Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Tìm hiểu về Quản trị tri thức và vai trò của Quản trị tri thức trong thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (215.89 KB, 25 trang )

Tìm hiểu về Quản trị tri thức và vai trò của Quản trị tri thức trong thực tiễn
MỤC LỤC

MỤC LỤC 1
LỜI MỞ ĐẦU 2
PHẦN I: LÝ THUYẾT 3
.I TÌM HIỂU VỀ QUẢN TRỊ TRI THỨC 3
.1 Tri thức và Quản lý tri thức 3
.2 Tại sao tri thức lại quan trọng? 4
.3 Quản lý tri thức ra đời khi nào? 4
.4 Tại sao lại phải Quản lý tri thức? 5
.II VAI TRÒ THỰC TIỄN CỦA QUẢN LÝ TRI THỨC 7
.1 Xuất phát từ nhu cầu nhân sự 7
.2 Xuất phát từ nhu cầu kinh tế 8
.3 Công nghệ và nhu cầu về một hệ thống quản trị tri thức 8
.4 Cơ cấu tổ chức và nhu cầu về một hệ thống quản trị tri thức 9
.III VÀI ỨNG DỤNG CỦA QUẢN LÝ TRI THỨC 11
.1 Quản lý nhân sự 11
.2 Quản lý tri thức ở các doanh nghiệp 13
.3 Thư viện và vấn đề quản lý tri thức 15
PHẦN II: BÀI TẬP 17
.I Yêu cầu bài toán 17
.II Giới thiệu về Hệ chuyên gia 17
.III Giới thiệu sơ lược về ngôn ngữ Prolog 17
.1 Cú pháp 18
.2 Dữ kiện 18
.3 Luật 18
.4 Ngữ nghĩa 19
.IV Xây dựng chương trình 20
KẾT LUẬN 24
TÀI LIỆU THAM KHẢO 25


Nhóm 19 – Khoa học Máy tính K11 1/25
Tìm hiểu về Quản trị tri thức và vai trò của Quản trị tri thức trong thực tiễn
LỜI MỞ ĐẦU
Công nghệ tri thức là một bộ môn của tin học có tính chất công nghệ, trong đó
đối tượng thông tin được xử lí là các tri thức trong một lĩnh vực chuyên môn nào đó
và quá trình xử lí bằng máy tính nhằm giải quyết những bài toán phức tạp thông
thường đòi hỏi một trình độ cao về trí tuệ chuyên gia trong lĩnh vực bằng các công cụ
toán học; phát triển các phương pháp lựa chọn và thu thập tri thức, các cơ chế lập
luận trên các thông tin tri thức và việc thực hiện các phương pháp đó trên máy tính.
Những vấn đề trung tâm của CNTT là tìm các phương pháp biểu diễn tri thức trong
các chuyên ngành CNTT được phát triển mạnh trong những năm gần đây, là một nội
dung chủ yếu của tin học hiện đại. Một loại sản phẩm tiêu biểu của CNTT là các hệ
chuyên gia, đó là các hệ chương trình máy tính thực hiện một số chức năng của
chuyên gia trong các hoạt động trí tuệ. Đã có một số hệ chuyên gia được ứng dụng
trong thực tế như các hệ trợ giúp xác định công thức cấu trúc của các hợp chất hữu
cơ phức tạp, hệ chẩn đoán bệnh trong y tế, hệ trợ giúp xác định thành phần địa chất,
hệ trợ giúp quyết định trong quản lí kinh doanh, v.v.
Quản lý tri thức, viết tắt là QLTT (Knowledge Management) dùng để chỉ những
công nghệ, kỹ thuật, hoặc những thông lệ xã hội nhằm thu thập và tổ chức "tri thức"
sao cho có thể áp dụng chúng vào một địa điểm và thời điểm phù hợp. Nói chung,
việc quản lý tri thức tập trung vào những ứng dụng phần mềm hoặc cơ sở dữ liệu mà
cho phép sử dụng cho mục đích thu thập thông tin.
Xin chân thành cảm ơn PGS.TS Phan Huy Khánh đã nhiệt tình giảng dạy, góp
ý để nhóm em hoàn thành tiểu luận này.
Nhóm sinh viên thực hiện:
1. Võ Văn Luận
2. Lê Văn Đông
3. Trương Văn Thới
Nhóm 19 – Khoa học Máy tính K11 2/25
Tìm hiểu về Quản trị tri thức và vai trò của Quản trị tri thức trong thực tiễn

PHẦN I: LÝ THUYẾT
.I TÌM HIỂU VỀ QUẢN TRỊ TRI THỨC
.1 Tri thức và Quản lý tri thức
Theo định nghĩa thông thường, Tri thức (knowledge) là HIỂU và BIẾT. Trong
nền kinh tế tri thức và trong ngành khoa học thông tin và thư viện ngày nay định
nghĩa Tri thức là Thông tin có ý nghĩa (meaningful) và hữu ích (useful). Do đó Quản
lý tri thức là quản lý những thông tin có ý nghĩa và hữu ích đồng thời quản lý những
công nghệ giúp cho mọi người hình thành tri thức
Kiến thức (Tri thức) được định nghĩa là kiến thức và các kỹ năng thu được từ
một người qua kinh nghiệm thực tế hoặc qua sự giáo dục; từ lý thuyết và thực hành
giúp chúng ta hiểu về các chủ đề; điều đó biết được trong một lĩnh vực cụ thể hoặc
trong sự tổng hợp; các sự kiện và thông tin hoặc sự nhận thức hoặc hiểu biết thu được
bởi kinh nghiệm từ các sự kiện hoặc trong thực tế. Sự tranh luận về triết học nói
chung được bắt đầu với sự trình bày ý kiến của Plato như là “Niềm tin đúng đắn”. Tuy
nhiên, ở đây chúng ta không định nghĩa hiện về tri thức và cũng không có một hoàn
cảnh cụ thể nào, hiện tại vẫn còn lại rất nhiều ý kiến tranh luận về vấn đề này.
Có nhiều cách hiểu về quản trị tri thức, dưới đây là một số định nghĩa đã được
đưa ra:
 Quản trị tri thức là tạo ra tri thức và việc này được nối tiếp với việc thể hiện
kiến thức, truyền bá và sử dụng kiến thức, và sự duy trì (lưu giữ, bảo tồn) và cải
biên kiến thức.
 Quản trị tri thức là quá trình của việc quản lý một cách cẩn trọng tri thức để đáp
ứng các nhu cầu hiện hữu, để nhận ra và khai thác những tài sản tri thức hiện có
và có thể đạt được và để phát triển những cơ hội mới.
 Quản trị tri thức là hoạt động mà hoạt động này quan tâm tới chiến lược và
chiến thuật để quản lý những tài sản mà trọng tâm là con người (human center
assets).
 Quản trị tri thức là quá trình hệ thống của việc nhận dạng, thu nhận và chuyển
tải những thông tin và tri thức mà con người có thể sử dụng để sáng tạo, cạnh
tranh và hoàn thiện.

