Tải bản đầy đủ (.pdf) (52 trang)

Vận dụng tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh vào việc giáo dục nhân cách con người mới xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (395.86 KB, 52 trang )

























TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
********





NGUYỄN THỊ HUÊ



VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC CỦA
HỒ CHÍ MINH VÀO VIỆC GIÁO DỤC
NHÂN CÁCH CON NGƯỜI MỚI XÃ HỘI
CHỬ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY



KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành:
Tư tưởng Hồ Chí Minh


Người hướng dẫn khoa học :
Th.S TRẦN THẾ VĨNH




HÀ NỘI - 2011

LỜI CẢM ƠN

Em xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành nhất tới thầy giáo-Th.S Trần
Thế Vĩnh đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ em hoàn thành khoá luận này.
Em xin bày tỏ lời cảm ơn tới các thầy cô giáo trong khoa Giáo dục
chính trị cùng các thầy cô trong trường đại học sư phạm Hà Nội 2 đã tạo

điều kiện cho em hoàn thành tốt khoá luận tốt nghiệp của bản thân.
Em cũng xin bày tỏ lời cảm ơn tới gia đình, cũng như bạn bè đã tạo
điều kiện và giúp đỡ em hoàn thành khoá luận.
Với điều kiện hạn chế về thời gian cũng như kiến thức của bản thân
nên khoá luận khó tránh khỏi những thiếu sót, kính mong sự chỉ bảo của
các thầy , cô cũng như của các bạn sinh viên.
Em xin chân thành cảm ơn !
Tác giả khoá luận



Nguyễn Thị Huê




















LỜI CAM ĐOAN


Khoá luận tốt nghiệp này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của
Th.S Trần Thế Vĩnh. Tôi xin cam đoan rằng:
Đây là kết quả nghiên cứu riêng của tôi
Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Sinh viên



Nguyễn Thị Huê











MỤC LỤC



Mở đầu

Nội dung
Chương 1: khái quát những nội dung cơ bản của tư tưởng đạo đức Hồ Chi
Minh và giá trị của nó
1.1.Lý luận đạo đức Hồ Chí Minh
1.2.Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
1.3.Những giá trị cơ bản của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
Chương 2: Vận dụng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vào việc giáo dục
nhân cách con người mới xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
2.1. Khái quát về tình hình Việt Nam hiện nay và tác động của nó tới
việc hình thành đạo đức xã hội
2.2. Vận dụng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vào việc giáo dục nhân
cách đạo đức con người mới xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo










MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh là biểu tượng cao đẹp nhất của dân tộc, là
hình mẫu trong sáng nhất của con người Việt Nam. Người là kết tinh của
những phẩm chất và giá trị tinh thần cao nhất của giai cấp công nhân và

của cả dân tộc, là hiện thân cảu đạo đức cách mạng Việt Nam, là ánh sáng
soi đường trong sự nghiệp giáo dục nhân cách mới cho con người xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, đồng thời là tấm gương soi rọi con
đường đi tới tương lai tươi sáng của dân tộc ta.
Đất nước ta đang trong thời kỳ đổi mới, việc thực hiện nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, sự giao kưu hội nhập với các
nước trên thế giới đã đem lại những thành tựu to lớn về kinh tế, chính trị,
xã hội. Bên cạnh đó, những mặt trái của nền kinh tế thị trường cũng đem
lại nhiều vấn đề có ảnh hưởng không nhỏ tới nhân cách đạo đức con
người mới xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
Hiện nay, các lực lượng thù địch bên trong và bên ngoài không
ngừng chống phá cách mạng Việt Nam bằng những âm mưu diễn biến
hoà bình, chiến tranh lạnh…Mặc dù đất nước ta có sự phát triển về kinh
tế, chính trị, xã hội, nhưng vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi phải có những con người có tài, có đức,
có trí, vì vậy việc vận dụng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong việc
giáo dục nhân cách con người mới xã hội chủ nghĩa ở Vịêt Nam hiện nay-
những con người sống có lý tưởng, lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần tự
lực tự cường, có lối sống cao đẹp vì mọi người là vấn đề đang đặt ra rất
cấp bách.
Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, sống chiến đấu lao động và học
tập theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là một phương hướng đúng
đắn, thiết thực nhằm nâng cao đạo đức cách mạng cho mỗi cán bộ, đảng
viên và nhân dân ta
Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
có ý nghĩa vô cùng to lớn trong đời sống xã hội. Bởi vì, tư tưởng đạo đức
của Người luôn là nền tảng tinh thần xã hội, là động lực, nguồn sức mạnh
vô cùng to lớn để nhân dân ta phát huy nội lực, vượt qua thách thức khó
khăn để tiến lên. Cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh trong toàn Đảng, toàn dân hiện nay là sự cụ thể hoá việc kế

thừa phát triển tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh một cách thiết thực nhất.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay đã có nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học
về đạo đức và xây dựng đạo đức mới xã hội chủ nghĩa được đăng trên các
báo, tạp chí, có nhiều hội thảo kboa học về vấn đề đạo đức như: Hội thảo
quốc tế về Chủ tịch Hồ Chí Minh; Hoàng Chí Bảo, đổi mới ở Việt Nam,
một số vấn đề Triết học về con người và xã hội , tạp chí lịch sử Đảng số
10-1998, tạp chí Triết học số 2, 2001…
Trên cơ sở những vấn đề mà các nhà khoa học đã nghiên cứu, tác
giả khoá luận muốn đóng góp một vài ý kiến của mình vào công việc tìm
hiểu tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và việc vận dụng tư tưởng đạo đức
Hồ Chí Minh vào việc giáo dục nhân cách đạo đức con người mới xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Hệ thống hoá và chỉ rõ những nội dung cơ bản trong tư tưởng đạo
đức Hồ Chí Minh và giá tị của nó.
Sự cần thiết của việc vận dụng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong
việc giáo dục nhân cách đạo đức con người mới
Xã hộin chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay và đề xuất một số giải pháp.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu thực trạng đạo đức xã hội ở Việt Nam hiện nay và ảnh
hưởng của nó tới việc hình thành đạo đức xã hội.
5. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu
Phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lênin đó là: phương pháp
kết hợp phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, phương pháp lôgic và lịch
sử, phương pháp hệ thống hoá
Nguồn tài liệu là hệ thống các quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin
và các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước, các văn kiện của Đảng, đặc
biệt là di sản của Hồ Chí Minh trong Hồ Chí Minh toàn tập, các công
trình nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước nghiên cứu về tư

tưởng đạo đức của Người.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu than khảo
thì kết cấu của đề tài gồm 2 chuơng và 5 tiết.
7. Đóng góp mới về khoa học của khoá luận
Giúp bạn đọc hiểu thêm được những giá trị của tư tưởng đạo đức
Hồ Chí Minh
là nguồn tài liệu phục vụ cho các bạn sinh viên khi nghiên cứu về thực
trạng đạo đức xã hội Việt Nam.











