DẠY HỌC THEO NHÓM TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ
HIỆU QUẢ VÀ ĐỀ XUẤT
Võ Minh Tập, Lớp sử IIIA (2005-2008)
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ở nước ta, trong quá trình cải cách giáo dục – đào tạo, mục tiêu, chương trình, nội
dung giáo dục – đào tạo đã thay đổi nhiều lần cho phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế
- xã hội và đã đạt được những tiến bộ đáng khích lệ. Tuy nhiên, những thay đổi về
phương pháp còn quá ít, quá chậm. Phương pháp đang được sử dụng phổ biến trong các
trường học chủ yếu là thuyết giảng có tính chất áp đặt của thầy, coi nhẹ hoạt động tích
cực, chủ động của trò. Sự chậm trễ đổi mới phương pháp dạy học ở trung học phổ thông
là trở ngại lớn cho việc thực hiện mục tiêu giáo dục mà Đảng ta đã đề ra là đào tạo
“người lao động tự chủ năng động, sáng tạo”. Để khắc phục tình trạng này, Nghị quyết
TW 2, Khóa VIII, BCH Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra nhiệm vụ: “ Đổi
mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện
thành nếp tư duy sáng tạo cho người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến
và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo thời gian tự học, tự nghiên cứu
cho học sinh. Phát triển phong trào tự học, tự đào tạo thường xuyên và rộng khắp trong
toàn dân nhất là trong thanh niên” [5: 41].
Điều 28.2. Luật Giáo dục quy định: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy
tính tích cực, tự giác, chủ động của học sinh; phù hợp với đặc diểm của từng lớp học,
môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực
tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh.” [6: 77].
Chiến lược phát triển giáo dục 2001- 2010 (Ban hành kèm theo Quyết định số
201/2001/QĐ- TTg ngày 28 tháng 12 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ), ở mục 5.2.
ghi rõ: “Đổi mới và hiện đại hoá phương pháp giáo dục. Chuyển từ việc truyền thụ tri
thức thụ động, thầy giảng, trò ghi sang hướng dẫn người học chủ động tư duy trong quá
trình tiếp cận tri thức; dạy cho người học phương pháp tự học, tự thu nhận thông tin
một cách có hệ thống và có tư duy phân tích, tổng hợp; phát triển năng lực của mỗi cá
nhân; tăng cường tính chủ động, tính tự chủ của học sinh, sinh viên trong quá trình học
tập,...”
Một vấn đề quan trọng là, nhiều giáo viên nhận thức được sự cần thiết phải đổi mới
phương pháp nhưng rất khó từ bỏ các phương pháp đã quen dùng. Do đó, muốn thực
hiện đổi mới phương pháp dạy học thì trước hết bản thân mỗi giáo viên phải ý thức được
để chủ động thay đổi các phương pháp dạy học truyền thống đã thành thói quen và thực
hiện các phương pháp mới phù hợp với thực tế hiện nay.
Đối với môn lịch sử, thực tế cho thấy rằng những năm gần đây, việc dạy lịch sử ở
trường phổ thông đã có những bước tiến đáng kể về nhận thức, nội dung, phương pháp
dạy học. Song vẫn còn nhiều điều đáng lo ngại. Kết quả các kì thi vào Đại học khối C
năm 2005, 2006, 2007 đã làm cho dư luận xôn xao và một số người đi đến kết luận là
chất lượng dạy học lịch sử ở trường phổ thông hiện nay quá kém. Sở dĩ có kết quả như
vậy là có nhiều nguyên nhân. Chúng ta điều biết rằng, “số lượng học sinh thi vào các
trường khối C hiện nay rất ít (khoảng 15-20%), song chỉ khoảng ½ trong số đó thực sự
có khả năng và hứng thú với các môn khoa học xã hội. Còn lại đa số các em học kém
toàn diện, không thể thi được các khối A B D đành thi vào khố C. Chính vì vậy mới có
nhiều điểm 0 và những sai xót khó hiểu…Rõ ràng kết quả đó không phản ảnh chất lượng
dạy học môn lịch sử ở trường phổ thông hiện nay. Nhưng dù sao nó đã chỉ cho các nhà
quản lí giáo dục và giáo dục lịch sử thấy rằng hiệu quả dạy học bộ môn ở các trường phổ
thông chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra” [2:52]
Nguyên nhân của tình trạng chậm đổi mới phương pháp dạy học lịch sử có nhiều
nhưng chủ yếu do những nguyên nhân cơ bản sau: Trước hết, là do quan niệm
chưa đúng về bộ môn. Thứ hai, những tác động tích cực của cơ chế thị trường
cũng làm cho chất lượng dạy môn lịch sử chưa tốt. Thứ ba, việc đào tạo giáo
viên lịch sử cho các trường phổ thông trung học hiện nay có tác động không nhỏ
tới chất lượng dạy học bộ môn. Giáo viên lịch sử THPT hiện nay được đào tạo từ
nhiều nguồn nhưng không được kiểm tra, đánh giá kỉ lưỡng nên chất lượng giáo
viên không đều. Thứ tư, hiện tượng bảo thủ, lạc hậu về phương pháp dạy học
cũng làm cho hiệu quả dạy học bộ môn chưa cao.
