Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Nhu cầu tiếp nhận thông tin báo chí của công chúng hiện nay (Khảo sát công chúng tỉnh Nghệ An)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (347.37 KB, 8 trang )

Nhu cầu tiếp nhận thông tin báo chí của công chúng
hiện nay (Khảo sát công chúng tỉnh Nghệ An)


Nguyễn Thị Hoàng Yến


Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
Luận văn Thạc sĩ ngành: Báo chí học; Mã số: 60 32 01
Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Thoa
Năm bảo vệ: 2014


Keywords. Báo chí học; Thông tin báo chí; Truyền thông đại chúng; Nghệ An

Content
1. Lý do chọn đề tài
Cùng với sự phát triển của xã hội, đời sống của người dân ngày càng được nâng cao, họ không còn
phải lo lắng đến việc làm sao thoả mãn được nhu cầu như: ăn, ở, mặc mà bắt đầu chú trọng hơn đến việc
thoả mãn các nhu cầu ở cấp độ cao hơn, nhu cầu văn hoá tinh thần, thông tin, giải trí… Đặc biệt trong
giai đoạn hiện nay thì nhu cầu về thông tin là cấp thiết hơn lúc nào hết. Phương tiện thông tin là một bộ
phận quan trọng trong đời sống sinh hoạt của các cá nhân, gia đình cũng như ngoài xã hội. Báo chí là
phương tiện truyền tin đang ngày càng có vị trí quan trọng trong việc cung cấp thông tin cho quần chúng
nhân dân, các tổ chức xã hội cũng như các doanh nghiệp trên thị trường. Báo chí ngoài chức năng là một
phương tiện thông tin thoả mãn nhu cầu được thông tin của quần chúng, nó còn là công cụ tuyên truyền
của các tổ chức chính trị, xã hội. Ngoài ra, báo chí còn là một công cụ truyền thông hiệu quả giúp cho
các doanh nghiệp quảng bá về mình.
Trong sự nghiệp đổi mới của đất nước, báo chí đã làm tốt công tác thông tin, tuyên truyền đối
ngoại, góp phần quan trọng vào việc nâng cao vị thế, hình ảnh đất nước, con người Việt Nam trên
trường quốc tế; củng cố và mở rộng quan hệ của Việt Nam với các nước và các tổ chức quốc tế, thúc
đẩy hội nhập quốc tế, thu hút đầu tư và du khách nước ngoài vào Việt Nam, tăng cường gắn kết, vận


động cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài đóng góp vào công cuộc xây dựng và phát triển đất
nước.
Đặc biệt, báo chí đã tham gia làm tốt vai trò là diễn Đàn của nhân dân, đưa tiếng nói của nhân dân
đến với Đảng và Nhà nước cũng như tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước đến với đông đảo người dân, góp phần to lớn trong việc thúc đẩy việc thực thi Nghị quyết của
Chính phủ.
Thực tế, báo chí Việt Nam đang phát triển rất mạnh mẽ với 838 cơ quan báo in, 67 đài phát thanh -
truyền hình và 104 kênh truyền hình, hàng trăm trang báo điện tử. Trong bối cảnh đó, đòi hỏi mỗi cơ
quan báo phải xác định hướng đi cho riêng mình, biết nắm bắt cơ hội và tự mình phát triển đi lên. Do đó,
để có thể chiếm lĩnh được thị trường thu hút được đông đảo độc giả thì bắt buộc những người làm báo
phải hiểu thị hiếu thông tin của công chúng. Để đạt được điều này chỉ có thể thông qua hoạt động nghiên
cứu hành vi độc giả đọc báo.
Có thể nhận thấy hiện nay, cùng với sự phát triển của kinh tế xã hội đời sống vật chất tinh thần của
người dân được nâng cao thì nhu cầu về thông tin giải trí của người dân cũng ngày một tăng. Để đáp ứng
nhu cầu này của người dân các phương tiện thông tin đã không ngừng cải tiến và phát triển nhằm thoả
mãn tốt hơn nhu cầu của công chúng, trong đó có báo chí. Tuy nhiên, báo chí vẫn chưa thực sự thoả mãn
tốt được nhu cầu của bạn đọc, về mặt nội dung và hình thức cũng như trong khâu phát hành còn có
những hạn chế nhất định. Đây là một vấn đề mà tất cả những người làm báo cần phải quan tâm và tìm
cách khắc phục. Mỗi tờ báo trên thị trường đều có độc giả của mình, mục tiêu của người làm báo là tăng
được số lượng độc giả của mình. Để làm được điều này, chỉ có cách duy nhất là thoả mãn tốt được nhu
cầu của bạn đọc. Câu hỏi này chỉ có thể trả lời được thông qua nghiên cứu nhu cầu công chúng.
Nghệ An là tỉnh có diện tích lớn nhất nước, với số dân đông. Tại Nghệ An có các cơ quan báo chí
trung ương (văn phòng đại diện), và báo chí của tỉnh. Với vị trí như vậy, tỉnh Nghệ An được coi là nơi lý
tưởng đã tiến hành các cuộc nghiên cứu.
Việc khảo sát nhu cầu tiếp nhận thông tin, của các bộ phận công chúng nhất định, ở khía cạnh định
lượng và định tính, có sơ sở khoa học, khách quan, cụ thể…là một nhu cầu cấp thiết đối với không chỉ
với các cơ quan báo chí, mà còn với cả các cấp quản lý Nhà nước trên lĩnh vực văn hoá. Chính vì thế, tôi
chọn “Nhu cầu tiếp nhận thông tin của công chúng Nghệ An” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn tốt
nghiệp Thạc sỹ báo chí học của mình.


