng mại tạo niềm tin cho các nhà đầu tƣ, tạo hành lang an
toàn cho các doanh nghiệp và đồng thời tạo cơ hội thu hút đầu tƣ nƣớc ngoài,
thu hút các nguồn vốn lớn, đẩy mạnh và xúc tiến tiếp cận khoa học kỹ thuật
tiên tiến, tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho ngƣời lao động, góp phần xóa
đói giảm nghèo, giải quyết các vấn đề xã hội khác nhƣ quan hệ giữa môi
trƣờng và phát triển bền vững, thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam phát triển.
Với chính sách mở của để phát triển kinh tế cũng nhƣ tiếp cận nhiều
luồng văn hóa khác nhau, Việt Nam tham gia hầu hết các văn kiện quốc tế,
bƣớc khởi xƣớng là từ năm 1995 Việt Nam đã tham gia Khu vực mậu dịch tự
do ASEAN (AFTA), với cam kết mở cửa thị trƣờng thƣơng mại hàng hóa,
dịch vụ và đầu tƣ. Năm 1996 Việt Nam là thành viên sáng lập Diễn đàn Hợp
tác kinh tế Á - Âu (ASEM). Năm 1998, Việt Nam là thành viên của Diễn đàn
2

hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dƣơng (APEC). Từ năm 2002 đến nay
Việt Nam tham gia các hiệp định mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc,
ASEAN - Ấn Độ, ASEAN - Hàn Quốc, ASEAN - Australia và New Zealand.
Năm 2007, gia nhập Tổ chức thƣơng mại thế giới (WTO). Từ việc hội nhập
vào thị trƣờng khu vực, Việt Nam đã tiến tới hội nhập vào thị trƣờng thƣơng
mại thế giới.
Với toàn cảnh thị trƣờng nhƣ trên, các hoạt động thƣơng mại, tranh
chấp thƣơng mại có yếu tố nƣớc ngoài ngày càng nhiều, với tính chất phức
tạp, khó khăn ở nhiều cấp độ khác nhau trong khi kiến thức thƣơng mại quốc

tế về phƣơng diện luật thƣơng mại quốc tế, tƣ pháp quốc tế, các công ƣớc
quốc tế, tập quán quốc tế về mua bán hàng hóa, thanh toán tiền hàng, vận
chuyển hàng hóa, bảo hiểm hàng hóa và giải quyết tranh chấp của chúng ta
còn hạn chế. Cùng với việc hội nhập kinh tế quốc tế, việc tạo hành lang pháp
lý nhằm bảo vệ các quan hệ kinh tế, thƣơng mại ngày càng đƣợc Đảng và Nhà
nƣớc ta quan tâm. Cùng với tiến trình cải cách tƣ pháp theo Nghị quyết 49-
NQ/TW của Bộ Chính trị, nhiều đạo luật ra đời điều chỉnh các mối quan hệ
phát sinh. Việc giải quyết các tranh chấp phát sinh trong quan hệ thƣơng mại
đƣợc thực hiện linh hoạt hơn. Tình trạng oan sai trong các vụ án kinh tế đƣợc
giảm thiểu đáng kể. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt đƣợc thời gian
qua, vẫn còn nhiều sự bất cập giữa việc bảo đảm có một nền tảng pháp luật
chặt chẽ, theo kịp sự phát triển của kinh tế - xã hội với các quan hệ thƣơng
mại ngày càng phát triển với những quy luật đặc trƣng của nó. Cùng với sự
tiêu cực trong quan điểm áp dụng pháp luật của cơ quan tƣ pháp cùng với ý
thức chấp hành pháp luật của một số chủ thể tham gia vào quan hệ thƣơng
mại chƣa cao dẫn đến những hệ lụy nhất định trong đời sống thƣơng mại mà
điển hình là vấn đề áp dụng pháp luật hình sự trong việc giải quyết các tranh
chấp thƣơng mại.
3

Do đó, việc nghiên cứu vấn đề áp dụng pháp luật hình sự trong việc
giải quyết các tranh chấp thƣơng mại hiện nay tại địa bàn thành phố Đà Nẵng
nhằm nhận diện đƣợc mặt tiêu cực của vấn đề, đi sâu nghiên cứu thực trạng,
nguyên nhân bản chất của việc áp dụng quy phạm pháp luật hình sự cũng nhƣ
sự can thiệp của các cơ quan tiến hành tố tụng vào quá trình giải quyết các
tranh chấp thƣơng mại, từ đó đƣa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao việc áp
dụng pháp luật, khắc phục tình trạng áp dụng không đúng các quy định pháp
luật hình sự vào việc giải quyết các tranh chấp thƣơng mại.
Xuất phát từ công tác thực tiễn của mình và từ những lý do nêu trên, tôi
chọn đề tài: “Vấn đề áp dụng pháp luật hình sự trong việc giải quyết tranh chấp

