Tải bản đầy đủ (.doc) (182 trang)

''Các biện pháp phòng ngừa tội trốn thuế trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (683.61 KB, 182 trang )

Mở đầu
1. Sự cần thiết phải nghiên cứu đề tài
Đường lối phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng và Nhà nước ta đang thực
hiện đã giúp cho đời sống kinh tế - xã hội của đất nước có nhiều chuyển biến
tích cực. Theo đó, các cơ sở sản xuất, kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh
tế được thành lập doanh nghiệp không bị hạn chế về quy mô, hình thức hoạt
động, được tự do kinh doanh những ngành nghề, lĩnh vực mà Nhà nước
không cấm. Từ khi có chủ trương cho thành lập các hình thức công ty, doanh
nghiệp tư nhân theo Nghị quyết số 16 (năm 1988) của Bộ Chính trị và Luật
Công ty, Luật Doanh nghiệp tư nhân ban hành năm 1990, các DN NQD cũng
không ngừng được hình thành và lớn mạnh. Đặc biệt, Luật Doanh nghiệp ban
hành năm 1999 đã tạo điều kiện hết sức thuận lợi cho các DN NQD phát triển,
huy động mọi nguồn lực trong nhân dân để đầu tư sản xuất kinh doanh, tạo ra
nhiều của cải cho xã hội, giải quyết công ăn, việc làm cho người lao động góp
phần không nhỏ vào nhịp độ tăng trưởng của đất nước. Các DN NQD được
đánh giá là “vừa năng động vừa manh động nhất”, bên cạnh những mặt tích
cực thì dưới tác động của cơ chế thị trường, họ luôn tìm mọi cách để thu về
cho mình nhiều lợi nhuận nhất, kể cả việc làm ăn phi pháp như trốn thuế,
buôn lậu, kinh doanh trái phép ...
Thuế là nguồn thu quan trọng của ngân sách nhà nước, trong những năm
gần đây, thuế chiếm bình quân 21% GDP, nhưng tình trạng thất thu thuế vẫn
diễn ra rất nghiêm trọng. Để chấn chỉnh tình trạng này, Thủ tướng Chính phủ
đã ban hành Chỉ thị số 15/2005/CT-TTg ngày 15 tháng 04 năm 2005 về các
biện pháp xử lý nợ đọng và chống thất thu ngân sách nhà nước. Chỉ thị nêu
rõ: “… tình trạng thất thu thuế còn lớn, nhất là đối với khu vực doanh nghiệp
dân doanh…”. Để tăng cường xử lý nợ đọng và chống thất thu ngân sách nhà
nước, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ thị cho các Bộ, ngành thực hiện nhiều giải
pháp; trong đó, giao trách giao trách nhiệm cho Bộ Công an chỉ đạo các đơn
vị nghiệp vụ thuộc Bộ và Công an địa phương:
- Phối hợp chặt chẽ với cơ quan thuế, hải quan và các cơ quan hữu quan để


phát hiện, ngăn chặn kịp thời các hành vi gian lận về thuế, buôn bán hoá đơn
bất hợp pháp;
- Khẩn trương tiến hành điều tra, hoàn chỉnh hồ sơ những vụ trốn thuế,
gian lận, chiếm đoạt tiền thuế;
- Phối hợp với cơ quan thuế và cơ quan hải quan, các cấp chính quyền cơ
sở thực hiện các biện pháp cưỡng chế thu các khoản nợ đọng vào ngân sách
nhà nước.
Thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm trong những năm qua cho
thấy tình trạng trốn thuế trong các DN NQD là phổ biến, đặc biệt là trốn thuế
NK, luôn gây thiệt hại lớn cho ngân sách nhà nước, ảnh hưởng đến việc điều
hòa giữa sản xuất và lưu thông, tạo bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp; thủ
đoạn hoạt động phạm tội tinh vi, phức tạp, thành phần đối tượng đa dạng, do
có “yếu tố nước ngoài” nên đã gây rất nhiều khó khăn cho việc phát hiện và
điều tra của lực lượng CSĐT tội phạm về TTQLKT và CV.
Trong những năm qua, lực lượng Cảnh sát nhân dân nói chung, CSĐT
tội phạm về TTQLKT và CV (trước đây là Cảnh sát kinh tế, Cảnh sát điều tra)
nói riêng đã tập trung đấu tranh với các đối tượng trốn thuế, đã phát hiện, điều
tra nhiều vụ trốn thuế lớn, thu lại cho ngân sách nhà nước nhiều tỷ đồng, xử
lý nhiều đối tượng. Song, chừng đó chưa đáp ứng được yêu cầu mà thực tế
đòi hỏi. Điều đó đặt ra vấn đề cần thiết phải nghiên cứu để tìm ra nguyên
nhân và giải pháp nâng cao hiệu quả phát hiện, điều tra với tội phạm kinh tế
nói chung và tội phạm trốn thuế NK trong các DN NQD nói riêng đối với lực
lượng CSĐT tội phạm về TTQLKT và CV. Trước đây đã có một số công
trình nghiên cứu về vấn đề này, đó là các luận văn cao học được thực hiện tại
Học viện Cảnh sát nhân dân với đề tài: ''Các biện pháp phòng ngừa tội trốn
thuế trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn thành phố Hồ Chí
Minh'' năm 1998 của tác giả Lê Văn Quí; ''Chiến thuật điều tra khám phá tội
trốn thuế trong lĩnh vực kinh tế ngoài quốc doanh của lực lượng Cảnh sát kinh
tế'' năm 1997 của tác giả Trần Đình Khiếu; ''Điều tra, khám phá tội trốn lậu
thuế trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh bằng hình thức đầu tư núp

bóng (bất hợp pháp) trên địa bàn tỉnh Đồng Nai'' năm 1998 của tác giả Đồng
Xuân Thọ; ''Hoạt động phát hiện, khám phá của Cảnh sát kinh tế Hà Nội đối
với các vụ án trốn thuế trong kinh doanh mặt hàng ôtô, xe máy'' năm 2002 của
tác giả Đậu Văn Liên và luận án tiến sĩ luật học: “Phát hiện, điều tra vụ án
trốn thuế trong lĩnh vực xuất nhập khẩu của lực lượng Cảnh sát kinh tế ” năm
2005 của tác giả Đồng Xuân Thọ. Tuy nhiên, các công trình trên đều được
thực hiện khi chưa có Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự năm 2004, mặt khác
do chính sách, pháp luật về xuất, nhập khẩu thường xuyên thay đổi nên một
số đề xuất đến nay không còn phù hợp với tình hình thực tiễn.
Ngày 20/08/2004, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khoá XI đã thông qua
Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự số 23/2004/PL-UBTVQH11, có hiệu lực
kể từ ngày 01/10/2004. Theo đó, tổ chức bộ máy của Cơ quan Cảnh sát điều
tra có nhiều thay đổi, thành lập lực lượng CSĐT tội phạm về TTQLKT và CV
với tên gọi mới, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn khác so với trước đây.
Trước tình hình đó, tôi xin nghiên cứu đề tài: “Phát hiện, điều tra vụ án trốn
thuế nhập khẩu trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh của lực lượng
Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ” làm luận
văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và khảo sát, phân tích, đánh giá tình hình
tội phạm trốn thuế NK trong các DN NQD và hoạt động phát hiện, điều tra
của lực lượng CSĐT tội phạm về TTQLKT và CV để đánh giá, rút ra những ưu
điểm và hạn chế, thiếu sót, từ đó, đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm góp phần
nâng cao hiệu quả phát hiện và điều tra khám phá các vụ án trong lĩnh vực này.
Để đạt được mục đích đó, luận văn có nhiệm vụ:
 Nghiên cứu, làm rõ thêm một số vấn đề lý luận cơ bản về tội phạm trốn
thuế, các quy định của pháp luật về thuế NK, về các DN NQD và hoạt động
phát hiện, điều tra của lực lượng CSĐT tội phạm về TTQLKT và CV;
 Khảo sát tình hình tội phạm trốn thuế NK trong các DN NQD và thực
trạng hoạt động phát hiện, điều tra tội phạm này của lực lượng CSĐT tội

