Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Vận dụng quan điểm toàn diện vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (651.04 KB, 82 trang )

Khãa luËn tèt nghiÖp GVHD: TS Vi Th¸i Lang

SVTH: NGuyÔn ThÞ Dung K33A - GDCD


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ





NGUYỄN THỊ DUNG


VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN VÀO
QUÁ TRÍNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN
ĐẠI HOÁ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY



KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC



Chuyên ngành : Triết học

Người hướng dẫn khoa học
TS. VI THÁI LANG




HÀ NỘI-2011
Khãa luËn tèt nghiÖp GVHD: TS Vi Th¸i Lang

SVTH: NGuyÔn ThÞ Dung K33A - GDCD






LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình thực hiện khóa luận, ngoài sự cố gắng của bản thân em
đã nhận được sự giúp đỡ của thầy cô và bè bạn. Em xin bày tỏ lời cảm ơn
chân thành nhất tới Tiến Sĩ Vi Thái Lang- người thầy đã tận tình hướng dẫn
em hoàn thành khóa luận này.
Em xin được chân thành cám ơn các thầy cô trong trường Đại Học Sư
Phạm Hà Nội 2, đặc biệt là các thầy cô trong khoa Giáo Dục Chính Trị đã
giảng dạy, chỉ bảo em trong suốt thời gian qua.
Tôi xin cám ơn các bạn sinh viên đã góp ý và ủng hộ tôi hoàn thành
khóa luận này.
Với điều kiện hạn chế về thời gian cũng như kiến thức của bản thân,
nên khóa luận khó tránh khỏi những thiếu xót, em kính mong nhận được sự
góp ý của quí thầy cô và bè bạn.

Em xin chân thành cám ơn.

Hà Nội, tháng 5 năm 2011
Người thực hiện


Nguyễn Thị Dung


Khãa luËn tèt nghiÖp GVHD: TS Vi Th¸i Lang

SVTH: NGuyÔn ThÞ Dung K33A - GDCD




LỜI CAM ĐOAN

Khóa luận tốt nghiệp này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của TS.
Vi Thái Lang.
Tôi xin cam đoan rằng:
Đây là kết quả nghiên cứu của riêng tôi. Nếu sai tôi hoàn toàn chịu
trách nhiệm.

Sinh viên

Nguyễn Thị Dung














Khãa luËn tèt nghiÖp GVHD: TS Vi Th¸i Lang

SVTH: NGuyÔn ThÞ Dung K33A - GDCD




MỘT SỐ CỤM TỪ VIẾT TẮT

CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hó
CSVCKT : Cơ sở vật chất kĩ thuật
CN : Công nghiệp
DV : Dịch vụ
ĐHĐB TQ : Đại hội đại biểu toàn quốc
KH- CN : Khoa học- công nghệ
KHKT : Khoa học kĩ thuật
MLH : Mối liên hệ
NN : Nông nghiệp
N- L- N : Nông- lâm- ngư
XHCN : Xã hội chủ nghĩa








Khãa luËn tèt nghiÖp GVHD: TS Vi Th¸i Lang

SVTH: NGuyÔn ThÞ Dung K33A - GDCD

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG 5
1.1. Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy vật 5
1.2. Quan điểm toàn diện, nguyên tắc phương pháp luận rút ra từ nguyên
lí mối liên hệ phổ biến 12
1.3. Sự cần thiết phải thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta
hiện nay 14
Chương 2: THỰC TRẠNG CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY 20
2.1. Đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Đảng Cộng sản Việt
Nam. 20
2.2. Những thành tựu, hạn chế và bài học kinh nghiệm của quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay 43
Chương 3: VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN VÀO QUÁ
TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM HIỆN
NAY 57
3.1. Những định hướng chung về công nghiệp hóa, hiên đại hóa đất
nước 57
3.2. Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở Việt Nam hiện nay 64
KẾT LUẬN 74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 76




Khãa luËn tèt nghiÖp GVHD: TS Vi Th¸i Lang

SVTH: NGuyÔn ThÞ Dung K33A - GDCD


PHẦN MỞ ĐÂU

1. Lí do chọn đề tài
Nước ta xuất phát từ một nền nông nghiệp nghèo nàn lạc hậu lại bị
chiến tranh tàn phá nặng nề. Sau khi giành được độc lập Việt Nam đi lên xây
dựng CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển của tư bản chủ nghĩa đồng thời xây
dựng nền kinh tế đất nước không bị lạc hậu đi lên sánh kịp với các nước trên
thế giới thì bắt buộc chúng ta phải tiến hành CNH, HĐH.
CNH, HĐH không phải là ngày một, ngày hai mà là một quá trình. Mặc
dù đây là một quá trình đầy gian nan vất vả nhưng Đảng và Nhà nước ta đã
sớm nhận ra con đường CNH, HĐH.
Nhận thức rõ điều này ngay từ những năm 1960, tại ĐHĐB TQ lần thứ
III (9/1960) Đảng ta đã đề ra đường lối CNH XHCN và xác định CNH XHCN
là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kì quá độ lên CNXH ở Việt Nam. Từ đó
đến nay Đảng ta vẫn tiếp tục đẩy mạnh quá trình CNH, HĐH XHCN. Qua các
kì đại hội Đảng ta không ngừng nâng cao nhận thức và cụ thể hóa đường lối
CNH, HĐH.
Thực tế đã chứng minh rằng trong những năm qua đường lối CNH,
HĐH của Đảng ta là đúng đắn, là nhân tố quyết định sự thắng lợi của cách
mạng Việt Nam trong cách mạng dân tộc dân chủ cũng như trong cách mạng
xã hội chủ nghĩa. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đã đạt được nhiều
thành tựu trong quá trình CNH, HĐH đất nước. Tuy nhiên nhìn một cách toàn

diệnCNH, HĐH ở Việt Nam vẫn trong tình trạng nhiều hạn chế bất cập trong
giai đoạn hiện nay một lúc không thể giải quyết được. Nguyên nhân của tình
trạng này là chưa vận dụng quan điểm toàn diện- một quan điểm có tính
nguyên tắc của chủ nghĩa Mác- Lênin vào quá trình CNH, HĐH… Chính vì lí
Khãa luËn tèt nghiÖp GVHD: TS Vi Th¸i Lang