thương mại trên địa bàn thành phố Đà Nẵng”làm luận văn thạc sỹ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu
Đã có một số luật gia, học giả viết về vấn đề áp dụng pháp luật hình sự
trong việc giải quyết các tranh chấp dân sự, kinh tế, thƣơng mại dƣới nhiều
góc độ nghiên cứu khác nhau. Trong số này, các học giả, luật gia dùng thuật
ngữ “hình sự hóa” từ những vụ việc cụ thể hoặc trong từng lĩnh vực cụ thể
nhƣ hình sự hóa các quan hệ về tín dụng, ngân hàng hoặc xem xét dƣới góc
độ áp dụng pháp luật hình sự để giải quyết tranh chấp kinh tế nhƣ :
- “Áp dụng pháp luật hình sự để giải quyết các tranh chấp kinh tế ở
nƣớc ta hiện nay” luận án tiến sỹ luật học năm 2008 của Trần Minh Chất;
- “ Các giải pháp phòng chống hình sự hóa các giao dịch dân sự, kinh
tế” của PGS.TS. Dƣơng Đăng Huệ;
- “Một số vấn đề về hình sự hóa, phi hình sự hóa các hành vi vi phạm trên
lĩnh vực kinh tế trong chính sách hình sự hiện nay” của GS.TS. Hồ Trọng Ngũ;
- “Về hiện tƣợng hình sự hóa các quan hệ kinh tế, dân sự trong lĩnh vực
tín dụng ngân hàng” của TS. Nguyễn Văn Vân;
4

- “ Mấy ý kiến về vấn đề hình sự hóa các vi phạm liên quan tới hoạt
động ngân hàng và giải pháp khắc phục” của PGS.TS. Phạm Hồng Hải.
Ngoài ra, trên các tạp chí về chuyên ngành luật có nhiều bài viết liên
quan đến vấn đề này. Các sản phẩm khoa học đó đã thể hiện những cách nhìn
nhận, đánh giá về hiện tƣợng tiêu cực trong việc áp dụng pháp luật hình sự để
giải quyết các tranh chấp kinh tế trong thời gian qua ở nƣớc ta. Đây là những
tƣ liệu rất quý cho luận văn.
Tuy nhiên, cần nghiên cứu xem xét vấn đề này dƣới góc độ từ việc xây
dựng pháp luật đến việc áp dụng pháp luật. Làm rõ việc xây dựng pháp luật
có những kẽ hở và hạn chế nào dẫn đến việc đánh giá không đúng bản chất
của từng vụ việc dẫn đến việc áp dụng không đúng quan hệ pháp luật điều
chỉnh. Đối với vấn đề áp dụng pháp luật cũng cần xem xét đến nhiều nguyên

nhân khác nhau. Qua đó, nghiên cứu và đề xuất những biện pháp hoàn thiện
chính sách pháp luật, thể chế; nâng cao năng lực, phẩm chất và trách nhiệm
của những ngƣời tiến hành tố tụng cũng nhƣ ý thức pháp luật của các chủ thể
giao dịch và những biện pháp khác nhằm giảm việc áp dụng pháp luật hình sự
trong việc giải quyết tranh chấp thƣơng mại, tránh oan sai.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu, đề xuất, đƣa ra các luận chứng, các quan điểm,
các giải pháp nhằm đảm bảo cho việc áp dụng pháp luật một cách đúng đắn,
hạn chế việc áp dụng pháp luật hình sự để giải quyết tranh chấp trong thƣơng
mại. Qua đó, đáp ứng yêu cầu cải cách tƣ pháp, bảo vệ lợi ích của Nhà nƣớc;
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Phân tích cơ sở lý luận tranh chấp thƣơng mại, các phƣơng thức giải
quyết tranh chấp thƣơng mại.
5

- Phân tích thực trạng và những nguyên nhân của việc áp dụng pháp
luật hình sự để giải quyết tranh chấp trong thƣơng mại trên địa bàn thành phố
Đà Nẵng để qua đó làm rõ những hạn chế trong việc giải quyết tranh chấp
thƣơng mại hiện nay cũng nhƣ hậu quả tiêu cực của nó.
- Đề xuất những giải pháp nhằm hạn chế việc áp dụng pháp luật hình sự
để giải quyết các tranh chấp trong thƣơng mại.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Tranh chấp thƣơng mại và pháp luật giải quyết tranh chấp thƣơng mại;
Chính sách pháp luật hình sự đối với các tội phạm xâm phạm sở hữu, tội
phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và tội phạm về chức vụ hiện hành.
- Vấn đề áp dụng pháp luật hình sự để giải quyết tranh chấp thƣơng mại
trong thực tiễn áp dụng pháp luật ở thành phố Đà Nẵng trong khoảng thời
gian từ năm 2008 đến nay. Việc nghiên cứu nhằm nhận diện đƣợc mặt tiêu

cực của vấn đề, đi sâu nghiên cứu thực trạng, nguyên nhân bản chất của việc
áp dụng quy phạm pháp luật hình sự cũng nhƣ sự can thiệp của các cơ quan
tiến hành tố tụng vào quá trình giải quyết các tranh chấp thƣơng mại, từ đó
đƣa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao việc áp dụng pháp luật, khắc phục
tình trạng áp dụng không đúng các quy định pháp luật hình sự vào việc giải
quyết các tranh chấp thƣơng mại .
5. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Phƣơng pháp luận của luận văn là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử.
Trong khi thực hiện đề tài, tác giả sử dụng các phƣơng pháp: Hệ thống,
lịch sử, lôgíc, thống kê, phân tích, tổng hợp, kết hợp với các phƣơng pháp
khác nhƣ so sánh, điều tra xã hội
6. Những đóng góp mới của đề tài
6

