Tải bản đầy đủ (.pdf) (62 trang)

Đặc sắc thơ Haiku của M.Basho (KL06087)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (579.97 KB, 62 trang )


























TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA: NGỮ VĂN
****** **


TRẦN THỊ KIM CHI




ĐẶC SẮC THƠ HAIKU CỦA
M.BASHO


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học nƣớc ngoài











HÀ NỘI - 2014






























TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA: NGỮ VĂN
****** **


TRẦN THỊ KIM CHI


ĐẶC SẮC THƠ HAIKU CỦA
M.BASHO



KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học nƣớc ngoài

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
TS. NGUYỄN THỊ BÍCH DUNG








HÀ NỘI - 2014






LỜI CẢM ƠN
Khóa luận này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn tận tình của TS.
Nguyễn Thị Bích Dung. Em xin gửi tới cô lời cảm ơn chân thành nhất.
Em xin trân trọng cảm ơn các thầy cô giáo trong tổ Văn học Nước
ngoài và các thầy cô giáo trong khoa Ngữ văn_Trường ĐHSP Hà Nội 2 đã
tạo điều kiện giúp đỡ trong quá trình em làm khóa luận tốt nghiệp.
Em xin chân thành cảm ơn!

Vĩnh Phúc, tháng 01, năm 2014.

Sinh viên:


Trần Thị Kim Chi




LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan khóa luận được hoàn thành là kết quả nghiên cứu của
riêng tôi dưới sự giúp đỡ của TS. Nguyễn Thị Bích Dung.
Khóa luận chưa từng được công bố trong bất kì công trình nghiên cứu
nào khác.
Vĩnh Phúc, tháng 01, năm 2014.
Sinh viên:


Trần Thị Kim Chi


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 2
3. Mục đích nghiên cứu 4
4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu 4
5. Phương pháp nghiên cứu 4
6. Bố cục 4
NỘI DUNG 5

Chƣơng 1: Haiku với M.Basho 5
1. Vài nét về thơ Haiku 5
2. Nguồn gốc hình thành thơ Haiku 5
3. Đặc điểm thơ Haiku 7
4. Vai trò của thơ Haiku trong nền Văn hóa - Văn học Nhật Bản
và thế giới. 9
5. Haiku trong hành trình sáng tạo nghệ thuật của M.Basho 11
6. M.Basho 11
7. Đặc điểm nghệ thuật thơ Haiku của M.Basho 14
8. Vị trí của thơ Haiku trong quá trình sáng tạo nghệ thuật của
M.Basho 15
Chƣơng 2: Đặc sắc thơ Haiku của M.Basho 17
2.1 M.Basho thi sĩ của mùa thu 17
2.1.1 Mùa thu gắn với hoa cúc, sắc triêu nhan 20


2.1.2 Gió mùa thu với nỗi buồn huy hoàng và tấm lòng thương cảm
vô hạn của thi sĩ 25
2.1.3 Chiều thu, đêm thu, trăng thu cùng nỗi buồn, sự cô đơn và cái
chết 30
2.2 M.Basho thiền sư giữa cõi đời. 37
2.2.1 “Thiền” và thi ca thiền trong quan niệm của người Nhật 37
2.2.2 Thiền tính trong thơ Haiku của M.Basho 38
KẾT LUẬN 55
TÀI LIỆU THAM KHẢO 56

1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Nhật Bản là “đất nước mặt trời mọc”, đất nước của hoa anh đào, trà đạo,
Thiền tông và của cả thi đạo. Với người Nhật Bản thơ ca không chỉ đơn
thuần là một thể loại văn học mà nó còn là tôn giáo. Trong đó thơ Haiku là
một thể thơ độc đáo, đặc sắc, một nét đẹp tâm hồn riêng mà người Nhật
đóng góp vào nền thơ ca nhân loại.
Một bài thơ Haiku thường chỉ “gợi” chứ không “tả”, kết thúc thường
không có gì rõ ràng vậy nên hình ảnh và cảm nhận sau khi đọc phụ thuộc
hoàn toàn vào người đọc. Bài thơ Haiku thường không có tiêu đề nên phải
có “quý ngữ” - hình ảnh thiên nhiên trở thành biểu tượng mùa trong năm,
biểu hiện thời gian trong thơ Haiku.
Thơ Haiku, đặc biệt là những bài thơ của M.Basho được đưa vào chương
trình Ngữ văn THPT lớp 10 phân ban (cả chương trình cơ bản lẫn chương trình
nâng cao) vậy nên việc tìm hiểu thơ Haiku nói chung và “Đặc sắc thơ Haiku
của M.Basho” nói riêng không chỉ giúp ta hiểu thêm về thơ mà còn giúp cho
công việc giảng dạy và truyền đạt kiến thức khi đứng lớp đạt hiệu quả.
Tuy nhiên trên thực tế, cho đến nay việc người dạy và người học tiếp cận
và tìm hiểu về thơ Haiku gặp không ít khó khăn thậm chí còn lúng túng bởi
lẽ thơ Haiku chưa được phổ biến và tìm hiểu sâu rộng ở Việt Nam.
Xét trên phương diện cá nhân lý do tôi chọn đề tài “Đặc sắc thơ Haiku
của M.Basho” còn vì tình yêu, sự say mê văn học Nhật Bản và đặc biệt là
với thơ Haiku của M.Basho. Hi vọng sẽ giúp cho bản thân cũng như bạn
đọc hiểu thêm phần nào về thơ Haiku.
2