SVTH: NGuyÔn ThÞ Dung K33A - GDCD

do trên, tôi lựa chọn đề tài: “VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN VÀO
QUÁ TRÌNH CNH, HĐH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY”
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Do CNH, HĐH đất nước có vai trò quan trọng trong việc phát triển
kinh tế xã hội, nên có rất nhiều bài báo, tạp trí, tác giả viết về vấn đề này.
CNH, HĐH ở trong kinh tế thị trường được bàn đến rất nhiều. Dưới đây là
một số công trình tiêu biểu:
- Phạm Khiêm Ích- Nguyễn Đình Phan (1994): CNH, HĐH ở Việt Nam
và ở các nước trong khu vực, Nxb Thống Kê, Hà Nội.
- Bộ khoa học và môi trường, viện nghiên cứu chiến lược và chính sách
khoa học công nghệ (1996), chiến lược CNH, HĐH đất nước và cách mạng
công nghệ, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
- Đỗ Mười (1997) về CNH, HĐH đất nước, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
- Nguyễn Đình Thiên: CNH, HĐH ở Việt Nam- phác thảo lộ trình- Học
viện chính trị Quốc gia, 2002.
Tuy nhiên, những tác giả trên chưa đưa ra được quan điểm toàn diện và
họ vận dụng chưa đầy đủ vào quá trình CNH, HĐH. Do đó, tôi đã nghiên cứu
đề tài này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
3.1. Mục đích
Trên cơ sở quán triệt quan điểm toàn diện của chủ nghĩa Mác- Lênin,

đề tài đưa ra nhận thức toàn diện về quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam. Từ đó
chỉ rõ những giải pháp cần thiết để góp phần đẩy mạnh quá trình CNH, HĐH
ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Khãa luËn tèt nghiÖp GVHD: TS Vi Th¸i Lang

SVTH: NGuyÔn ThÞ Dung K33A - GDCD

3.2. Nhiệm vụ
Nhiệm vụ của khóa luận cần làm rõ những vấn đề sau:
Chương 1: Một số vấn đề lí luận chung
Chương 2: Thực trạng CNH, HĐH ở Việt Nam hiện nay
Chương 3: Vận dụng quan điểm toàn diện vào quá trình CNH, HĐH ở
Việt Nam hiện nay
4. Phạm vi nghiên cứu đề tài
CNH, HĐH là lĩnh vực rộng đã được Đảng ta và Hồ Chí Minh đã đề
cập từ rất sớm, quá trình vận động và thực hiện đã đạt được những thành quả
to lớn song cũng gặp nhiều khó khăn, thử thách và còn hạn chế. Tuy nhiên
trong phạm vi khóa luận này, tác giả chỉ tập chung làm rõ quá trình CNH,
HĐH ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay (1986- nay) và việc vận dụng quan
điểm toàn diện vào quá trình CNH, HĐH đất nước.
5. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
5.1. Cơ sở
Đề tài nghiên cứu được dựa trên những quan điểm lí luận của chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời cũng dựa trên quan điểm chủ
trương và chính sách của Đảng về CNH, HĐH để làm sáng tỏ những vấn đề lí
luận và thực tiễn của quá trình CNH, HĐH ở nước ta hiện nay.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Ngoài ra khóa luận còn sử dụng một số phương pháp chủ yếu như:
+ Phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và lôgic.
+ Phương pháp phân tích tổng hợp.

+ Phương pháp thống kê so sánh.
+ Phương pháp diễn dịch, quy nạp.
Khãa luËn tèt nghiÖp GVHD: TS Vi Th¸i Lang

SVTH: NGuyÔn ThÞ Dung K33A - GDCD

6. Đóng góp của đề tài
Đề tài đã góp phần đưa ra thêm quan điểm toàn diện để xem xét quá
trình CNH, HĐH.
7. Kết cấu khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung khóa luận
gồm 3 chương 7 tiết.













Khãa luËn tèt nghiÖp GVHD: TS Vi Th¸i Lang

SVTH: NGuyÔn ThÞ Dung K33A - GDCD



PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
1.1. Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy vật
1.1.1. Khái niệm về phép biện chứng duy vật
Mọi sự vật, hiện tượng đều nằm trong mối liên hệ phổ biến đối với sự
vật hiện tượng khác. Phép biện chứng (PBC) được manh nha từ thời cổ đại và
từng bước hoàn thiện trong quá trình phát triển của lịch sử triết học, phép biện
chứng có ba hình thức cơ bản đó là: phép biện chứng chất phát, phép biện
chứng duy tâm và phép biện chứng duy vật.
Thời cổ đại, do trình độ tư duy chưa cao, khoa học chưa phát triển nên
các nhà triết học chỉ dựa trên những quan sát trực tiếp mang tính trực quan
cảm tính để khái quát bức tranh chung của thế giới. Phép biện chứng chất phát
được thể hiện rõ trong thuyết “Âm Dương- Ngũ Hành”của triết học Trung
Hoa cổ đại.Trong các hệ thống triết học của cả các nhà triết học Hy Lạp cổ
đại, trong các hệ thống triết học của các nhà triết học Hy Lạp cổ đại chẳng
hạn: Dưới con mắt của Hêraclit mọi sự vật trong thế giới của chúng ta đều
thay đổi vận động phát triển không ngừng. Luận đểm bất hủ của ông “Chúng
ta không thể tắm hai lần trên một dòng sông”. Song phép biện chứng này
thiếu những căn cứ khoa học. Vì vậy nó đã bị phép biện chứng siêu hình xuất
hiện từ nửa cuối thế kỉ XV thay thế.
Phép biện chứng trong triết học Cantơ và hoàn thiện trong triết học
Hêghen- một đại biểu của triết học cổ điển Đức ở cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ
XIX với một hệ thống khái niệm, phạm trù và quy luật cơ bản Hêghen là
người đầu tiên xây dựng hoàn chỉnh PBC duy tâm tính chất duy tâm trong
phép biện chứng của Hêghen thể hiện ở chỗ: Ông coi “ý niệm tuyệt đối” tha
Khãa luËn tèt nghiÖp GVHD: TS Vi Th¸i Lang