Chương 1
KHÁI QUÁT NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA
TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC
HỒ CHÍ MINH VÀ GIÁ TRỊ CỦA NÓ

1.1.Lý luận đạo đức Hồ Chí Minh
Sinh thời Hồ Chí Minh là một trong những lãnh tụ cách mạng quan
tâm nhiều đến vấn đề đạo đức và bản thân Người cũng có những cống
hiến về đạo đức. Người xem xét vấn đề đạo đức trên cả hai phương diện
lý luận và thực tiễn. Về lý luận, Người để lại cho chúng ta một hệ thống

quan điểm toàn diện và sâu sắc về đạo đức. Về thực tiễn, Người luôn coi
thực hành đạo đức là một mặt không thể thiếu của cán bộ đảng viên và
bản thân Người cũng là một biểu tượng sáng ngời về đạo đức. Trong lý
liận về đạo đức, Hồ Chí Minh đã đề cập tới những vấn đề của đạo đức xã
hội, của việc xây dựng đạo đức mới xã hội chủ nghĩa, trong đó nổi lên
một số nôi dung cơ bản sau.
1.1.1 Về vai trò của đạo đức
Tư tưởng Hồ Chí Minh có nội dung phong phú, rộng lớn, đặc sắc,
gần gũi với con người Việt Nam. Đó là những vấn đề đạo đức đã được
Người rút ra từ thực tiễn, khái quát thành tư tưởng lý luận đạo đức.
Ngay từ khi bắt đầu hoạt động cách mạng, Người đã có ý thức rất
rõ về vai trò và sức mạnh của đạo đức cách mạng. Vì vậy ,Người đã dày
công giáo dục lý tưởng cách mạng cho thanh niên và quần chúng nhân
dân. Ngay trong tác phẩm “ Đường cách mênh” ở chương đầu tiên Người
đã nêu lên 23 điều tư cách của người cán bộ cách mạng trong đó chủ yếu
là tiêu chuẩn về đạo đức.
Sau khi giành được chính quyền, Hồ Chí Minh lại nói nhièu tới
đạo đức của cán bộ đảng viên, của đảng cầm quyền. Trong bản di chúc
củu Hồ Chí Minh thì vấn đề đạo đức cũng vẫn được Người đặc biệt nhấn
mạnh. Đảng cần phải chăm lo guáo dục đạo đức cách mạng cho đoàn
viên thanh niên, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ
nghĩa xã hội vừa‘hồng’’, vừa“chuyên”.
Người cho rằng đạo đức là cái “gốc” của người cán bộ cách mạng
bởi một trong những nhân tố quyết định thành công của cách mạng đó
chính là đạo đức của người cách mạng. Người coi đạo đức là cái gốc, là
nền tảng của người cách mạng, bởi lẽ sự nghiệp cách mạng giành độc lập
dân tộc là rất khó khăn, lâu dài, người cán bộ không thể vượt qua kbó
khăn, thử thách, thạm chí hy sinh. Nếu không có đạo đức thì người cán bộ
không thể lãnh đạo được nhân dân và hoàn thành nhiệm vụ vẻ vang. “
Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn.

Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cán bộ phải có đạo
đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được
nhân dân” [26, tr.252-253].
Bên cạnh đó Người còn nhấn mạnh, đạo đức cách mạng có liên
quan đến sự thành bại của cách mạng và đạo đức cách mạng sẽ giúp cán
bộ đảng viên tránh được những thó hư tật xấu như: tham nhũng, quan
liêu, hủ hoá… mới làm cho họ xứng đáng là người đầy tớ trung thành của
nhân dân và được nhân dân tin yêu, ủng hộ. Có tài phải có đức, có tài
không có đức, tham ô hủ hoá có hại cho nước. Có đức không có tài như
ông bụt ngồi trong chùa không giúp ích gì được ai.
Hồ Chí Minh hiểu hơn ai hết sức mạnh của đạo đức cách mạng,
chính đạo đức cách mạng đã giúp Ngươì vượt qua mọi khó khăn thác
ghềnh nguy hiểm để vươn tới thành công. Người dạy: “ làm cách mạng
để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng
nó cũng là một nhiệm vụ nặng nề, một cuộc đấu tranh lâu dài, phức tạp,
gian khổ, có sức mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách
mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành nhiệm vụ
vẻ vang”[17, tr.829].
Sức mạnh của người cán bộ cách mạng là sức mạnh của đạo đức
cách mạng. Điều đó sẽ giúp người cán bộ sẵn sang hy sinh lợi ích riêng
của mình để phục vụ lợi ích chung của Tổ quốc, khi cần có thể hy sinh cả
tính mạng của mình. Ngoài ra, vai trò của đạo đức cách mạng còn được
thể hiện ở chỗ đó là thước đo lòng cao thượng của con người. Theo quan
điểm của Hồ Chí Minh tuy năng lực và công việc của mỗi người khác
nhau, người làm việc to, nguời làm việc nhỏ, nhưng ai giữ được đạo đức
đều là người cao thượng. Xác định được tầm quan trọng cảu vấn đề đạo
đức,trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh
luôn là tấm gương mẫu mực, thưc hiện triệt để những phẩm chất cách
mạng. Bác nhắc nhở trước mặt quần chúng không phải ta cứ viết lên trán
hai chữ “ cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ yêu quý