Sự phát triển của xã hội cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI đòi hỏi con người có một
số phẩm chất và năng lực nổi lên hàng đầu như năng lực làm việc nhóm, năng lực hoạt
động thực tiễn và giải quyết vấn đề do cuộc sống đặt ra, năng lực hợp tác, năng lực thích
ứng... Những yêu cầu trên đặt ra cho giáo dục phải đổi mới toàn điện để đáp ứng tốt hơn
nhu cầu giáo dục của xã hội và cá nhân, từ học chế đào tạo, cách thiết kế chương trình,
tìm tòi những phương thức, cách thức giáo dục thích hợp hơn. Tuy nhiên, để tìm được
những cách thức đào tạo phù hợp, cần phải làm sáng tỏ bản chất việc học mới có thể tìm
tòi được những cách dạy phù hợp, có hiệu quả nhất.
Tình hình nói trên về phương pháp dạy học học lịch sử rõ ràng là không đáp ứng
được yêu cầu của sự phát triển giáo dục. Tuy nhiên, để góp phần biến đổi thực tế đó,
không thể nôn nóng, chủ quan, cực đoan, duy ý chí, cần phải có một quan niệm tổng thể,
đồng thời phân tích kĩ những hoàn cảnh khách quan, những thực tế của dạy học hiện nay
đặt ra một yêu cầu cấp thiết phải đi tìm các giải pháp để nâng cao hiệu quả dạy học môn
lịch sử ở trường phổ thông vừa căn bản, vừa thiết thực và vừa có tính khả thi.
B. DẠY HỌC THEO NHÓM TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ HIỆU QUẢ VÀ ĐỀ
XUẤT
I. DẠY HỌC THEO NHÓM TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ.
Công cuộc cải cách phương pháp dạy học đã được tiến hành từ rất lâu ở nước ta, với
những phương pháp mới mẽ trong quá trình dạy học, nhưng có một phương pháp dạy
học hiện đại chưa được thực hiện phổ biến trên thực tế, đó là dạy học theo nhóm. Vì
vậy, tìm hiểu và nghiên cứu dạy học theo nhóm là một vấn đề cần thiết trong dạy học ở
trường phổ thông hiện nay.
Khuynh hướng chung tồn tại nhiều năm qua trong trường phổ thông là dạy theo lối
thuyết giảng một chiều, giáo viên “dội” kiến thức xuống, học sinh thụ động tiếp nhận.
Để khắc phục tình trạng này, hiện nay các trường bắt đầu thay đổi cách truyền thụ, tổ
chức cho học sinh học nhóm, giúp các em biết trao đổi có nhu cầu tự học.
1.1. Khái niệm, mục đich, nguyên tắc và điều kịên
- Khái niệm: Dạy học chia nhóm được hiểu là cách dạy học, trong đó các học sinh được
chia thành các nhóm nhỏ, cùng nhau nghiên cứu giải quyết các vấn đề mà giáo viên đặt
ra, từ đó giúp học sinh tiếp thu được một kiến thức nhất định nào đó.
- Mục đích:Giúp học sinh phát triển kĩ năng giao tiếp. Phát triển năng lực nhận thức và
tư duy của học sinh. Phát triển nhân cách học sinh.
- Nguyên tắc:Chia nhóm để học tập không chỉ là việc học sinh ngồi cạnh nhau một cách
cơ học, cùng nhau trao đổi, thảo luận, giúp đỡ nhau, chia sẽ hiểu biết, kinh nghiệm mà
còn ở mức độ cao hơn, đảm bảo 5 nguyên tắc sau:
Phụ thuộc lẫn nhau một cách tích cực. Tương tác “mặt đối mặt” trong nhóm học sinh.