SVTH: NGuyÔn ThÞ Dung K33A - GDCD

hóa thành giới tự nhiên và xã hội, cuối cùng lại trở về với chính mình. Thực

chất PBC duy tâm khách quan của Hêghen là PBC có ý niệm sản sinh ra PBC
của sự vật. PBC cổ điển Đức có những đóp góp vào sự phát triển của tư duy
biện chứng của nhân loại, thúc đẩy tư duy biện chứng lên một trình độ cao
nhưng với hạn chế duy tâm của nó chưa thể trở thành có cơ sở lí luận cho một
thế giới quan khoa học.
Kế thừa có chọn lọc những thành tựu của các nhà triết học trước đó,
dựa trên cơ sở khái quát những thành tựu mới nhất của khoa học thời ấy và
thực tiễn lịch sử loài người cũng như thực tiễn xã hội vào giữa thế kỉ XIX,
C.Mác - Ph.Ăngghen đã sáng lập chủ nghĩa duy vật biện chứng và PBC duy
vật, C. Mác- Ph.Ăngghen đã tiếp thu có phê phán triết học Hêghen và chủ
nghĩa duy vật Phơ bách. Đối với Hêghen trong bộ tư bản, Mác đã viết: “… Ở
ông PBC cắm đầu xuống đất, chỉ cần dựng ngược nó lại sẽ cảm thấy được bộ
mặt hoàn toàn có lý của nó”[1, tr.34].
C.Mác tiếp thu có chọn lọc triết học cũ và phát triển cao hơn. Do vậy,
bản chất PBC của Mác cao hơn về chất so với PBC của Hêghen, ông nói:
“Phương pháp biện chứng của tôi không những khác PBC của Hêghen mà
còn đối lập hẳn với PBC ấy nữa. Theo Hêghen thì sự vận động của tư duy mà
ông đặt cho cái tên ấy là ý niệm và biến nó thành một chủ thể độc lập chính là
chúa sáng tạo ra thế giới hiện thực và giới hiện thực này chẳng qua chỉ là hiện
tượng của bên ngoài của ý niệm mà thôi. Trái lại, theo tôi thì sự vận động của
tư duy chỉ là sự phản ánh sự vận động hiện thực, di chuyển biến hình trong
đầu óc con người [1, tr.27]. Nhờ đó mà chủ nghĩa Mác mang giá trị to lớn, đó
là tính phê phán đối với mọi quan điểm sai lầm, những quan điểm siêu hình,
chủ trương, chiết trung, phản động. Một trong những kể xuyên tạc chủ nghĩa
Mác là Đuyrinh- Giáo sư môn cơ học người Đức, nhà triết học kinh tế học
Hêghen đã phản đối kịch liệt quan niệm của Đuyrinh trong cuốn sách “chống
Khãa luËn tèt nghiÖp GVHD: TS Vi Th¸i Lang

SVTH: NGuyÔn ThÞ Dung K33A - GDCD


Duyrinh”. Chính trong tác phẩm này Ăngghen đã đưa ra định nghĩa hoàn
chỉnh về PBC: PBC chẳng qua chỉ là môn khoa học về những quy luật phổ
biến của sự vận động và phát triển của tự nhiên của xã hội và tư duy” [2,
tr.39]
Sau này, cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, Lênin đã đưa ra và phát triển
thêm học thuyết của Mác - Ăngghen về PBC và chỉ rõ: “Có thể định nghĩa vắt
tắt PBC là sự thống nhất của các mặt đối lập. Như thế ta sẽ nắm được hạt
nhân của PBC nhưng điếu đó cần một sự giải thích và một sự phát triển
thêm”.[21, tr.240]
Như vậy đến C. Mác- Ph. Ănghen, Lênin thế giới quan duy vật biện
chứng và phương pháp luận biện chứng duy vật thống nhất hữu cơ với nhau
trong PBC ấy. Chính vì vậy nó đã khắc phục được những hạn chế của PBC
chất phát thời cổ đại và những thiếu sót của PBC duy tâm khách quan thời cận
đại. Nó đã khái quát những quy luật cơ bản chung nhất của sự vận động và
phát triển của thế giới. Phép biện chứng duy vật trở thành một môn khoa học
và là hình thức phát triển cao nhất, hoàn bị nhất của lịch sử PBC. Phép biện
chứng duy vật được xây dựng trên cơ sở hệ thống những nguyên lý (nguyên
lý về sự phát triển, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến) những cặp phạm trù cơ
bản (6 cặp phạm trù: cái riêng, cái chung và cái đơn nhất; nguyên nhân và kết
quả; tất nhiên và ngẫu nhiên; nội dung và hình thức; bản chất và hiện tượng;
khả năng và hiện thực) những quy luật (quy luật chuyển hóa từ những sự thay
đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại; quy luật thống
nhất và đấu tranh của các mặt đối lập; quy luật phủ định của phủ định). Trong
hệ thống đó, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển
là hai nguyên lý khái quát nhất trong PBC duy vật. Tuy nhiên trong phạm vi
khóa luận này chúng ta sẽ đi tìm hiểu nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.