Trên cơ sở tổng kết các định nghĩa khác nhau về quản trị tri thức, McAdam và
McGreedy (1999) đã chỉ ra rằng chúng thể hiện một miền rộng lớn từ những quan
Nhóm 19 – Khoa học Máy tính K11 3/25
Tìm hiểu về Quản trị tri thức và vai trò của Quản trị tri thức trong thực tiễn
điểm có tính cơ giới (coi tri thức là tài sản) tới quan điểm thiên về định hướng xã hội
(tri thức được tạo ra trong tổ chức thông qua những quan hệ xã hội). Các định nghĩa
về quản trị tri thức thể hiện nổi bật các đặc tính sau:
 Quản trị tri thức là một lĩnh vực có liên quan chặt chẽ với lý luận và thực tiễn,
và là một lĩnh vực mang tính đa ngành đa lĩnh vực.
 Quản trị tri thức không phải là công nghệ thông tin. Công nghệ thông tin chỉ là
yếu tố hỗ trợ, nhưng lại đóng vai trò rất quan trọng trong việc quản trị tri thức.
 Quản trị tri thức lấy yêu tố con người làm trọng tâm.
.2 Tại sao tri thức lại quan trọng?
Khi tài nguyên thiên nhiên đã cạn kiệt, giá nhân công không còn rẻ mạt thì
những lợi thế thương mại khác phải được đánh giá đúng tầm của nó để mang lại
những giá trị mong đợi của tổ chức. Tỉ lệ giữa tài sản hữu hình và tài sản vô hình
trong kỷ nguyên công nghiệp là 75/25 nay đã chuyển thành 25/75 trong kỷ nguyên tri
thức. Các thước đo giá trị của một tổ chức hay doanh nghiệp cũng đã thay đổi theo
hướng đem lại lợi ích thoả mãn nhiều đối tượng liên quan khác nhau như cổ đông,
nhân viên, Nhà nước, nhà cung cấp, đối tác và cộng đồng.
.3 Quản lý tri thức ra đời khi nào?
Thuật ngữ “tri thức” xuất hiện từ thời Plato và Aristote và được nghiên cứu
nhiều bởi các học giả hiện đại như Daniell Bell (1973), Peter Drucker (1993), Alvin
Toffler (1970, 1980), Macheal Polanyi (1958, 1967) và Ikujiro Nonaka (1991, 1995).
Các học giả này đã đưa ra những vấn đề xung quanh khái niệm tri thức, nguồn vốn
hay tài sản trí tuệ của doanh nghiệp. Các khái niệm dữ liệu, thông tin, tri thức và sự
thông thái của tổ chức cũng được hình thành và phát triển bởi các học giả trên. Tuy
nhiên, khái niệm “quản lý tri thức” lần đầu tiên được đề cập đến từ đầu những năm
80. Melissie C. Rumizen, tác giả cuốn “The complete Idiot’s guide to Knowledge
Management”, cho rằng tiến sỹ Karl-Erik Sveiby, người Thuỵ Điển, là người đầu tiên

đưa ra khái niệm tài sản tri thức doanh nghiệp vào năm 1979 nhưng không được đón
nhận. Một báo cáo gần đây của Chính phủ Hoa Kỳ cho rằng tiến sỹ Karl M. Wiig
(Viện nghiên cứu tri thức - KRI) là người đầu tiên đưa ra khái niệm về quản lý tri thức
trong một bài phát biểu tại Tổ chức lao động quốc tế của Liên Hợp Quốc (ILO) vào
năm 1986. Và đến đầu những năm 90 thì quản lý tri thức mới thực sự “nở rộ” như một
công cụ mới trong quản lý. Thomas A. Stewart được xem như là người đầu tiên viết
về quản lý tri thức trên các tạp chí về doanh nghiệp với bài viết “Brainpower” trên tạp
chí kinh tế nổi tiếng “Fortune” vào năm 1991. Tiếp theo đó là cả một chuỗi các cuộc
tranh luận giữa các trường phái khác nhau về quản lý tri thức. Hàng trăm trang web về
Nhóm 19 – Khoa học Máy tính K11 4/25
Tìm hiểu về Quản trị tri thức và vai trò của Quản trị tri thức trong thực tiễn
quản lý tri thức ra đời và đến tận hôm nay, các quan niệm khác nhau về vấn đề này
vẫn tồn tại.
.4 Tại sao lại phải Quản lý tri thức?
Trong suốt 50 năm qua, kinh tế thế giới đã có những bước chuyển rõ rệt từ nền
tảng sản xuất thuần tuý sang hệ thống sản xuất dựa vào kỹ năng và tri thức. Ở Mỹ, chỉ
trong vòng 40 năm số người lao động thuần tuý đã giảm gần một nửa (34% lực lượng
lao động vào năm 1980 so với 57% vào năm 1940). Các nhà đầu tư cũng nghiêng về
các công ty có năng lực quản lý tốt và có khả năng thích nghi nhanh chóng với những
thay đổi của thị trường thay vì chỉ chú trọng đến giá trị tài sản của công ty. Ngày nay,
tương lai và giá trị của một công ty phụ thuộc vào khả năng phát triển các sản
phẩm/dịch vụ mới một cách nhanh chóng và kịp thời để có thể bắt nhịp với những nhu
cầu luôn thay đổi. Thay vì một số cách tiếp cận truyền thống các doanh nghiệp giờ
đây coi QLTT như một yếu tố mới nhưng quan trọng nhất để giữ vững lợi thế cạnh
tranh bằng thoả mãn khách hàng. Tóm lại, có 4 lý do chính dẫn đến sự xuất hiện của
quản lý tri thức:
 Cạnh tranh ngày càng gay gắt đòi hỏi mỗi tổ chức phải liên tục đổi mới sản
phẩm và cải tiến hoạt động của mình dựa trên nguồn tri thức của mọi người
trong tổ chức
 Nhu cầu học hỏi trong một tổ chức luôn tồn tại nhưng thời lượng cho việc bồi

bổ kinh nghiệm và kiến thức lại giảm đi rất nhiều do phải chú trọng vào các tác
nghiệp hàng ngày. Vậy, các tổ chức cần kiến tạo và sử dụng tri thức một cách
thông minh nhất để không bị tụt hậu
 Cơ chế thị trường tạo ra nhiều khả năng lựa chọn cho người lao động. Nhu cầu
thay đổi nơi làm việc của người lao động có trình độ và kỹ năng cao tăng lên
chính là nguy cơ suy giảm nguồn tri thức của tổ chức. Khi ra đi, họ không chỉ
làm giảm năng suất của tổ chức mà còn mang đi những tri thức của mình, thậm
chí cả tri thức của tổ chức
 Đa phần các công ty thành công là những công ty nắm bắt nhanh, kịp thời, và
xử lý chính xác các nguồn thông tin (thị trường, khách hàng, sản phẩm…). Việc
biến các thông tin đó thành tri thức của tổ chức chính là lợi thế cạnh tranh mà
không phải nhà quản lý nào cũng làm được.Quản lý tri thức đạt hiệu quả, tổ
chức hay doanh nghiệp sẽ đạt được những kết quả rõ rệt như:
o Tăng Năng suất
o Thúc đẩy hoạt động đổi mới
o Cải thiện hiệu quả quản lý
Nhóm 19 – Khoa học Máy tính K11 5/25
Tìm hiểu về Quản trị tri thức và vai trò của Quản trị tri thức trong thực tiễn
o Nâng cao sự thoả mãn của Khách hàng
o Thu hút và khai thác nhân tài
o Khuyến khích học hỏi, chia sẻ
Nhóm 19 – Khoa học Máy tính K11 6/25
Tìm hiểu về Quản trị tri thức và vai trò của Quản trị tri thức trong thực tiễn
.II VAI TRÒ THỰC TIỄN CỦA QUẢN LÝ TRI THỨC
.1 Xuất phát từ nhu cầu nhân sự
Từ khía cạnh nhân sự, những nhu cầu về việc tăng việc trao đổi, chia sẻ và sáng
tạo trong các nhóm hoạt động gồm nhiều lĩnh vực khác nhau là một trong những lý do
chính dẫn tới việc xây dựng quản trị tri thức. Bên cạnh đó, nhu cầu tăng khả năng xử
lý của nhân viên trong các tình huống phức tạp và lưu giữ những tri thức khi các
nhóm làm việc tan rã hay tái lập cũng khiến việc xây dựng hệ thống QTTT trở nên