phạm về TTQLKT và CV;
 Đánh giá những ưu điểm và hạn chế trong hoạt động phát hiện, điều tra
vụ án trốn thuế NK trong các DN NQD của lực lượng CSĐT tội phạm về
TTQLKT và CV;
 Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả phát hiện, điều tra tội
phạm trốn thuế NK trong các DN NQD của lực lượng CSĐT tội phạm về
TTQLKT và CV.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tình hình tội phạm trốn thuế NK
trong các DN NQD; kết quả hoạt động phát hiện, điều tra của lực lượng
CSĐT tội phạm về TTQLKT và CV cũng như những khó khăn, vướng mắc
trong phát hiện, điều tra loại tội phạm này.
- Phạm vi nghiên cứu: đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận và
thực tiễn hoạt động của lực lượng CSĐT tội phạm về TTQLKT và CV trong
phát hiện, điều tra các vụ án trốn thuế NK tại các DN NQD diễn ra trong
khoảng thời gian từ năm 2000 đến tháng 06 năm 2005.
4. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
của chủ nghĩa Mác - Lê nin để nghiên cứu, đánh giá vấn đề một cách khách
quan, toàn diện, đảm bảo tính lịch sử, cụ thể của đối tượng nghiên cứu. Ngoài
ra, các phương pháp cụ thể để tiến hành nghiên cứu gồm: thống kê biểu mẫu,
khảo sát thực tế, phân tích, tổng hợp, đánh giá, so sánh, tọa đàm, trao đổi, các
phương pháp nghiên cứu của khoa học điều tra hình sự và lý luận hoạt động
nghiệp vụ trinh sát, các phương pháp điều tra xã hội học...
5. ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài
Đề tài tiến hành khảo sát toàn bộ những vấn đề liên quan đến tội phạm
trốn thuế NK trong các DN NQD và thực tiễn đấu tranh của lực lượng CSĐT
tội phạm về TTQLKT và CV đối với loại tội phạm này. Từ đó, tìm ra nguyên
nhân, điều kiện của tình trạng tội phạm, xác định những vấn đề có tính chất
quy luật của tội phạm, những vấn đề đặt ra trong hoạt động phát hiện, điều tra

của lực lượng CSĐT tội phạm về TTQLKT và CV, trên cơ sở đó để đề xuất
những giải pháp căn bản nhằm góp phần nâng cao hiệu quả phát hiện, điều tra
loại tội phạm này.
Kết quả nghiên cứu của đề tài này có thể là tài liệu tham khảo hữu ích
cho hoạt động nghiên cứu khoa học và giảng dạy trong các trường Công an
nhân dân, những giải pháp và kiến nghị được ứng dụng sẽ góp phần nâng cao
hiệu quả công tác phát hiện, điều tra loại tội phạm này.
6. Bố cục của luận văn
Luận văn có cấu trúc thành ba phần:
- Phần mở đầu;
- Phần nội dung gồm 3 chương;
- Phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
Chương 1
Nhận thức chung về tội phạm trốn thuế nhập khẩu
trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và hoạt động phát hiện, điều
tra của lực lượng cảnh sát điều tra
tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ
1.1. Nhận thức chung về tội phạm trốn thuế NK trong các DN NQD
1.1.1. Pháp luật hiện hành của Nhà nước về hoạt động NK các mặt
hàng cơ bản
- Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu được Quốc hội khoá VIII, kỳ họp
thứ 10 thông qua ngày 26 tháng 12 năm 1991 và được Quốc hội sửa đổi, bổ
sung vào các kỳ họp thứ 3, Quốc hội khoá IX (năm 1993), kỳ họp thứ 3, Quốc
hội khoá X (năm 1998), kỳ họp thứ 7, Quốc hội khoá XI (năm 2005).
- Luật Hải quan năm 2001; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hải
quan (Quốc hội XI, kỳ họp thứ 7).
- Luật Thương mại được Quốc hội khoá IX, kỳ họp thứ 11 thông qua ngày
10 tháng 05 năm 1997 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 1998.
- Nghị định số 57/1998/NĐ-CP ngày 31 tháng 07 năm 1998 của Chính
phủ quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại về hoạt động xuất khẩu, NK,

gia công và đại lý mua bán hàng hoá với nước ngoài.
- Thông tư số 87/2004/TT-BTC ngày 31/08/2004 của Bộ Tài chính hướng
dẫn thi hành Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
- Nghị định số 60/2002/NĐ-CP ngày 06 tháng 06 năm 2002 của Chính phủ
quy định về việc xác định giá trị tính thuế đối với hàng hoá NK theo nguyên tắc
của Hiệp định thực hiện Điều 7 Hiệp định chung về thuế quan và thương mại.
- Quyết định số 46/2001/QĐ-TTg ngày 04 tháng 04 năm 2001 của Thủ
tướng Chính phủ về quản lý xuất khẩu, NK hàng hoá thời kỳ 2001 - 2005 và
Thông tư số 11/2001/TT-BTM ngày 18 tháng 04 năm 2001 của Bộ Thương
mại hướng dẫn thực hiện quyết định trên.
- Thông tư số 118/2003/TT-BTC ngày 08 tháng 12 năm 2003 của Bộ Tài
chính hướng dẫn Nghị định số 60/2002/NĐ-CP ngày 06 tháng 06 năm 2002
của Chính phủ.
Ngoài ra, Chính phủ, Bộ Tài chính, Tổng cục Hải quan cũng ra rất nhiều
văn bản pháp luật quy định và hướng dẫn chi tiết việc thực hiện Luật Thuế
xuất khẩu, thuế NK, Luật Hải quan.
Thuế NK là một loại thuế gián thu, đánh vào các loại hàng hoá NK qua
biên giới. Đối tượng nộp thuế là các tổ chức, cá nhân có hàng hoá NK qua
biên giới Việt Nam dưới mọi hình thức như mậu dịch chính ngạch, mậu dịch
tiểu ngạch và phi mậu dịch (trừ hàng vận chuyển quá cảnh hoặc mượn đường
qua biên giới Việt Nam, hàng chuyển khẩu theo quy định của Chính phủ,
hàng viện trợ nhân đạo, hàng nhập vào khu phi thuế quan).
Căn cứ để tính thuế xuất khẩu, thuế NK, theo quy định tại Điều 8 của
Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu (năm 2005) là dựa vào:
Số lượng từng mặt hàng thực tế xuất khẩu, NK ghi trong tờ khai hải
quan, giá tính thuế, thuế suất theo tỉ lệ phần trăm (%); đối với mặt hàng áp
dụng thuế tuyệt đối thì căn cứ tính thuế là số lượng đơn vị từng mặt hàng thực
tế xuất khẩu, NK ghi trong tờ khai hải quan và mức thuế tuyệt đối qui định
trên một đơn vị hàng hóa.
Phương pháp tính thuế NK được tính như sau:

Số tiền thuế
nhập khẩu
phải nộp
=
Số lượng từng đơn vị mặt
hàng thực tế nhập khẩu
ghi trong tờ khai hải quan
x
Giá
tính
thuế
x
Thuế suất của từng mặt
hàng ghi trong Biểu thuế
tại thời điểm tính thuế
Trong trường hợp mặt hàng áp dụng thuế tuyệt đối:
Giá tính thuế đối với hàng hóa NK là giá thực tế phải trả tính đến cửa khẩu
nhập đầu tiên theo hợp đồng, phù hợp với cam kết quốc tế. Nếu hàng hoá NK có
xuất xứ từ các nước hoặc tổ chức quốc tế mà Việt Nam cam kết thực hiện trị giá
tính thuế đối với hàng hoá NK theo nguyên tắc của Hiệp định thực hiện Điều 7
Hiệp định chung về thuế quan và thương mại thì giá tính thuế NK được tính dựa
vào Nghị định số 60/2002/NĐ-CP ngày 06 tháng 06 năm 2002 của Chính phủ và
Thông tư số 118/2003/TT-BTC ngày 08 tháng 12 năm 2003 của Bộ Tài chính.
Theo các quy định này, giá tính thuế NK được tính bằng các phương pháp:
- Phương pháp trị giá giao dịch của hàng hoá NK;
- Phương pháp trị giá giao dịch của hàng hoá NK giống hệt;
- Phương pháp trị giá giao dịch của hàng hoá NK tương tự;
- Phương pháp giá trị khấu trừ;
- Phương pháp giá trị tính toán;
- Phương pháp khác.

Việc xác định đúng trị giá tính thuế của hàng hóa NK là điều cực kì quan
trọng trong quản lí, thu thuế. Hiện nay, bọn tội phạm đang triệt để dùng các
thủ đoạn để ghi hạ trị giá tính thuế NK nhằm trốn thuế, với cách này, bọn tội
phạm không chỉ trốn thuế NK mà còn trốn được thuế G.T.G.T khâu NK, thuế
tiêu thụ đặc biệt (nếu có) và cũng nhờ đó để trốn các loại thuế khác trong kinh
doanh nội địa.
Về thuế suất thuế NK gồm có: thuế suất thông thường được áp dụng đối
với hàng hoá NK có xuất xứ từ nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ không
thực hiện đối xử tối huệ quốc và không thực hiện ưu đãi đặc biệt về thuế NK
với Việt Nam. Thuế suất thông thường được qui định không quá 70% so với
Số thuế NK
phải nộp
X
Mức thuế tuyệt đối qui
định trên một đơn vị
hàng hoá tại thời điểm
tính thuế
Số lượng từng đơn vị
mặt hàng thực tế NK ghi
trong tờ khai hải quan
=
thuế suất ưu đãi của từng mặt hàng tương ứng do Chính phủ qui định; thuế
suất ưu đãi được áp dụng đối với hàng hoá NK có xuất xứ từ nước, nhóm
nước hoặc vùng lãnh thổ thực hiện đối xử tối huệ quốc trong quan hệ thương
mại với Việt Nam; thuế suất ưu đãi đặc biệt được áp dụng đối với hàng hoá
NK có xuất xứ từ nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ thực hiện ưu đãi đặc
biệt về thuế NK với Việt Nam.
Về thẩm quyền ban hành biểu thuế, thuế suất: Chính phủ trình ủy ban
Thường vụ Quốc hội ban hành biểu thuế NK ưu đãi theo danh mục nhóm
hàng chịu thuế và khung thuế suất ưu đãi đối với từng nhóm hàng; qui định

biện pháp về thuế để tự vệ, thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp, thuế
chống phân biệt đối xử. Bộ trưởng Bộ Tài chính qui định áp dụng mức thuế
suất thuế NK đối với từng mặt hàng, theo thủ tục do Chính phủ qui định dựa
trên biểu thuế NK theo danh mục nhóm hàng chịu thuế và khung thuế suất do
ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành. Hiện nay, Việt Nam có trên 3.000
nhóm mặt hàng và trên 25 mức thuế suất.
Như vậy, quản lý hoạt động NK hàng hoá có nhiều văn bản pháp luật
khác nhau, do nhiều cơ quan ban hành và tham gia điều hành, quản lý. Cùng
một loại hàng hoá NK nhưng có nhiều căn cứ, cách tính thuế và mức nộp thuế
NK khác nhau, bọn tội phạm rất dễ lợi dụng để hoạt động phạm tội trốn thuế
NK, lực lượng CSĐT tội phạm về TTQLKT và CV phải đặc biệt chú ý để chủ
động phát hiện và đấu tranh có hiệu quả với loại tội phạm này.
1.1.2. Nhận thức về doanh nghiệp ngoài quốc doanh
Từ năm 1986, Đại hội VI Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra chủ trương,
chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Các loại hình
DN NQD với các tên gọi khác nhau như doanh nghiệp tư nhân, công ty
TNHH, công ty cổ phần, xí nghiệp 100% vốn nước ngoài… cùng tồn tại bình
đẳng với các doanh nghiệp nhà nước và hàng ngày đang góp phần xây
dựng, phát triển nền kinh tế. Quốc hội cũng đã thông qua các Luật Doanh
nghiệp tư nhân năm 1990, Luật Công ty, Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam đến Luật Doanh nghiệp năm 1999, đã tạo ra hành lang pháp lý thuận
lợi cho các loại hình DN NQD phát triển cả về số lượng, vốn và lĩnh vực,
ngành nghề hoạt động.
Đặc điểm cơ bản của các DN NQD là quyền sở hữu tư nhân (nếu có các
hình thức sở hữu khác thì chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ) về tư liệu sản xuất, quy mô sản
xuất đa dạng, lấy phương hướng kinh doanh thu lợi nhuận làm phương hướng
hoạt động cơ bản.
Để đưa ra khái niệm DN NQD, cần tìm hiểu khái niệm về doanh nghiệp
nhà nước, theo qui định tại Điều 1 của Luật Doanh nghiệp nhà nước thì:
''Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn

điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức công
ty nhà nước, công ty cổ phần, công ty TNHH''.
Từ việc nghiên cứu đặc điểm cơ bản của các DN NQD và trên cơ sở các
văn bản pháp luật của Nhà nước quản lí về việc thành lập và hoạt động các
loại hình doanh nghiệp có thể cho ta nhận thức về DN NQD như sau: DN
NQD gồm những doanh nghiệp không phải là doanh nghiệp nhà nước nhưng
được Nhà nước công nhận việc thành lập và hoạt động sản xuất, kinh doanh
theo qui định của pháp luật, được tồn tại dưới các hình thức chủ yếu: công ty
TNHH, doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, xí nghiệp liên doanh, xí nghiệp
100% vốn nước ngoài và các loại hình hợp tác xã.
Như vậy, ta có thể rút ra một số đặc điểm về DN NQD như sau:
 DN NQD là một tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân, trong đó sở hữu
tư nhân là chủ yếu (nếu có các hình thức sở hữu khác, chỉ chiếm phần nhỏ);
 Được Nhà nước công nhận việc thành lập và hoạt động theo qui định của
pháp luật;
 Các DN NQD tồn tại dưới các hình thức chủ yếu là: công ty TNHH,
công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân, xí nghiệp liên doanh, xí nghiệp 100%
vốn nước ngoài, các loại hình hợp tác xã.
* Mỗi loại hình DN NQD có những đặc điểm riêng cơ bản
- Công ty TNHH có đặc điểm:
Là loại hình doanh nghiệp mà vốn là do các thành viên tham gia đóng
góp, các thành viên chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài
sản của công ty trong phạm vi vốn góp của mình.
Có hai loại hình công ty TNHH: công ty TNHH hai thành viên trở lên và
nếu công ty có từ 12 thành viên trở lên phải tiến hành bầu Hội đồng quản trị
và Ban kiểm soát; công ty TNHH một thành viên là doanh nghiệp do một tổ
chức làm chủ sở hữu.
Giám đốc công ty được ủy nhiệm đầy đủ quyền hạn để tiến hành điều
hành hoạt động của công ty và có quyền hành động nhân danh công ty trong
mọi trường hợp. Giám đốc chịu trách nhiệm cá nhân hoặc liên đới với những

người cùng quản lý trước toàn thể thành viên về những việc làm nhân danh
công ty. Công ty không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào.
- Công ty cổ phần:
Là công ty hợp vốn, vốn của công ty được chia làm nhiều phần bằng
nhau gọi là cổ phần, các thành viên gọi là cổ đông, cổ đông có cổ phiếu và
chịu trách nhiệm tài sản đến hết giá trị hưởng cổ phần mà mình có.
Các sáng lập viên phải cùng nhau mua ít nhất là 20% số cổ phần dự kiến
phát hành của công ty, hoặc phải công khai gọi vốn từ các nguồn khác.
Công ty được phép phát hành trái phiếu để thu hút vốn đầu tư theo quy
định của pháp luật.
Trong thời gian hoạt động, công ty phải có ít nhất 7 thành viên.
- Doanh nghiệp tư nhân:
Là doanh nghiệp do một người đứng ra bỏ vốn thành lập, làm chủ và tự
chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về toàn bộ hoạt động của
doanh nghiệp.
Trong khuôn khổ của pháp luật, chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền tự
chủ kinh doanh, kinh doanh được hiểu là thực hiện một số hoặc tất cả các
công đoạn đầu tư, sản xuất, tiêu thụ sản phẩm hoặc dịch vụ nhằm sinh lợi.
- Xí nghiệp liên doanh:
Là một pháp nhân có quốc tịch Việt Nam tồn tại dưới dạng công ty
TNHH, nhưng vốn là do hai bên là bên Việt Nam (góp tối thiểu là 30%) và
bên nước ngoài đóng góp.
Thành phần Hội đồng quản trị phụ thuộc vào số vốn góp.
- Xí nghiệp 100% vốn nước ngoài:
Là một xí nghiệp do một đơn vị nước ngoài (được phép của Chính phủ
Việt Nam) đầu tư 100% vốn vào Việt Nam để sản xuất, kinh doanh mà khi
hoạt động được coi là pháp nhân mang quốc tịch Việt Nam.
Bên nước ngoài nắm toàn bộ quyền kiểm soát hoạt động sản xuất,
kinh doanh.
Theo Luật Thương mại năm 1997 và Nghị định số 57/1998/NĐ-CP ngày

31 tháng 07 năm 1998 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Thương
mại về hoạt động xuất, NK, gia công và đại lý mua bán hàng hóa với nước
ngoài thì điều kiện để doanh nghiệp (trong đó bao gồm cả các DN NQD) tiến
hành các hoạt động kinh doanh xuất, NK là:
- Doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế được thành lập theo quy định
của pháp luật, được phép xuất khẩu, NK hàng hoá theo ngành nghề đã đăng
ký trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh;
- Trước khi tiến hành hoạt động kinh doanh xuất, NK, doanh nghiệp phải
đăng ký mã số doanh nghiệp kinh doanh xuất, NK tại hải quan tỉnh, thành
phố. Tổng cục Hải quan xây dựng hệ thống mã số nói trên và hướng dẫn việc
đăng ký mã số doanh nghiệp kinh doanh xuất, NK.
Điều 11 của Nghị định 57/NĐ-CP/1998 quy định về quyền nhận gia
công cho thương nhân nước ngoài như sau: Thương nhân Việt Nam thuộc các
thành phần kinh tế được phép nhận gia công cho nước ngoài, không hạn chế
số lượng, chủng loại hàng hóa gia công đối với hàng hoá không thuộc danh
mục hàng hóa cấm xuất khẩu, NK, tạm ngừng xuất khẩu, NK. Thương nhân chỉ
được ký hợp đồng sau khi có sự chấp thuận bằng văn bản của Bộ Thương mại.
* Một số đặc điểm của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có liên quan
đến công tác đấu tranh chống tội phạm trốn thuế
- Vốn, tài sản của doanh nghiệp thuộc sở hữu tư nhân, tức là do một hoặc
nhiều cá nhân cùng bỏ chung vốn thành lập và làm chủ doanh nghiệp. Chính
vì vậy, chủ doanh nghiệp có đầy đủ các quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt
doanh nghiệp. Sở hữu tư nhân về vốn, tài sản ở DN NQD là một nhân tố quan
trọng giúp cho doanh nghiệp hoạt động năng động, linh hoạt, đem lại lợi ích
thiết thực cho doanh nghiệp, mặt khác, do có “toàn quyền hành động”, nên
chủ doanh nghiệp luôn tìm nhiều cách, kể cả vi phạm pháp luật như buôn lậu,
trốn thuế… để thu được nhiều lợi nhuận.
- Trực tiếp chỉ đạo, điều hành hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh
nghiệp trong cơ chế thị trường, vì sự tồn tại, phát triển của doanh nghiệp nên
nhiều chủ doanh nghiệp nắm rất vững chế độ quản lý kinh tế, tài chính của

Nhà nước và biết khai thác các kẽ hở của các chế độ, chính sách đó để thu lợi
bất chính. Vì vậy, các vi phạm pháp luật trong các DN NQD được thể hiện rất
đa dạng, phức tạp.
- Ban lãnh đạo, điều hành doanh nghiệp, kế toán, thủ kho ..., những người
giữ các vị trí then chốt trong doanh nghiệp thường có quan hệ gia đình, bạn bè
mật thiết, họ có chung lợi ích nên họ thường bao che cho nhau khi có các vi
phạm, mặt khác, những người làm thuê cho doanh nghiệp luôn có tâm lý sợ bị
chủ đuổi việc. Đây cũng là trở ngại, khó khăn cho việc tổ chức phát hiện, đấu
tranh chống các vi phạm pháp luật trong các DN NQD.
- Chủ doanh nghiệp thường lôi kéo các cán bộ có chức, có quyền trong các
cơ quan quản lý nhà nước tiếp tay cho việc làm ăn phi pháp của mình, đây
cũng là trở ngại lớn cho việc phát hiện, điều tra xử lý các vi phạm pháp luật
trong các DN NQD.
1.1.3. Đặc điểm pháp lí của tội phạm trốn thuế NK trong các DN NQD
Tội phạm trốn thuế NK trong các DN NQD là một dạng của tội trốn thuế
được quy định tại Điều 161 của Bộ luật Hình sự năm 1999.
'' Điều 161. Tội trốn thuế
1. Người nào trốn thuế với số tiền từ năm mươi triệu đồng đến dưới một
trăm năm mươi triệu đồng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi trốn thuế
hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các Điều
153, 154, 155, 156, 157, 158, 159, 160, 164, 193, 194, 195, 196, 230, 232, 233,
236 và 238 của Bộ luật này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm thì bị phạt
tiền từ một lần đến năm lần số tiền trốn thuế hoặc bị phạt cải tạo không giam
giữ đến hai năm.
2. Phạm tội trốn thuế với số tiền từ một trăm năm mươi triệu đồng đến
dưới năm trăm triệu đồng hoặc tái phạm về tội này, thì bị phạt tiền từ một lần
đến năm lần số tiền trốn thuế hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
3. Phạm tội trốn thuế với số tiền từ năm trăm triệu đồng trở lên hoặc
trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy
năm.