Khãa luËn tèt nghiÖp GVHD: TS Vi Th¸i Lang

SVTH: NGuyÔn ThÞ Dung K33A - GDCD



1.1.2. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
Khi giải thích về sự tồn tại của thế giới, những câu hỏi đặt ra là:
+Thứ nhất: Các sự vật hiện tượng và các quá trình khác nhau của thế
giới có mối quan hệ tác động qua lại ảnh hưởng lẫn nhau hay chúng tồn tại
biệt lập, tách rời nhau?
Để trả lời câu hỏi này có nhiều những quan điểm khác nhau. Những
người theo quan điểm siêu hình cho rằng các sự vật hiện tượng tồn tại biệt lập
tách rời nhau, cái này tồn tại bên cạnh cái kia. Chúng không có sự phụ thuộc,
không có sự ràng buộc và quy định lẫn nhau. Nếu giữa chúng có sự quy định
chỉ là sự quy định lẫn nhau thì cũng chỉ là sự quy định bề ngoài mang tính
ngẫu nhiên. Tuy vậy trong số những người theo quan điểm siêu hình cũng có
một số người cho rằng các sự vật, hiện tượng có mối quan hệ và mối liên hệ
rất đa dạng, phong phú song các hình thức liên hệ khác nhau không có khả
năng chuyển hóa lẫn nhau.
+ Thứ hai: Nếu chúng có mối quan hệ qua lại thì cái gì quy định mối
quan hệ đó?
Những người theo chủ nghĩa duy tâm chủ quan và chủ nghĩa duy tâm
khách quan cho rằng: Cái quyết định mối liên hệ, sự chuyển hóa lẫn nhau,
giữa các sự vật hiện tượng là một lực lượng siêu nhiên hay ở ý thức, cảm giác
của con người (đại biểu Platon). Đứng trên quan điểm duy tâm khách quan
vạch ra rằng " niệm tuyệt đối” là nền tảng của mối liên hệ giữa các sự vật hiện
tượng.
Những người theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng
định: Tính thống nhất vật chất của thế giới là cơ sở của mối liên hệ giữa các
sự vật hiện tượng. Các sự vật hiện tượng tạo thành thế giới, dù có đa dạng
phong phú, có khác nhau bao nhiều song chúng cũng chỉ khác nhau của một
Khãa luËn tèt nghiÖp GVHD: TS Vi Th¸i Lang


SVTH: NGuyÔn ThÞ Dung K33A - GDCD

thế giới duy nhất, thống nhất. Thế giới vật chất. Do tính thống nhất nên chúng
không thể tồn tại biệt lập nhau mà trong sự tác động qua lại, chuyển hóa lẫn
nhau. Chẳng hạn: “Giới vô cơ và giới hữu cơ không có mối liên hệ gì với
nhau, tồn tại độc lập, không thâm nhập lẫn nhau, tổng số đơn giản của những
con người riêng lẻ tạo thành những quan hệ xác định"
Các sự vật, hiện tượng trong thế giới biểu hiện sự tồn tại của mình
thông qua sự tác động qua lại giữa các mặt của bản thân chúng hay sự tác
động của chúng với sự vật, hiện tượng khác. Chúng chỉ có thể đánh giá sự tồn
tại cũng như bản chất của một con người cụ thể thông qua mối liên hệ, sự tác
động của con người đó đối với người khác, đối với xã hội, tự nhiên thông qua
các hoạt động của chính mình. Ngay tri thức của con người cũng chỉ có giá trị
khi chúng được con người vận dụng vào hoạt động cải biến tự nhiên, cải biến
xã hội, cải biến chính con người.
Theo quan điểm duy vật biện chứng mối liên hệ có các tính chất:
Có thể khẳng định: MLH của sự vật, hiện tượng là khách quan vốn có
vì nó bắt nguồn từ tính thống nhất vật chất của thế giới. Biểu hiện trong tất cả
quá trình tự nhiên, xã hội và tư duy, sự vật hiện tượng nào cũng là một thể
thống nhất của các mặt đối lập và sự vật, hiện tượng nào cũng tồn tại trong
mối liên hệ với các sự vật hiện tượng khác. Ngay cả những sự vật vô tri, vô
giác cũng đang hàng ngày hàng giờ chịu sự tác động của các sự vật, hiện
tượng khác, con người có thể tiếp nhận sự tác động của xã hội của người
khác.
Chính con người và chỉ có con người mới tiếp nhận vô vàn quan hệ,
mối quan hệ chằng chịt. Vấn đề là con người phải hiểu biết các mối quan hệ,
vận dụng vào hoạt động của mình giải quyết các mối quan hệ phù hợp nhằm
phục vụ nhu cầu, lợi ích của xã hội và bản thân con người.