cần thiết.
Thứ nhất, nhu cầu về việc đẩy mạnh trao đổi, chia sẻ và sáng tạo trong các
nhóm hoạt động ngày càng lớn hơn. Lí do là vì các công ty đang có xu hướng kết hợp
với nhau để tăng khả năng cạnh tranh. Do đó, nhân viên trong các công ty khác nhau
thường xuyên phải làm việc với nhau. Hơn nữa, để phát triển một sản phẩm đòi hỏi
phải có sự kết hợp của nhiều lĩnh vực khác nhau (thiết kế, kĩ thuật, marketing, v.v.).
Nói cách khác, thành viên của một nhóm làm việc phải từ các bộ phận khác nhau, mà
họ thường chỉ biết rõ về lĩnh vực chuyên môn của mình mà thiếu những hiểu biết cần
thiết về các lĩnh vực khác. Sự khác biệt về văn hóa cũng có thể gây khó khăn trong
quá trình làm việc nhóm. Vì vậy, việc tăng khả năng và hiệu quả làm việc nhóm, mà
điển hình là việc chia sẻ và trao đổi, của các thành viên trong nhóm là vô cùng cần
thiết. Quản trị tri thức có thể trở thành lời giải tối ưu cho bài toán này, bởi vì nó thúc
đẩy thảo luận và chia sẻ tri thức trong nhóm và tổ chức.
Thứ hai, là về việc các nhóm làm việc được thành lập và giải tán. Hiện nay, các
nhóm làm việc thường được thành lập để giải quyết những vấn đề, những dự án trong
thời gian ngắn. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, các nhóm này thường được giải tán,
thành viên trở về với công việc thường ngày hoặc tham gia các nhóm làm việc khác,
nơi mà khả năng chuyên môn của họ có giá trị hơn là tri thức thu được ở các lĩnh vực
khác trong dự án. Điều quan trọng là, những tri thức đó lại không được lưu trữ lại, trở
thành “tài sản cá nhân” của nhân viên. Khi nhân viên đó ra đi, tri thức của công ty
cũng mất đi theo. Quản trị tri thức có thể giúp công ty giải quyết vấn đề này một cách
hiệu quả, bởi vì trong đó có quá trình “nắm bắt” các tri thức ẩn – qua các quá trình
trao đổi trực tiếp và việc lưu trữ tri thức ẩn dưới dạng hiện.
Ngoài ra, trong thời đại kinh tế cạnh tranh khốc liệt hiện nay, đòi hỏi về kĩ năng
và khả năng ra quyết định của nhân viên ngày càng cao hơn. Ngày nay, thời gian
chính là yếu tố cạnh tranh quyết định giữa mọi công ty. Ta có thể phải đối mặt với
những thay đổi, những sáng tạo bất ngờ từ phía đối thủ, sự chuyển dịch mạnh mẽ của
thị trường không ổn định. Công ty rất có thể sẽ không bắt kịp được những bước tiến
của môi trường bên ngoài. Vì vậy, việc phản ứng và ra quyết định trước một tình
huống của nhân viên cần phải không những chính xác mà còn phải càng nhanh càng

Nhóm 19 – Khoa học Máy tính K11 7/25
Tìm hiểu về Quản trị tri thức và vai trò của Quản trị tri thức trong thực tiễn
tốt. Điều này đòi hỏi trình độ tri thức của nhân viên phải cao hơn và thông tin phải
được cung cấp nhanh chóng, chính xác hơn. Nếu quản trị tri thức tốt, bạn hoàn toàn
có thể giải quyết được những vấn đề này.
.2 Xuất phát từ nhu cầu kinh tế
Lý thuyết kinh tế cũ cho rằng mọi tài sản đều dễ bị giảm giá trị khi thu hồi,
nhưng điều này không đúng với tri thức. Những quy luật chi phối tri thức thì khác hẳn
những quy luật chi phối thế giới vật chất.
Ví dụ:
 Cùng một cái máy tính, khi người A đang sử dụng, những người khác không sử
dụng được nữa.
 Sau khi người A sử dụng và chuyển giao cho người khác, chất lượng máy tính
coi như bị hao mòn và giảm giá trị.
Nhưng với tri thức, khi một người đang dùng, những người khác cũng có thể sử
dụng được. Và tri thức càng sử dụng nhiều thì càng tăng giá trị. Các nhà kinh tế học
gọi đó là quy luật tăng lợi nhuận: càng sử dụng, càng cung cấp nhiều giá trị - từ đó tạo
ra một chu trình tự tăng cường. Tri thức là biến số duy nhất lý giải nguyên nhân có
một khoảng cách ngày càng lớn giữa giá trị thị trường và cơ sở tài sản của một công
ty thành đạt. Không như các tài nguyên có giới hạn như đất, vốn, và nhân công, tài
sản tri thức và trí tuệ là những nguồn tài khuyên không giới hạn có thể sinh ra nhiều
lợi nhuận qua hệ thống sử dụng và ứng dụng chúng. Tri thức rộng giúp bạn có cái
nhìn đa chiều về cùng một hiện tượng, một biến đổi bất thường trên thị trường. Từ đó
vừa có khả năng chống đỡ, vừa có lợi thế cạnh tranh so với đối thủ. Muốn có được
điều này, các doanh nghiệp bắt buộc phải không ngừng sáng tạo, sáng tạo không
ngừng nghỉ để bắt kịp với xu thế chung của thời đại. Cứ như thế tri thức ngày càng
gia tăng.
Quản trị tri thức mang đến cơ hội duy nhất biến tri thức thành hệ thống giúp tạo
ra lợi thế về thời gian giữ cho sự cạnh tranh được liên tục, tạo ra giá trị kinh tế và giá
trị thị trường không thể chối cãi được.