4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ một lần đến ba lần số tiền
trốn thuế.''
Cũng như các tội phạm kinh tế khác, tội trốn thuế là hành vi nguy hiểm
cho xã hội, xâm phạm đến nền kinh tế quốc dân, gây thiệt hại cho lợi ích của
Nhà nước và xã hội thông qua việc vi phạm các quy định, các chính sách về
thu, nộp thuế.
Từ Bộ luật Hình sự năm 1985 tới Bộ luật Hình sự năm 1999, tội trốn
thuế đã được sửa đổi, bổ sung 4 lần: 3 lần vào các năm 1991, năm 1992, năm
1997 và được quy định mới lại tại Bộ luật Hình sự năm 1999. Theo Bộ luật
Hình sự năm 1985, mức hình phạt được quy định trong tội danh này là cải tạo
không giam giữ đến 01 năm hoặc bị phạt tù từ 03 tháng đến 03 năm. Sau khi
được sửa đổi, bổ sung vào ngày 12 tháng 08 năm 1991, tội trốn thuế đã được
quy định bổ sung thêm về hành vi và hình phạt, đó là: “… Trốn thuế với số
lượng rất lớn hoặc đã bị kết án nhưng chưa được xoá án về tội trốn thuế hoặc
về một trong các tội quy định tại các Điều 96a, 97, 165, 166, 167, 168, 173 và
183, hoặc trong các trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác thì bị phạt tù từ
hai năm đến bảy năm”. Việc tăng mức hình phạt này hoàn toàn phù hợp với
nền kinh tế sản xuất hàng hoá. Tuy nhiên, để sát hợp với đời sống kinh tế - xã
hội, phát huy tác dụng đấu tranh và phòng ngừa tội phạm trốn thuế, ngày 22
tháng 12 năm 1992, tội danh trốn thuế được sửa đổi, bổ sung lần thứ hai. ý
nghĩa của lần sửa đổi này là mức phạt tù tăng lên đáng kể. Theo khoản 1 Điều
169 thì mức phạt tù được nâng lên từ 06 tháng đến 03 năm (trước đây là từ 03
tháng đến 03 năm); khoản 2 từ 03 năm đến 12 năm (trước đây là từ 02 năm
đến 07 năm). Ngày 10 tháng 05 năm 1997, tội trốn thuế được sửa đổi, bổ sung
lần thứ ba, bổ sung thêm vào khoản 2, các tội liên quan đến tình tiết tăng nặng
của hình phạt, đó là các Điều 185b, 185c, 185d, 185đ. Tại Bộ luật Hình sự
năm 1999, tội trốn thuế được quy định tại Điều 161 có nhiều nội dung mới
hơn, phù hợp hơn so với ba lần bổ sung trước đây.
Tội phạm trốn thuế NK trong các DN NQD có những đặc điểm pháp lý
cơ bản sau đây:

* Khách thể của tội phạm: tội phạm trốn thuế NK đã xâm phạm chính sách
thuế của Nhà nước trong hoạt động ngoại thương, sản xuất, kinh doanh hàng
hoá, dịch vụ, làm thất thoát, giảm sút nguồn thu cho ngân sách nhà nước và
hiệu quả điều hành nền kinh tế.
* Mặt khách quan của tội phạm: mặt khách quan của tội phạm trốn thuế
NK đòi hỏi phải có hai dấu hiệu:
- Thứ nhất, phải có hành vi trốn tránh việc nộp thuế, tức là đối tượng nộp
thuế dùng thủ đoạn gian dối để không phải đóng thuế hoặc đóng số thuế ít
hơn số thuế theo quy định phải nộp. Các thủ đoạn đó phổ biến như sau:
 Kê khai không đúng căn cứ tính thuế theo quy định của pháp luật về
thuế xuất khẩu, thuế NK;
 Lập sổ sách kế toán, hoá đơn, chứng từ, hợp đồng sai với thực tế sản
xuất, kinh doanh;
 Lợi dụng các kẽ hở trong các chính sách, pháp luật về quản lí hoạt
động NK để gian lận, trốn thuế NK;
 Làm giả chứng nhận xuất xứ hàng hóa, hợp đồng ngoại thương, chứng
từ thanh toán và các chứng từ khác có liên quan để trốn thuế;
 Lợi dụng Luật Hải quan, Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu cho ân
hạn nộp thuế để xin nhập nhiều hàng hóa, nợ thuế NK với số tiền lớn sau đó tẩu
tán hàng và chây ỳ không nộp thuế, tiến hành giải thể doanh nghiệp hoặc bỏ
trốn.
Các dấu hiệu nêu trên thể hiện rõ nét hành vi trốn thuế NK trong các
DN NQD.
- Thứ hai, về mặt định lượng thì số thuế NK bị trốn phải từ năm mươi
triệu đồng trở lên hoặc dưới năm mươi triệu đồng nhưng:
 Đã bị xử phạt hành chính về hành vi trốn thuế;
 Hoặc đã bị kết án về tội trốn thuế (có tiền án);
 Hoặc đã bị kết án về một số tội khác được quy định tại các Điều
153 ... 160, 164, 193 ... 196, 230, 232, 233, 236 và 238 Bộ luật Hình sự
(nhưng chưa được xoá án tích).