Khãa luËn tèt nghiÖp GVHD: TS Vi Th¸i Lang


SVTH: NGuyÔn ThÞ Dung K33A - GDCD

- Tính phổ biến.
Tính phổ biến của mối qua hệ được biểu hiện:
+ Thứ nhất: "Bất kì sự vật, hiện tượng cũng liên hệ các sự vật khac tạo
thành xã hội đứng yên không vận động” [21, tr.208]
+ Thứ hai: MLH biểu hiện dưới nhiều hình thức riêng biệt cụ thể tùy
theo điều kiện nhất định. Song dưới hình thức nào chúng cũng chỉ là biểu hiện
của MLH phổ biến nhất, chung nhất những hình thức liên hệ riêng rẽ, cụ thể
được các nhà khoa học cụ thể nghiên cứu PBC duy vật: Những MLH chung
nhất, bao quát nhất của thế giới bởi thế Ph.Ăngghen viết: “PBC là khoa học
về sự liên hệ phổ biến”. Cùng với những lí do trên, triết học gọi MLH đó là
MLH phổ biến. Nghiên cứu về MLH phổ biến của các sự vật, hiện tượng
trong thế giới còn thấy rõ tính đa dạng, nhiều vể của nó.Trên cơ sở quán triệt
quan điểm trong mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn quan điểm toàn diện
đặt ra yêu cầu sau:
Trái lại những người theo quan điểm biện chứng lại cho rằng: Các sự
vật hiện tượng, các quá trình khác nhau vừa tồn tại độc lập, vừa quy định, tác
động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau. Chẳng hạn, sự gia tăng về dân số sễ tác
động trực tiếp đến kinh tế, xã hội, giáo dục, y tế… không chỉ một nước mà
trên toàn thế giới, môi trường ảnh hưởng to lớn đến con người, đúng hơn là
hoạt động của con người và hoạt động của con người cũng tác động trở lại to
lớn đến sự biến đổi của môi trường.
Mỗi loại MLH nêu ra trên đây có vai trò khác nhau đối với sự vận động
và phát triển của sự vật. MLH bên trong là sự tác động qua lại, sự quy định
chuyển hóa lẫn nhau, giữa các yếu tố, các thuộc tính, các mặt của một sự vật.
MLH bên ngoài là MLH giữa các sự vật hiện tượng là cặp MLH khác nhau
cũng có quan hệ biện chứng giống như MLH biện chứng của các cặp MLH đã
nêu trên (Đương nhiên mỗi cặp MLH có những đặc trưng riêng)

Khãa luËn tèt nghiÖp GVHD: TS Vi Th¸i Lang

SVTH: NGuyÔn ThÞ Dung K33A - GDCD

Sự phân chia từng cặp MLH chỉ mang tính tương đối. Vì mỗi loại MLH chỉ
là một hình thức, một bộ phận, một mắt xích của MLH mỗi loại MLH trong
từng cặp có thể nghiên cứu chuyển hóa lẫn nhau tùy theo phạm vi bao quát
của MLH hoặc do kếp quả vận động và phát triển của sự vật. Tuy sự phân
chia đó lại rất cần thiết bởi vì mỗi loại MLH có vị trí và vai trò xác định trong
sự vận động và phát triển của sự vật. Con người phải nắm bắt đúng các MLH
đó để có cách tác động phù hợp, nhằm đưa ra kết quả cao nhất trong hoạt
động của mình.
Như vậy, có thể khẳng định bất kì sự vật, hiện tượng nào trong thế giới
cũng luôn tồn tại trong MLH mật thiết với các sự vật, hiện tượng khác. Do đó
muốn tìm hiểu về một sự vật, hiện tượng nào đó chúng ta phải đặt nó trong
mối liên hệ, quan hệ với xung quanh nghĩa là phải xem xét một cách toàn
diện, đó cũng chính là nguyên tắc, phương pháp luận rút ra từ nguyên lý về
MLH phổ biến.
- Tính đa dạng.
Có thể phân chia các MLH đa dạng đó thành từng loại tùy theo tính
chất phức tạp, phạm vi rộng hay hẹp trình độ nông hay sâu, vai trò gián tiếp
hay trực tiếp mà có thể khái quát thành những MLH khác nhau tùy theo từng
cặp. Mối liên hệ bên trong và mối liên hệ bên ngoài mối liên hệ chủ yếu và
MLH thứ yếu, MLH bản chất và MLH không bản chất. Chính tính đa dạng
trong quá trình tồn tại và phát triển của bản thân sự vật và hiện tượng quy
định tính đa dạng của MLH. Các MLH phổ biến của sự vật, hiện tượng trong
thế giới được khái quát trong các cặp phạm trù cơ bản của PBC.
+ MLH giữa cái chung và cái riêng.
+ MLH giữa tất nhiên và ngẫu nhiên.
+ MLH giữa nguyên nhân và kết quả.

+ MLH giữa bản chất và hiện tượng.
Khãa luËn tèt nghiÖp GVHD: TS Vi Th¸i Lang

SVTH: NGuyÔn ThÞ Dung K33A - GDCD

+ MLH giữa nội dung và hình thức.
+ MLH giữa khả năng và hiện thức
Các mối liên hệ rất đa dạng, phong phú. Do đó khi nhận thức về sự vật,
hiên tượng chúng ta phải có quan điểm toàn diện, tránh rơi vào quan điểm
phiến diện chỉ xem sự vật, hiện tượng ở một vài MLH đã vội vàng kết luận về
bản chất hay tính quy luật của chúng. Chẳng hạn: Khi tìm hiểu nguyên nhân
vì sao một học sinh học kém, tiếp đến là phương pháp học điều kiện học tập,
ý thức học tập của học sinh, phương pháp giảng dạy của giáo viên… có như
vậy mới mong tìm ra nguyên nhân khắc phục tình trạng học kém của học sinh
đó.
1.2. Quan điểm toàn diện, nguyên tắc phương pháp luận rút ra từ nguyên
lý về mối liên hệ phổ biến
Từ việc nghiên cứu MLH phổ biến của PBC duy vật, người ta rút ra
quan điểm toàn diện :
+ Như ta đã biết bất cứ sự vật, hiện tượng nào trong thế giới đều tồn tại
trong MLH giữa các sự vật, hiện tượng khác và các sự vật, hiện tượng khác,
không có sự vât, hiện tượng nào nằm ngoài mối quan hệ. Chính vì vậy, hiện
nay trên thế giới xuất hiện xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa mọi mặt xã hội.
+ Mối liên hệ biểu hiện dưới nhiều hình thức riêng biệt cụ thể tùy theo
điều kiện nhất định. Song dưới hình thức nào chúng cũng chỉ là biểu hiện của
MLH phổ biến nhất, chung nhất những hình thức liên hệ riêng rẽ, cụ thể được
các nhà khoa học cụ thể nghiên cứu PBC duy vật: Những MLH chung nhất,
bao quát nhất của thế giới bởi thế Ăngghen viết: “PBC là khoa học về sự liên
hệ phổ biến”. Cùng với những lí do trên, triết học gọi MLH đó là MLH phổ
biến. Nghiên cứu về MLH phổ biến của các sự vật, hiện tượng trong thế giới

còn thấy rõ tính đa dạng, nhiều vể của nó.Trên cơ sở quán triệt quan điểm
Khãa luËn tèt nghiÖp GVHD: TS Vi Th¸i Lang