những người cò tư cách, có đạo đức.
Hồ Chí Minh đã xây dựng nên hệ thống chuẩn mực đạo đức con
người mới trong quá trình lãnh đạo vàc chỉ đạo cách mạng. Người đã kế
thừa và tổng kết thực tiễn đề ra một loạt những chuẩn mực đạo đức mới
phục vụ cho sự nghiệp cách mạng và xây dựng con người mới.
1.1.2. Trung với nước, hiếu với dân, quyết tâm chiến đấu hy sinh vì độc
lập tự do và chủ nghĩa xã hội
Hồ Chí Minh cho rằng phẩm chất này là quan trọng nhất bởi quan
hệ đạo đức cảu mỗi người dân đối với Tổ quốc, đối với đồng bào và dân
tộc mình là quan hệ lớn nhất và cơ bản nhất. Trung với nước là hết sức
phụng sự quê hương đất nước, có trách nhiệm với sự nghiệp dựng nước
và giữ nước, với con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Nước ở đây là nước
của dân, còn nhân dân lại là chủ nhân cảu đất nước. Theo ý nguyện của
Người thì bao nhiêu lợi ích đều vì dân và bao nhiêu quyền hạn đều của
dân.
Tư tưởng hiếu với dân không chỉ ở chỗ thương dân mà là tin dân,
dựa vào dân làm cho dân đươch hưởng quyền dân chủ và biết phát huy
quyền dân chủ của mình. Từ “ trung với Vua, hiếu thảo với cha mẹ”
chuyển thành “ trung với nước, hiếu với dân”. Người khẳng định: Trung
là trung với Tổ quốc, hiếu là hiếu với nhân dân; ta thương cha mẹ ta, mà
còn phải thương cha mẹ người, phải cho mọi người đều biết thương cha
mẹ” [3, tr.640].
Trong suốt cuộc đời Người không bao giờ đặt mình ở vị trí cao hơn
nhân dân, Người nói: “nước lấy dân làm gốc”. Từ đó, Người đã vận động,
khuyến khích người dân phát huy quyền làm chủ của mình biết thẳng
thắn góp ý kiến xây dựng Đảng và Chính phủ trong công việc quản lý,
lãnh đạo đất nước, Người dạy: Người cán bộ phải nắm vững tình hình,
hiểu rõ tâm tư nguyện vọng của nhân dân, thường xuyên sâu sát, quan
tâm tới nhu cầu lợi ích và nguyện vọng của nhân dân.
1.1.3. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư

Trong lao động và xây dựng đát nước, Hồ Chí Minh nhấn mạnh tới
các đức tính cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Mỗi đức tính có nội
dung riêng nhưng lại liên quan mật thiết với nhau tạo thành một chỉnh
thể. Một dân tộc biết cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là một dân tộc
giàu về chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh, tiến bộ
Người viết:
Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông
Đất có bốn phương:Đông, Tây, Nam, Bắc
Người có bốn đức:Cần, Kiệm,Liêm,Chính
Thiếu một mùa không thành trời
Thiếu một phương không thành đất
Thiếu một đức kkhông thành người
Người giải thích: Cần là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng, biết làm
việc có kế hoạch, có sự phân công tính toán, năng suất cao.
Kiệm là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiền của nhân dân.
Kiệm trong tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là bủn xỉn. Khi không tiêu
xài gì thì một đồng cũng không nên tiêu, khi có việc đáng làm, việc ích
cho đồng bào Tổ quốc, dù tốn bao nhiêu công tốn bao nhiêu tiền cũng vui
lòng.
Liêm là trong sạch, không tham lam tiền của, địa vị ,danh lợi, cán
bộ phải thực hiện chữ “ liêm” để làm gương cho nhân dân
Chính nghĩa là không tà, thẳng thắn, đúng đắn.
Có rèn luyện được cần, kiệm, kiêm, chính thì mới chí công vô tư
tham làm những việc ích nước lợi dân, không màng vinh hoa phú quý.
Người chí công vô tư thì lòng dạ thảnh thơi, đầu óc tỉnh táo, sáng suốt,
nêu cao được chủ nghĩa tập thể, loại trừ được chủ nghĩa cá nhân- một căn
bệnh nguy hiểm dẫn đến nhiều sai lầm. Người đã nhấn mạnh: “ Một dân
tộc, một Đảng và mỗi con người ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn
lớn, không nhất định ngày hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu
mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa

cá nhân” [33, tr.557].
Tuy nhiên, cũng cần lưu ý chống chủ nghĩa cá nhân ở nước ta
khác hoàn toàn với việc giày xéo lên lợi ích cá nhân bởi “ Không có chế
độ nào tôn trọng con người, chú ý đến xem xét những lợi ích cá nhân
đúng đắnvà đảm bảo cho nó được thoả mãn bằng chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa cộng sản”[14,tr.246].
1.1.4.Yêu thương con người
Tình yêu thương quý trọng con người của Hồ ChíMinh thể hiệh
qua việc đồng cảm với những cảnh ngộ khó khăn, những người dân
nghèo khổ bị áp bức bóc lột… đó cũng là nguốn sức mạnh thộ thúc
Người ra đi tìm đường cứu nước, như nhà thơ Tố Hữu đã từng viết
“Chỉ biết quên mình cho hết thảy
Như dòng sông chảy nặng phù sa”
Người tin yêu quý trọng nhân dân, luôn lắng nghe tâm tư, nguyện
vọng của nhân dân. Lòng yêu thương con người của Hồ Chí Minh còn
biểu hiện qua những việc làm cụ thể mang lại lợi ích thiết thực cho nhân
dân như ăn, mặc, ở, đi lại, ham muốn tột bậc của Người chính là làm sao
cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta được tự do, đồng bào ta ai cũng có
cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Người cho rằng: “Nước độc lập
mà dân không hưởng hạnh phúctự do, thì độc lập chẳng có ý nghĩa gì” [7,
tr.56].
Tình thương yêu quý trọng nhân dân của Hồ Chí Minh hết sức sâu sắc,
nồng thắm. Người chú ý săn sóc mọi đối tượng: người già, phụ nữ, trẻ
nhỏ, bộ đội công nhân đặc biệt là đồng bào miền Nam. Người cũng luôn
nhắc nhở giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta trong
thời đại cách mạng mới. “Hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin là phải sống với
nhau có tình nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình
nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin đựoc.”[20,tr.662]
Lòng khoan dung rộng lớn, cao cả biểu dương người tốt, việc tốt,
Người luôn tìm cách đánh thức những gì tốt đẹp nhất ở tận sâu thẳm mỗi