* Mặt chủ quan của tội phạm: tội phạm được thực hiện do lỗi cố ý, mục
đích là trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế, kẻ phạm tội ý thức được hành vi của
mình là nguy hiểm cho xã hội, gây thất thu cho ngân sách nhà nước nhưng
vẫn mong muốn thực hiện vì động cơ vụ lợi.
* Chủ thể của tội phạm: ngoài những điều kiện chung do pháp luật hình sự
quy định là hành vi trốn thuế được thực hiện bởi người có đủ năng lực trách
nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo luật định. Thông thường, hành vi phạm tội
trốn thuế NK trong các DN NQD là do những người có trách nhiệm, quyền
hạn trong doanh nghiệp và những người ở các cơ quan liên quan như cơ quan
hải quan, cơ quan giám định đã tiếp tay cho doanh nghiệp trốn thuế.
Những người trên đã có chủ trương, trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia
thực hiện hành vi phạm tội trốn thuế NK ở các DN NQD.
* Để áp dụng pháp luật chính xác, đòi hỏi phải phân biệt được hành vi
vi phạm hành chính về thuế với tội phạm trốn thuế
Giữa vi phạm hành chính về thuế và tội phạm trốn thuế có những đặc
điểm giống nhau và khác nhau nhất định
- Giống nhau:
 Đều xâm phạm đến chính sách thuế của Nhà nước trong hoạt động sản
xuất, kinh doanh, làm giảm nguồn thu của ngân sách nhà nước;
 Hành vi đó đều được thực hiện bằng các thủ đoạn: không kê khai hoặc
kê khai sai căn cứ tính thuế theo quy định của pháp luật về thuế, lập sổ sách
kế toán, hoá đơn chứng từ…sai so với thực tế phát sinh để trốn thuế.
- Khác nhau:
 Vi phạm hành chính về thuế thì mức độ nguy hiểm, hậu quả tác hại
gây ra thấp hơn so với tội phạm trốn thuế (tức là, nếu trốn thuế lần đầu với số
tiền trốn thuế dưới năm mươi triệu đồng thì chỉ bị xử lý hành chính);
 Vi phạm hành chính về thuế được thực hiện bằng cả hai hình thức lỗi
(cố ý và vô ý) và bị xử phạt theo quy định của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành
chính còn tội phạm trốn thuế chỉ được thực hiện dưới hình thức lỗi cố ý;
 Chủ thể của vi phạm hành chính về thuế bao gồm cả cá nhân và tổ

chức. Trong khi đó, chủ thể của tội phạm trốn thuế chỉ là con người cụ thể có
đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi nhất định, có chủ trương hoặc
trực tiếp thực hiện hành vi trốn thuế;
 Việc xử lý vi phạm hành chính về thuế là do các cơ quan quản lí nhà
nước thực hiện như ủy ban nhân dân các cấp, cơ quan thuế, cơ quan hải
quan..., trong khi đó việc áp dụng chế tài để xử lý tội phạm trốn thuế chỉ do
Toà án mới có quyền áp dụng và phải theo trình tự mà Bộ luật TTHS quy
định;
 Vi phạm hành chính về thuế do các luật thuế và các văn bản dưới luật
về thuế quy định; trong khi đó, tội phạm trốn thuế chỉ được quy định trong Bộ
luật Hình sự...
Việc phân biệt giữa hành vi vi phạm hành chính trốn thuế với hành vi là
tội phạm trốn thuế có ý nghĩa thực tiễn rất to lớn. Nhận thức đúng điều đó là
cơ sở để lực lượng CSĐT tội phạm về TTQLKT và CV tập trung đấu tranh có
trọng tâm, trọng điểm và có hiệu quả với tội phạm trốn thuế, làm sáng tỏ các
dấu hiệu đặc trưng của tội phạm để xử lý theo quy định của pháp luật hình sự.
Tóm lại, tội phạm trốn thuế NK trong các DN NQD là một dạng của
tội phạm trốn thuế được quy định tại Điều 161 của Bộ luật Hình sự năm
1999. Nghiên cứu khái niệm và đặc điểm pháp lý của tội phạm trốn thuế
nói chung và tội phạm trốn thuế NK trong các DN NQD nói riêng có ý
nghĩa rất quan trọng đối với lực lượng CSĐTTP về TTQLKT và CV trong
việc nhận diện tội phạm, phục vụ tốt hơn yêu cầu phát hiện, điều tra và xử
lý vụ án trốn thuế.
1.1.4. Những đặc trưng cơ bản của tội phạm trốn thuế NK trong các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh
Tội phạm kinh tế nói chung, tội phạm trốn thuế NK trong các DN
NQD nói riêng đều có những đặc trưng riêng biệt. Nghiên cứu các đặc
trưng này có ý nghĩa rất quan trọng, giúp cho lực lượng CSĐT tội phạm về
TTQLKT và CV áp dụng kịp thời, hợp lý và có hiệu quả các biện pháp
nghiệp vụ trong phòng ngừa, phát hiện và điều tra, khám phá các vụ án trốn

thuế NK trong các DN NQD.
Từ đặc thù của DN NQD và hoạt động kinh doanh NK mà tội phạm trốn
thuế NK trong các DN NQD có những đặc trưng cơ bản sau đây:
Thứ nhất, trốn thuế NK trong các DN NQD là một hình thức gian lận
thương mại có “yếu tố nước ngoài”, đây cũng chính là điều gây rất nhiều khó
khăn cho công tác phát hiện, điều tra, xử lý của các cơ quan chức năng đối với
loại tội phạm này.
Thứ hai, chủ thể của loại tội phạm này là những người trong bộ máy của
các DN NQD tham gia vào hoạt động NK hàng hóa, vật tư, thiết bị…. Đó là
những người có quan hệ gần gũi với nhau như quan hệ gia đình, bạn bè, có
trình độ, am hiểu về chính sách thuế NK, luôn luôn bao che cho nhau và tìm
mọi cách đối phó với sự phát hiện của các cơ quan chức năng, kể cả việc hối
lộ, lôi kéo những người trong các cơ quan nhà nước cùng tham gia. Luôn tìm
nhiều cách để thu về cho mình được nhiều lợi nhuận nhất kể cả việc vi phạm
pháp luật như buôn lậu, trốn thuế, kinh doanh trái phép…
Thứ ba, các thủ đoạn hoạt động trốn thuế NK được thực hiện chủ yếu
thông qua lợi dụng các kẽ hở của các văn bản pháp luật, chính sách của Nhà
nước về quản lý, điều hành hoạt động NK như: cho phép ân hạn chậm nộp
thuế NK, chính sách “nội địa hoá”, quy định xác định giá tính thuế đối với
hàng hoá NK …, và luôn đi cùng với các hành vi phạm tội buôn lậu, đưa hối
lộ, nhận hối lộ, cố ý làm trái...
Thứ tư, tội phạm trốn thuế NK trong các DN NQD thường diễn ra liên
tục, trong thời gian dài, gây hậu quả nghiêm trọng với số lượng tiền trốn thuế
lớn, tập trung vào các mặt hàng có giá trị cao, thuế suất thuế NK lớn như ô tô,
xe máy, đồ điện tử, điện lạnh, điện thoại di động, đồ dùng cao cấp…, hoạt
động phạm tội có tổ chức (đồng phạm).
Thứ năm, một khi các DN NQD đã trốn thuế NK thì thường kèm theo
việc trốn các loại thuế khác là thuế G.T.G.T khâu NK, thuế tiêu thụ đặc biệt,
thuế G.T.G.T trong kinh doanh nội địa, thuế thu nhập doanh nghiệp.
Chương I