SVTH: NGuyÔn ThÞ Dung K33A - GDCD

trong mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn quan điểm toàn diện đặt ra yêu
cầu sau:
+ Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta nhận thức về sự vật, hiện tượng
trong MLH qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính
sự vật và trong tương tác qua lại giữa các sự vật đó với các sự vật khác cần
tránh quan điểm phiến diện, chỉ xem xét sự vật, hiện tượng ở một hoặc một
vài MLH đã vội vàng đi đến những kết luận về bản chất sự vật như Lênin
từng nói: Muốn thực sự hiểu được sự vật cần nhìn bao quát và nghiên cứu tất
cả các mặt, tất cả các MLH và quan hệ gián tiếp của sự vật đó chỉ trên cơ sở
đó mới nhận thức đúng về sự vật.
+ Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta phải biết phân biệt từng MLH,
phải biết chú ý tới MLH bên trong, MLH bản chất, MLH chủ yếu, MLH tất
yếu…Để làm rõ bản chất của sự vật và có phương pháp tác động phù hợp
nhằm đem lại hiệu quả cao trong hoạt động của bản thân chúng ta phải xem
xét thấu đáo và phân biệt từng MLH tránh cách xem xét giàn trải, liệt kê cần
phải đi từ tri thức nhiều mặt, từ nhiều MLH của sự vật để khái quát và làm nổi
bật lên các cơ bản nhất, quan trọng nhất của sự vật và hiện tượng đó. Song
trong nhận thức và hành động chúng ta cần phải chú ý tới sự chuyển hóa lẫn
nhau giữa các MLH ở những điều kiện xác định. Trong quan hệ giữa con
người với người chúng ta phải biết ứng xử sao cho phù hợp với từng con
người.
+ Quan điểm toàn diện cũng đòi hỏi tránh rơi vào sai lầm của chủ
nghĩa chiết trung và thuật ngụy biện. Thực chất của chủ nghĩa chiết trung là
sự kết hợp vô nguyên tắc các MLH tạo lên một hình ảnh không đúng về sự
vật. Do vậy, trong hoạt động thực tiễn, theo quan điểm toàn diện khi tác động

vào sự vật chúng ta không những phải chú ý tới những MLH của sự vật ấy với
các sự vật khác. Ví dụ như để thực hiện mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, xã
Khãa luËn tèt nghiÖp GVHD: TS Vi Th¸i Lang

SVTH: NGuyÔn ThÞ Dung K33A - GDCD

hội công bằng dân chủ, văn minh”. Một mặt chúng ta phải biết phát huy nội
lực, mặt khác phải biết tranh thủ thời cơ nhất là xu hướng thế toàn cầu hóa
đem lại.
Tóm lại qua tìm hiểu về MLH phổ biến của PBC, rút ra từ quan điểm
toàn diện. Đây là nguyên tắc phương pháp luận có ý nghĩa quan trọng trong
mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn và trong phạm vi bài khóa luận này
chúng ta sẽ đi sâu tìm hiểu rõ hơn về vận dụng quan điểm toàn diện vào quá
trình CNH, HĐH ở Việt Nam hiên nay.
1.3. Sự cần thiết phải thực hiện CNH, HĐH ở nước ta hiện nay
Việt Nam đã và đang từng bước thực hiện con đường quá độ lên
CNXH theo quan điểm của Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn. Vì vậy, để xây dựng
cơ sở vật chất kĩ thuật cho CNXH thì chúng ta phải thực hiện CNH, HĐH đất
nước. Nhưng CNH phải gắn liền với HĐH. Bởi vì có như vậy chúng ta mới
có điều kiện để rút ngắn khoảng cách tụt hậu giữa nước ta với các nước phát
triển trong khu vực và trên thế giới, rút ngắn được thời gian thực hiện quá độ
lên CNXH và phù hợp với xu thế vận động phát triển đi lên của thời đại. Vậy
CNH, HĐH là gì? Chúng ta cùng đi tìm hiểu xem xét.
1.3.1. Khái niệm CNH, HĐH
Ở thế kỉ XVII, XVIII khi cuộc CMCN được tiến hành ở Tây Âu CNH
được hiểu là quá trình thay thế lao động thủ công bằng lao động sử dụng máy
móc. HĐH là quá trình ứng dụng và trang bị những thành tựu KH- CN tiên
tiến, hiện đại vào quá trình sản xuất kinh doanh và quản lí kinh tế- xã hội.
Những khái niệm kinh tế nói chung nền sản xuất xã hội, của KH- CN. Do đó
cần nhận thức đúng đắn khái niệm này trong từng giai đoạn phát triển của nền

sản xuất xã hội.
Trước đây, chúng ta cho rằng CNH, HĐH là quá trình trang bị kĩ thuật
hiện đại cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân thay thế lao động thủ công bằng lao
Khãa luËn tèt nghiÖp GVHD: TS Vi Th¸i Lang