con người và tin rằng mọi người đèu có thể hướng tới chân- thiện- mĩ.
Người nói: “Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng. Ta phải biết
làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và
phần xấu mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng. Đối với những
người có thói hư tật xấu, trừ hạng người phản lại Tổ quốc và nhân dân, ta
cũng phải giúp cho họ tiến bộ bằng cách làm cho phàn thiện trong con
người đẩy lùi phần ác, chứ không phải đập cho tơi bời”.[21, tr.558]
Bên cạnh đó, Người thường xuyên nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải
yêu thương nhân dân, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Nếu dân đói thì
Đảng và Chính phủ có lỗi, dân rét dân ốm thì Đảng và Chính phủ có lỗi.
Vì vậy, người lãnh đạo phải yêu thương kính trọng nhân dân nguyện làm
nô bộc, là đầy tớ trung thành của nhân dân.
1.1.5.Tinh thần quốc tế trong sáng
Tinh thần quốc tế là tinh thần đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau giữa các
dân tộc bị áp bức với nhân dân lao động các nước mà Hồ Chí Minh là
người dày công xây đắp bằng thực tiễn cách mạng, bằng chính sự nghiệp
cách mạng của cả dân tộc. Tịa Đại hội III của Đảng, Hồ Chí Minh đã nói:
“Quan san muôn dặm một nhà
Bốn phương vô sản đều là anh em”
Đó là phương châm biểu hiện tinh thần đoàn kết quốc tế rộng lớn
nhằm ủnh hộ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc và nhân dân lao động
trên thế giới. Đoàn kết quốc tế nhằm những mục tiêu lớn của thời đại là
hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Trong quá trình hoạt
động cách mạng, Người dã đi nhiều nước khác nhau, thuỷ chung với
phong trào cách mạng thế giới trọn nghĩa tình với bạn bè năm châu.
Người muốn trên thế giới này các dân tộc xích lại gần nhau để cùng nhau
làm những điều tốt đẹp cho cuộc sống con người vì cái thiện và hạnh
phúc của con người. Đó chính là tư tưởng đại gia đình xã hội chủ nghĩa.
Bốn chuẩn mực trên thể hiện sự kết hợp đạo đức cảu giai cấp công
nhân với truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa đạo đức nhân loại.

Những giá trị đạo đức mới đã hoà nhập với những giá trị đạo đức truyền
thống của dân tộc làm cho mỗi người Việt Nam đều cảm thấy gần gũi.
Hơn nữa, những giá trị đạo đức truyền thống lại được nâng lên tầm cao
mới hơn. Việc tiếp thu tinh hoa đạo đức nhân loại làm tư tưởng đạo đức
Hồ Chí Minh trở nên phong phú và đó cũng là một đặc trưng nổi bật
trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
1.2.Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh là người Việt Nam mang đậm cốt cách dân tộc, vị
lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, đồng thời cũng là một danh nhân văn
hoá thế giới. Mỗi bướ đi lên của xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX gắn liền
với tên tuổi của Người. Người đã trở thành biểu tượng của trí tuệ, truyền
thống doàn kết, ý chí tự lực tự cường, lòng nhân ái và sức mạnh vô địch
của dân tộc và là chiếc cầu nối truyền thống văn hoá Việt Nam với các
nền văn hoá hiện đại Đông, Tây.Người đã bôn ba khắp năm châu bốn
biển tìm tới mọi tinh hoa văn hoá nhân loại, hấp thụ nó để làm giàu cho
truyền thống Việt Nam.
Tinh hoa văn hoá Việt Nam qua hang ngàn năm văn hiến những
yếu tố nhân văn của văn hoá các dân tộc phương Đông và Tây, cả quá
khứ và hiệnn tại đã tích tụ lại trong nhân cách Hồ Chí Minh tạo nên tầm
vóc lớn lao và sức lan toả mạnh mẽ của Người. “ Non sông đất nước ta đã
sinh ra Hồ Chí Minh, người anh hùng dân tộc vĩ đại và chính Người đã
làm rạng rỡ dân tộc ta và non sông đất nước”.[27,tr.18]
Nhân cách Hồ Chí Minh vẫn đang là tấm gương để xây dựng
những con người mới Việt Nam. Bởi lẽ, Bác Hồ không chỉ là con người
tiêu biểu cho văn hoá hiện đại, cho tư tưởng đạo đức mà còn là con người
tiêu biểu cho nền văn minh trí tuệ, một nhân cách điển hình của đạo đức
tương lai. Ở Người có đầy đủ phẩm chất tiêu biểu của con người tri thức
toàn diện, có đạo đức tốt đẹp và lối sống lành mạnh.
Một tác phong sinh hoạt giản di, gần gũi, gắn bó với tập thể, tin yêu và
tôn trọng quần chúng là một nét đẹp tiêu biêu trong nhân cách con người