2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nghiên cứu công chúng truyền thông đã được tiến hành từ lâu và thường xuyên ở nhiều quốc gia
phát triển. Công chúng truyền thông đã trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều chuyên ngành khoa
học: xã hội học, báo chí, tâm lý học, văn hóa học,…
Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu phong phú về truyền thông đại chúng, từ những
công trình nghiên cứu về báo chí từ góc độ sử học, những công trình điều tra nghiên cứu về các giới
công chúng độc giả và khán thính giả dưới góc độ tâm lý học xã hội, cho tới những công trình phân tích
nội dung về các thông điệp của truyền thông đại chúng theo cách tiếp cận của ngôn ngữ học, của ngôn
ngữ học xã hội…
2.1 Tổng quan nghiên cứu công chúng truyền thông trên thế giới
Những công trình nghiên cứu về truyền thông đại chúng được bắt đầu tiến hành từ đầu thế kỷ XX,
nhất là kể từ năm 1933 trở đi, khi mà Hitler lên nắm chính quyền ở Đức – sự kiện mà nhiều người cho là
nhờ vào những chiến dịch tuyên truyền trên các phương tiện truyền thông.
Trong lịch sử nghiên cứu về truyền thông đại chúng trên thế giới, người ta thường phân biệt ba giai
đoạn khác nhau sau đây [44, tr. 16-18].
Giai đoạn thứ nhất, bắt đầu từ khoảng đầu thế kỷ XX cho tới cuối thập niên 1930, là giai đoạn mà
giới học thuật quan niệm rằng các phương tiện truyền thông có một sức tác động to lớn lên trên lối ứng
xử và suy nghĩ của người dân. Nhóm tác giả tiêu biểu trong thời kỳ này là nhóm “trường phái Frankfurt”
ở Đức vốn bao gồm những nhà trí thức chống đối lại Hitler và do đó về sau bị chính quyền quốc xã trục
xuất ra nước ngoài. Các học giả này cho rằng các phương tiện truyền thông đại chúng ở Đức đã đóng
một vai trò then chốt để những người theo chủ nghĩa quốc xã lên nắm được chính quyền. Lúc đã định cư
ở Mỹ, trường phái này tiếp tục cảnh cáo rằng các phương tiện truyền thông đại chúng cũng đang ở trong
quá trình gây ra những tác động tương tự trong xã hội Mỹ, tuy không phải là theo chủ nghĩa quốc xã như
ở Đức, mà là làm tha hóa người dân. Họ cho rằng các phương tiện truyền thông ở Mỹ đang biến các cá
nhân thành “những khối đại chúng” (masses), tàn phá văn hóa, và trở thành một thứ ma túy làm cho mọi
người chỉ biết làm theo người khác và không còn tư duy độc lập và óc phê phán.
Người ta thường gọi quan điểm của các nhà nghiên cứu theo khuynh hướng này là quan điểm theo mô
hình “mũi kim tiêm” (hypodermic-needle model). Các nhà xã hội học theo khuynh hướng này cho rằng quá
trình công nghiệp hóa đã tiêu diệt những mối liên hệ giữa người và người vốn tồn tại trong những cộng đồng
truyền thống, tiền công nghiệp. Điều này dẫn tới hậu quả là hình thành nên một thứ “xã hội đại chúng” trong