Có thể xem những nội dung sau đây là những đóng góp mới về khoa
học của luận văn:
- Phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận về vấn đề áp dụng pháp luật
hình sự trong việc giải quyết tranh chấp trong thƣơng mại trên địa bàn thành
phố Đà Nẵng.
- Đánh giá đúng thực trạng, tình hình và những khó khăn, vƣớng mắc
trong việc phân định ranh giới giữa vi phạm pháp luật thƣơng mại hay là tội
phạm chủ yếu từ việc chứng minh có hay không có yếu tố chiếm đoạt tài sản
trong các quan hệ này để hạn chế các sai lầm thƣờng gặp, dẫn đến áp dụng
pháp luật hình sự trong việc giải quyết tranh chấp thƣơng mại hoặc ngƣợc lại
coi hành vi vi pháp pháp luật hình sự là quan hệ thƣơng mại nhằm tránh oan
sai nhƣng cũng tránh bỏ lọt tội phạm.
- Đề xuất hệ thống các giải pháp có tính khả thi và kiến nghị nhằm
nâng cao chất lƣợng, hiệu quả công tác áp dụng pháp luật để hạn chế việc áp
dụng pháp luật hình sự trong việc giải quyết tranh chấp thƣơng mại.

7. Bố cục luận văn
Ngoài phần Mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
nội dung của Luận văn gồm 03 chƣơng:
Chƣơng 1: Một số vấn đề về tranh chấp thƣơng mại và các phƣơng
thức giải quyết tranh chấp thƣơng mại.
Chƣơng 2: Thực trạng và nguyên nhân của việc áp dụng pháp luật hình
sự trong giải quyết tranh chấp thƣơng mại trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
Chƣơng 3: Một số giải pháp hạn chế áp dụng pháp luật hình sự trong
giải quyết các tranh chấp thƣơng mại.



7

CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TRANH CHẤP THƢƠNG MẠI
VÀ CÁC PHƢƠNG THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƢƠNG MẠI

1.1. Khái niệm và đặc điểm tranh chấp thƣơng mại
1.1.1. Hoạt động thương mại
Hoạt động thƣơng mại là hoạt động của cá nhân, tổ chức kinh doanh
trong các lĩnh vực mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, phân phối; đại diện
đại lý thƣơng mại; ký gửi; thuê, cho thuê; thuê, mua; xây dựng; tƣ vấn; kỹ
thuật; li - xăng; đầu tƣ; tài chính, ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò khai thác;
vận chuyển hàng hóa, hành khách bằng đƣờng hàng không, đƣờng biển,
đƣờng sắt, đƣờng bộ và các hành vi thƣơng mại khác theo quy định của pháp
luật nhằm tìm kiếm lợi nhuận. Các giao dịch mà LTM điều chỉnh là các giao
dịch nhằm mục tiêu lợi nhuận và đƣợc thƣơng nhân sử dụng thƣờng xuyên
nhƣ nghề nghiệp của họ.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 3 LTM năm 2005 thì: “Hoạt động
thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng

hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm
mục đích sinh lợi khác”[11].
Cũng theo LTM năm 2005 thì chủ thể của hoạt động thƣơng mại là tổ
chức, cá nhân khác hoạt động có liên quan đến thƣơng mại.
Cá nhân là một ngƣời cụ thể, có năng lực pháp luật và năng lực hành
vi. Cá nhân có thể thực hiện việc kinh doanh dƣới hình thức doanh nghiệp tƣ
nhân hoặc hộ kinh doanh. Theo Nghị định số 88/2006/NĐ-CP ngày 29/8/2006
của Chính phủ về đăng ký kinh doanh thì hộ kinh doanh có thể là cá nhân
công dân Việt Nam hoặc một nhóm ngƣời hoặc một hộ gia đình làm chủ.
Tổ chức là những loại hình kinh doanh đƣợc pháp luật thừa nhận, đƣợc
thành lập hợp pháp. Theo quy định của pháp luật hiện hành, các tổ chức đang
8