.3 Công nghệ và nhu cầu về một hệ thống quản trị tri thức
Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin đã thay đổi hoàn toàn công
việc. Hiện nay chúng ta có thể thu thập và lưu trữ một khối lượng lớn thông tin dễ
dàng, truyền tải chúng một cách nhanh chóng. Các công việc được hoàn thành dựa
vào công nghệ, đặc biệt là máy tính, ngày càng nhiều. Sự quan trọng của công nghệ là
không thể phủ nhận. Nhưng công nghệ không tạo ra yếu tố cạnh tranh. Ta có thể sở
Nhóm 19 – Khoa học Máy tính K11 8/25
Tìm hiểu về Quản trị tri thức và vai trò của Quản trị tri thức trong thực tiễn
hữu một công nghệ hoàn toàn mới, giúp công ty vượt lên trên đối thủ của mình.
Nhưng, thời gian sau đó, khi mà đối thủ tạo ra công cụ tương tự, hoặc cũng mua công
nghệ đó, thì yếu tố cạnh tranh sẽ bị mất đi. Trong thời đại công nghệ hiện nay thời
gian cho một cuộc chạy đua công nghệ như vậy ngày càng ngắn dần, do vậy, chúng ta
không thể coi công nghệ như yếu tố cạnh tranh lâu dài.
Trong khi đó, công nghệ với hai lợi ích chính là lưu trữ và truyền tải thông tin
lại cho phép xây dựng một hệ thống lưu trữ và phân phối thông tin hiệu quả. Công
nghệ trở thành một nhân tố giúp lưu trữ, phân phối và trao đổi tri thức hữu hiệu. Bằng
cách kết hợp công nghệ với quản trị tri thức một cách hiệu quả có thể tạo ra các yếu tố
cạnh tranh mới, nâng cao khả năng cạnh tranh lâu dài.
Bên cạnh đó, nhờ có công nghệ phát triển mà các công việc, các quy trình được
hoàn thành nhanh chóng và hiệu quả hơn. Vòng đời của sản phẩm, từ lúc được nghiên
cứu, sản xuất, tới khi bán ra và các dịch vụ hậu mãi cũng do đó ngắn lại. Các sản
phẩm cũng liên tục được nâng cấp và cải tiến, thị trường liên tục thay đổi. Do vậy,
thời gian cho ra sản phẩm trở thành một yếu tố sống còn, các quyết định ngày càng
phải được đưa ra nhanh chóng và chính xác hơn. Vậy yếu tố nào làm được điều này?
Công nghệ có thể giúp chúng ta thu thập, lưu trữ, truyền tải thông tin một cách vô
cùng hiệu quả, nhưng để biến thông tin thành tri thức, thành quyết định, thì lại cần
đến con người và kiến thức, kinh nghiệm của họ.
Tri thức chứ không phải công nghệ trực tiếp giúp người sở hữu nó ra quyết
định. Quản trị tri thức, với sự hỗ trợ của công nghệ, có thể giúp làm việc hiệu quả
hơn, tự mình đưa ra những quyết định sáng suốt hơn, giảm bớt sai lầm và thoả mãn

yêu cầu đúng lúc nhất, v.v.
.4 Cơ cấu tổ chức và nhu cầu về một hệ thống quản trị tri thức
Cũng giống như công nghệ, cơ cấu tổ chức ngày nay thay đổi quá nhanh. Chính
những thay đổi về cơ cấu tổ chức này bắt buộc có một hệ thống quản trị tri thức hữu
hiệu.
Ví dụ với một dự án lớn đột nhiên gặp phải một vấn đề nan giải, sau một thời
gian tìm kiểm giải pháp, một thành viên trong dự án nhớ ra rằng trong một dự án
trước kia, vấn đề tương tự cũng đã nảy sinh và được giải quyết khá hiệu quả. Ở đây,
đặt ra vấn đề là làm sao áp dụng tốt nhất tri thức đã có để giải quyết vấn đề này.
Ngày nay, các công ty làm việc theo định hướng dự án. Mỗi thành viên được
nhặt ra từ các bộ phận chức năng khác nhau để tạo ra một đội duy nhất. Các đội sau
khi hoàn thành xong dự án thường chuyển lên một dự án khác cao hơn hoặc phân tán
sang các dự án khác. Các tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng thu được trong suốt quá trình
phát triển sản phẩm , dịch vụ lại không được chuyển đến các đội dự án phụ trách việc
Nhóm 19 – Khoa học Máy tính K11 9/25
Tìm hiểu về Quản trị tri thức và vai trò của Quản trị tri thức trong thực tiễn
phát triển các phiên bản sau trong quá trình tiến hoá dịch vụ sản phẩm đó . Ngoài ra
với cơ cấu tổ chức làm việc theo đội và dự án, các kỹ năng được phát triển trong quá
trình hợp tác thường sẽ bị mất đi khi đội đó tan rã và các tri thức qui trình mà đội thu
được sẽ không có điều kiện để sử dụng lại trong tương lai. Một hệ thống quản tri tri
thức trong trường hợp này sẽ giúp nắm bắt được các tri thức dự án, cho phép sử dụng
lại nó trong tương lai.
Toàn cầu hoá tạo ra một sân chơi phẳng, cạnh tranh hơn bao giờ hết. 20 năm
trước không ai có thể nghĩ Ấn Độ lại có thể trở thành sân sau của Mĩ với hàng loạt các
“call center” nằm rải rác khắp đất nước, cung cấp dịch vụ cho khách hàng trên toàn
thế giới, đặc biệt là các khách hàng từ Châu Âu và Mĩ. Ngày nay, Microsoft không
nhất thiết phải động tay vào tất cả các giai đoạn tạo ra một phần mềm. Họ có thể
chuyển phần việc gia công “ ít chất xám” sang các nước khác với mức lương chỉ bằng
½ mức phải trả cho một lập trình viên tại Redmond. Cũng lúc đó, để sản xuất ra một
chiếc máy tính xách tay, Dell có một tập hợp hơn 40 nhà cung cấp – là những công ty,

xưởng, nhà máy trên toàn thế giới chuyên sản xuất linh kiện lắp ráp. Đó là lý do vì
sao cần quản trị tri thức.
Việc cạnh tranh ngày càng khốc liệt hơn khi các nước đang dần dần dỡ bỏ các
qui định, để thị trường tự điều chỉnh theo những qui luật vốn có của nó. Giả sử, bạn
đang có lợi thế về giá so với đối thủ cạnh tranh bởi vì nhà cung cấp của bạn ở Hàn
Quốc và chính phủ Hàn Quốc thì đã dỡ bỏ các hàng rào qui định khiến đầu vào của
bạn rẻ hơn. Trong khi đó, tại Ấn Độ - nơi các hàng rào thuế quan vẫn còn tồn tại, đối
thủ đang phải chật vật mua đầu vào với mức giá cao hơn. Đột nhiên, Ấn Độ quyết
định dỡ bỏ tất cả các hàng rào thuế quan. Chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo? Thứ duy nhất
có thể làm là cắt giảm chi phí. Chúng ta bắt đầu loay hoay với việc cắt giảm biên chế,
xa thải, đuổi việc ,…. Ta quên mất một điều rằng khi loại một ai đó ra khỏi công ty
cũng loại luôn nguồn tri thức mà người đó có. Trong khi đó, điều tốt nhất là xây dựng
một hệ thống quản trị tri thức và các kỹ năng để tránh sáng tạo lại những gì đã có, đạt
được mục tiêu cắt giảm chi phí đồng thời cả lợi thế cạnh tranh dài hạn.
Nhóm 19 – Khoa học Máy tính K11 10/25
Tìm hiểu về Quản trị tri thức và vai trò của Quản trị tri thức trong thực tiễn
.III VÀI ỨNG DỤNG CỦA QUẢN LÝ TRI THỨC
.1 Quản lý nhân sự
Nguồn nhân lực đã trở thành “một tài sản quý nhất, quan trọng nhất và quyết
định nhất” cho sự tồn tại và phát triển của bất kỳ một tổ chức nào. Song, khi nói về
những nhận thức được hầu hết mọi người chấp nhận này thì cần phải hiểu đó là nguồn
nhân lực có tri thức, có kỹ năng ở trình độ cao, biết lao động sáng tạo chứ không phải
sức lao động cơ bắp dựa trên kinh nghiệm. Lực lượng lao động xã hội đã có sự
chuyển biến rõ rệt từ những công nhân “cổ xanh” là chủ yếu thành những công nhân
“cổ trắng” là chủ yếu. Peter Drucker (1993) - một chuyên gia hàng đầu của lý luận
quản lý - đã nhận xét rằng: “Trong thời kỳ 1880, khoảng chín phần mười số người lao
động là lao động chân tay; ngày nay, con số này giảm xuống một phần năm. Bốn phần
năm lực lượng lao động là những người lao động tri thức”.
Toàn cầu hóa đã làm cho việc tiếp cận và mở rộng các thị trường dễ dàng hơn,
dễ dàng hơn trong việc tiếp cận các nguồn lực tốt nhất và rẻ nhất cho họat động của