SVTH: NGuyÔn ThÞ Dung K33A - GDCD

động cơ khí hóa biến một nước kém phát triển thành một nước có cơ cấu công
nghiệp hiện đại khoa học, kĩ thuật tiên tiến.
Theo quan điểm của LHQ: “CNH là một quá trình phát triển kinh tế,
trong đó một bộ phận nguồn lực quốc gia ngày càng được phát động để xây
dựng cơ cấu kinh tế nhiều ngành với công nghệ cao hiện đại [14, tr. 282 ].
Ở Việt Nam đường lối CNH được Đảng ta đề ra từ những năm 1960
của thế kỉ XX. Qua quá trình phát triển của lịch sử quan điểm này càng được
hoàn thiện hơn. Tại hội nghị lần thứ 7 BCH Trung ương khóa VI. Đảng ta đã
xác định: “CNH phải đi đôi với HĐH là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kì
quá độ lên CNXH”.Trên cơ sở thừa kế có chọn lọc những tri thức nhân loại và
kinh nghiệm trong lịch sử tiến hành CNH, HĐH ở các nước trên thế giới cũng
như từ thực tiễn CNH ở Việt Nam. Khái niệm CNH, HĐH được Đảng ta xác
định tại ĐHĐB TQ lần thứ VIII (1996) như sau: “CNH, HĐH là quá trình
chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và
quản lí kinh tế xã hội, từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng
một cách phổ biến sức lao động công nghệ, phương pháp tiên tiến, hiện đại
dựa trên sự phát triển của công nghệ tiên tiến khoa học nhằm tạo ra năng xuất
lao động xã hội cao [15, tr.282].
Khái niệm CNH trên đây được Đảng ta xác định rộng hơn những quan
điểm trước đó bao gồm cả về hoạt động sản xuất, kinh doanh và quản lý kinh
tế xã hội được sử dụng bằng các phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện
đại cùng với khoa học, kĩ thuật và công nghệ cao. Như vậy CNH theo tư
tưởng mới là không bị bó hẹp trình độ của lực lượng sản xuất đơn thuần, kĩ

thuật đơn thuần để chuyển lao động thủ công thành lao động cơ khí như quan
niệm trước đây.
Ở nước ta, CNH phải gắn với HĐH, có như vậy mới rút ngắn quá trình
CNH, HĐH có thể được hiểu là quá trình chuyển biến từ xã hội “cổ truyền”
Khãa luËn tèt nghiÖp GVHD: TS Vi Th¸i Lang

SVTH: NGuyÔn ThÞ Dung K33A - GDCD

sang xã hội “hiện đại” trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội, trong đó đặc biệt là HĐH về mặt kinh tế. Đó là quá trình diễn ra những
thay đổi sâu sắc về kinh tế như: Mức độ phân công lao động ngày càng gia
tăng sử dụng các kĩ thuật tiên tiến, các công nghệ mới, sự lớn mạnh của các
hệ thống và các phương tiện dao dịch thương mại. CNH phải gắn liền với
HĐH là một tất yếu với tất cả các quốc gia, đặc biệt với các nước đang phát
triển trong đó có nước ta. Sở dĩ như vậy vì trên thế giới đang diễn ra cuộc
cách mạng KH- CN hiện đại, kinh tế tri thức ngày càng phát triển thì việc gắn
CNH với HĐH sẽ cho phép nước ta tranh thủ ứng dụng những thành tựu KH
CN của thế giới, tiếp cận kinh tế tri thức để HĐH những ngành, những lĩnh
vực của nền kinh tế xã hội. Điều đó cho rằng CNH gắn với HĐH là một quá
trình tất yếu.
1.3.2. Tính tất yếu của CNH, HĐH ở việt Nam
Mỗi phương thức sản xuất chỉ có thể được xác lập vững chắc trên cơ sở
vật chất kĩ thuật tương ứng: Cơ sở vật chất kĩ thuật của một xã hội phù hợp
với trình độ kĩ thuật tương ứng mà lực lượng lao động xã hội sử dụng để sản
xuất ra của cải vật chất nhằm thỏa mãn nhu cầu của xã hội. Nhiệm vụ quan
trọng nhất của nước ta trong thời kì quá độ lên CNXH không qua chế độ tư
bản chủ nghĩa là phải xây dựng trên cơ sở những thành tựu mới nhất, tiên tiến
nhất của KH- CN. Cơ sở vật chất kĩ thuật này phải tạo ra một năng xuất lao
động xã hội cao. CNH chính là quá trình tạo ra nền tảng cơ sở vật chất kinh tế
đó cho nền kinh tế quốc dân XHCN.

Việt Nam đi lên CNXH từ một nền nông nghiệp lạc hầu, cơ sở vật chất
kém phát triển, trình độ của lực lượng sản xuất chưa cao, quan hệ sản xuất
XHCN mới được thiết lập, chưa được hoàn thiện. Vì vậy quá trình CNH,
HĐH chính là quá trình xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật cho nền kinh tế quốc
dân. Mỗi bước tiến của quá trình CNH, HĐH là một bước tăng cường cơ sở
Khãa luËn tèt nghiÖp GVHD: TS Vi Th¸i Lang

SVTH: NGuyÔn ThÞ Dung K33A - GDCD

vật chất kĩ thuật cho CNXH, phát triển mạnh mẽ luôn luôn sản xuất góp phần
thực hiện quan hệ sản xuất XHCN.
Trong xu thế khu vực hóa và toàn cầu hóa về kinh tế đang phát triển
mạnh mẽ, trong điều kiện cách mạng KH- CN hiện đai phát triển nhanh
chóng, những thuận lợi và khó khăn về chủ quan và khách quan có nhiều thời
cơ và nguy cơ, vừa tạo ra những cơ hội mới, vừa có cản trở, thách thức trong
nền kinh tế của chúng ta, đan xen nhau, tác động lẫn nhau. Vì vậy, chúng ta
phải chủ động sáng tạo nắm lấy thới cơ phát huy những thuận lợi để đẩy
nhanh quá trình CNH, HĐH tạo ra thế và lực mới để vượt qua những khó
khăn đẩy lùi nguy cơ đưa nền kinh tế tăng trưởng phát triển bền vững.
1.1.3. Tác dụng của CNH, HĐH ở nước ta
Từ thập niên 60 của thế kỉ XX, Đảng cộng sản Việt Nam đã đưa ra
đường lối CNH và coi CNH là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kì quá độ
lên CNXH. Thực tiễn đã chứng minh quá trình CNH, HĐH sẽ có những tác
dụng to lớn về nhiều mặt trong sự phát triển kinh tế- xã hội đất nước đó là:
CNH, HĐH ở nước ta trước hết là một quá trình thực hiện mục tiêu xây dựng
nền kinh tế XHCN. Đó là quá trình thực hiện chiến lược phát triển kinh tế, xã
hội nhằm cải biến một xã hội nông nghiệp thành một xã hội công nghiệp gắn
với việc hình thành quan hệ sản xuất tiến bộ, ngày càng thực hiện đầy đủ hơn
bản chất ưu việt của chế độ xã hội mới- xã hội XHCN.
CNH, HĐH là quá trình tạo ra những điều kiện vật chất, kĩ thuật cần