2. Lịch sử vấn đề
Lịch sử nghiên cứu về thơ Haiku ở Việt Nam dừng lại ở số lượng không
nhiều một số gương mặt các nhà nghiên cứu và dịch giả tiêu biểu như: Phan
Nhật Chiêu, Vĩnh Sính, Thái Bá Tân, Thanh Châu, Đoàn Lê Giang, Hữu
Ngọc…. Nhưng những công trình nghiên cứu đã giúp ta có một cái nhìn

tương đối toàn diện về thơ Haiku trên cả mặt nội dung và nghệ thuật.
Có tính chuyên sâu về thơ Haiku phải kể đến hai công trình nghiên cứu
là: tác phẩm “Ba nghìn thế giới thơm” của Nhật Chiêu (nxb Văn nghệ,
2007) đã tập hợp gần như đầy đủ các bài báo, tạp chí mà ông đã từng công
bố liên quan đến thơ Haiku và thơ Nhật Bản. Tiếp theo là cuốn Haiku, Hoa
thời gian của Lê Từ Hiển và Lưu Đức Trung (nxb Giáo dục, 2007) cuốn
sách được chia làm ba phần với ba nội dung chính: Tiếp cận thơ Haiku
trong chương trình THPT, Hương sắc Haiku- những nẻo đường góp nhặt và
Dạo bước vườn thơ, đây là tài liệu quý báu dành cho giáo viên, học sinh
cùng những ai yêu thích thể thơ độc đáo này.
Ngoài hai công trình kể trên, nội dung nghiên cứu thơ haiku còn được đề
cập đến trong những giáo trình về văn học Nhật Bản, các cuốn sách giới
thiệu văn hóa, văn học Nhật như: Văn học Nhật Bản từ khởi thủy đến 1868,
Nhật Chiêu, NXB Giáo dục, 2003, Nhật Bản trong chiếc gương soi, Nhật
Chiêu, NXB Giáo dục HCM năm 1997, Câu chuyện văn chương phương
Đông, Nhật Chiêu, NXB Giáo dục, 2002, Xuôi dòng văn học Nhật Bản,
Nguyễn Thị Mai Liên, NXB Đại học Sư phạm, 2003; Phác thảo những nét
tương đồng và dị biệt của ba thể thơ: tuyệt cú, haiku và lục bát của Nguyễn
Thị Bích Hải trong cuốn Văn học so sánh, Nghiên cứu và triển vọng, NXB
SPHN năm 2005; Dạo chơi vườn văn Nhật Bản , Hữu Ngọc, NXB Giáo dục
năm 1992; Hoa anh đào và điện tử, Hữu Ngọc, NXB Văn hóa năm 1998….
3

Thêm vào đó có khoảng hơn 20 bài viết đăng trên báo, tạp chí tuy
không chuyên sâu nhưng cũng cung cấp cho người đọc một số hiểu biết cơ
bản về haiku. Tiêu biểu là các bài viết: Cảm nhận về thơ Haiku (Ngô Văn
Phú, Tác phẩm mới, số 4 năm 1992), Một số đặc điểm của thơ haiku Nhật
bản (Hà Văn Lưỡng - Tạp chí nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á, số 4
năm 2011), Thế giới trong thơ haiku (Hà Văn Minh, Báo Xuân Điện Bàn,
2000), ngoài ra trên mạng internet ta cũng thấy đăng tải nhiều bài viết về

thơ haiku.
Các công trình nghiên cứu của thơ Haiku của M.Basho tại Việt Nam đi
theo ba hướng chính là:
Hướng một là dịch thơ, dịch thơ Basho kèm theo lời giới thiệu khái quát
con người, cuộc đời, sự nghiệp Basho để lại. Hướng đi này được tác giả
Vĩnh Sính, Hàn Thủy Giang, Thái Bá Tân tiếp cận. Tuy một vài bản dịch
thơ còn có chỗ đáng bàn nhưng ta không thể phủ nhận đó là những công
trình hiếm hoi mang tính toàn vẹn đem đến cho người đọc cái nhìn khá đầy
đủ về Basho.
Hướng hai là viết sách (viết các đề tài luận văn, khóa luận, báo cáo khoa
học liên quan đến thơ Haiku của M.Basho). Tiêu biểu có thể kể đến cuốn
sách Basho và thơ haiku của Nhật Chiêu (NXB Văn học năm 1994) Luận
văn Thạc sĩ, Chất Sabi trong tác phẩm “Lối lên miền Oku” của Matsuo
Basho của Bùi Thị Mai Anh Trường ĐH SPHN 1 năm 2005. Đó là những
công trình nghiên cứu giá trị về thơ haiku của Basho giúp ích rất nhiều cho
người viết trong quá trình triển khai đề tài.
Hướng ba phổ biến nhất là những bài báo ngắn gọn được đăng tải trên
các báo, trang internet. Tiểu biểu như: Matsuo Basho nhà thơ lớn của thể
thơ haiku (Nguyễn Tuấn Khanh, tạp chí nghiên cứu Nhật Bản, số 3
năm 1995), Dấu ấn Thiền tông trong thơ Matsuo Basho (Đỗ Thái Thuận,
4

Tạp chí Văn hóa năm 1997), Basho và hài cú đạo (Nhật Chiêu, Kiến thức
ngày nay, số tháng 10 năm 1999), Basho và Huyền Quang sự gặp gỡ với
mùa thu hay sự tương giao về cảm thức thẩm mỹ (Lê Từ Hiển, Tạp chí
nghiên cứu Văn học, số tháng 7 năm 2005)….
Tất cả góp phần không nhỏ giúp ta hiểu “Đặc sắc thơ Haiku của M.Basho”
ở nhiều góc độ khác nhau.
Với đề tài này tôi hi vọng đem đến một cái nhìn bao quát và đầy đủ hơn
về “ Đặc sắc thơ Haiku của M.Basho”.