mình và vì thế các lợi thế so sánh truyền thống đã mất đi, hoặc ít nhất đã yếu đi. Vì
thế, Drucker (1995) kết luận: “Chúng ta đang đi vào xã hội tri thức trong đó nguồn
lực kinh tế cơ bản không phải là vốn mà là và sẽ là tri thức” và “tri thức đã và đang
trở thành một nguồn lực kinh tế chủ yếu và là một nguồn lực thống trị - và có thể là
duy nhất - của lợi thế cạnh tranh. Những nhận xét của Drucker hoàn toàn phù hợp với
những dự báo của Alvin Tofler trong tác phầm nổi tiếng của ông về một xã hội tri
thức.”
Sự bùng nổ thông tin và tri thức với tốc độ chóng mặt hiện nay đã làm cho
những người lao động và các tổ chức khó khăn hơn trong việc giải quyết các vấn đề
của mình. Trong điều kiện bùng nổ của tri thức và thông tin, sự quá tải thông tin trở
thành một gánh nặng và vì thế để tìm được những thông tin cần thiết cho việc ra quyết
định hoặc gỉải quyết vấn đề là cực kỳ khó và là một quá trình tốn kém rất nhiều thời
gian và công sức cho tất cả mọi người hiện nay. Trong một cuộc hội thảo về quản lý
tri thức, Bill Gate(1999) đã nhận xét: “Những người công nhân trí thức cần chia sẻ
những hiểu biết của họ, và cần tiếp cận những thông tin đúng (cần thiết) vào đúng
thởi điểm. Và điều này là cực kỳ khó hiện nay” (Trích từ VNU Business Media). Để
giúp cho các tổ chức và cá nhân xử lý và giải quyết tốt các vấn đề của mình cũng như
để nâng cao hiệu quả của các quyết định nói chung, với sự phát triển của công nghệ
thông tin, từ đầu những năm 1990 trở lại đây, các công ty trên thế giới và các nhà
nghiên cứu đã áp dụng và tiếp cận một xu hướng mới trong phát triển doanh nghiệp
và các tổ chức đó là: Quản lý tri thức (Knowledge Management).
Việc sớm và kiên trì ứng dụng quản lý tri thức vào quản lý và họat động của
doanh nghiệp dù dù trong một thời gian ngắn ngủi đã mang lại những kết quả khích
Nhóm 19 – Khoa học Máy tính K11 11/25
Tìm hiểu về Quản trị tri thức và vai trò của Quản trị tri thức trong thực tiễn
lệ. Cuộc khảo sát của Reuters vào năm 2001 chỉ ra rằng 90% các công ty triển khai
các giải pháp quản lý tri thức đă có những quyết định tốt hơn, và 81% công ty cho
rằng họ nhận thấy sự gia tăng năng suất một cách rõ rệt (Malhotra, 2001).
Vào đầu những năm 80, tiến sỹ Eric Sveiby - một học giả người Thụỵ Điển - đã
gửi tới tạp chí Kinh Doanh thuộc đại học Harvard của Mỹ (Harvard Business Review)

một bài viết về tài sản tri thức doanh nghiệp. Ban biên tập tạp chí lịch sự từ chối đăng
bài của ông vì lý do “không phù hợp với các doanh nghiệp Mỹ”. Hơn 10 năm sau,
chính người Mỹ lại nói nhiều nhất đến tài sản tri thức và quản lý tri thức trong doanh
nghiệp. Những công ty đi đầu và đã tạo dựng nên sự thành công vượt trội nhờ khả
năng quản trị tri thức tuyệt vời của mình có thể kể tên như: Microsoft, Dell, Coca –
Cola, General Electric, Yamanouchi Pharmaceuticals, Nabisco…
Kinh nghiệm quản trị tri thức của Microsort:
Thư viện điện tử của Microsoft lưu trữ những thông tin về bất động sản, thương
hiệu hàng hoá và luật bản quyền là những ví dụ điển hình về quản trị tri thức tại một
công ty hàng đầu thế giới. Theo Bill Gates, xét theo nghĩa chung quản trị tri thức tại
Microsoft tức là việc thu thập và quản lý thông tin, phổ biến thông tin đến những
người cần biết và liên tục rà soát lại thông tin qua việc phân tích, hợp tác – là vô cùng
hữu ích. Quản trị tri thức không nhằm để chỉ một sản phẩm phần mềm hoặc một loại
phần mềm. Quản trị tri thức thậm chí không khởi đầu bằng công nghệ. Nó được khởi
đầu bằng mục tiêu và quy rìh doanh nghiệp cùng với sự nhận thức rõ ràng về nhu cầu
chia sẻ thông tin. Quản trị tri thức chính là quản lý luồng lưu chuyển thông tin, đưa
thông tin đến người dùng để họ có thể hành động nhanh nhất. Chúng ta nhớ lại
Michael Dertouzos đã từng nói rằng thông tin là một loại động từ, không phải một
danh từ ở dạng tĩnh. Quản trị tri thức là phương tiện chứ không phải kết quả sau cùng.
Kết quả sau cùng là nâng cao trí tuệ tập thể hay còn gọi là chỉ số thông minh
của công ty. Trong thị trường năng động ngày nay, một công ty phải có chỉ số thông
minh cao mới có khả năng cạnh tranh và thành công được. Khi dùng thuật ngữ chỉ số
thông minh của công ty, không chỉ nói đến những người thông minh trong công ty mà
là một phương thức đo lường mức độ chia sẻ thông tin cho mọi người và cách thức
mọi người trong công ty xây dựng và phát triển ý tưởng của mình trên ý tưởng của
người khác. Chỉ số thông minh công ty bao gồm việc chia sẻ kiến thức cũ và mới. Sự
đóng góp cho chỉ số thông minh công ty là do sự học tập của các thành viên và sự
phối hợp tư tưởng của nhiều người với nhau.
Nhân viên trong công ty có chỉ số thông minh công ty cao sẽ hợp tác với nhau
chặt chẽ để các nhân vật chủ chốt trong dự án đều được thông tin đầy đủ và tiếp thêm