tiến hành các hoạt động kinh doanh tại nƣớc ta là: Hợp tác xã, các loại hình
doanh nghiệp nhƣ công ty tƣ nhân, công ty hợp danh, công ty trách nhiệm
hữu hạn một thành viên hoặc nhiều thành viên, công ty cổ phần Tổ chức
trong luật thƣơng mại không đồng nghĩa với tổ hợp tác.
Cá nhân hoặc tổ chức khi hoạt động thƣơng mại phải có nghĩa vụ đăng
ký kinh doanh. Theo quy định của pháp luật hiện hành thì cá nhân, hộ gia
đình, tổ hợp tác kinh doanh theo hình thức “hộ kinh doanh” là chủ thể của luật
thƣơng mại còn những hộ gia đình sản xuất nông, lâm, ngƣ nghiệp, làm muối
và những ngƣời bán hàng rong, quà vặt, buôn chuyến, kinh doanh lƣu động
làm dịch vụ có thu nhập thấp không phải đăng ký kinh doanh, trừ những
trƣờng hợp kinh doanh các ngành nghề có điều kiện. Mặc dù họ vẫn tiến hành
hoạt động thƣơng mại nhƣng không phải là đƣơng sự trong vụ án kinh doanh
thƣơng mại.
Hoạt động thƣơng mại là hoạt động nhằm tìm kiếm lợi nhuận. Đƣợc coi
là hoạt động thƣơng mại khi thỏa mãn các điều kiện nhƣ hoạt động độc lập,
thƣờng xuyên và có đăng kí kinh doanh. Hoạt động độc lập đƣợc hiểu là
không phụ thuộc vào ngƣời khác mà có quyền tự quyết định hoạt động kinh

doanh của mình và tự chịu trách nhiệm đối với những hoạt động kinh doanh
do mình giao kết và thực hiện. Đây đƣợc xem là điều kiện cần phải có trong
quá trình kinh doanh thƣơng mại, là một phần không thể thiếu trong thƣơng
mại và nó tác động không nhỏ đến quá trình hoạt động nhằm kiếm tìm lợi
nhuận. Hoạt động thƣờng xuyên tức là nói lên tính chuyên nghiệp của thƣơng
nhân, thƣờng xuyên cũng có nghĩa là lâu dài và là nghề nghiệp sinh sống của
họ. Những ngƣời mà hoạt động thƣơng mại không phải là nghề nghiệp của họ
thì không phải là thƣơng nhân. Hoạt động thƣờng xuyên và liên tục để tạo ra
lợi nhuận trong một thời gian dài đƣợc coi là điều kiện tiên quyết trong quá
trình hoạt động thƣơng mại. Bởi lẽ, nó tạo tính chuyên nghiệp, lâu dài và bền
9

vững bên cạnh đó nó còn thể hiện tính nghề nghiệp chuyên sâu của một
thƣơng nhân, khẳng định lại một lần nữa, không coi hoạt động thƣơng mại là
là nghề nghiệp mà chỉ đơn thuần là tác nghiệp khi có điều kiện thì đó không
đƣợc đƣợc gọi là thƣơng nhân.
Tại Điều 6 của LTM năm 2005 đã quy định:
“ Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá
nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký
kinh doanh”
Nhƣ vậy, hoạt động thƣờng xuyên liên tục là điều kiện cần phải có
trong bất cứ hình thức kinh doanh thƣơng mại nào. Tuy vậy, việc kinh doanh
hợp pháp hóa là điều kiện đủ để thể hiện tính hợp pháp của hoạt động kinh
doanh thƣơng mại. Đăng ký kinh doanh thể hiện tính hợp pháp của hoạt động
kinh doanh của thƣơng nhân. Tuy nhiên theo Điều 7 của LTM năm 2005,
trƣờng hợp thƣơng nhân chƣa đăng ký kinh doanh, thƣơng nhân vẫn phải chịu
trách nhiệm về mọi hoạt động của mình theo quy định của LTM và quy định
khác của pháp luật.
Sở dĩ việc quy định nhƣ vậy là vì có những trƣờng hợp kinh doanh
mang tính chất nhỏ lẻ, vốn ít hoặc những hàng hóa mang tính chất lẻ tẻ, hoặc

không đủ điều kiện để thành lập doanh nghiệp ngƣời kinh doanh không
đăng kí kinh doanh nhƣng vẫn phải đóng thuế và thực hiện các nghĩa vụ và
trách nhiệm của ngƣời tham gia hoạt động kinh doanh.
1.1.2. Tranh chấp thương mại
Tranh chấp thƣơng mại là một hiện tƣợng khá phổ biến xảy ra trong
nền kinh tế, nó làm chậm quá trình lƣu thông hàng hóa, quá trình thanh toán,
tác động xấu đến sự phát triển của nền kinh tế. Vì vậy vấn đề đặt ra là cần có
các phƣơng thức giải quyết tranh chấp thƣơng mại một cách hiệu quả và đƣợc
pháp luật công nhận. Pháp luật Việt Nam mà cụ thể là LTM năm 2005 đã ghi
10