đó các cá nhân sống rời rạc nhau, không còn một chỗ dựa đáng tin cậy của cộng đồng cũ nữa, và trong bối
cảnh mất phương hướng đó, chỗ dựa mới duy nhất của họ là các phương tiện truyền thông đại chúng. Họ cho
rằng xã hội đại chúng đã sản sinh ra những cá nhân không còn khả năng đề kháng trước sức thuyết phục của
truyền thông đại chúng. Những thông điệp của các phương tiện truyền thông được “chích” vào cơ thể con
người cũng dễ dàng như chích thuốc bằng một mũi kim tiêm vậy.
Giai đoạn phát triển thứ hai trong quá trình nghiên cứu về truyền thông đại chúng là từ khoảng
năm 1940 tới đầu những năm 1960. Đặc điểm của giai đoạn này là bắt đầu xuất hiện quan điểm đánh giá
bớt bi quan hơn về vai trò của các phương tiện truyền thông đại chúng. Một số công trình điều tra ở Mỹ
về ảnh hưởng của các phương tiện truyền thông đối với việc bầu cử và đối với sự chọn lựa của người
tiêu dùng đã chứng minh cho thấy truyền thông đại chúng ít có hoặc thậm chí không có tác động trực
tiếp đối với thái độ và ứng xử của người dân. Trái ngược với lập luận của các nhà nghiên cứu trong giai
đoạn đầu nói trên (vốn cho rằng truyền thông đại chúng có tác động trực tiếp giống như một mũi kim
chích), lúc này, người ta chỉ nói tới những tác động gián tiếp, thông qua nhiều bước trung gian. Khi phân
tích ảnh hưởng của truyền thông đại chúng, các nhà xã hội học thời kỳ này chú ý nhấn mạnh đến vai trò
của các nhóm xã hội (như bạn bè, gia đình, hàng xóm, những người “hướng dẫn dư luận” – opinion
leaders) : các thông điệp của các phương tiện truyền thông đại chúng thường được “lọc” qua những kênh
đó rồi mới đi tới cá nhân. Người ta nhìn nhận rằng công chúng của các phương tiện truyền thông không
phải là một khối “đại chúng” đồng dạng, không có hình thù; trái lại, đấy là một tập hợp bao gồm nhiều
giới và tầng lớp xã hội khác nhau.
Giai đoạn thứ ba trong lịch sử nghiên cứu về truyền thông đại chúng bắt đầu từ khoảng thập niên
1960 trở đi, với đặc điểm là xuất hiện nhiều xu hướng quan điểm nghiên cứu khác nhau và rất nhiều đề
tài. Chẳng hạn như ngoài việc nghiên cứu về công chúng và về tác động của truyền thông đại chúng,
người ta còn nghiên cứu về nội dung các thông điệp của truyền thông đại chúng, về quá trình truyền
thông đại chúng, quá trình sản xuất của các phương tiện truyền thông, nghiên cứu về đặc điểm của các
nhà truyền thông và hoạt động của họ
2.2 Nghiên cứu xã hội học truyền thông đại chúng ở Việt Nam
Có hai hướng nghiên cứu: Nghiên cứu lý thuyết về xã hội học công chúng và nghiên cứu thực nghiệm
công chúng truyền thông theo phương pháp xã hội học.
Xét từ góc độ báo chí học, đáng chú ý là các công trình nghiên cứu của các cơ sở đào tạo như ĐH
KHXH và NV, Học viện Báo chí Tuyên truyền: Truyền thông đại chúng (Tạ Ngọc Tấn,Truyền thông đại