Bác mà mỗi chúng ta cần phải học tập.
Sự giản dị của Bác là sự giàn dị trong sáng, xuất phát từ một lý
tưởng sống cao đẹp, một nếp sống văn hoá hợp khoa học với thẩm mỹ
mới; giản dị mà phong phú, văn minh.
Sinh thời Bác sống rất giản dị, từ lời nói đến việc làm, từ cách ăn
mặc cho đến những sinh hoạt hang ngày, ngay cả khi Người đã là Chủ
tịch nước.Tác phong giản dị ấy mang lại một sự gần gũi, một ận tượng
khó quên đối với những ai đã được gặp Bác dù chỉ một lần. Quần áo Bác
mặc chỉ có bài bộ, may cùng kiểu, bộ kaki sờn vẫn dung hang ngày. Có
cái áo của Bác rách vá đi vá lại, Bác vẫn không cho đổi. Có lần Bác nói
với một đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng một cách chân tình: “Này
chú! Chủ tịch Đảng, Chủ tịch nước mặc áo vá vai thề này là cái phúc của
dân đấy. Đừng có bỏ cái phúc ấy đi”[11,tr.115].Bác không dung chiếc
điều hoà nhiệt độ do các đồng chí cán bộ ngoại giao công tác ở nước
ngoài biếu, mà đề nghi chuyển chiếc điều hoà ấy cho các đồng chí thuơng
bệnh binh đang điều trị tại trại điều dưỡng hoặc quân y viện. Những bữa
ăn thanh đạm của Người thường là “ dưa cà đôi khi có thịt”. Những lần đi
thăm các địa phương, Bác thường không báo trước và mang theo cơm
nắm để tránh sự đón rước linh đình, gây phiền hà tốn kém tiền của nhân
dân.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, trên chiến khu Việt
Bắc, Bác ở trong ngôi nhà sàn đơn sơ, giản dị, đến khi cách mạng thành
công trở về Thủ đô, Bác cũng chỉ ở trong ngôi nhà nhỏ của người thợ
điện sau đó chuyển sang nhà sàn chứ không ở ngôi nhà to, sang trọng của
toàn quyền Đông Dương, Bácdành ngôi nhà đố để tiếp khách của Đảng,
Nhà nước. Một nhà báo Anh đã viết: “ Cụ Hồ Chí Minh xem khinh mọi
vinh hoa và quyền ao chức trọng và cụ sống không phải trong Phủ Chủ
tịch mà trong một căn nhà nhỏ bằng gỗ. Cụ mặc bộ quần áo kaki màu
bạc, đi dép bằng lốp ô tô cũ. Đây không phải hình ảnh nhằm mục đích
tuyên truyền hay chính trị. Cụ không phải là con người như

vậy”.[31,tr.22]
Sự tiết kiệm của Bác còn thể hiện trong việc sử dụng đội ngũ cán
bộ. Là Chủ tịch nước nhưng đi theo Bác chỉ là tổ công tác ít người kiêm
nhiều việc.
Có thể nói bạn bè khắp nơi trên thế giới cũng như bất cứ một người
khách nước ngoài nào khi được tiếp xúc với Bác hay được đến thăm nơi
ở, nơi làm việc đều thấy sự giản dị vĩ đại của Bác. Sự giản dị đến mức
G.Vec-met- tô rê đã phát biểu: “Giữa bạn bè người ta không biết lấy gì
biếu Chủ tịch, hình như Chủ tịch không cần điều gì khác hơn sự ủng hộ
chính nghĩa của Việt Nam”[1,tr.74].
Sự giản dị của Hồ Chí Minh không phải chỉ là biểu hiện của văn
hoá mà còn là một nhân cách đạo đức và một tinh thần dân chủ, một quan
điẻm quần chúng cao đẹp. Bác bao giờ cũng nghĩ tới dân, chăm lo cho lợi
ích chính đáng của nhân dân và không ngừng đấu tranh cho độc lập dân
tộc đát nước, hạnh phúc của nhân dân. Bác yêu thương, tin tưởng và hoà
mình vào nhân dân.
Tác phong sinh hoạt giản dị, lành mạnh trong sạch, theo Bác mỗi
người phải biết tự kiềm chế, không để cho những ham muốn thấp hèn trở
thành thói quen trong cuộc sống, trong sinh hoạt hang ngày. Bởi khi đã
thành thói quen rồi thì rất kó sửa, có khi còn làm cho con người đi tới
thoái hoá, biến chất, hư hỏng. Bác đã nhắc nhở chúng ta: “ Nếu không
giữ được thói quen tiết kiệm thì sẽ tham ăn ngon, tham mua các thứ xa
hoa. Lương không đủ sẽ lấy ở đâu? Lúc ấy chỉ có hai cách: một là ăn cắp
của Chính phủ, hai là bị tiền mua chuộc”[13,tr.346]. “ Sự kiềm chế ấy thể
hiện trước hết ở chỗ không tham địa vị, không tham tiền tài, không tham
người tang bốc mình. Vì vậy là quang min h chính đại, không bao giờ hủ
hoá”[9,tr.252]
Tác phong của Bác Hồ là tác phong của quần chúng; tác phong tập
thể dân chủ; tác phong sinh hoạt giản dị lành mạnh trong sạch. Đó là tác
phong mang tính triệt để sâu sắc và khoa học.Tác phong ấy đã chắt lọc và