nhận sự tồn tại của bốn phƣơng thức giải quyết tranh chấp thƣơng mại đó là:
Thƣơng lƣợng, hòa giải, trọng tài thƣơng mại và tòa án. Thuật ngữ “tranh
chấp phát sinh từ hoạt động kinh doanh, thƣơng mại” hay “tranh chấp thƣơng
mại” đƣợc định nghĩa không giống nhau trong các văn bản pháp luật điều
chỉnh các phƣơng thức giải quyết tranh chấp khác nhau.
Trên thực tế, để thụ lý, giải quyết vụ án dân sự nói chung, kinh doanh
thƣơng mại nói riêng, Tòa án phải dựa vào yêu cầu cụ thể của ngƣời khởi kiện
để xác định quan hệ pháp luật mà đƣơng sự tranh chấp. Từ đó, đối chiếu với
các quy định về thẩm quyền của BLTTDS để xác định yêu cầu khởi kiện của
đƣơng sự có thuộc thẩm quyền của Tòa án hay không. Việc xác định quan hệ
pháp luật tranh chấp còn có ý nghĩa quan trọng trong việc áp dụng pháp luật
nội dung (điều chỉnh quyền và nghĩa vụ giữa các bên) trong việc giải quyết
yêu cầu của đƣơng sự.
Thực tiễn xác định quan hệ pháp luật tranh chấp về kinh doanh thƣơng
mại không hề dễ dàng bởi lẽ tùy từng thời kỳ phát triển khác nhau mà cơ quan
lập pháp quy định một số quan hệ xã hội cần đƣợc điều chỉnh bằng quy phạm
pháp luật thƣơng mại bên cạnh đó một số quan hệ xã hội khác thì chƣa nên
không phải cứ có tranh chấp sẽ dễ dàng xác định đƣợc quan hệ pháp luật tranh
chấp về kinh doanh thƣơng mại, trong khi đó có rất nhiều phƣơng thức để giải

quyết tranh chấp thƣơng mại.
Tranh chấp thƣơng mại theo nghĩa khái quát nhất là sự bất đồng chính
kiến, mâu thuẫn hay xung đột về lợi ích, về quyền lợi và nghĩa vụ giữa các
chủ thể tham giam hoạt động thƣơng mại. Đây là loại tranh chấp phổ biến
nhất, thƣờng xuyên nhất phát sinh trong hoạt động kinh doanh của các chủ thể
kinh doanh với nhau trong hoạt động thƣơng mại.
Ở Việt Nam, khái niệm tranh chấp thƣơng mại trong từng giai đoạn
khác nhau cũng có nhiều cách hiểu khác nhau. Lần đầu tiên khái niệm tranh
11

chấp thƣơng mại đƣợc đƣa ra trong LTM năm 1997 và tiếp tục đƣợc khẳng
định trong Pháp lệnh về Trọng tài thƣơng mại 2003. Tại Điều 238 LTM năm
1997 nêu rõ: “Tranh chấp thương mại là tranh chấp phát sinh do việc không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng nội dung trong hoạt động thương mại”
[5]. Nhƣ vậy, lần đầu tiên khái niệm tranh chấp thƣơng mại đƣợc đƣa ra đã
cho ta hiểu một cách khái quát về khái niệm tranh chấp thƣơng mại cũng nhƣ
cho ta thấy quan điểm của các nhà làm luật Việt Nam về vấn đề này.
Cùng một quan hệ xã hội nhƣng lại thuộc phạm vi điều chỉnh của nhiều
ngành luật khác nhau. Mặc dù, mỗi ngành luật đều có những quy định để
phân biệt quan hệ pháp luật nào thuộc ngành luật nào điều chỉnh nhƣ về chủ
thể tham gia quan hệ, mục đích chủ thể, đối tƣợng của giao dịch…nhƣng việc
phân biệt cũng không hề dễ dàng. Khác với tranh chấp trong dân sự, tranh
chấp thƣơng mại thƣờng có giá trị rất lớn, mức độ ảnh hƣởng đến hoạt động
sản xuất kinh doanh rất cao thậm chí có thể tác động tới hoạt động của cả hệ
thống kinh doanh của nền kinh tế. Do đó, việc giải quyết thoả đáng, nhanh
gọn, hiệu quả, kịp thời tranh chấp thƣơng mại là yêu cầu hết sức cần thiết.
Tranh chấp thƣơng mại có tính phản ứng dây chuyền. Nó xảy ra trong một
công đoạn nào đó của chu trình sản xuất kinh doanh và thƣờng có mối quan
hệ hữu cơ với các công đoạn khác. Nếu không giải quyết dứt điểm, kịp thời có
thể làm phát sinh những tranh chấp tiếp theo trong nền kinh tế.

Tóm lại, tranh chấp thƣơng mại là tranh chấp phát sinh trong đời sống
kinh tế - xã hội. Vì vậy, nó cũng hội tụ đầy đủ những đặc điểm của một tranh
chấp nói chung. Tuy nhiên, đây là loại tranh chấp đặc thù phát sinh trong hoạt
động sản xuất kinh doanh nên nó có những điểm khác biệt với các loại tranh
chấp khác, đòi hỏi phải có những phƣơng thức giải quyết nhanh gọn, hiệu
quả, đáp ứng đƣợc nhu cầu của các các chủ thể kinh doanh.
12