3. Mục đích nghiên cứu
- Bổ sung thêm kiến thức cho việc dạy học tại THPT. Đồng thời trau rồi
và nâng cao nhận thức của bản thân về “Đặc sắc thơ haiku của
M.Basho” nói riêng và thơ ca Nhật Bản nói chung.
- Làm tư tiệu tham khảo cho bạn đọc và người nghiên cứu.
4. Phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu
• Đối tượng nghiên cứu của luận văn là “Đặc sắc thơ Haiku của
Basho”.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
• Phương pháp thống kê, phân loại
• Phương pháp đối chiếu so sánh
• Phương pháp tổng hợp đánh giá.
6. Bố cục
Ngoài phần mở đầu và kết luận, khóa luận được chia làm hai chương:
Chương 1: Haiku với M.Basho và Chương 2: Đặc sắc thơ Haiku của
M.Basho.

5

NỘI DUNG
Chƣơng 1: Haiku với M.Basho
1.1. Vài nét về thơ Haiku
Nhật bản không chỉ được thế giới biết đến với cái tên “Xứ sở hoa anh
đào” mà còn được ca tụng là “Thi quốc”. Trong các thể thơ truyền thống của
Nhật Bản thì tanka và haiku là tiêu biểu hơn cả. Đặc biệt thơ haiku là thể thơ
rất Nhật Bản là linh hồn văn hóa xứ Phù Tang.

Haiku là thể thơ nổi tiếng của Nhật Bản và ngắn nhất thế giới, toàn bài
chỉ có 17 âm tiết và có thể xếp thành ba câu 5-7-5. Trong tiếng Nhật thơ haiku
không có vần và thường không có nhan đề. Các bài thơ haiku thường chỉ là

những nét chấm phá, gợi mở để độc giả vận dụng trí tưởng tượng nhằm liên
tưởng đến các sự vật, hiện tượng khác. Tức một bài thơ haiku thường chỉ gợi
chứ không tả kết thúc thường không có gì rõ ràng vậy nên hình ảnh và cảm
nhận sau khi đọc phụ thuộc hoàn toàn vào người đọc.
Haiku có nguồn gốc từ tanka, tanka là thể thơ của dân tộc Nhật Bản, nó
là một nhánh của Waka. Bài thơ theo thể tanka có 31 âm tiết chia thành 5 dòng:
dòng một 5 âm tiết, dòng hai 7 âm tiết, dòng ba 5 âm tiết, hai dòng cuối mỗi
dòng 7 âm tiết (5-7-5-7-7).
Bài thơ tanka sau đây được xem là bài thơ mở đầu cho thơ ca Nhật Bản:
“Tám tầng mây dựng
Ở xứ Izumo
Ta làm tám tầng mây xa
Tám tầng mây ấy
Che chở người vợ ta”
6

Đây là bài thơ mà thần Susanoo làm tặng cho người vợ của mình. Một
bài tanka tựa như “Hoa anh đào ẩm trong sương mờ mùa xuân”.
Từ thế kỷ XIV-XV, khi thơ tanka có dấu hiệu đi xuống, trên thi đàn Nhật
Bản xuất hiện thể thơ renga (liên ca). Renga cũng có nhịp 5-7-5-7-7 như tanka
nhưng tách thành hai phần 5-7-5 và 7-7 rõ ràng hơn tanka và số câu không hạn
chế. Thơ renga được giải thích như sau: Thơ renga là thơ xướng họa có từ rất
lâu đời trong văn hóa Nhật Bản. Từ một bài tanka có 31 âm tiết chia ra làm 5
dòng được tách ra làm 2 phần cho mọi người nối thơ với nhau (ba câu đầu gọi
là thượng cú, hai câu sau gọi là hạ cú).
Ví dụ như một bài thơ trong Shui shu (Thập di tập 997) :
“Qua rồi nửa đêm
chờ nhau chi nữa
cho thêm ưu phiền”
Một tiểu thư đã gửi cho người yêu cuả mình phần đầu của bài tanka, sau

đó người ấy nhận được và làm tiếp thành một bài tanka trọn vẹn như sau”
“Muốn gặp em trong mộng
Nhưng rồi anh ngủ quên”.
Thực chất renga là trò chơi nối thơ của các nhà thơ tanka. Giới quý tộc
thời Heian rất thích lối sáng tác như thế. Sau này trong bài renga liên hoàn
đoạn thơ khởi xướng phần thượng cú được gọi là hokku (thượng cú) và được
viết với hình thức 17 âm tiết (5-7-5). Đến thế kỷ XVI, công chúng yêu thơ
Nhật Bản rất thích trò chơi nối thơ nên renga trở nên phổ biến và bình dân hơn,
thậm chí có nhiều bài renga được làm với mục đích hài hước, châm chọc được
gọi là haikai no renga, gọi tắt là haikai. Thể haikai do tầng lớp thị dân sáng tác
với mục đích đùa cợt, phóng túng, chấp nối, gượng ép.
7

Sau này Basho đã đưa haikai thoát khỏi sự tầm thường bằng việc dung
hợp cả cái vô tâm lẫn cái hữu tâm, sự trào lộng đời thường của haikai hiện đại
với sự tao nhã, tâm linh của renga cổ điển vào trong 17 âm tiết của bài hokku.
Từ đấy hokku không phụ thuộc vào renga nữa nó trở thành thể thơ độc lập và
có tên là haiku hay hài cú (lúc đầu có tên là haikai đến thế kỷ XIX mới có tên
là haiku). Phần đầu hokku của renga là tiền thân của bài haiku, như vậy thơ
haiku có nguồn gốc từ tanka và renga. Thơ haiku phát triển mạnh trong thời
Edo (1603-1867). Vào thời kì này thơ haiku đã mất đi sắc thái hóm hỉnh, trào
lộng nguyên thủy mà thay vào đó là âm hưởng bàng bạc, sâu thẳm của Thiền
Tông. Nghĩa là không còn sự phân biệt giữa người làm thơ và cuộc sống đang
vận hành, giữa bài thơ và cái nằm sau ngôn từ. Đó chính là sự độc đáo, vi diệu
của thơ haiku.