chúng, NXB Chính trị Quốc gia 2001), Cơ sở lý luận báo chí truyền thông (Đinh Văn Hường, Dương
Xuân Sơn, Trần Quang, Nxb. ĐH Quốc gia Hà Nội 2004), Thể loại báo chí chính luận (Trần Quang,
Nxb ĐH Quốc gia Hà Nội 2005), Thể loại báo chí thông tấn (Đinh Văn Hường, Nxb ĐH Quốc gia Hà
Nội 2006), Phê bình tác phẩm văn học nghệ thuật trên báo chí (Nguyễn Thị Minh Thái, Nxb ĐH Quốc
gia Hà Nội 2005), Nguyễn Văn Dững (Về hệ thống khái niệm truyền thông đại chúng) và một số tác giả
khác Những công trình nghiên cứu này đã cung cấp kiến thức cơ bản và nâng cao về truyền thông đại
chúng, từ khái niệm đến mô hình, quá trình truyền thông cho đến thực tế hoạt động truyền thông và
nghiên cứu truyền thông trong nước và trên thế giới. Đây chính là kho kiến thức và là nguồn tư liệu quý
giá cho các sinh viên, giảng viên trẻ, đội ngũ nghiên cứu truyền thông cũng như các tổ chức, cá nhân
quan tâm đến hoạt động truyền thông tại Việt Nam nói riêng và trên thế giới nói chung.
Ở hướng thứ nhất, PGS. TS Mai Quỳnh Nam đã công bố nhiều công trình nghiên cứu liên quan
tới công chúng học - một chuyên ngành nhỏ và mới của xã hội học Việt Nam, dựa trên mối quan hệ giữa
truyền thông đại chúng và dư luận xã hội.
Trong tác phẩm Truyền thông đại chúng trong công tác lãnh đạo, quản lý (Vũ Đình Hòe chủ biên,
2000), các tác giả đã làm rõ mối quan hệ giữa các phương tiện truyền thông đại chúng với các đối tượng
phục vụ là đông đảo nhân dân; quá trình tiếp nhận thông tin của công chúng – đối tượng qua năm bước.
Chuyên sâu hơn, Xã hội học báo chí của Trần Hữu Quang (2006) là công trình nghiên cứu tương
đối toàn diện, có hệ thống, trực tiếp về lĩnh vực xã hội học báo chí ở nước ta. Tác giả trình bày có hệ
thống cách tiếp cận xã hội học đối với các quá trình truyền thông, đối với nghề báo, những quan điểm và
phương pháp nghiên cứu xã hội học về công chúng và nội dung truyền thông về ảnh hưởng xã hội của
truyền thông đại chúng. Đây là công trình đầu tiên ở trong nước đề cập trực tiếp, chuyên sâu về xã hội
học báo chí.
Ở hướng nghiên cứu thứ 2, những nghiên cứu, khảo sát thực nghiệm được áp dụng nhiều hơn.
Ở góc độ xã hội học, nghiên cứu truyền thông đại chúng gần đây thường tập trung vào hướng
nghiên cứu công chúng. Người ta nhất trí rằng, các nhà xã hội học đã có những đóng góp đáng kể trong
hoạt động nghiên cứu truyền thông đại chúng ở nước ta, đặc biệt là các công trình nghiên cứu của Viện
Xã hội học. Cụ thể, nghiên cứu lý thuyết về xã hội học công chúng có PGS TS Mai Quỳnh Nam (Dư
luận xã hội –Mấy vấn đề lý luận và phương pháp nghiên cứu, Tạp chí Xã hội học, số 1/1995, tr.3-8;
Truyền thông đại chúng và dư luận xã hội, Tạp chí Xã hội học, số 1/1996, tr.3-7; Về vấn đề nghiên cứu
hiệu quả truyền thông đại chúng, Tạp chí Xã hội học, số 4/2001, tr.21-25)…, PGS Trần Hữu Quang (Xã

hội học báo chí, Nxb Trẻ 2006), Nguyễn Quý Thanh (Xã hội học về dư luận xã hội, Nxb ĐH Quốc gia
Hà Nội, 2008) Trong đó, PGS TS Mai Quỳnh Nam đã chỉ ra mối quan hệ giữa truyền thông đại chúng
và dư luận xã hội chịu tác động trực tiếp của mối quan hệ giữa truyền thông và công chúng truyền
thông. Ông đưa ra quan điểm bao quát được sự cần thiết của hoạt động truyền thông. PGS Trần Hữu
Quang khẳng định, nghiên cứu về công chúng là một trong 4 lĩnh vực nghiên cứu xã hội học về truyền
thông đại chúng. Đây cũng là một trong những công trình nghiên cứu báo chí truyền thông đại chúng từ
hướng tiếp cận xã hội học tiêu biểu của Việt Nam.
Hướng nghiên cứu khảo cứu thực nghiệm, xuất hiện nhiều hơn với các bài viết, công trình nghiên
cứu có ý nghĩa. Đó là PGS TS Mai Quỳnh Nam với hàng loạt bài viết đăng trên tạp chí Xã hội học từ
năm 1995 – 2005 như “Báo thiếu nhi dân tộc và công chúng thiếu nhi dân tộc” (Tạp chí Xã hội học, số
4/2002, tr.46-58), “Truyền thông và phát triển nông thôn (Tạp chí Xã hội học, số 3 (83), tr.9-14), Sinh
viên Hà Nội với giao tiếp đại chúng (Tạp chí Tâm lý học, số 12/2003, tr.19-26)… Đây là các công trình
nghiên cứu hữu ích về mối quan hệ qua lại giữa công chúng và cơ quan/nhà truyền thông; cụ thể là
nghiên cứu cách thức tiếp nhận của công chúng, nội dung truyền thông; hiệu quả truyền thông và kiến
nghị của công chúng đối với phương tiện truyền thông đó.
Năm 1982, tác giả Đỗ Thái Đồng, qua điều tra xã hội học ở thủ đô Hà Nội về Hệ thống mass
media với công chúng trên số ra đầu tiên của tạp chí Xã hội học. Công trình vừa đề cập bao quát “các
loại công chúng” vừa đưa ra những chỉ báo về mức độ quan tâm của họ trong cách tiếp nhận hệ thống
thông tin.
Trong Thông tin đại chúng và lối sống thanh niên tại một xã Thái Bình, tạp chí Xã hội học, Phạm
Bích (T2/ 1985) có cách đặt vấn đề mới: Sự theo dõi đài, đọc báo của thanh niên là một chỉ dẫn quan
trọng đối với việc xây dựng lối sống mới cho thanh niên.
Vũ Tuấn Huy (1994) nghiên cứu một nhóm xã hội – nghề nghiệp, nhóm công chúng đặc thù của
báo chí trong bài viết Những vấn đề về kiến thức, tâm thế và vai trò của hệ thống thông tin đại chúng
trong cuộc vận động kế hoạch hóa gia đình trên tạp chí Xã hội học T3/1994.
Luận án tiến sỹ xã hội học Truyền thông đại chúng và công chúng- trường hợp thành phố Hồ Chí
Minh của Trần Hữu Quang (1998) và Nhu cầu tiếp nhận thông tin báo chí của Trần Bá Dung (2007) là
hai công trình mang tính đại diện về nghiên cứu công chúng truyền thông tại hai thành phố lớn Hà Nội
và thành phố Hồ Chí Minh.
Một số luận văn thạc sỹ về công chúng truyền thông, nghiên cứu một nhóm công chúng đặc trưng