sinh lực. Mục đích sau cùng của công t là sử dụng một nhóm nhân viên để phát triển
các ý tưởng tốt nhất tích hợp từ kinh nghiệm và ý tưởng của các thành viên khác trong
Nhóm 19 – Khoa học Máy tính K11 12/25
Tìm hiểu về Quản trị tri thức và vai trò của Quản trị tri thức trong thực tiễn
công ty, từ đó hành động trên cơ sở thống nhất mục đích và tập trung như thể một
người duy nhất.
Các nhân viên điều hành cấp cao trong công ty cần phải có niềm tin vào việc
chia sẻ thông tin, kể cả khi có những lỗ lực lớn trong việc chia sẻ thông tin bị thất bại.
Các nhà lãnh đạo phải cho nhân viên thấy rằng họ không tự giam mình trong trong
tháp ngà, tách rời khỏi mọi người mà là sẵn sàng tham gia vào mọi công việc chia sẻ
tri thức của nhân viên. VD như Jacques Nasser, chủ tịch hãng xe hơi Ford vào mỗi
ngày thứ sáu đều gửi Mail cho 89.000 nhân viên của hãng trên toàn thế giới, thông tin
cho mọi người dù tốt hay xấu xảy ra trong công ty.
Khi tạo được một không khí động viên sự hợp tác chia sẻ tri thức, các nhà lãnh
đạo doanh nghiệp cần phải thiết lập các dự án chia sẻ tri thức trong toàn công ty để
làm cho viêc chia sẻ thông tin trở thành một phần trong công việc. Sức mạnh không
chỉ đến từ tri thức tích luỹ mà phải từ tri thức chia sẻ. Giá trị và hệ thống khen thưởng
của một công ty phải phản ánh được tư tưởng này.
Quản trị tri thức sẽ hỗ trợ cho công ty trong bốn lĩnh vực chính: hoạch định,
dịch vụ khách hàng, huấn luyện và hợp tác dự án. Nếu các nhà lãnh đạo chưa từng
thực hiện công tác quản trị tri thức tại công ty, hãy xem xét lại một trong hai lĩnh vực
nào đó để tiến hành các dự án quản trị tri thức. Các nhà lãnh đạo có thể dùng thành
công của những dự án này để khuyến khích các dự án quản trị tri thức trong các lĩnh
vực kinh doanh khác. “Trong một vài năm tới, tất cả các công ty hàng đầu sẽ có khả
năng chia sẻ tri thức tương tự như những gì Microsoft đã thực hiện” – Bill Gates.
.2 Quản lý tri thức ở các doanh nghiệp
Sự quan tâm đến công tác quản lý tri thức đã tăng lên cùng với sự tiến bộ của
các công nghệ tạo điều kiện thuận lợi cho việc chia sẻ tri thức một cách hiệu quả. Tuy
nhiên, lịch sử đã nhắc nhở rằng mọi người vẫn có khả năng truyền đạt tri thức cho
nhau mà không hề được trang bị những công nghệ như hiện nay. Các thợ thủ công đã

truyền nghề bằng những phương pháp đã tồn tại được qua rất nhiều thế kỷ. Nhiều thứ
trong cuộc sống của chúng ta hiện nay có được là nhờ vào thành quả của những việc
làm như vậy. Việc truyền nghề và dạy việc được thực hiện theo những nhóm ít người,
vì khi chỉ có một hoặc hai người, thì việc hướng dẫn kèm cặp của người thợ cả dễ
dàng hơn, so với khi có hàng chục người. Nếu không có phương pháp truyền đạt tri
thức hữu hiệu này, thì có rất nhiều việc bây giờ chúng ta phải mày mò làm lại.
Với các tổ chức khác nhau, nguồn tri thức và phương pháp quản lý tri thức
cũng khác nhau, trong khi đó phần lớn tài liệu nói về QLTT lại đều chú trọng đến các
tổ chức lớn, mang tính quốc tế, với cơ cấu quản lý kiểu phương Tây. Ở đây sẽ đề cập
đến QLTT ở các tổ chức nhỏ, không có chung hoàn cảnh, cấu trúc mà các lý thuyết
QLTT đã xây dựng. Những tổ chức như vậy thường ít khi bổ nhiệm cán bộ chuyên
Nhóm 19 – Khoa học Máy tính K11 13/25
Tìm hiểu về Quản trị tri thức và vai trò của Quản trị tri thức trong thực tiễn
trách việc quản lý tri thức, mà dựa vào các nhà tư vấn quản lý thông tin và tài liệu để
phát triển công tác quản lý tri thức một cách hiệu quả.
Các chuyên gia QLTT cho rằng tri thức là một nguồn lực quan trọng nhất của
tổ chức, một nguồn lực duy nhất mà các đối thủ không dễ dàng bắt chước được, bởi
vậy nó đem lại ưu thế cạnh tranh cho tổ chức. Thực tiễn QLTT hiện nay chú trọng đến
việc tạo ra tri thức mới và vận dụng kịp thời nguồn tri thức của tổ chức để duy trì ưu
thế chiến lược. Nó giả định rằng ở tổ chức đã tồn tại các hệ thống hỗ trợ việc tạo ra tri
thức, rằng các tri thức liên quan từ các nguồn nội bộ và bên ngoài đã được ghi chép
lại và lập chỉ số để giúp truy cập và sử dụng dễ dàng. Các tổ chức phải sẵn sàng bỏ đi
những tri thức đã lạc hậu.
Việc quản lý công tác thư viện và hồ sơ, hoặc quản lý thông tin có quan hệ chủ
yếu với những biểu hiện vật chất của tri thức ở dưới dạng tài liệu, cơ sở dữ liệu
(CSDL), sách, tạp chí và các vật ghi khác. Trong khi đó, quản lý tri thức quan tâm đến
tri thức của từng cá nhân và không được ghi chép, hoặc tri thức ngầm của mỗi người,
cũng như tri thức có thể quan sát, kể ra, hoặc tri thức được bộc lộ, mà không phải lúc
nào cũng được tổ chức thành hệ thống.
Về vấn đề này, Nonaka và Takeuchi (1998) đã nêu ra sự phân biệt giữa tri thức

và thông tin. Theo đó, tri thức là một thứ vô hình, trú ngụ ở một chỗ nào đó, có thể là
tinh thần hoặc vật chất và có thể tách ra, làm cho nó trở thành hữu hình, có khả năng
chuyển giao được nhờ các phương tiện (tài liệu, biên bản, sách, tạp chí, quy trình, sơ
đồ, phim ảnh, CSDL v.v ). Khi đó, tri thức sẽ trở thành thông tin. Theo định nghĩa
này, các cán bộ thông tin chủ yếu có quan hệ với thông tin (những bản ghi chép về tri
thức), chứ không phải với bản thân tri thức, còn các nhà quản lý và điều hành của tổ
chức thì lại có quan hệ với tri thức.
Việc quản lý tri thức hiện nay, được đề cập rất nhiều trong công trình của
Nonaka và Takeuchi (1995), trong đó đều nhận định về sự khác nhau giữa thông tin
và tri thức đã làm nảy sinh một số vấn đề then chốt. Chúng chủ yếu liên quan tới quá
trình mọi người tạo ra và chia sẻ tri thức, đem lại những khái niệm như: Một ý tưởng
sẽ có giá trị và hiệu quả chỉ khi nào mọi người có thể biết được điều họ biết; hay ý
thức được rằng, khi ai đó rời khỏi tổ chức thì tổ chức đó để mất đi những tri thức ẩn
chứa của người đó; hoặc sự cần thiết của sự chia sẻ thông tin và tri thức giữa các cán
bộ công nhân viên trong tổ chức nếu muốn tạo ra tri thức mới.
Với những vướng mắc như vậy, phần lớn những tài liệu gần đây về QLTT đều
chú trọng đến việc ghi chép, truy cập và chia sẻ loại tri thức vô hình, chứ không chú ý
lắm đến các phương pháp quản lý những thông tin và tri thức đã được ghi chép.
McShane và Glinow (1999) đã đề xuất một số phương pháp để tiếp nhận, chia sẻ và
sử dụng tri thức, tuy nhiên chúng không được phản ánh vào trong thực tiễn QLTT. Tri
Nhóm 19 – Khoa học Máy tính K11 14/25
Tìm hiểu về Quản trị tri thức và vai trò của Quản trị tri thức trong thực tiễn
thức là một thứ khó nắm bắt và tổ chức vì nó dựa vào kinh nghiệm và đặc thù với mỗi
hoàn cảnh một. Bởi vậy, không có gì ngạc nhiên là hầu hết các nỗ lực để nắm bắt và
tổ chức tri thức đều sử dụng các phương pháp mà sẽ dùng máy tính để lưu trữ tri thức.
Do đó, phần lớn hệ thống mà được mệnh danh là quản lý tri thức hiện nay đã đều
nhắm vào các biện pháp để ghi, đánh chỉ số và phân phối tốt hơn các tư liệu và nguồn
tin hiện có của tổ chức. Quan niệm cho rằng cần phải có công nghệ máy tính để quản
lý tri thức đã chiếm lĩnh toàn bộ công việc này. Theo Gartner (2000), việc đó đã hạ
thấp công tác QLTT thành ra một thứ mốt nhất thời về công nghệ thông tin.