Haiku là thể thơ ngắn nhất thế giới, thông thường mỗi bài có 17 âm tiết
trong ba câu 5-7-5. Haiku cổ điển có niêm luật chặt chẽ.
Về nội dung có luật cơ bản sau: không mô tả cảm xúc chủ yếu ghi lại các
sự việc xảy ra trước mắt, vì số chữ bị giới hạn trong 17 âm tiết nên thơ haiku

thường diễn tả một sự kiện xảy ra ngay lúc đó, ở thì hiện tại. Sự kiện này có thể
liên kết hai ý nghĩa hay hai ý tưởng khác nhau mà ít khi người ta nghĩ đến
cùng một lúc.
“Ôi những hạt sương ( sự vật hiện tại)
trân châu từng hạt ( ý nghĩa thứ nhất)
hiện hình cố hương.” (ý nghĩa thứ hai)
(Issa)
8

Một bài thơ haiku phải thể hiện được cảm thức về thời gian qua quý ngữ
(kigo). Quý ngữ có thể là từ miêu tả các mùa xuân, hạ, thu, đông hoặc các hình
ảnh, hoạt động đặc trưng của mùa.
“Người ta buồn vì vượn khóc
trẻ khóc thì sao
gió thu?”
(Basho)
hay bài thơ:
“Con bạch tuộc lười
mơ màng trong lưới
trăng mùa hè.”
(Basho)
Hoặc nêu các đặc trưng của mùa thay vì gọi mùa một cách trực tiếp như:
“Nara
hoa cúc thơm
tượng Phật cổ.”
(Basho)
Hoa cúc gợi cho ta đến mùa thu, cũng chính là quý ngữ của bài thơ.
“Lang thang cũng chẳng sao
chừng nào
hoa anh đào đang nở”

(Basho)
Hoa anh đào là tượng trưng cho mùa xuân ở Nhật Bản.
Việc dùng quý ngữ chỉ mùa thể hiện sự gắn bó sâu sắc của người dân
Nhật Bản với thiên nhiên. Người Phù Tang rất nhạy cảm với bốn mùa, có cảm
9

quan tinh tế về thời tiết nhất là sự thay đổi của thiên nhiên. Tuy vậy thiên nhiên
trong thơ haiku thường là những cảnh vật bình dị, dân dã, đời thường, những
hình ảnh nhỏ bé không hoa lệ, mỹ miều và dễ bị lãng quên như: chú ếch, con
quạ, chú khỉ bé nhỏ, tiếng ve, hoa dại, hòn đá….
“ Ao cũ
con ếch nhảy vào
vang tiếng nước xao”
(Basho)
Tiếng động của con ếch khuấy lên đã vang vọng qua bao thời đại, bao sứ
xở cho đến cả bây giờ.
“Trong chuồng bò
muỗi kêu o o
làm đen thêm cái nóng”.
(Basho)
Đó hoàn toàn là những hình ảnh hết sức bình thường của cuộc sống hàng
ngày nhưng lại được đưa vào thơ ca một cách tự nhiên không bó buộc mà vẫn
khơi gợi cảm xúc riêng trong từng độc giả.
Hai đề tài nổi bật của haiku là thiên nhiên và đời sống con người. Kết
cấu bỏ lửng của thơ haiku chính là cái hư không bảng lảng khó nắm bắt của
tinh thần Thiền Tông.
1.1.3. -
Trong tranh thủy mặc người họa sĩ chỉ với một nét bút cũng làm bật lên
cái thần của một bức tranh và thơ haiku cũng thế. Ngôn từ chỉ cần một nét
mong manh hữu hạn để chuyển tại sự vô tận của thế giới tinh thần. Cả bài thơ

như một khoảng không gian vô định mà trong đó chỉ có ba nét chấm phá cũng
10

nhuộm màu huyễn hoặc khó nắm bắt mông lung vô tận trong cái hữu hình
của lòng người.
Haiku không chỉ là một thể thơ truyền thống của người Nhật mà nó còn
là tâm hồn, tinh thần con người Nhật Bản.
Rất nhiều trường phái thơ haiku được phát triển ở Nhật và luôn theo quy
ước truyền thống tính ước lệ và chiều sâu thăm thẳm tư duy. Thơ haiku được
chứng kiến những giai đoạn chuyển đổi và tái tạo nhưng sức lôi cuốn của nó
vẫn không hề bị mất đi. Ngày nay ở Nhật Bản người ta ước tính có hơn 800
nhóm viết và truyền bá thơ haiku.
Sự xuất hiện của thơ haiku vào thế kỷ 17 ở phương Tây đã ảnh hưởng
đến nhiều nhà thơ, những người luôn say mê các tác phẩm dịch từ tiếng Trung,
tiếng Nhật của R.H.Blyth, một số độc giả và nhà viết văn bắt đầu tìm kiếm sự
tương đồng về hình thức, ý tưởng chủ đề ở những bài thơ haiku dịch sang tiếng
Anh. Tới tận đầu những năm 90 thì việc sáng tác thơ haiku ở các nước phương
Tây chỉ là công việc của số ít các nhà thơ. Họ lập nên hiệp hội đam mê và
truyền bá thơ haiku ở nhiều nước trên thế giới, nhiều nhà phê bình đã đưa thơ
haiku vào các bài tiểu luận, khảo luận.
Thơ haiku đã vượt ra ngoài biên giới Nhật Bản đến với các nước ở Châu Âu,
Nam Mỹ, Châu Phi, Trung Quốc, đặc biệt phong trào làm thơ haiku rất thịnh
hành ở Mỹ. Tại Việt Nam chắc hẳn những ai yêu thích thơ cũng đã có lần được
nghe đến thơ haiku và phong trào sáng tác thơ haiku cũng nở rộ trong giới yêu
thơ. Cuộc thi sáng tác thơ haiku Nhật –Việt lần thứ 4 được tổ chức tại Việt
Nam, giải nhất thuộc về tác giả Trần Đức Việt với bài:
“ Trên lá môn non
Giọt sương đọng
Vầng trăng tí hon”.
(Trần Đức Việt)