như: Nhu cầu đọc báo của sinh viên Thành phố Hồ Chí Minh (Bành Tường Chân, 1999) nghiên cứu nhu
cầu sinh viên với Báo in, Sinh viên Hà Nội và truyền thông đại chúng của Lý Hoàng Ngân (2000), Công
chúng Hà Nội với việc đọc báo in và báo điện tử của Nguyễn Thu Giang 12/2007,Tốt nghiệp thạc sĩ
Khoa Báo chí – Truyền thông, ĐHKHXH&NV Hà Nội. Những công trình nghiên cứu này đã đi sâu
nghiên cứu đặc điểm công chúng ở một số địa phương tiêu biểu, góp phần tổng quan về công chúng
truyền thông cả nước.
Nhìn chung, trên cả hai hướng nghiên cứu lý thuyết và nghiên cứu thực nghiệm, giới nghiên cứu
truyền thông trên thế giới và Việt Nam đã tiếp cận dưới nhiều góc độ, nhiều quan điểm và phương pháp
nghiên cứu, đều đề cao vai trò tác động tích cực trở lại của công chúng đối với truyền thông; đề cao việc
nghiên cứu công chúng - đối tượng tác động của truyền thông; coi đây là một bộ phận, một khâu không
thể thiếu trong khi nghiên cứu truyền thông đại chúng như một quá trình; là hoạt động có ý nghĩa sống
còn đối với các cơ quan truyền thông trên phương diện hoạch định chiến lược phát triển cũng như
phương diện tác nghiệp hằng ngày.
Ở Việt Nam, rất ít những công trình nghiên cứu tác động của cả 4 loại hình báo chí tới tất cả các nhóm
công chúng có tính đại diện, nhất là từ khi xuất hiện loại hình báo mạng điện tử - internet. Các công trình
thường chỉ nghiên cứu riêng rẽ tác động của từng loại hình báo chí (báo in, truyền hình, phát thanh ). Mặt
khác, ý nghĩa của việc nghiên cứu công chúng và thực tế nghiên cứu ở Việt Nam, là những gợi mở ban đầu
đối với chúng tôi khi chọn nghiên cứu vấn đề này. Tuy nhiên, hầu như chưa có công trình nghiên cứu nào
tiếp cận nghiên cứu công chúng báo chí theo đặc thù địa phương Nghệ An. Chính vì vậy, đề tài nghiên cứu
của chúng tôi không trùng lắp với các công trình đã có từ trước.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu thực trạng nhu cầu tiếp nhận thông tin báo chí của công chúng Nghệ An hiện nay và
sự đáp ứng nhu cầu công chúng của các cơ quan truyền thông đại chúng, từ đó, đề ra giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả, chất lượng hoạt động thông tin của báo chí nói chung, báo chí Nghệ An nói riêng.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về vấn đề chủ trương phổ biến nội dung
thông tin tới công chúng.
- Điều tra xã hội học bằng bảng hỏi/ trưng cầu ý kiến công chúng Nghệ An đối với vấn đề nhu cầu
tiếp nhận thông tin báo chí. Mẫu nghiên cứu được tiến hành trên 500 người (500 phiếu điều tra).