Vấn đề Quản lý tri thức ở những tổ chức nhỏ
Trong khi những tài liệu hiện nay đều cung cấp kiến thức về các chiến lược
QLTT ở các tổ chức lớn thì hầu như chưa có tài liệu nào đề cập đến công tác này ở
các tổ chức nhỏ. Ngoài sự khác nhau về số lượng nhân lực, những tổ chức nhỏ còn có
xu hướng chú trọng vào lĩnh vực hoặc địa phương, có phạm vi hoạt động hẹp, nguồn
tài chính và nhân lực hạn hẹp. Các nhà quản lý tổ chức thường chỉ chú trọng vào công
việc cốt lõi mà ít quan tâm đến các mặt hoạt động khác. Phần lớn các tổ chức đều
không có khả năng (hoặc không sẵn lòng) chi cho các dịch vụ tư vấn đắt tiền. ít hãng
bổ nhiệm cán bộ chuyên trách thông tin. Nhiều hãng có thể còn chưa ý thức được tiềm
năng của QLTT, vì lĩnh vực này vẫn nhằm vào các doanh nghiệp lớn, có nguồn tài
chính lớn để chi cho dịch vụ tư vấn và công nghệ.
Nếu như những kiến thức ngầm vẫn là loại tri thức quan trọng nhất đem lại
thành công cho tổ chức, thì các tổ chức nhỏ lại càng cần đến những tri thức như vậy.
Họ cần đến những tri thức do những cán bộ mới thuyên chuyển đến, các nhà tư vấn,
các cán bộ hợp đồng, các khách hàng mang lại cho tổ chức. Ngoài ra, họ cũng rất dễ
bị mất cán bộ vì sức hấp dẫn và chế độ ưu đãi hơn của các nơi khác.
.3 Thư viện và vấn đề quản lý tri thức
Vai trò công nghệ thông tin
Ngày nay mọi nghiên cứu phát triển ngành thông tin – thư viện không tách rời
CNTT, thậm chí hoàn toàn phụ thuộc vào CNTT. Do đó việc đào tạo thông tin – thư
viện được đặt vào trong ngành CNTT. Phương cách đào tạo này không những tạo
điều kiện học tập cho người làm công tác thông tin – thư viện nâng cao kỹ năng
CNTT mà là cơ hội để đội ngũ này tiến xa hơn trên con đường nghiên cứu phục vụ
ngành nghề thông tin thư viện trong môi trường CNTT. Giá trị thư viện thay đổi từ
“Sở hữu tài nguyên thông tin sang sử dụng công nghệ mới để truy hồi thông tin”.
Tốc độ phát triển thư viện song hành với việc phát triển CNTT. Việc xây dựng
thư viện số khắp nơi đã tạo nên sự liên thông thư viện trên phạm vi toàn cầu. Công
nghệ mới luôn được cập nhật. Hiện nay WEB (Công nghệ IP-based –S ử dụng HTTP
Nhóm 19 – Khoa học Máy tính K11 15/25
Tìm hiểu về Quản trị tri thức và vai trò của Quản trị tri thức trong thực tiễn

trong việc truyền thông và HTMT/XML trong việc đóng gói thông tin) là công nghệ
hiện tại và tương lai của ngành thông tin – thư viện.
Tại Việt Nam, cần thay đổi tầm nhìn và cách nhìn về ngành nghề thư viện hiện
đại để thoát ra khỏi vỏ bọc lạc hậu, chiến thắng sức ì tâm lý, tiến đến việc “đi tắt đón
đầu” nhằm bắt kịp nhịp phát triển với Thư viện điện tử là một loại hình phục vụ cho
thư viện truyền thống, bao gồm việc phục vụ thông tin điện tử được đọc với sự hỗ trợ
của máy tính. Thư viện số - Digital Library, Thư viện số bao gồm những cơ sở dữ liệu
mở với siêu dữ liệu – metadata chứa những kết nối và mối quan hệ với những dữ liệu
và siêu dữ liệu khác chứa trong hay ngoài thư viện. Thư viện số là hình thức liên
thông giữa các thư viện điện tử được xây dựng theo những tiêu chí:
 Số hóa từng phần các cơ sở dữ liệu
 Cung cấp cơ sở tri thức chuyên ngành
 Xây dựng kho tài nguyên học tập
 Khai thác qua cổng thông tin – Portals
 Chuẩn hóa việc truy cập và trao đổi thông tin
Thư viện ảo – Virtual Library, thư viện ảo tổ chức một phương cách tra cứu tài
liệu đồng nhất trên các CSDL thật của các thư viện thành viên trong một consortium
bằng cách xây dựng một CSDL ảo.
Tài nguyên điện tử - Electronic Resources, Tài nguyên điện tử bao gồm: tài
nguyên điện tử miễn phí trên Internet, CD-ROM và CSDL CD-ROM, tạp chí điện tử,
CSDL trực tuyến, sách điện tử, v/v…
Nhóm 19 – Khoa học Máy tính K11 16/25
Tìm hiểu về Quản trị tri thức và vai trò của Quản trị tri thức trong thực tiễn
PHẦN II: BÀI TẬP
.I Yêu cầu bài toán
Xây dựng hệ chuyên gia nhằm tư vấn, dịch vụ, khuyến cáo, khen thưởng, kỷ
luật, cho các loại đối tượng khác nhau (lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp, địa vị xã
hội, ) trong các lĩnh vực khác nhau.
.II Giới thiệu về Hệ chuyên gia
Hệ chuyên gia, còn gọi là hệ thống dựa tri trức, là một chương trình máy tính

chứa một số tri thức đặc thù của một hoặc nhiều chuyên gia con người về một chủ đề
cụ thể nào đó. Các chương trình thuộc loại này đã được phát triển từ các thập niên
1960 và 1970, và trở thành ứng dụng thương mại từ thập niên 1980. Dạng phổ biến
nhất của hệ chuyên gia là một chương trình gồm một tập luật phân tích thông tin
(thường được cung cấp bởi người sử dụng hệ thống) về một lớp vấn đề cụ thể, cũng
như đưa ra các phân tích về các vấn đề đó, và tùy theo thiết kế chương trình mà đưa
lời khuyên về trình tự các hành động cần thực hiện để giải quyết vấn đề. Đây là một
hệ thống sử dụng các khả năng lập luận để đạt tới các kết luận.
Để xây dựng hệ chuyên gia theo yêu cầu, ngôn ngữ lập trình được lựa chọn là
Prolog.
.III Giới thiệu sơ lược về ngôn ngữ Prolog
Prolog là một ngôn ngữ lập trình. Tên gọi Prolog được xuất phát từ cụm từ
tiếng Pháp Programmation en logique, nghĩa là "lập trình theo lô gích". Xuất hiện từ
năm 1972 (do Alain Colmerauer và Robert Kowalski thiết kế), mục tiêu của Prolog là
giúp người dùng mô tả lại bài toán trên ngôn ngữ của logic, dựa trên đó, máy tính sẽ
tiến hành suy diễn tự động dựa vào những cơ chế suy diễn có sẵn (hợp nhất, quay lui
và tìm kiếm theo chiều sâu) để tìm câu trả lời cho người dùng.
Prolog được sử dụng nhiều trong các ứng dụng của trí tuệ nhân tạo và ngôn ngữ
học trong khoa học máy tính (đặc biệt là trong ngành xử lý ngôn ngữ tự nhiên vì đây
là mục tiêu thiết kế ban đầu của nó). Cú pháp và ngữ nghĩa của Prolog đơn giản và
sáng sủa, nó được người Nhật coi là một trong những nền tảng để xây dựng máy tính
thế hệ thứ năm mà ở đó, thay vì phải mô tả cách giải quyết một bài toán trên máy tính,
con người chỉ cần mô tả bài toán và máy tính sẽ hỗ trợ họ nốt phần còn lại.
Nhóm 19 – Khoa học Máy tính K11 17/25
Tìm hiểu về Quản trị tri thức và vai trò của Quản trị tri thức trong thực tiễn
.1 Cú pháp
Một chương trình Prolog bao gồm các luật được biểu diễn dưới dạng mệnh đề
Horn. Một mệnh đề Horn có dạng
Head:-Body.
Head là một vị từ logic, còn Body có thể là rỗng hoặc là một tập các vị từ logic.