Trách nhiệm cá nhân cao. Sử dụng những kĩ năng giao tiếp và kĩ năng xã hội. Rút kinh
nghiệm tương tác nhóm. [3: 10]
- Điều kiện: Cách chia nhóm trong học tập tại lớp sao cho thích hợp và đạt hiểu quả cao,
cần phải đảm bảo các điều kiện sau:
- Thành lập nhóm học tập phải phù hợp với từng môn học, từng chương, từng chủ đề,
phù hợp với trình độ học lực và các điều kiện thực tế khác.
- Xác định rõ mục đích, nhiệm vụ và nội dung của một cuộc thảo luận học tập tại lớp.
- Tạo không khí cởi mở, thoả mái trong tiến trình chia nhóm thảo luận.
Để có thể hiểu kĩ năng học tập theo nhóm, cần làm rõ đặc thù của hoạt động học
tập theo nhóm của học sinh:
Hoạt động học tâp
tự lực của học sinh
Hoạt động học tâp theo nhóm của học sinh
Học sinh Chủ thể hoạt động
học tập
Chủ thể hoạt động học tập, giao tiếp
Đối tượng hoạt
động
Hệ thống kiến thức Hệ thống kiến thức, quan hệ, kết cấu
Kết quả hoạt
động
Hệ thống tri thức,
Kĩ năng kĩ xảo
Hệ thống tri thức, kĩ năng kĩ xảo bộ môn, năng lực
giao tiếp, năng lực tổ chức
Phương Pháp
hoạt động
Phương pháp nhận
thức
Phương pháp nhận thức, tổ chức, phương pháp
giao tiếp, hợp tác.
Tính chất hoạt
động
Tự lực cá nhân Tự lực, hợp tác, tập thể
Mô hình
GV HS Đối
tượng hoạt động
HS
GV Đối tượng hoạt động
HS HS
Từ bảng so sánh cho thấy, hoạt động học tập theo nhóm, cùng lúc học sinh phaỉ tiến
hành 3 nhóm hoạt động học tập là: học tập, tổ chức và giao tiếp. Vì vậy, trong hoạt động
học tập theo nhóm, học sinh có thể đạt được nhiều mục tiêu cùng một lúc. Ngoài kết quả
về học tập, học sinh còn hình thành năng lực hoạt động thực tiễn, năng lực hoạt động
hợp tác, đời sống tình cảm của học sinh cũng được phát triển trên cơ sở sự chia sẽ, đồng
cảm, giúp đỡ nhau trong học tập. Về lí thuyết, để có thể học theo nhóm có hiệu quả, học
sinh phải được hình thành một loạt kĩ năng, đó là kĩ năng học theo nhóm học tập. Về cấu
trúc, trong hoạt động học tập theo nhóm, ngoài các hành động học tập-nhận thức còn có
các hành động giao tiếp, tổ chức.
Chính vì vậy, việc dạy học hợp tác theo nhóm là hết sức cần thiết. Hơn thế nữa, nó
còn có những lý do khách quan ở nước ta hiện nay như: Đổi mới phương pháp dạy học –
dạy học theo nhóm để giải quyết sự bất cập trong việc thực hiện nhiệm vụ của nhà
trường trong hoàn cảnh mới; đổi mới phương pháp dạy học – dạy học theo nhóm để đáp
ứng yêu cầu đào tạo của xã hội; đổi mới phương pháp dạy học – dạy học theo nhóm để
phù hợp với mục tiêu, định hướng đổi mới phương pháp dạy học mà Bộ GD& ĐT ban
hành
1.2. Tổ chức và tiến hành chia nhóm.
Cách thức một giáo viên tổ chức lớp học có ảnh hưởng lớn đối với cả dạy và học.
Ngoài ra, cơ cấu tổ chức có liên quan tới triết lí của nhà trường hoặc của giáo viên, mục
đích chương trinhg giảng dạy, phương pháp dạy và học, và mối quan hệ giữa các cá
nhân với nhau.
- “Việc dạy học chia nhóm được chia làm ba bước sau:
+ Bước 1: Giáo viên dựa trên nội dung các tri thức cần truyền thụ cho học sinh, đề ra
nhiệm vụ nghiên cứu, giải quyết vấn đề, có thể là câu hỏi hoặc yêu cầu hoạt động. Các
chỉ dẫn cần thiết được đưa ra phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh.
+ Bước 2: Thảo luận theo nhóm để giải quyết vấn đề. Việc thảo luận này phải đạt được
mục đích là mọi thành viên trong nhóm điều phải hiểu được vấn đề và biết giải quýêt
vấn đề, sao cho khi giáo viên kiểm tra, hoặc nhóm khác kiểm tra mọi thành viên đều phải
trả lời được. trong quá trình thảo luận, các nhóm có thể trao đổi với nhau với giáo viên.