NHẬN THỨC CHUNG VỀ TỘI PHẠM HỌC
1. Khái niệm, đối tượng nghiên cứu, nhiệm vụ, mối quan hệ giữa
tội phạm học và các môn khoa học khác.
1.1 Khái niệm.
Để đáp ứng nhu cầu nhận thức và cải tạo thế giới phục vụ lợi ích xã
hội, loài người đã không ngừng tìm tòi nghiên cứu các hiện tượng tự nhiên và
xã hội. Điều đó là cơ sở nảy sinh và phát triển nhiều ngành khoa học khác
nhau.
Đã từ lâu, vấn đề đấu tranh ngăn chặn tiến tới làm giảm và loại trừ tội
phạm đã trở thành một trong những mối quan tâm chú ý của các Nhà nước
dưới mọi chế độ chế độ xã hội khác nhau. Để đấu tranh có hiệu quả đối với
các loại tội phạm – hiện tượng xã hội tiêu cực và phức tạp, đòi hỏi con người
cần phải không ngừng nghiên cứu để nhận thức đầy đủ về hiện tượng này. Tội
phạm là gì? Nó được hình thành phát triểnvà tồn tại theo những quy luật nào?
Để đấu tranh với nó cần phải tiến hành bằng những phương pháp tác động ra
sao?...Công việc đó được tiến hành gắn liền với thực tế đấu tranh chống tội
phạm ở mỗi quốc gia, qua mỗi giai đoạn phát triển của xã hội. Kết quả của
quá trình đó đem laị cho loài người những tri thức phong phú cần thiết về hiện
tượng tội phạm và những kinh nghiệm quý báu trong đấu tranh chống tội
phạm.
Những tri thức và kinh nghiệm về tội phạm và phương pháp phòng
chống tội phạm ngày càng được tích luỹ đầy đủ. Bước đầu được phản ánh tản
mạn riêng lẻ, sau đó được đúc rút hệ thống lại và được nghiên cứu tỉ mỉ sâu
sắc hơn trong các tài liệu chuyên khảo của các ngành khoa học pháp lý, khoa
học xã hội. Trong điều kiện các lĩnh vực khoa học phát triển, mạnh mẽ theo
hướng chuyên sâu, vấn đề nghiên cứu về tội phạm và biện pháp đấu tranh
chống tội phạm được nâng lên và tách riêng thành bộ môn khoa học độc lập
chuyên nghiên cứu về những quy luật hình thành, phát sinh phát triển của tội
phạm cùng với các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn nhằm loại bỏ và hạn chế
sự tác động của hiện tượng này. Như vậy, ngành khoa học nghiên cứu về tội

phạm đã ra đời và phát triển.
Xem xét về thuật ngữ, các nhà nghiên cứu thấy rằng: “Tội phạm học”
là một cụm từ ghép bao gồm: Crimin: tội phạm (theo ngôn ngữ la tinh) và
Logos có nghĩa là: Học thuyết hoặc khoa học (theo tiếng Hy Lạp). Vậy tội
phạm học có nghĩa là “học thuyết về tội phạm” hay “khoa học nghiên cứu về
tội phạm”. Tuy nhiên, nếu nói là “nghiên cứu về tội phạm” thì nhiều ngành
khoa học nghiên cứu về vấn đề này, như: khoa học luật hình sự, khoa học luật
tố tụng hình sự, Điều tra hình sự, tâm lý học, xã hội học…Vì vậy, cá nhà
nghiên cứu tội phạm học xác định phạm vi nghiên cứu của tội phạm học được
giới hạn bởi đối tượng nghiên cứu chủ yếu của nó là:
- Tình trạng tội phạm.
- Nguyên nhân, điều kiện của tội phạm.
- Nhân thân người phạm tội
- Biện pháp phòng ngừa tội phạm.
Trên cơ sở đó, có thể nêu khái niệm về Tội phạm hộc như sau:
Tội phạm học là ngành khoa học, nghiên cứu về tội Tình trạng tội
phạm, nguyên nhân và điều kiện phát sinh phát triển của tình trạng tội phạm
và các loại tội phạm cụ thể, nghiên cứu nhân thân người phạm tội và các biện
pháp phòng ngừa ngăn chặn nhằm hạn chế, tiến tới loại trừ tội phạm ra khỏi
đời sống xã hội.
Trong điều kiện phát triển của sự nghiệp cách mạng hiện nay ở nước
ta, Đảng và Nhà nước đã xác định vị trí quan trọng đặc biệt của công cuộc
bảo vệ vững chắc nền an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội, đấu tranh
kiên quyết và triệt để chống các loại tội phạm hình sự. Điều đó đang đặt ra
những nhiệm vụ nặng nề cho các nhà nghiên cứu và cán bộ thực tế trong
nghiên cứu tội phạm, xây dựng phương pháp đấu tranh ngăn chặn một cách
có hiệu quả với chúng. Nghiên cứu và phát triển hoàn thiện khoa học tội
phạm là vấn đề có ý nghĩa to lớn trong sự nghiệp đấu tranh chống các loại tội
phạm hình sự, giữ vững an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội.
1.2 Đối tượng nghiên cứu của Tội phạm học.

Mỗi ngành khoa học có đối tượng nghiên cứu riêng của mình. Đó là
những quy luật tác động trong lĩnh vực mà ngành khoa học đó cần nghiên
cứu. Tội phạm học với tư cách là môn khoa học độc lập, vì vậy cũng có đối
tượng nghiên cứu riêng. Đó là những sự vật hiện tượng liên quan đến hoạt
động tội phạm và phòng ngừa tội phạm.
Trong các tài liệu Tội phạm học của nhiều nước trên thế giới đã được
xác định và phân loại thành những nhóm đối tương nghiên cứu như: nghiên
cứu tội phạm là hiện tượng của xã hội; nguyên nhân, điều kiện phạm tội, nhân
thân người phạm tội và phòng ngừa tội phạm. Có thể xác nhận rằng việc định
ra đối tượng nghiên cứu của tội phạm như vậy là đúng đắn, bởi vì điều đó
phản ánh được khái quát nội dung nghiên cứu của vấn đề về tội phạm theo
một trình tự hệ thống bao hàm được đầy đủ những vấn đề phản ánh quy luật
hoạt động nhận thức về hiện tượng tội phạm, từ việc xác định khái niệm tội
phạm, phạm vi tình trạng, cấu trúc tội phạm và diễn biến của nó, đến việc đi
sâu nghiên cứu nguyên nhân, điều kiên của tình trạng này, cúng như về nhân
thân người phạm tội, tất cả điều đó nhằm đến mục đích là nghiên cứu tìm tòi
biện pháp, phương tiện phòng ngừa tội phạm. Cách xác định như trên còn cho
thấy mối quan hệ chặt chẽ giữa nội dung của các nhóm đối tượng nghiên cứu.
Nghiên cứu vấn đề này có tác dụng ảnh hưởng với vấn đề khác trong hệ
thống các đối tượng đã nêu, vì vậy để thấy rằng các nhóm đối tượng nghiên
cứu trên có mối quan hệ chặt chẽ, ảnh hưởng tác động lẫn nhau và không cho
phép người nghiên cứu coi nhẹ đối tượng nghiên cứu nào trong việc nghiên
cứu soạn thảo các vấn đề về Tội phạm học. Trong lý luận Tội phạm học người
ta gọi bốn nhóm đối tượng nghiên cứu đó là bốn bộ phận cấu thành cơ bản
hoặc bốn nhóm hiện tượng xã hội cần phải nghiên nghiên cứu trong khoa học
tội phạm.
Các đối tượng nghiên cứu và nội dung cơ bản của Tội phạm học bao
gồm:
2.1.1 Tình trạng tội phạm.
Tình trạng tội phạm là hệ thống các sự kiện phạm tội cụ thể được diễn