thiết về con người và KH- CN, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm huy
động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực để không ngừng tăng năng xuất
lao động làm cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh, nâng cao đời sống vật chất
và văn hóa tinh thần cho nhân dân, thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội, bảo
vệ cải thiện môi trường sinh thái.
Khãa luËn tèt nghiÖp GVHD: TS Vi Th¸i Lang

SVTH: NGuyÔn ThÞ Dung K33A - GDCD

CNH, HĐH tạo ra cơ sở vật chất để làm biến đổi về chất lương sản
xuất. Nhờ đó mà nâng cao vai trò người lao động- nhân tố trung tâm của nền
kinh tế XHCN, tạo điều kiện vật chất cho việc xây dựng và phát triển văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà, bản sắc dân tộc.
CNH, HĐH là cơ sở kinh tế để củng cố và phát triển khối liên minh
vững chắc giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ tri thức
trong sự nghiệp cách mạng XHCN. Đặc biệt là góp phần tăng cường quyền
lực, sức mạnh và hiệu quả của bộ máy quản lý kinh tế của Nhà nước.
CNH, HĐH tạo điều kiện vật chất để xây dựng nên kinh tế độc lập, tự
chủ, vững mạnh, trên cơ sở đó mà thực hiện tốt việc phân công và hợp tác
quốc tế.
CNH, HĐH đất nước thúc đẩy sự phân công lao động xã hội phát triển,
thúc đẩy quá trình quy hoạch vùng lãnh thổ hợp lí theo hướng chuyên canh,
tập chung làm cho quan hệ kinh tế giữa các vùng, các miền trở lên thống nhất
cao hơn.
CNH, HĐH không những có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng
phát triển cao mà còn tạo tiền đề vật chất để xây dựng phát triển và HĐH nền
quốc phòng an ninh, sự nghiêp quốc phòng và an ninh gắn liền với sự phát
triển văn hóa, kinh tế, xã hội.
CNH, HĐH tạo ra những tiền đề kinh tế cho sự phát triển đồng bộ về
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng và an ninh. Thành công của

quá trình CNH, HĐH nền kinh tế quốc dân mà Đảng và nhân dân ta đã lựa
chọn. Chính vì vậy mà CNH nền kinh tế được coi là nhiệm vụ trung tâm trong
suốt thời kì quá độ lên CNXH ở nước ta.
Như vậy, thực hiện CNH, HĐH là bước đi đúng đắn hợp quy luật tạo
điều kiện xây dựng cơ sở vật chất- kĩ thuật để chúng ta tiến nhanh hơn, tiến
mạnh, tiến vững chác cho CNXH. Đảng ta xác định: “Mục tiêu của CNH,
Khãa luËn tèt nghiÖp GVHD: TS Vi Th¸i Lang

SVTH: NGuyÔn ThÞ Dung K33A - GDCD

HĐH là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp, có cơ sở vật chất- kĩ
thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý quan hệ sản xuất tiên tiến, phù hợp với sự
phát triển của lực lượng sản xuất, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu
mước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh”. Xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội từ nay đến năm 2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở
thành một nước công nghiệp [12, tr.18- 19]



















Khãa luËn tèt nghiÖp GVHD: TS Vi Th¸i Lang

SVTH: NGuyÔn ThÞ Dung K33A - GDCD

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Đường lối công nghiệp hóa,hiện đại hóa của Đảng cộng sản Việt Nam
2.1.1. Đường lối CNH, HĐH của Đảng ta trước đổi mới
Nước ta xuất phát từ một nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu đi lên CNXH
phổ biến nền sản xuất nhỏ. Để dần biến nước ta thành một nước công nghiệp
hiện đại. Từ hội nghị trung ương 14 khóa II (1958) Đảng ta đã sớm khẳng
định CNH là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kì quá độ lên CNXH.
ĐHĐB TQ lần thứ III (9-1960). Đảng ta xác định: Chủ trương CNH ở
miền Bắc “ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý đồng thới ra
sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ” [5, tr.79]. Để tạo điều kiện
thức hiện CNH, HĐH đưa ra quan điểm phải ra sức phát triển nông nghiệp
toàn diện trên cơ sở hợp tác, động viên mọi nhân tố tích cực của nền sản xuất
nông nghiệp để xúc tiến xây dựng công nghiệp phát triển công nghiệp đi đôi
với phát triển, đẩy mạnh cuộc cách mạng văn hóa, tư tưởng và cách mạng
kinh tế.
Hội nghị BCH Trung ương lần thứ 7 Khóa III (6-1961): Quan điểm lấy
CNH nặng làm nền tảng,ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý
đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. Điều này được
cụ thể hơn phải tạo ra những cơ sở vật chất kĩ thuật mới một mặt nhằm phục
vụ nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, đáp ứng nhu cầu của đời sống nhân dân.
Mặt khác nhằm tăng cường năng lực cho bản thân công nghiệp nặng có khả

năng trang bị kĩ thuật cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Đồng thời trên cơ sở
nền nông nghiệp và toàn bộ nền kinh tế quốc dân đó là chủ động vươn lên
trong CNH.
Hội nghi Trung ương 7 khóa III còn chủ trương phát triển công nghiệp
Trung ương động thời đẩy mạnh công nghiệp địa phương, kết hợp xí nghiệp

×