11


Haiku không chỉ là cái thần của con người, đất nước Nhật Bản mà nó
còn là nét đẹp văn hóa, văn học mà toàn nhân loại đang hướng tới đầy nâng niu
và trân trọng.
1.2. Haiku trong hành trình sáng tạo nghệ thuật của M.Basho
1.2.1.M.Basho
Matsuo.Basho (1644-1694) Thiền sư, thi sĩ lỗi lạc của thời Edo Nhật
Bản, tên thật là Matsuo Munefusa là con trai út thứ bảy của một samurai cấp
thấp phục vụ cho lãnh chúa thành Ueno, ngôi thành nằm giữa đường từ Kyoto
đến Ise. Basho được thừa nhận là người phát triển những câu đầu trong thể
renga thành một thể thơ độc lập mang âm hưởng sâu thẳm của thiền đạo
Masaoka Shiki hoàn thiện sự tách biệt này thêm nữa và chuyển sang gọi nó là
thể haiku.
Năm mới được 9 tuổi ông vào lâu đài Ueno làm tùy tùng cho lãnh chúa,
và trở thành bạn thân thiết với con trai vị lãnh chúa, một người chỉ hơn Basho
vài tuổi tên là Yoshitada. Hai người cùng nhau vui chơi, học tập và làm thơ.
Cũng trong những năm đó sự phát lộ năng khiếu của ông đã được nhà thơ, nhà
phê bình xuất sắc đương thời tên Kitamura Kigin phát hiện. Ông bắt đầu được
Kitamura Kigin rèn luyện và có bài thơ đầu tay năm ông 18 tuổi và được nhiều
người biết đến. Trong tập thơ xuất bản ở Kyoto năm 1644, có hai bài của Basho
và một bài của Yoshisada. Nếu dòng đời cứ bình yên trôi đi thì chắc hẳn Basho
đã suốt đời an phận một người võ sĩ cấp dưới, thi thoảng cùng chủ quân nâng
chén thưởng nguyệt trong những ngày nhàn hạ. Ngờ đâu vận đời trớ trêu,
Yoshisada chẳng may lâm bạo bệnh và mất sớm khi vừa mới hai lăm tuổi.
Basho lên núi Koya đặt một nạm tóc của bạn vào chùa và quyết định rời bỏ lâu
đài Ueno mặc dù chưa được sự đồng ý của lãnh chúa. Ông đến Kyoto vừa để tiêu
dao những ngày tháng kinh kì nhằm khuây khỏa vừa để theo đuổi nghiệp thơ ông
12


tiếp tục đọc Văn học Nhật Bản cổ đại, nghiên cứu văn học Trung Quốc và cả thư
pháp. Ông thường sống trong nhà Kigin hoặc tá túc trong một đền chùa.
Tiếp đó ông dời kinh đô đến Edo, thủ phủ của của chế độ mạc phủ
Tokugawa. Ở Edo, Basho đã làm nhiều nghề khác nhau nhưng nhận thấy mình
chỉ hợp với văn đạo, ông đã đi theo nghiệp thơ văn lấy bút hiệu là Tousei (Đào
Thanh) và luôn tìm cách trau dồi thêm về thi ca, ông bắt đầu mở lớp dạy thơ haikai,
thu nhận môn đệ và người ái mộ thơ Basho ngày một nhiều. Năm 1680, Basho xuất
bản tập thơ “Hai mươi bài thơ do môn đệ của Tousei sáng tác độc lập”.
Năm ba mươi bảy tuổi giữa lúc danh tiếng của Basho lan rộng, ông được
phong là “bậc thầy dạy thơ haikai” thì nhà thơ đột nhiên quyết định thôi dạy,
dọn về sống trong một túp lều tranh ở Fukugawa (Thẩm Xuyên) cạnh bờ sông
Sumida. Một môn đệ là Sampu (Sam Phong) xây cho Thầy mình túp lều để làm
bạn với thiên nhiên. Có đệ tử mang tặng cây ba tiêu (cây chuối) một giống cây
đương thời chỉ có ở Trung Hoa. Được Basho trồng cạnh túp lều, khách đến
chơi gọi là “Ba Tiêu Am” và chủ nhân là “ Ba Tiêu Tiên Sinh”. Trong khoảng
thời gian này Basho tu tập Thiền dưới sự hướng dẫn của Thiền sư Boccho.
Năm 1682, Edo xảy ra trận hỏa hoạn lớn, túp lều tranh của Basho cũng
chìm trong biển lửa, trắng tay Basho trở thành người không nhà cửa. Ý tưởng
phiêu bạt chợt bùng trong tâm trí ông.
Mùa thu năm 1684, Basho bắt đầu cuộc hành trình “gió biển mây ngàn”
của mình. Theo con đường ven biển về phía Tây, ông lang thang thăm lại cố
hương Ueno rồi đi Nagoya. Ở đó ông cầm đầu một nhóm thi sĩ soạn nên năm
tập renga xuất sắc mang tên Đông nhật. Đến mùa hạ năm sau Basho mới trở
về Edo sau khi thăm viếng nhiều nơi chuyến đi lớn đầu tiên này được ông ghi
lại trong kỉ hành mang tên Nhật ký phơi thân đồng nội.
Hai năm sau Basho tạo nên chấn động văn chương bằng bài thơ về bước
nhảy bất ngờ của con ếch mà tiếng động của nó khi chạm mặt nước ao cũ vang
13