- Xác định những việc báo chí cần phải làm để đáp ứng được đầy đủ, nhanh chóng nhu cầu thông
tin của công chúng.
- Đưa ra giải pháp hợp lý nhằm nâng cao chất lượng thông tin trên báo chí, thoả mãn nhu cầu
thông tin bạn đọc, bạn xem truyền hình.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là Nhu cầu tiếp nhận thông tin của công chúng Nghệ An.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Đề tài khảo sát các cơ quan báo chí sau: báo Nghệ An (cơ quan ngôn luận Tỉnh Uỷ Tỉnh Nghệ
An), Đài Phát thanh- Truyền hình tỉnh Nghệ An, và một số báo Trung ương phát hành trên địa bàn Tỉnh.
Thời gian: T9/2012 đến T9/2013.
Việc nghiên cứu đối tượng này được thực hiện thông qua khách thể nghiên cứu là một nhóm công
chúng đại diện cho công chúng báo chí Nghệ An, qua 3 địa điểm đại diện là thành phố Vinh (tỉnh lỵ của
tỉnh Nghệ An), huyện Nghi Lộc (huyện trung du, ven biển), và huyện Kỳ Sơn (huyện miền núi giáp biên
giới CHDCND Lào).
Số lượng khảo sát ý kiến cho đề tài: 500 người.
Đề tài giới hạn phạm vi trong một khâu trong mô hình truyền thông. Đó là tập trung nghiên cứu
khâu người nhận thông tin (receiver). Qua đó, phân tích mối quan hệ khác có liên quan người nhận như:
nguồn (source), thông điệp (message), kênh (channel), hiệu quả (effect).
Đề tài khảo sát nhu cầu tiếp nhận, mô thức tiếp nhận thông tin của công chúng đối với 2 loại hình
báo chí: báo in và báo truyền hình.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1 Cơ sở lý luận nghiên cứu
Cơ sở lý luận nghiên cứu đề tài “Nhu cầu tiếp nhận thông tin báo chí công chúng tỉnh Nghệ An” là
dựa trên chủ trương, quan điểm của Đảng, Nhà nước về báo chí và lý thuyết khoa học liên ngành như:
xã hội học về truyền thông, tâm lý học, truyền thông đại chúng.
5.2 Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện các mục tiêu đã nêu phần trên, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu, văn bản.
- -Khảo sát hoạt động thông tin tuyên truyền hiện nay của các cơ quan truyền thông đại chúng

trên địa bàn tỉnh Nghệ An (báo in và báo truyền hình).
- Để khảo sát nội dung các chương trình truyền hình và trên các tờ báo, chúng tôi sử dụng các
phương pháp cụ thể sau:
 Phương pháp thống kê.
 Phương pháp phân tích.
 Phương pháp tổng hợp.
- Nhóm phương pháp điều tra xã hội học:
 Phương pháp điều tra xã hội học: bảng hỏi.
 Phương pháp phân tích thực nghiệm.
 Xử lý thông tin định lượng bằng phần mềm SPSS 16.0.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Luận văn đóng góp ở lĩnh vực nghiên cứu công chúng báo chí. Luận văn nếu hoàn thành sẽ cung
cấp được những số liệu điều tra mới nhất về nhu cầu thông tin của công chúng đối với báo chí.
Trong giới hạn nhất định, luận văn sẽ cung cấp thông tin công chúng tới các cơ quan báo chí Tỉnh
Nghệ An nói riêng và báo chí Việt nam nói chung. Điều này sẽ giúp các nhà hoạch định chính sách xây
dựng chiến lược phát triển báo chí lâu dài.
Mặt khác, công trình nghiên cứu này được tiến hành tại một địa phương có truyền thống văn hóa
với lối sống rất phong phú đa dạng. Điều naỳ làm tăng tính khách quan của kết quả nghiên cứu, đồng
thời cung cấp đầy đủ, chính xác hơn về nhu cầu thông tin thật sự của công chúng, cũng như mối quan hệ
đời sống đối với nhu cầu hưởng thụ thông tin. Cùng với các công trình nghiên cứu về nhu cầu thông tin
của công chúng tại các địa phương khác (T.p Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh…), luận văn sẽ đóng góp
thêm một góc nhìn mới về đối tượng công chúng trong tổng thể đất nước.
Và dựa trên những kết quả điều tra cụ thể thu thập được, luận văn sẽ đúc rút được những giải pháp
hữu ích đối với sự phát triển của báo chí Việt Nam nói chung, của Nghệ An nói riêng.
7. Kết cấu luận văn
Luận văn gồm: Mở đầu, 3 chương nội dung, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục.