chứa đựng tất cả những gì tốt đẹp nhất của truyền thống Việt Nam, của
con người và dân tộc Việt Nam. Tác phong ấy lại rất hiện đại, luôn hướng
con người về tương lai là một bộ phận không thẩ thiếu của con người mới
xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy mà ngay từ những năm 20 của thế kỷ XX
Ôxip Man- đen- stam đã thấy Ở Người một sự thu hút kỳ lạ đến mức phải
cảm phục và sớm pháy hiện: “Từ Nguyễn Aí Quốc, toả ra một nền văn
hoá, không phải văn hoá Châu Âu, mà có lẽ là văn hoá tương lai”[28].
Có một nét đẹp trong văn hoá, nhân cách Hồ Chí Minh mà mỗi
chúng ta cần noi theo đó là sự khiêm tốn, giáo sư X.Mau-roi( Ân Độ) cho
rằng” Tình thương nhân dân, sự khiem tốn và giản dị trong lối sống của
Người là nổi tiếng”[24, tr.159].
Nếu sự khiêm tốn là phẩm chất của những nhà cách mạng chân
chính thì điều đó thể hiện tập trung nhất, đầy đủ nhất ở Hồ Chí Minh.
Người luôn tin ở dân và dặn:
Dễ trăm lần không dân cũng chịu
Khó vạn lần dân liệu cũng xong
Bác khẳng định: cách mạng là sự nghiệp của toàn Đảng toàn dân
chứ không phỉa của một cá nhân hay một tổ chức nào.Cũng như
V.I.Lênin Người phê phán và nghiêm khắc lên án bệnh “ kiêu ngạo cộng
sản”, những quan cách mạng ở trong các tổ chức Đảng và bộ máy Nhà
nước từ Trung ương đến dịa phương, trong các đoàn thể quần chúng.
Người đấu tranh không khoan nhượng với những thái độ coi thường quần
chúng, không chịu học hỏi quần chúng, bệnh dân chủ giả hiệu của một số
cán bộ đảng viên. Bác nhắc nhở: “ Phải yêu kính nhân dân, phải thật sự
tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân tuyệt đối không đựoc lên
mặt“quan cách mạng”; “ra lệnh ra oai”.[18,tr.311]
Đối với Hồ Chí Minh khiêm tốn vừa là văn hoá,vừa là đạo đức đòi
hỏi mỗi người, dù bất kỳ ai cũng phải thường xuyên học tập rèn luyện và
thể hiện trong cuộc sống hang ngày. Khiêm tốn gắn liền với sự tự chủ tự
tin; tin ở bản thân tin ở tập thể, ở tiền đồ tươi sáng của dân tộc

Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là hiện thaan sunh động của văn
hoá đạo đức Hồ Chí Minh. Như một người từng đối đầu với Hồ Chí
Minh, tướng Vanluy thừa nhận: hoàn toàn xả thân vì nhiệm vụ không một
chút lợi riêng tư, dướ con mắt những người xung quanh và những người
đối thoại Hồ Chí Minh là người vô cùng đức độ.
Lòng khoan dung của Bác đựơc xây dựng trên cơ sở chữ “ nhân”
nhưng là một chữ nhân sáng suốt, có nguyên tắc, lấy chính nghĩa, công lý
làm nền tảng.Bác chủ trương giải quyết những vấn đề dân tộc và quốc tế
trên cơ sở “ có lý có tình”. Người nói: “ Dân tộc ta là một dân tộc giàu
lòng đồng tình và bác ái”. Theo Người mỗi cá nhân cũng như mỗi cộng
đồng đều có những ưu điểm, khuyết điểm, mặt tốt, mạt yếu….như năm
ngón tay trên một bàn tay cũng có ngón ngắn ngón dài khác nhau nhưng
tất cả đều tập hợp lại nơi bàn tay. Mấy mươi triệu con người Việt Nam có
người thế này, người thế khác nhưng đều là con Lạc cháu Rồng ai cũng
có ít nhiều lòng yêu nước. Yêu thương con người ở Hồ Chí Minh là tìm
cách nâng con người lên, phát huy cái tốt ở con người. Người đã phát
triển những giá trị khoan dung của dân tộc và nhân loại, nâng lên thành
một chất luợng mới, ở một tầm cao mới.
Người luôn biểu dương “ người tốt, việc tốt” vì Người cho rằng
trong đạo đức thì việc nêu gương là rất cần thiết “ một tấm gương sống
còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên tuyền”[6,tr.263].
Trong văn hoá ứng xử, Người luôn trung hậu, thuỷ chung với nhân
dân, đồng chí, đồng bào, với bạn bè quốc tế. Người thấy rừng và thấy cả
từng cây không bỏ sót một ai cả, ứng xử cực kỳ tinh tế, uyển chuyển có lý
có tình, khiêm tốn, nhã nhặn, lịch thiệp. Chính nét văn hoá ứng xử này đã
làm rung động được trái tim, khối óc của bạn bè năm châu, làm kẻ thù
cũng phải khâm phục.
Những phẩm chất cao quý của Người đã tạo nên một nhân cách
sống cao đẹp, gần gũi với mọi người, đồng chí Phạm Văn Đồng nói: Hồ
Chí Minh cao mà không xa, lớn mà không làn ra vĩ đại, soi sáng mà

không làn choáng ngợp.
Vấn đề nhất quán, cốt lõi trong toàn bộ cuộc đời của Hồ Chí Minh
là tình yêu thương con người và giải phóng con người. Trong bầu trời
không gì quý bằng nhân dân, trong thế giới không có gì mạnh bằng lực
lượng đoàn kết của nhân dân, trong xã hội không có gì tốt đẹp vẻ vang
bằng phục vụ cho lợi ích tốt đẹp của nhân dân. Người nói: Tôi chỉ có một
ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc
lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc,
ai cũng đựoc học hành”.[8,tr.100] Tư tưưỏng đó được bắt nguồn và nâng
cao từ truyền thống đạo đức nhân đạo của dân tộc. Đó cũng là tư tưởng
trọng dân thương dân mà Nguyễn Trãi, Nguyễ Du, Nguyễn Đình
Chiểu….đã thể hiện. Song với Hồ Chí Minh đó không phải lòng yêu
thương của bậc bề trên đối với nhân dân, mà đó là lòng nhân ái của lý
tưởng giải phóng nhân loại cần lao và toàn xã hội. Người luôn cho rằng:
“Chính sách của Đảng và Chính phủ phải hết sức chăm nom đến đời sống
của nhân dân. Nếu dân đói thì Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét thì
Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm thì Đảng và Chính phủ có lỗi…
cán bộ và chính quyền từ trên xuống dưới, đều phải hết sức quan tâm đến
đời sống của nhân dân…”[5,tr. 54]
Nhân cách của Hồ Chí Minh luôn toả ra một sức mạnh nêu gương
to lớn, sức cảm hoá kỳ diệu. Hồ Chí Minh là con người hành động, nói và
làm, lý luận và thực tiễn hoà quyện vào nhau. Người tuy có kiến thức
bách khoa, thạo nhièu thứ tiếng nhưng Người vẫn không ngừng trau dồi
học tập. Người dạy: “ Học để làm việc,làm người, làm cán bộ, học để
phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại” [10,tr.
287]
Trên con đường vất vả bôn ba tìm đường cứu nước đã tôi luyện bản
lĩnh kiên cường cho Hồ Chí Minh. Ở Người luôn bật dậy sự mẫn cảm,
nhạy bén, cách xử lý đầy sáng tạo, khéo léo, lòng kiên nhẫn biết dừng
biết chờ đợi và ý chí quyết tâm. Vì lẽ đó mà nhân dân đã tôn vinh Người