trong thinh lặng của đêm đen như khoảnh khắc đạt đến Đốn ngộ của thiền sư.
Đăng trong hợp tuyển của ông và đồ đệ mang tên Xuân nhật.
Chuyến đi kế tiếp của Basho là hướng về Kashima được ông mô tả trong
kỉ hành Kashima (1687). Đây là chuyến đi mà đích đến của Basho là đền
Kashima, thăm sư phụ Boccho và ngắm hoa anh đào ở Yoshino mà nhớ về
người bạn cũ yểu mệnh tại Ueno năm xưa.
Ngay sau chyến đi ngắn ngày ấy, Basho lại bỏ ra một năm trời đi lang
thang cùng thiên nhiên, sông núi. Từ Edo đến bờ biển Suma. Ông đến
Sarashina để chứng kiến mùa trăng ở đỉnh Obasute. Năm 1689 Basho cùng đệ
tử Sora thực hiện chuyến đi nổi tiếng là hành trình lên miền Oku ở Đông Bắc
của đảo Honshu – một vùng thủa ấy còn hoang sơ, chưa có người khai phá.
Basho phiêu bạt gần ba năm trời, quãng đường ông đi qua hơn 2500km.
Sau chuyến hành trình Basho về Kyoto sống hai năm. Năm 1691, Basho trở
lại Edo với danh tiếng đạt mức tột đỉnh. Tâm hồn lãng tử của Basho lúc nào cũng
thôi thúc ông dấn bước vào cuộc hành trình gian nan như người đi tìm Đạo.
Năm 1694 Basho thực hiện chuyến lữ hành cuối cùng đến Otsu, rồi ghé
qua Kyoto ở lại Rakushisha sau đó ông đến Osaka. Vốn đã tiều tụy, khi ở
Oshaka ông lại mắc chứng tiêu chảy không cách nào chữa khỏi. Trong những
ngày cuối đời ông viết :
“Dang dở cuộc hành trình
chỉ còn mộng tôi phiêu lãng
trên những cánh đồng hoang”
(Basho)
Ngày 12/10/1694 Basho qua đời. Cái chết cũng đẹp như cuộc đời ông,
trên nửa cung đường của chuyến hành hương, giữa môn sinh và bằng hữu ông
ra đi. Đến phút cuối cùng của cuộc đời ông vẫn làm thơ vẫn chưa nguôi
mộng sông hồ.
14

Những bước đường phiêu lãng, du hành khắp nơi trên đất nước là cảm

hứng sáng tác gắn liền với khối tác phẩm đồ sộ của Basho. Những trang bút ký
và bài thơ huyền bí để lại cho hậu thế là tài sản vô giá. Sau khi nhà thơ mất,
một số đệ tử đã tập hợp những bài thơ của ông thành Ba tiêu thất bộ tập.
Những tác phẩm Basho để lại cho đời là: Ngày Đông (1684), năm tập, viết
chung với bạn thơ Du kí lang thang đồng nội (1685).
Ngày Xuân (1686) viết chung với đồ đệ Nhật kí hành trình Kashima (1687),
Ghi chép trên chiếc túi hành hương (1688), Lối lên miền Oku (1689), Áo tơi
cho khỉ (1691).

Giữa hai chiều không gian và thời gian, con người từ khi đến với cõi thế
này đã phải chấp nhận sự hữu hạn của năm tháng, do vậy mà luôn ao ước tìm
đến cõi vĩnh hằng. Những chuyến du hành của Matsuo Basho như muốn bộc lộ
khát khao như muốn phá vỡ đi sự câu thúc của chiều còn lại trong vũ trụ (thời
gian) để tìm ra cho được sự rộng mở khai phóng không gian tồn tại của bản thể
và cái đẹp. Đời ông như một lữ khách trong thời gian, là những chuyến du
hành không dứt, phản ánh qua các tập kỉ hành hay xoay quanh các thi tập phân
theo bốn mùa.
Ông yêu thích các thi nhân đời Đường và nhắc đến tứ thơ của họ trong
tác phẩm của mình. Ông chuộng Trang Tử và dựa trên nền triết học này mà đề
ra thuyết “Bất dịch và Lưu hành” trong thi ca của mình: thi nhân đi tìm những
giá trị vĩnh hằng trong dòng biến động của vạn vật. Ông quan niệm tuân theo
tạo hóa và quay trở về với tạo hóa “tả thông thì học thông, tả trúc thì học trúc”
và cho rằng trong đời chỉ có hai loại thơ: thơ tự nhiên dung hợp giữa thiên
nhiên và nhân sinh còn thơ nhân tạo chỉ có kỹ thuật mà thiếu tấm lòng. Basho
từng bảo: "học thi pháp để rồi quên nó đi” đối với ông cái tình cần hơn sự
chuốt vẽ chữ nghĩa.
15