Một số văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành về kinh doanh
thƣơng mại có quy định phạm vi các giao dịch thuộc phạm vi điều chỉnh
nhƣng lại quy định một cách chung chung, mang tính mở nên khi có tranh
chấp xảy ra để xác định chúng có thuộc phạm vi điều chỉnh của văn bản quy
phạm pháp luật này hay không cũng gây ra những khó khăn, vƣớng mắc nhất
định. Ở Việt Nam hiện nay, mỗi năm cơ quan chức năng ban hành rất nhiều
các văn bản dƣới luật để hƣớng dẫn, bổ sung, tuy nhiên nhiều văn bản thiếu
sự đồng nhất hoặc có sự chồng chéo, mâu thuẩn nhau dẫn đến những khó
khăn và vƣớng mắc nhất định.
Một số trƣờng hợp do văn bản quy phạm pháp luật nội dung về kinh
doanh thƣơng mại không xác định rõ giao dịch thuộc phạm vi điều chỉnh của
mình nên để xác định cần dựa vào BLTTDS. Bên cạnh việc quy định thẩm
quyền theo vụ việc, BLTTDS còn quy định thẩm quyền theo lãnh thổ để phân
chia việc giải quyết án giữa Tòa án các cấp, giữa các Tòa chuyên trách với
nhau đƣợc tƣơng xứng nhƣng trong nội dung hƣớng dẫn thẩm quyền theo
lãnh thổ lại giải thích thêm thẩm quyền theo vụ việc [23].
Hiện các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động giải quyết tranh chấp
thƣơng mại tiếp cận khái niệm này dƣới góc độ liệt kê các tranh chấp liên
quan đến hoạt động kinh doanh thƣơng mại của cơ quan tài phán thuộc phạm
vi điều chỉnh của văn bản pháp luật đó. Cụ thể nhƣ BLTTDS, tại Điều 29 liệt
kê những tranh chấp về kinh doanh thƣơng mại thuộc thẩm quyền của Toà án
gồm 04 nhóm : Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thƣơng mại

giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi
nhuận đƣợc liệt kê từ điểm a đến điểm o khoản 1 Điều 29; Tranh chấp về
quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau
và đều có mục đích lợi nhuận (có thể tất cả hoặc một trong các bên có đăng
ký kinh doanh hoặc các bên đều không có đăng ký kinh doanh) đƣợc quy định
13

tại khoản 2 Điều 29; Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty,
giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt
động, chấm dứt hoạt động của công ty đƣợc quy định tại khoản 3 Điều 29;
Các tranh chấp khác về kinh doanh, thƣơng mại mà pháp luật có quy định
đƣợc quy định tại khoản 4 Điều 29[18].
LTTTM năm 2010 quy định thẩm quyền của Trọng tài thƣơng mại là
giải quyết các “tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được
giải quyết bằng Trọng tài” khi có thoả thuận chọn trọng tài hợp pháp của các
bên tranh chấp, trong đó có tranh chấp phát sinh trong hoạt động thƣơng mại
[17, Điều 2].
LTM năm 2005 đƣa ra khái niệm “hoạt động thƣơng mại” rất rộng, bao
trùm lên tất cả các hoạt động có mục đích sinh lợi, cụ thể khoản 1 Điều 3
LTM năm 2005 định nghĩa “Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục
đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến
thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác” [11, Điều 3].
Nhƣ vậy, tranh chấp thƣơng mại cũng đƣợc hiểu rất rộng, có thể định
nghĩa là các tranh chấp phát sinh trong quá trình thực hiện các hoạt động kinh
doanh, thƣơng mại giữa các chủ thể thực hiện các hoạt động đó [24].
Khác với việc xác định các quan hệ tranh chấp dân sự, hôn nhân gia
đình và lao động chủ yếu dựa vào luật nội dung, sau đó đối chiếu với quy
định về thẩm quyền theo vụ việc do BLTTDS quy định để xác định tranh
chấp nào thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, việc xác định quan hệ pháp
luật tranh chấp về kinh doanh thƣơng mại lại dựa vào quy định của luật tố

tụng, cụ thể là BLTTDS và Phần I của Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP.
Nội dung của Điều 29 BLTTDS đƣợc cụ thể hóa Nghị quyết số 01/2005/NQ-
HĐTP nhƣ sau:
14

“Hoạt động kinh doanh thương mại là việc thực hiện một hoặc nhiều
hành vi thương mại. Hoạt động kinh doanh, thương mại không chỉ là hoạt
động trực tiếp theo đăng ký kinh doanh, thương mại mà còn bao gồm cả các
hoạt động khác phục vụ thúc đẩy, nâng cao hiệu quả hoạt động, kinh doanh
thương mại”[30, tiểu mục 3.3, mục 3, Phần I].
Đối với mục đích lợi nhuận của cá nhân, tổ chức trong hoạt động kinh
doanh, thƣơng mại đƣợc hƣớng dẫn “là mong muốn của cá nhân, tổ chức đó
thu được lợi nhuận mà không phân biệt có thu được hay không thu được lợi
nhuận từ hoạt động kinh doanh, thương mại đó” [30, tiểu mục 3.2, mục 3,
Phần I]. Đối với việc chủ thể có đăng ký kinh doanh hay không dựa vào quy
định của Luật Doanh nghiệp về đăng ký kinh doanh và các văn bản hƣớng
dẫn thi hành.
Bên cạnh đó, Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP còn hƣớng dẫn bằng
hình thức liệt kê các tranh chấp đƣợc xác định là tranh chấp giữa công ty với
thành viên công ty, giữa các thành viên công ty với nhau cũng nhƣ quy định
điểm mở là các tranh chấp khác liên quan đến việc thành lập, hoạt động, chấm
dứt hoạt động của công ty đƣợc quy định tại khoản 3 Điều 29 BLTTDS. Đối
với quy định tại khoản 2 Điều 29 BLTTDS, Nghị quyết số 01/2005/NQ-
HĐTP hƣớng dẫn rõ là chỉ cần 02 bên có mục đích lợi nhuận mà không cần
phải có đăng ký kinh doanh. Nếu chỉ một bên có mục đích lợi nhuận thì đó là
tranh chấp dân sự.
Tranh chấp thƣơng mại là một loại tranh chấp pháp lí có nhiều khía
cạnh đặc thù, trong đó có những đặc điểm cơ bản sau đây:
Một là, do là tranh chấp phát sinh từ hoạt động kinh doanh nên nó chịu
sự chi phối của các yếu tố cơ bản của hoạt động này nhƣ : Yếu tố lợi nhuận,