như một vị Thánh, một bậc hiền triết tiên tri đầy uy lực. Song với quan
điểm biện chứng duy vật chúng ta hiểu đây chính là một năng lực trí tuệ
tuyệt vời, lòng tự tin và tự quyết của bản thân Người được xây dựng trên
nền tảng truyền thống tự lực tự cường của dân tộc. Đó cũng thể hiện
phương châm sống và hành động theo nguyên tắc “ dĩ bất biến, ứng vạn
biến” của Hồ Chí Minh trong mọi hoàn cảnh.
Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng chói về đạo đức cách mạng.
Yêu nước, thương dân, tận tuỵ phục vụ nhân dân, nguyện làm nô bộc, là
đầy tớ trung thành của nhân dân. Trong khi kêu gọi toàn dân chống giặc
đói, Người đã gương mẫu mỗi tuần nhịn một bữa, bỏ gạo vào hũ cứu
đói.Trong di chúc, Người còn căn dặn Đảng, Nhà nước ta đừng điếu
phúng linh đình để đỡ tốn kém thời giờ và tiền của nhân dân, đúng như
nhà thơ Tố Hữu đã viết:
Bác để tình thương cho chúng con
Một đời thanh bạch chẳng vàng son
Mong manh áo vải hồn muôn trượng
Hơn tượng đồng phơi những lối mòn
Người luôn trung thành với sự nghiệp cách mạng, thuỷ chung với
đồng bào dân tộc, không bao giờ xa rời mục tiêu lý tưởng cách mạng, bôn
ba khắp năm châu bốn biển tìm đường cứu nước giải phóng dân tộc giành
độc lập cho nước nhà. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào dù khó khăn tới đâu
cũng không làm chuyển lay ý chí, quyết tâm chiến đấu lao động và học
tập của Người. Trong những năm tháng bị giam cầm, Người vẫn bừng lên
sức chiến đấu mạnh mẽ trong lòng đầy nhiệt huyết cách mạng và tin
tưởng vào nhân dân, vào ngày mai tươi sáng của dân tộc. Người vẫn mãi
là tấm gương sáng cho chúng ta noi theo.
Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, những phẩm chất đặc biệt
của Hồ Chí Minh đã hoà quyện vào nhau trên cả ba phương diện:
-Khả năng tiếp thu, tiếp nhận nhanh nhạy, đúng đắn các tri thức và
kho tang kinh nghiệm thực tiễn của lịch sử và nhân loại.

-Khả năng xử lý, chuyển hoá tri thức đó thành nguồn tri thức của bản
thân
-Khả năng vận dụng nguồn tri thức và kinh nghiệm đó vào hoạt động
thực tiễn với sức mạnh nêu gương hiếm thấy.
Có thể nói, nhân cách đạo đức Hồ Chí Minh hợp thành từ những tư
tưởng vĩ đại, từ đạo đức trong sáng, phương pháp tư duy độc lập và sáng
tạo, linh hoạt và một phbong cách giản dị gần gũi với nhân dân. Trong
nhân cách đó, Người đã đạt được sự hài hoà giữa cá nhân và cộng đồng,
giữa con người và thiên nhiên, giữa tự do và tất yếu, giữa lý trí và tình
cảm, giữa trí tuệ và thể chất. Đó cũng chính là yêu cầu cần vươn tới của
nhân cách con người mới xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay.
Nhân cách đạo đức Hồ Chí Minh đã tác động vào xã hội bằng sức
mạnh văn hoá, sức mạnh truyền thống dân tộc và tinh hoia văn hoá nhân
loại. Người còn sống mãi trong lòng nhân dân tiến bộ thế giới. Đúng như
tiến sĩ M.At- met giám đốc UNESCO khu vực Châu Á Thái Bình Dương
đã nói về Người; “ Chỉ có ít nhân vật trong lịch sử trở thành một bộ phận
của huyền thọai khi còn sống và rõ ràng Hồ Chí Minh là một trong số đó.
Ngưới sẽ được ghi nhớ không phải chỉ là người giải pgón cho Tổ quốc và
nhân dân bị đô hộ mà còn là một nhà hiền triết hiện đại đã mang lại một
viễn cảnh và hy vọng mới cho những người đang đấu tranh không khoan
nhượng để loại bỏ bất công, bất bình đẳng ra khỏi trái đất này”. [23].
1.3. Những giá trị cơ bản của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
Vào cuối thế kỷ XIX và những thập niên đầu thế kỷ XX, trong bối
cảnh khá hỗn độn của sự tiếp cận nhiều tư tưởng phong kiến, Nho giáo, tư
tưởng tư sản… đã hình thành một hệ thống tư tưởng có khả năng đáp ứng
những đòi hỏi của lịch sử và dân tộc, đó chính là hệ tư tưởng đạo đức Hồ
Chí Minh. Từ sau cách mạng tháng Tám thành công, tư tưởng đạo đức
Hồ Chí Minh nhanh chóng trở thành nền tảng tư tưởng chính thống của
đạo đức xã hội Việt Nam. Bởi lẽ, nó vừa mang tính dân tộc, vừa mang
đậm tính nhân bản và mang yếu tố mới của thời đại vừa thể hiện rõ tư