+ Bước 3: Kiểm tra, đánh giá, thể thức hoá các tri thức thu nhận. Đây là công việc của
giáo viên. Trong bước này các học sinh trong lớp có thể đặt ra các vấn đề để cùng nhau
giải quyết. Cuôia buổi học giáo viên có những nhận định, đánh giá về thái độ làm việc,
kết quả thu được, và kết luận về những tri thức, cả tri thức sự vật và tri thức phương
pháp.” [1: 12]
- Có ba cách tổ chức nhóm như sau:
a). Cách thứ nhất là thảo luận nhóm:
Phương pháp này có thể chia làm 4 giai đoạn.
- Giai đoạn 1: Chuẩn bị thảo luận. Giai đoạn này có 5 bước: Chia nhóm: Chia ngẫu
nhiên hay chủ định (tuỳ theo mục đích sư phạm hay yêu cầu của vấn đề học tập), số
lượng thường từ 4 đến 6 em; Đặt tên nhóm; Phân công trách nhiệm: nhóm trưởng, thư
ký, thành viên (tuỳ theo đặc thù bộ môn hay yêu cầu của vấn đề mà giao nhiệm vụ); Chỉ
định vị trí làm việc của các nhóm; Chuẩn bị dụng cụ học tập: phụ thuộc vào sơ sở vật
chất từng lớp.
- Giai đoạn 2: Làm việc chung cả lớp
Trong giai đoạn này giáo viên cần nêu vấn đề, xác định nhiệm vụ nhận thức, giao nhiệm
vụ cho mỗi nhóm, hướng dẫn làm việc theo nhóm (các chỉ dẫn cần thiết được đưa ra phù
hợp với trình độ nhận thức của học sinh).
- Giai đoạn 3: Làm việc theo nhóm. Giai đoạn này có 2 bước:Các nhóm phân công
nhiệm vụ cho từng cá nhân làm việc;Trao đổi ý kiến thảo luận trong nhóm: sôi nổi có
trật tự, có ghi chép cẩn thận và chọn lọc, tổng hợp ý kiến, giáo viên cần quan sát, uốn
nắn lệch lạc điều chỉnh cho đúng hướng thảo luận.
- Giai đoạn 4: Thảo luận, tổng kết trước lớp. Giai đoạn này có 2 bước:Các nhóm lần lượt
báo cáo kết quả: Thảo luận chung: các nhóm khác nhận xét, đánh giá, bổ xung ý kiến của
nhóm bạn; Giáo viên tổng kết và đặt vấn đề tiếp theo.
Cứ thế quay vòng các nhóm và chỉ dừng lại khi giáo viên thu nhận được tất cả các ý
kiến của tất cả các nhóm, tóm tắt lại và đánh giá quá trình thực hiện nhiệm vụ và kết quả
của từng nhóm và cả lớp. Giáo viên cần chú ý khen và động viên.
Hình 1: Mô hình nhóm 4-5 HS
b). Cách thứ hai là thảo luận ghép đôi:
Đây là hình thức thảo luận trước hết diễn ra ở hoạt động của hai học sinh ngồi cạnh
nhau. Sau khi có kết quả nhóm này ghép với hai người ngồi đối diện để tạo thành nhóm
4 người, tiếp tục thảo luận và sau đó tiếp tục ghép hai nhóm 4 người để có nhóm 8 người
thảo luận. Ghép hai nhóm 8 người thành nhóm 16 người thảo luận... Cuối cùng là nhóm
lớn nhất (toàn lớp) thảo luận (nếu lớp có số học sinh lẻ thì linh động có một nhóm 3
người).
Hình 2: Mô hình ghép nhóm.
c). Cách thứ ba là thảo luận chung toàn lớp (nhóm lớn):
Là hình thức do giáo viên chủ trì điểu khiển, học sinh đóng góp ý kiến của mình.
Trong kiểu thảo luận này, giáo viên nên tập trung giải quyết lần lượt từng vấn đề và
chuẩn bị kỹ lưỡng hệ thông câu hỏi gợi mở, định hướng nêu vấn đề giúp học sinh thảo
luận.” [7]
3 3 3
3
3
2 2 2
2 2
5 5 5
5 5
1 2 3
4 5
1 2
3
4 5
1 2 3
4 5
1 2 3
4 5
1 1 1
1 1
4 4 4
4 4
1 2 3
4 5