bí mật thông tin liên quan đến hoạt động kinh doanh của các chủ thể tham gia.
15

Tranh chấp thƣơng mại là hoạt động phát sinh từ hoạt động thƣơng
mại, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tƣ, xúc tiến thƣơng
mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác. Nhƣ vậy, với những hoạt
động này các chủ thể của các tranh chấp thƣơng mại thƣờng nảy sinh những
vấn đề rất nhạy cảm đòi hỏi các yếu tố trong tranh chấp thƣơng mại phải liên
quan trực tiếp đến chủ thể tham gia các hoạt động thƣơng mại và phát sinh
tranh chấp trên thực tế.
Hai là, tranh chấp thƣơng mại chủ yếu phát sinh giữa các chủ thể kinh
doanh. Ngoài ra, còn có các tranh chấp giữa ít nhất một bên có hoạt động
thƣơng mại hoặc tranh chấp giữa công ty với thành viên công ty, giữa các
thành viên công ty với nhau. Các mối quan hệ tranh chấp này thƣờng mang
tính pháp lý và đƣợc giải quyết thông qua Tòa án để đạt hiệu quả cao nhất.
Ba là, các tranh chấp thƣơng mại có thể đƣợc giải quyết bằng nhiều
phƣơng thức khác nhau bao gồm: Hoà giải; Thƣơng lƣợng; Toà án; Trọng tài
thƣơng mại.
Thông thƣờng để giải quyết tranh chấp nhanh gọn nhất và vẫn đảm bảo
đƣợc tính công bằng thì nguời ta thƣờng áp dụng phƣơng thức giải quyết
thông qua Trọng tài thƣơng mại. Tuy nhiên, có những vụ việc thƣơng mại,
phải áp dụng pháp luật hình sự vào để giải quyết thì vấn đề này lại đƣợc các
cơ quan tiến hành tố tụng quyết định và đƣợc giải quyết theo thủ tục tố tụng
hình sự. Tuy nhiên, tùy vào trƣờng hợp để áp dụng chứ không rập khuân theo
bất cứ một vụ án nào khi truy cứu trách nhiệm hình sự đối với một vụ việc
tranh chấp thƣơng mại vì sẽ dễ dẫn đến oan sai.
1.2. Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp thƣơng mại
Nguyên tắc cơ bản trong trong một đạo luật là tổng hợp những tƣ
tƣởng, quan điểm chỉ đạo mang tính khái quát, xuyên suốt trong cả đạo luật.
Nội dung của các quy định tiếp theo chỉ là sự cụ thể hóa các tƣ tƣởng, quan

điểm này
16

Tại Điều 1 của BLTTDS quy định những nguyên tắc cơ bản trong tố
tụng dân sự; trình tự, thủ tục khởi kiện để Toà án giải quyết các vụ án về tranh
chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thƣơng mại, lao động và trình
tự, thủ tục yêu cầu để Toà án giải quyết các việc về yêu cầu dân sự, hôn nhân
và gia đình, kinh doanh, thƣơng mại, lao động; trình tự, thủ tục giải quyết vụ
án dân sự, việc dân sự tại Toà án.
Trên cơ sở đó, BLTTDS này đã đƣa ra những nguyên tắc cơ bản nhƣ sau:
1.2.1. Nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của các đương sự
Theo Điều 5 BLTTDS, nguyên tắc tôn trọng quyền quyết định và tự
định đoạt của đƣơng sự đƣợc quy định nhƣ sau:
“Đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu Toà án có
thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự. Toà án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân
sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong
phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó.
Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, các đương sự có quyền
chấm dứt, thay đổi các yêu cầu của mình hoặc thoả thuận với nhau một cách
tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội” [18].
Quan hệ kinh tế là những quan hệ đƣợc xác lập một cách tự nguyện,
xuất phát từ ý chí và nguyện vọng của các bên mà không có bất cứ sự cƣỡng
ép, đe dọa nào trong quá trình xác lập, thực hiện. Nói cách khác, sự xác lập
các quan hệ kinh tế hoàn toàn do các bên tự quyết định, và đƣợc Nhà nƣớc
bảo đảm nếu không trái với các quy định của pháp luật và đạo đức xã hội.
Chính vì thế, khi phát sinh tranh chấp, bên bị vi phạm có quyền yêu cầu Nhà
nƣớc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; ngƣợc lại, họ cũng có
quyền từ bỏ quyền lợi của mình đã bị xâm phạm cho dù đã có yêu cầu Nhà
nƣớc bảo vệ. Nguyên tắc tôn trọng quyền quyết định và tự định đoạt của các
đƣơng sự đƣợc thể hiện trong suốt các giai đoạn của quá trình tố tụng. Các