References
1. An Ba, Cuộc tranh luận bất ngờ xung quanh ảnh báo chí, Tạp chí Người làm báo, số 5/1999,

NXBQĐND.
2. Hồng Chương (1987), Tìm hiểu lịch sử báo chí Việt Nam, Nxb Sách giáo khoa Mác Lê-Nin, Hà
Nội.
3. Trần Bá Dung, (2007), “Nhu cầu tiếp nhận thông tin báo chí của công chúng Hà Nội”, Luận án
Tiến sĩ Báo chí Học viện Báo chí tuyên truyền, Hà Nội.
4. Đức Dũng( 2004), Viết báo như thế nào ( NXBVăn hóa thông tin- Hà Nội)
5. Đài Phát thanh Truyền hình Nghệ An, Trao giải Báo chí Nghệ An nãm 2013
6. Nguyễn Văn Đóa (dịch) (2004), Nghề làm báo (NXB thông tấn, Hà Nội)
7. Văn Giá (6-2003), “Nhà báo-nhà văn, viết văn-viết báo”, tạp chí Nghề báo, (14), tr. 16.
8. Nguyễn Thu Giang (12/2007), "Công chúng Hà Nội với việc đọc báo in và báo điện tử”, Luận
văn Tốt nghiệp thạc sĩ Khoa Báo chí – Truyền thông, ĐHKHXH&NV, Hà Nội.
9. Hội Ngôn ngữ học TPHCM, Viện Ngôn ngữ học Việt Nam, Trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn TPHCM (1999), Tiếng Việt trên các phương tiện truyền thông đại chúng, TPHCM.
10. Nguyễn Mạnh Hà, Thể loại phóng sự ảnh- một số vấn đề lí luận và thực tiễn, LVTS chuyên
ngành báo chí Trường ĐH Khoa học xã hội và nhân văn- ĐHQGHN.
11. Vũ Quang Hào, (2004), Báo chí Thuỵ Điển, NXB Chính trị HN, Hà Nội
12. Phạm Thành Hưng (2006), Thuật ngữ Báo chí – Truyền thong, Nxb ĐH Quốc gia HN, Hà Nội
13. Vũ Thị Thanh Hương, Hoàng Tử Quân (dịch), (2006), Ngôn ngữ văn hóa và xã hội, một cách
tiếp cận liên ngành, Cao Xuân Hạo, Lương Văn Hy, Lý Toàn Thắng (hiệu đính), NXB Thế Giới,
Hà Nội.
14. Đinh Văn Hường, Dương Xuân Sơn, Trần Quang, (2004), Cơ sở lí luận báo chí truyền thông, ,
NXBQGHN, Hà Nội.
15. Đỗ Quang Hưng (6-1999), “Buổi đầu tiên của báo chí Việt Nam”, tạp chí Xưa và Nay, số 64B,
tr. 5.
16. Bùi Đình Khôi, Phóng sự ảnh qua ý kiến một số nhà báo và nghệ sĩ nhiếp ảnh, Tạp chí Người
làm báo, số 11/2000, NXBQĐND
17. Bùi Đình Khôi, Lại nói về ảnh báo chí, Tạp chí Người làm báo, số 3/2001 NXBQĐND.
18. Mai Quỳnh Nam (2001), “Văn hóa đại chúng và văn hóa gia đình”, Báo chí – Những điểm nhìn
từ thực tiễn, Tập II, Học viện BC – TT, Nxb VH – TT, Hà Nội.
19. TS. Đỗ Chí Nghĩa, Vai trò của báo chí trong việc đảm bảo phát huy quyền được thông tin của