Tin vào sự mẫn cảm của người nghệ sĩ, Basho khuyên nên nắm bắt ngay
ánh chớp lóe ra từ sự vật trước khi nó tan biến đi trong tâm trí. Thơ cần nhẹ

nhàng, đơn giản, trong sáng, gần với đời sống và thi nhân cần “nâng tâm hồn
lên thành thơ để rồi quay trở về vời đời thường”. Chính điều đó đã trở thành
một trong những đặc trưng của thơ haiku do ông sáng tạo, một thể thơ mà tất
cả những điều nhỏ nhoi, bình thường trong cuộc sống như bụi cám, tiếng dế
mèn, tiếng ve, ngôi nhà dột, cây cột xiêu đổ, con sâu đang gặm hạt dẻ, chiếc
mũ chiến lăn lóc trên cỏ, cây chuối trong giông bão…. Đều có thể trở thành
những đề tài hồn nhiên, dịu dàng và đầy sức sống của thơ.
Có hai điều mang tính cách tân trong quan niệm thi ca của ông: không
lặp lại chính mình và không theo khuôn mẫu người. Ông tự bảo mình “phải
biết chán cái tôi của ngày hôm qua” và tự chế diễu thơ mình tựa như “ lò sưởi
trong mùa hạ và quạt trong mùa đông”. Ông kêu gọi đừng bắt chước theo
những thành tựu của văn hào xưa mà chỉ nên truy tìm điều họ đã muốn đi tìm.
Với tinh thần đó dù đã có rất nhiều những trường phái haikai nổi tiếng
trong thế kỉ 17 như Trinh Môn, Đàm Lâm, Basho vẫn tự lập nên một phong
cách thơ mới gọi là Shofu (Tiêu Phong) trong đó chứa đựng những quan niệm
nghệ thuật của riêng ông. Linh hồn thơ Shofu chính là linh hồn của sabi (cái
tịch liêu, tĩnh lặng) và karumi (nhẹ nhàng), mang âm điệu sâu thẳm của Thiền
đạo và sắc màu tươi thẳm của thiên nhiên.

Matsuo Basho là cha đẻ của thơ haikai (haiku) Nhật Bản. Cuộc đời ông
gắn với những cuộc hành trình, ngao du khắp niềm trên đất nước và haiku như
một người thư kí trung thành ghi lại những khoảnh khắc chớp lóe của sự vật
trong cái nhìn của thi nhân.
Haiku có một vị trí vô cùng quan trọng trong hành trình sáng tạo nghệ
thuật của Basho, với các sáng tác trong sự nghiệp ông đã để lại cho thế hệ sau
16

một không gian đa chiều của nghệ thuật thơ haiku. Chiều sâu về nhận thức, tư
duy nghệ thuật, sự liên tưởng không ngờ tới giữa hai sự vật trong một bài
thơ hai ku.

Thiên tài Basho ôm choàng những hiện tượng khác nhau của đời sống,
do đó đã gây nên những ảnh hưởng sâu rộng về sau. Tương truyền ông có đến
2000 đệ tử, nổi danh nhất là 10 nhà thơ được gọi là Ba tiêu thập triết đó là:
Etsujin, Hokushi, Joso, Kikaku, Kyorai, Kyoroku, Ransetsu, Shiko, Sanpu và
Yaha. Các nhà thơ theo khuynh hướng lãng mạn hay hiện thực hậu sinh như
Kobayashi Issa, Masaoka Shiki đều có thể xem Basho là bậc thầy của mình,
nhiều người đã hành hương theo bước đường phiêu lãng của thầy ngày xưa.
Sang thế kỉ XX, Basho càng trở thành một hình ảnh vĩ đại được tôn vinh ở
nền văn hóa Nhật Bản. Một số nhà nghiên cứu xem ông là nhà thơ huyền bí
tương tự Blake và WordsWorth, số khác thấy ông đi trước chủ nghĩa tượng
trưng của Pháp. Thể thơ haiku do ông hoàn thiện bằng thiên tài của mình đã trở
thành thể thơ quốc tế, được nghiên cứu rộng rãi trong và ngoài Nhật Bản. Nhiều
nhà thơ lớn của thế giới còn sáng tác thể thơ này bằng tiếng mẹ đẻ của mình.
Thơ haiku không chỉ có vị trí tối thượng trong hành trình sáng tạo nghệ
thuật của Basho mà nó còn gây ảnh hưởng sâu rộng đến thế hệ sau. Chứng tỏ
sức hút của thể thơ ngắn nhất thế giới đã vượt ra khởi biên giới nước Nhật đến
đông đảo bạn yêu thơ trên toàn thế giới. Ở Việt Nam cuộc thi sáng tác thơ
haiku được tổ chức để phục vụ niềm đam mê và tình yêu thơ ca Nhật Bản nói
chung và Haiku nói riêng.
17


Chƣơng 2: Đặc sắc thơ haiku của Matsuo Basho
2.1 Basho thi sĩ của mùa thu
Nhà nghiên cứu Nhật Chiêu từng nói: “Có một thể thơ mà khi để nó lướt
qua tâm hồn ta, ta có cảm giác như đang chạm vào thiên nhiên, chạm vào từng
mùa…Haiku? Đọc haiku là chạm vào hơi thở của mùa. Là chạm vào hoa đào,
đom đóm, lá phong, tuyết trắng…”
Trong tiếng Nhật thơ haiku không có vần và thường không có nhan đề.
Đề tài của haiku là thiên nhiên bốn mùa và những khoảnh khắc độc sáng trong