tưởng đạo đức truyền thống được nâng lên và phát triển trong bối cảnh
lịch sử mới.
1.3.1. Những giá trị di sản đạo đức Hồ Chí Minh đối với dân tộc và thời
đại
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một trong những nhà tư tưởng, lãnh tụ
cách mạng bàn nhiều nhất đến vấn đề đạo đức. Những tư tưởng đó đã
được thể hiện rõ nhẩt trong những bài viết, bài nói ngắn gọn được diến
đạt rất cô đọng hàm xúc theo phong cách riêng của Người. Bản thân
Người thực hiện trước nhất những tư tưởng đạo đức đó, điều này làm nên
nét đặc trưng, nổi bật trong tư tưởng đạo đức của Người.
Trong tác phẩm “Đường cách mệnh” Người bàn nhiều về nội dung
“ cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”, không hiếu danh, không kiêu
ngạo, phải “ dám hy sinh”, ít lòng ham muốn về vật chất. “ trung thực
phục tùng đoàn thể”[11,tr. 260]. Trong “ sửa đổi lối làm việc”- một tác
phẩm viết về đạo đức cách mạng của Người được thể hiện ở những mặt “
nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm”. Người luôn nhắc nhở đạo dức cách mạng là
ở bất kỳ cuơng vị nào, làm bất cứ công việc gì đều không sợ khó sợ khổ,
đều một lòng một dạ phục vịu lợi ích chung của giai cấp, của nhân dân”.
[15,tr. 285] Mỗi người phải chiến thắng chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, biết hy
sinh lợi ích cá nhân đẻ phục vụ lợi ích tập thể, đất nước và nhân lọai, thật
chí công vô tư. Chính những tư tưởng đạo đức này cuả Người đã cổ vũ
tinh thần và quyết tâm chiến đấu giành độc lập dân tộ của nhuẽng con
người Việt Nam bất khuất, kiên cường.
Tư tưởng trung với nước hiếu với dân, trọn đời trung thành với sự
nghiệp cách mạng, với Tơ quốc, với Đảng, với nhân dân với giai cấp
được toàn dân toàn quân Việt Nam ủng hộ và noi theo tư tưởng, tấm
gương sáng của Người.
Khiêm tốn, không nên tự cho mình là tài giỏi, không khoe công
phải cần liệm, liêm, chính, chí công vô tư. Nhờ cần kiệm mà trong những
năm đầu mới giành được độcc lập nhân dân ta đã thu được nhiều thắng

lợi, chiến thắng giặc lụt, giặc đói và giặc ngoại xâm. Những năm hoà bình
xây dựng đất nước, từng bước cải thiện đời sống của nhân dân đã được
nâng cao cả về vật chất cũng như tinh thần. Cần, kiệm,liêm,chính, chí
công vô tư là chuẩn mực đạo đức truyền thống đối với mình, được Hồ
Chí Minh kế thừa và phát triển phù hợp với yêu cầu của sự nghiệp cách
mạng, trở thành chuẩn mực đạo đức cách mạng. Bản thân Người cũng la
fmột tấm gương mẫu mực về cần kiệm liêm chính chí công vô tư.
Bao trùm lên tư tưởng đạo đức của Người là tình thuơng yêu con
người, chính vì thế khi lãnh đạo nhân dân cả nước tiến hành cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước, Người luôn tin ở dân, hết
lòng thương yêu quý trọng nhân dân, biết tổ chức và phát huy sức mạnh
của nhân dân. Tư tưởng vì con người của Hồ Chí Minh thông qua thực
tiễn cách mạng đã trở thành một sức mạnh to lớn, là động lực và là nhân
tố quýêt định thắng lợi của sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và
xây dựng xã hội mới. Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh
sáng lập, lấy chủ nghĩa Mác- Lênin tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng
tư tưởng kim chỉ nam cho hành động. Tư tưởng về con người của Đảng
Cộng sản Việt Nam nhất quán với tư tưởng về con người của Hồ Chí
Minh. Sự nhất quán ấy thể hiện qua đường lối lãnh đạo cách mạng và qua
các chủ trương, chính sách của Đảng trong suốt quá trình lãnh đạo công
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghiã xã hội ở đất
nước ta.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về tình đoàn kết quốc tế bắt nguồn từ tình
thương yêu đối với con người, với nhân loại ví mục tiêu giải phóng các
dân tộc bị áp bức, giải phóng giai cấp,, giải phóng con người. Người là
hiện thân của chủ nghĩa yêu nước chân chính kết hợp với chủ nghĩa quốc
tế trong sáng. Nhờ đó mà nhân dân thế giới kính yêu, trao tặng Người
danh hiệu nhà văn hoá kiệt xuất thế giới, anh hùng giải phóng dân tộc,
chiến sỹ lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế. Từ chủ nghĩa quốc tế
cao cả, Người đã xây dựng tình đoàn kết quốc tế rộng lớn của dân tộc ta

với các dân tộc trên thế giới, góp phần quan trọng vào những thắng lợi vĩ
đại của dân tộc ta và phong trào cách mạng thế giới.
Có rất nhiều công trình nghiên cứu của người nước ngoài và Việt
Nam bàn rất nhiều về tác dụng của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh với sự
nghiệp cách mạng dân tộc Việt Nam và nhân dân tiến bộ. Boc-set nhà báo
Úc đã nói: “ Sức thu hút của Người thể hiện ở chỗ: đồng chí Hồ Chí
Minh là một người đã cảm hoá tình cảm mọi người Việt Nam từ già đến
trẻ…hình ảnh anh hùng không nghĩ tới mình, truớc sau như một của
Người đã cổ vũ và trở thành tấm gương cho hàng chục vạn thanh niên
Việt Nam thà chết không chịu làm nô lệ”. [32, tr. 250].
Có thể nói hành trình của con người trong lịch sử đã trải qua nhiều
chặng đường rất có ý nghĩa. Trong tương lai con người ngày càng vươn
lên một trình độ ới trong việc làm chủ thiên nhiên, xã hội và bản thân.
Trên con đường đi tới tương lai ấy, điều Hồ Chí Minh quan tâm và căn
dặn nhiều chúng ta là phải giữ gìn phẩm chất đạo đức. Không có đạo đức
làm nền tảng thì chắc chắn không làm được gì và cũng không có ngày
mai tươi đẹp như chúng ta mong muốn. Thế kỷ XXI trên các trang lịch
sử, nhân cách đạo đức Hồ Chí Minh vẫn sẽ vinh quang chói lọi như sao
Bắc Đẩu để hướng loài người đi đến tương lai tốt đẹp.

×