17

đƣơng sự có thể khởi kiện hoặc không khởi kiện; trong quá trình giải quyết vụ
việc, các đƣơng sự có quyền chấm dứt, thay đổi các yêu cầu của mình hoặc
thỏa thuận với nhau một cách tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã
hội. Việc thực hiện quyền này của đƣơng sự không chỉ dừng lại việc giải
quyết theo thủ tục sơ thẩm, thủ tục phúc thẩm mà còn đƣợc thực hiện cả trong
các giai đoạn của quá trình thi hành bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu
lực pháp luật.
Trên thực tế, TAND khi giải quyết tranh chấp vẫn thƣờng vi phạm
nguyên tắc này thể hiện ở việc giải quyết vƣợt quá yêu cầu của đƣơng sự hoặc
không giải quyết hết yêu cầu đƣơng sự, thậm chí có trƣờng hợp giải quyết sai
so với yêu cầu của đƣơng sự dẫn đến việc đƣơng sự khiếu nại kéo dài, bản án,
quyết định của Toà án cấp dƣới bị Toà án cấp trên huỷ để giải quyết lại.
1.2.2. Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật
Quyền bình đẳng trƣớc pháp luật là quyền cơ bản của công dân đã đƣợc
ghi nhận trong Hiến Pháp 1992. Quyền này đã đƣợc cụ thể hoá trong nhiều
văn bản pháp luật, trong đó có BLTTDS:
“Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, trước Toà án không phân
biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá,
nghề nghiệp. Mọi cơ quan, tổ chức đều bình đẳng không phụ thuộc vào hình
thức tổ chức, hình thức sở hữu và những vấn đề khác. Các đương sự đều bình
đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự, Toà án có trách nhiệm tạo điều
kiện để họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình” [18, Điều 8].
Việc cụ thể hoá quyền bình đẳng trƣớc pháp luật trong tố tụng kinh
doanh thƣơng mại có ý nghĩa đặc biệt quan trọng vì nó còn thể hiện đƣợc sự
bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Khi tham gia tố tụng không phân biệt
đó là doanh nghiệp Nhà nƣớc, công ty, hợp tác xã, doanh nghiệp tƣ nhân…
đều có quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật tố tụng. Tuy nhiên
18


trong thực tế không phải lúc nào đƣơng sự cũng thực hiện đƣợc quyền này.
Nhiều trƣờng hợp do trình độ hiều biết của đƣơng sự dẫn đến họ không thực
hiện đƣợc hết quyền của mình, nhƣ: Vấn đề khởi kiện, cung cấp chứng cứ hay
bào chữa trƣớc Toà án dẫn đến việc phải chịu phán quyết bất lợi hoặc có
trƣờng hợp xuất phát ngày từ việc vi phạm trong quá trình tiến hành tố tụng
của Toà án hoặc quy định của pháp luật chƣa phù hợp dẫn đến bất bình đẳng
cho các chủ thể tham gia. Đây là vấn đề lớn, để khắc phục đƣợc cần phải có
một lộ trình tiến hành đồng bộ từ giai đoạn xây dựng pháp luật, cải cách cơ
cấu tổ chức của Toà án đến việc nâng cao trình độ của các Thẩm phán cũng
nhƣ trình độ hiểu biết và tuân thủ pháp luật của các cá nhân, tổ chức hoạt
động kinh doanh.
1.2.3. Nguyên tắc Tòa án không tiến hành điều tra mà chỉ xác minh thu
thập chứng cứ
Nguyên tắc này thể hiện bản chất dân sự trong việc giải quyết các tranh
chấp trong kinh doanh, thƣơng mại. Khác với trình tự, thủ tục giải quyết các
vụ án hình sự, trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh thƣơng mại thì Tòa
án không tiến hành thu thập chứng cứ mà:
“Các đương sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho Toà án
và chứng minh cho yêu cầu của minh là có căn cứ và hợp pháp”, “Tòa án chỉ
tiền hành xác minh, thu thập chứng cứ trong những trường hợp nhất định”
[18, Điều 6]. Điều 79 BLTTDS cũng quy định: “Đương sự có yêu cầu Toà án
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình phải đưa ra chứng cứ để chứng
minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp”.
Việc pháp luật quy định đƣơng sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để
chứng minh cho yêu cầu của mình, trong trƣờng hợp đƣơng sự không thể tự
mình thu thập đƣợc chứng cứ và có yêu cầu thì Thẩm phán mới tự mình thu
thập chứng cứ hoặc trong các trƣờng hợp khác mà pháp luật có quy định là

×