ra trong hệ thống quốc gia hoặc khu vực trong một thời gian nhất định. Như
vậy có nghĩa là xem xét mhư một hiện tượng xã hội nhằm nắm vững bản chất
của nó cũng như các yếu tố cấu thành có tính đặc trưng của hiện tượng xã hội
này.
Đối với nhóm đối tượng này cần phải xoay quanh các nội dung cơ bản
sau:
- Nghiên cứu tình trạng hoạt động của tội phạm, cấu trúc và động thái
của Tình trạng tội phạm nói chung cũng như từng loại tội phạm cụ thể trong
phạm vi cả nước và ở mỗi vùng dân cư. Những nội dung này phản ánh số
lượng và tính chất hoạt động của tội phạm nói chung và các loại tội phạm cụ
thể trong mỗi thời kỳ, mỗi địa phương khác nhau.
- Nghiên cứu các mối quan hệ tác động qua lại giữa Tình trạng tội
phạm với các hiện tượng và các quá trình xã hội khác (CT,KT, VH, GD…)
hoặc với những hình thức khác nhau của hành vi tiêu cực (lười biếng, suy
thoái về đạo đức, tệ nạn xã hội ).
Nghiên cứu làm rõ những nội dung đã chỉ ra trong nhóm đối tượng
nghiên cứu trên cho phép chúng ta đánh giá một cách khái quát về Tình trạng
tội phạm nói chung trong phạm vi cả nước và ở mỗi địa phương cụ thể, đồng
thời có thể đề ra phương hướng chung, biện pháp tổng hợp trong việc phòng
ngừa ngăn chặn tội phạm.
1.2.2. Nguyên nhân nảy sinh tình trạng tội phạm và điều kiện tạo
thuận lợi cho việc thực hiện hành vi phạm tội là một trong những nội dung tất
yếu của sự phát triển và tồn tại trong mỗi thời kỳ phát triển của xã hội.
- Nguyên nhân và điều kiện của tội phạm là tổng hợp các sự vật hiện
tượng tiêu cực xã hội tác động đến con người và là hành vi phạm tội. Vì vậy
cần phải xem xét phân loại một cách khoa học các loại nguyên nhân, điều
kiện khách quan, chủ quan, trực tiếp, dán tiếp, chủ yếu thứ yếu, bên trong, bên
ngoài…điều đó có ý nghĩa quan trọng trong việc nhận thức tội phạm và sử
dụng biện pháp phòng ngừa chúng.
- Cần thiết phải có quan điểm rõ ràng trong phân biệt giữa nguyên

nhân và điều kiện, mối quan hệ tác động giữa nguyên nhân và điều kiện trong
quá trình tác động đến hành vi phạm tội.
- Nghiên cứu tìm ra cơ chế tác động của nguyên nhân và điều kiện tội
phạm đối với hành vi của con người phạm tội (các yếu tố tiêu cực về kinh tế,
tư tưởng, tâm lý, giáo dục…tác động đến con người như thế nào trong quá
trình đãn đến việc phạm tội).
Trong điều kiện trình độ lý luận về tội phạm ở nước ta hiện nay chưa
được phát triển hoàn hảo, trong việc nghiên cứu và xác định nguyên nhân,
điều kiện của Tình trạng tội phạm nói chung và tội phạm cụ thể còn nhiều vấn
đề cần phải xem xét để đi đến thống nhất quan điểm. Chẳng hạn còn có sự
nhầm lẫn giữa nguyên nhân và điều kiện phạm tội, giữa nguồn gốc tội phạm
và nguyên nhân, điều kiện tội phạm…điều đó dẫn đến việc xem xét đánh giá
vấn đề nguyên nhân và điều kiện tội phạm còn có sự khác nhau. Từ đó cho
thấy, tính cấp bách của việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện tội phạm
trong khoa học Tội phạm học ở nước ta.
1.2.3. Nhân thân người phạm tội.
Nhân thân người phạm tội là đối tượng nghiên cứu quan trọng của Tội
phạm học. Có thể hiểu khái niệm nhân thân người phạm tội là “những đặc
điểm dấu hiệu thể hiện bản chất xã hội của con người phạm tội”. Con người
có thể có nhiều loại phẩm chất tính cách khác nhau như tính cách sinh vật
(giới tính, lứa tuổi, chiều cao , cân nặng, màu tóc, màu da…) bản năng động
vất và những phẩm chất tính cách xã hội (quan điểm, trình độ học vấn, tình
trạng gia đình, quan hệ xã hội …)
Tội phạm học nghiên cứu nhân thân người phạm tội theo các nội dung
sau:
- Nghiên cứu các đặc điểm về xã hội – nhân khẩu học bao gồm giới
tính, lứa tuổi, trình độ học vấn, hoàn cảnh gia đình, nghề nghiệp….
- Nghiên cứu về phẩm chất đạo đức và tâm lý cá nhân kể phạm tội. Ơ
đây cần đề cập đến các đặc điểm về thái độ đối xử của kể phạm tội và các tổ
chức chính quyền, tổ chức xã hội và những con người xung quanh, đối với

các giá trị tinh thần, đạo đức xã hội …cũng như các yếu tố về trí tuệ, tình
cảm…đặc biệt, nghiên cứu các biểu hiện của nhân cách kẻ phạm tội trong
quá trình sống; hoạt động lao động, công tác xã hội , vai trò cá nhân trong xã
hội , trong đơn vị công tác,trong các nhóm người và với những con người cụ
thể khác, các cơ quan, đơn vị khác.
Nghiên cứu các đặc điẻm cá nhân kẻ phạm tội mang tính pháp luật
hình sự. Tính chất hành vi tội phạm, mục đích, động cơ phạm tội, hoạt động
cá nhân hay tổ chức, vai trò trong các tổ chức phạm tội, các tiền án, tiền sự…
- Phân loại nhân thân người phạm tội phục vụ cho công tác phòng
ngừa ngăn chặn hoặc giáo dục người phạm tội.
Tất cả những nội dung trên tạo thành hệ thống các đặc tính thể hiện
bản chất xã hội của con người phạm tội. Nghiên cứu những vấn đề trên có ý
nghĩa quan trọng trong việc xác định nguyên nhân và điều kiện tội phạm nói
chung và các loại tội phạm cụh thể, con người cụ thể. Mặt khác nghiên cứu
nhân thân người phạm tội giúp ta đề ra biện pháp phòng ngừa, giáo dục và
nâng cao hiệu quả biện pháp phòng ngừa tội phạm nói chung và các tội phạm
cụ thể.
1.2.4. Phòng ngừa tội phạm.
Phòng ngừa tội phạm là hệ thống các biện pháp của Nhà nước và xã
hội hướng đến việc xoá br, hạn chế nguyên nhân, diều kiện tội phạm, ngăn
ngừa kịp thời những hành vi sai lệch của những người có ý định phạm tội. Ơ
nhiều nước trên thế giới cũng như ở nước ta hiện nay phòng ngừa tội phạm đã
và đang trở thành một hoạt động thức tế, có sự tham gia đông đảo của cơ
quamn nhà nước, tổ chức xã hội và mọi công dân. Hoạt động này cần thiết
phải được xem xét nghiên cứu một cách khoa học nhằm mục đích ngày càng
hoàn thiện hơn về mật lý luận và các biện pháp tiến hành cụ thể, nâng cao
chất lượng của công tác phòng ngừa tội phạm.
Về mặt lý luận, theo quan điểm hệ thống, phòng ngừa tội phạm được
phân tích, xem xét trên các khía cạnh sau:
- Khái niệm, phạm vi phòng ngừa tội phạm.

×