người dân ở Việt Nam.
20. Trần Hữu Quang, (2001), Chân dung công chúng truyền thông (qua khảo sát xã hội học tại
TPHCM), NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, Thời báo Kinh tế Sài Gòn, Trung tâm Kinh
tế Châu Á-Thái Bình Dương,.
21. Trần Hữu Quang (2006), Xã hội học báo chí, NXB Trẻ, Thời báo Kinh tế Sài Gòn, Trung tâm
Kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương .
22. Trần Hữu Quang (2008), Truyền thông đại chúng trong xã hội hiện đại, Thời báo Kinh tế Sài
Gòn, số 7 và 8, tr. 16 - 19.
23. Trần Hữu Quang (1999), “Những chức năng xã hội của báo chí trong lịch sử Sài Gòn thời Pháp
thuộc”, tạp chí Xã hội học, (3&4), tr. 32-38.
24. Trần Hữu Quang (1993), Xã hội học nhập môn (giáo trình), Đại học Tổng hợp TPHCM.
25. Trần Hữu Quang (2006), Xã hội học truyền thông đại chúng, NXB Đại học Mở thành phố Hồ
Chí Minh
26. Lê Minh Quốc (2001), Hỏi đáp báo chí Việt Nam, Nxb Trẻ, TPHCM.
27. Dương Xuân Sơn, Đinh Văn Hường, Trần Quang (2004), Cơ sở lý luận báo chí truyền thông,
Nxb ĐHQG HN, Hà Nội.
28. Tạ Ngọc Tấn (2001), Truyền thông đại chúng, Nxb CTQG, Hà Nội.
29. Đinh Quang Thành, Suy nghĩ về ảnh báo chí, Tạp chí Người làm báo, số 5/1999, NXBQĐND.
30. Chu Chí Thành, Liệu có tờ báo nào chạy kịp với truyền hình, Tạp chí Người làm báo, số 2/2003,
NXBQĐND.
31. Nguyễn Thị Thoa (chủ biên), Nguyễn Thị Hằng Thu (2011), Giáo trình tác phẩm báo chí đại
cương, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
32. Nguyễn Thị Thoa (2011), Tác phẩm báo chí đại cương, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
33. Hữu Thọ (1997), Nghĩ về nghề báo, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
34. Mai Thị Thu Thuỷ, Đôi điều về chú thích ảnh, Tạp chí Người làm báo, số 6/2003, NXBQĐND.
35. Huỳnh Văn Tòng (1994), Lịch sử báo chí Việt Nam, Khoa báo chí Đại học Mở-bán công
TPHCM, TPHCM.
36. Nguyễn Hữu Viêm (3-1999), “Hoàng Tích Chu, người đầu tiên cách tân báo chí Việt Nam”, tạp
chí Xưa và Nay, số 61.
37. Trung tâm Ngôn ngữ học (Viện Khoa học Xã hội vùng Nam bộ) (2004), Quảng cáo và ngôn ngữ

quảng cáo, TPHCM.
38. Quyết định về việc phê duyệt đề án phát triển sự nghiệp phát thanh - truyền hình tỉnh Nghệ An
giai đoạn 2013 – 2015, có tính đến 2020, số 3718/QĐ-UBND.VX
39. Tình hình kinh tế - xã hội 2013, kế hoạch năm 2014, Báo điện tử Nghệ An, 12/12/2013.
40. Trích Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX : Về công tác ngôn ngữ và văn hóa dân
tộc. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001, 352tr., Đại học Khoa học và Xã hội Nhân văn.
41. Viện Ngôn ngữ học, Hoàng Phê (chủ biên), 2002, Từ điển tiếng Việt, in lần thứ tám, NXB Đà
Nẵng, Trung tâm Từ điển học, HN-Đà Nẵng .
42. Viện Ngôn ngữ học Việt Nam, Hội Ngôn ngữ học TPHCM, , Trường Đại học Khoa học Xã hội
và Nhân văn TPHCM (1999), Tiếng Việt trên các phương tiện truyền thông đại chúng, TPHCM
43. A.H. Maslov, A Theory of Human Motivation, Psychological Review 50 (1943):370-96.
44. Brian Horton, Ảnh báo chí NXBTTHN, H., 2003
45. David Barrat, Media Sociology, 1986, Tavistock Publications, London.
46. Emily A. Schultz và Robert H. Lavenda, 2001, Nhân học - Một quan điểm về tình trạng nhân
sinh, do Phan Ngọc Chiến, Hồ Liên Biện dịch, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
47. Kelly Askew and Richard R. Will (edited), 2002, The Anthropology of Media, A reader,
Backwell Publishers.
48. Mark Allen Peterson, 2005, Anthropology and Mass Communication, Media and Myth in the
New Millennium, first paperback edition published, Berghahn Books.
49. Michael Schudson (1995), Sức mạnh của tin tức truyền thông (bản dịch cuốn The Power of
News, Harvard, Harvard University Press, người dịch: Thế Hùng, Trà My), (2005), Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
50. Loic Hervouet (1999), Viết cho độc giả (Lê Hồng Quang dịch), NXB Hội Nhà báo Việt Nam,
Hà Nội
51. Pierre Albert (2003), Lịch sử báo chí (Dương Linh dịch), Nxb Thế giới, Hà Nội.
52. Philippe Breton, Serge Proulx (1996), Bùng nổ truyền thông (Vũ Đình Phòng dịch), Nxb Văn
hóa-thông tin, Hà Nội.
53. Tim Harrower, The news paperdesig nershand book
54. www.vietnamjournalism.com
55. www.poynter.com

56. www.enterworldpressphoto.com
57. www.vnphoto.net
58. Website http:// Nhabaovietnam.com
59. Website http:// Nghebao.com
60. Website http:// Ttvnol.com Diễn đàn Trái tim Việt Nam, Box “Báo chí Truyền thông”.
61. Website
62. Website nganh-cong-nghiep-hung-
manh/76/14118566.epi




×