đời. Sức mạnh của thể thơ nhỏ nhắn, mong manh này là cách nó khơi gợi, đánh
thức và gây liên tưởng hồn ta. Cái đẹp của thể thơ nhẹ nhàng đơn sơ này là
cách nó nắm bắt tố chất của sự vật trong một vài từ do đó nó không có chỗ cho
những tính từ hoa mĩ, phù phiếm.
Nếu nó muốn thể hiện nỗi buồn, nó sẽ không nhắc đến chữ buồn hay sầu
mà chỉ dùng những từ ngữ, sắp đặt hình ảnh lên nỗi buồn ấy :
“Trong âm u
hiên nhà thấm ướt
mưa thu”
(Taigi)
Cho chữ buồn vào bài thơ của Taigi sẽ là thừa. Hình ảnh hiên nhà ướt mưa
ấy đã là nỗi buồn rồi, một nỗi buồn sờ được, nếm được và có thể nhìn thấy.
“Mặt trăng đến rồi đi
để lại
chiếc bàn bốn góc”
(Basho)
18

Khi nói về sự ra đi của người bạn, Basho không cần dùng từ diễn tả một
cách trực tiếp là mất hay chết mà chỉ cần mô tả sự hoang vắng, quạnh hiu nơi
người bạn hay ngồi bên chiếc bàn làm việc giờ đây chỉ còn chiếc bàn với bốn góc
trống không, vắng lặng. Tác giả đã sử dụng ngôn từ mô tả sự vật để liên tưởng
đến quá khứ khi mà người bạn còn sống. Đó chính là sự tinh tế của bài thơ.
Phần lớn thơ haiku của các thi sĩ Nhật Bản nói về bốn mùa xuân, hạ, thu,
đông, tuy không nêu hẳn tên mùa trong năm. Họ thường dùng những chữ liên
quan đến mùa xuân như: “tan tuyết”, lúc “hoa mận nở, hoa đào nở”, hoặc đến
lúc “ngỗng trời quay về” với oanh, én, bướm, ếch, đào, mơ, liễu…. Về mùa thu
họ hay tả “đêm thanh, trời vằng vặc đầy sao”, lúc “bóng nai thoáng qua rừng”
“chuồn chuồn bay chập chờn”, khi người ta gặt lúa cùng với ngân hà, trăng,
nhạn, quạ, lá phong, cúc… Hạ với chim cu, đom đóm, ve sầu, chuồn chuồn,

hoa bìm bìm, sen, tiếng muỗi vo ve, tiếng quạt hay tiếng suối chảy róc rách…
Mùa đông không tránh được cảnh tuyết rơi, sương mù, cánh đồng héo úa, năm
tàn, trong hay ven “rừng thông”, “gấu” hay là tiếng củi hoặc than nổ tí tách
trong lò sưởi … và hầu như các tác giả haiku người Nhật không bao giờ nói
đến lũ lụt, động đất, bệnh tật, sóng thần…những cái không tốt của thiên nhiên.
Có mấy lí do khiến thơ haiku dùng từ mùa là:
Một là từ mùa chính là thi pháp của thơ haiku, giúp nó có sức khơi gợi
rất cao, vì mùa có không gian và thời gian rất lớn.
Hai là bản thân người Nhật rất yêu thiên nhiên, quá yêu sắc màu của
những mùa luân chuyển.
Sở dĩ nói Basho là thi sĩ của mùa thu bởi lẽ mùa thu đi vào thơ ông như
một người bạn trong chuyến hành trình nghệ thuật của đời ông. Theo số liệu
thống kê cho thấy trong tuyển tập thơ haiku của Basho do Thái Bá Tân dịch từ
tiếng Nga và tiếng Anh, có khoảng 409 bài thơ viết về các mùa gồm: 188 bài
thơ về mùa thu, 96 bài về mùa xuân, 74 bài về mùa hạ và 51 bài về mùa đông.
19

Số lượng những bài thơ viết về mùa thu chiếm gần một nửa, gấp 2 lần
mùa xuân, 2,5 lần mà hạ và 3,7 lần mùa đông. Dường như thi sĩ đã có một cái
nhìn trìu mến, đầy tình yêu dành cho mùa thu, mùa của lá phong, của trăng với
nhiều sắc thái thẩm mĩ khác nhau, giao thoa hòa quyện lẫn nhau để làm nên
hương sắc và phong vị khó miêu tả, khó phân tích, chỉ có thể cảm nhận bằng sự
vi diệu của tâm linh, sự tinh tế của tâm hồn, sự mẫn cảm của trực giác mà thôi.
Trong đó bi cảm (tiếng Nhật là aware) là cảm thức bao trùm, là cái chất thu
đẹp, buồn và quyến rũ, ngàn năm lay động hồn người dù chỉ bằng một
chút men thu.
Với mọi vẻ đẹp vốn có của mình, thiên nhiên mùa thu trong thơ haiku
Basho nói riêng và các mùa nói chung vừa là những hình ảnh bình dị, nguyên
sơ, đời thường vừa hùng vĩ ngút ngàn.
Trong thơ mọi hình ảnh thiên nhiên thường có như tuyết, trăng, hoa, núi,

sông….đến các loại hoa dại, dưa, bùn, cỏ…Bên cạnh các loài chim đỗ quyên,
chim sẻ…còn có cả chấy, ruồi, muỗi, rận, nước đái ngựa…. Basho đưa chúng
vào rất tự nhiên y như những gì mắt ông trông thấy. Ông không hề có sự chọn
lựa cảnh kiêu sa, lộng lẫy. Vì vậy thiên nhiên hiện lên thật hồn nhiên trong cái
trong trẻo và nguyên sơ của nó:
“ Dòng thác trong
giữa làn sóng bạc
trăng mùa hạ lên”
(Basho)
Đây là hỉnh ảnh tuyệt đẹp của dòng thác hay dòng Sông Trong
(Kyiotaki) trong sạch không chút bám bụi, và khi trăng mùa hạ chiếu vào thì
lấp lánh ngọn sóng bạc. Một vẻ đẹp nguyên sơ, thanh sạch.
Hay hình ảnh dải Ngân Hà gợi bao cảm xúc trong lòng thi sĩ :

×