Ví dụ như sau:
chẵn(X):- X chia_dư 2 = 0.
Phần lớn các bộ dịch của các chương trình Prolog đều yêu cầu vị từ logic ở
phần đầu của một mệnh đề Horn là một vị từ dương (không có dấu phủ định đi kèm),
còn các vị từ trong phần Body có thể có dấu phủ định đi kèm. Chương trình logic mà
không có sự xuất hiện của dấu phủ định đi kèm gọi là chương trình logic xác định,
còn không thì được gọi là chương trình logic thường.
.2 Dữ kiện
Dữ kiện là những mệnh đề Horn mà phần Body là rỗng. Kiểu mệnh đề này
thường được sử dụng để mô tả các dự kiện của bài toán, ví dụ như việc khai báo
"tôm" là một con mèo:
mèo(tôm).
Khoảng cách từ Hà Nội vào thành phố Hồ Chí Minh là khoảng 2000Km:
khoảng_cách(Hà_Nội,TP_Hồ_Chí_Minh,2000).
.3 Luật
Phần còn lại của các mệnh đề trong một chương trình Prolog được gọi là luật.
Nó thường thể hiện những phát biểu logic trong bài toán, ví dụ như nếu công tác đèn
bật thì đàn sáng:
đèn_sáng(X) :- công_tắc_bật(X).
Toán tử ":-" được dịch thô là "nếu", trong logic thì nó đại diện cho toán tử suy
ra "<-". Phát biểu trên được phát biểu dưới dạng văn xuôi là "Nếu công tắc của đèn X
bật thì đèn X sẽ sáng". Tất nhiên, bạn có thể chưa thoả mãn với phát biểu này và bổ
xung vào nó để có một phát biểu chặt chẽ hơn:
đèn_sáng(X) :- công_tắc_bật(X), có_điện.
Nhóm 19 – Khoa học Máy tính K11 18/25
Tìm hiểu về Quản trị tri thức và vai trò của Quản trị tri thức trong thực tiễn
Dấu phẩy "," trong mệnh đề trên được dịch là toán tử "và"; biến trong Prolog
được quy ước bắt đầu là một chữ cái hoa.
.4 Ngữ nghĩa
Một chương trình logic có ngữ nghĩa của riêng nó. Ngữ nghĩa quyết định những

kết luận "đúng" nào có thể rút ra được từ một chương trình Prolog. Ví dụ một chương
trình Prolog gồm một dữ kiện:
mèo(tôm).
Khi đó, ta có thể rút ra duy nhất một dữ kiện đúng là "tôm là một con mèo".
Trong một ứng dụng Prolog, bạn có thể hỏi một trong hai câu hỏi sau để có được trả
lời đúng:
?- mèo(tôm).
yes.

?- mèo(X).
X = tôm;
no.
Trong ví dụ trên, "no" có nghĩa là không còn câu trả lời nào nữa. Mọi câu hỏi
khác đều cho trả lời là sai. Điều này có nghĩa là trong một chương trình Prolog, người
ta sử dụng giả thiết thế giới đóng, mọi thứ bạn khai báo là đúng, nếu không thì nó là
sai. Vì vậy trong ví dụ trên, khi bạn hỏi "mitu có phải là một con mèo hay không",
bạn sẽ nhận được câu trả lời "no".
Với một chương trình Prolog xác định, ngữ nghĩa của nó được định nghĩa là
một mô hình tối thiểu của nó.
Với một chương trình Prolog bình thường, có nhiều loại ngữ nghĩa được sử
dụng như ngữ nghĩa đầy đủ, ngữ nghĩa tối thiểu, ngữ nghĩa hoàn chỉnh,
Nhóm 19 – Khoa học Máy tính K11 19/25
Tìm hiểu về Quản trị tri thức và vai trò của Quản trị tri thức trong thực tiễn
.IV Xây dựng chương trình
Chương trình được viết bằng Prolog với mã nguồn và giải thích chương trình
như sau:
nguoi(X). % định nghĩa đối tượng người
tuoi(X,Y). % định nghĩa người X có tuổi Y
gioitinh(X,Y). % định nghĩa người X có giới tính Y
nghenghiep(X,Y). % định nghĩa người X có nghề nghiệp Y

diavixahoi(X,Y). % định nghĩa người X có địa vị xã hội Y
tuvan1(X,Y):-
nguoi(X),tuoi(X,Y),(Y>6),(Y<15),gioitinh(X,'Nam'),
nl , ! , write_ln('Cho phep choi tro choi dien tu 2 lan/tuan').
% định nghĩa Luật tư vấn cho người X ở độ tuổi 6 đến 15 và giới tính là Nam.
tuvan2(X,Y):-
nguoi(X),tuoi(X,Y),(Y>14),Y<18,gioitinh(X,'Nam'),
nl , ! , write_ln('Cho phep di du lich vao ky nghi he').
% Luật tư vấn cho người X ở độ tuổi 13 đến 18 và giới tính Nam.
tuvan3(X,Y):-
nguoi(X), tuoi(X,Y), (Y>6), (Y<15), gioitinh(X,'Nu'),
nl, !,write_ln('Cho phep choi tro choi dien tu tuan 2 lan.').
% Luật tư vấn cho người X ở độ tuổi 6 đến 15 với giới tính ngươi X là Nữ.
tuvan4(X,Y):-
nguoi(X), tuoi(X,Y), (Y>14), (Y<18), gioitinh(X,'Nu'),
nl, !, write_ln('Mua cho nhieu quan ao dep').
% Luật tư vấn cho người X ở độ tuổi 13 đến 18 và giới tính là Nữ.
tuvan5(X,Y):-
nguoi(X), tuoi(X,Y), (Y>17), (Y<22), gioitinh(X,'Nam'),
nl, !, write_ln('Hua mua cho xe de di hoc.').
% Luật tư vấn cho người X ở độ tuổi 18 đến 22 với giới tính là Nam.
tuvan6(X,Y):-
Nhóm 19 – Khoa học Máy tính K11 20/25
Tìm hiểu về Quản trị tri thức và vai trò của Quản trị tri thức trong thực tiễn
nguoi(X), tuoi(X,Y), (Y>17), (Y<22), gioitinh(X,'Nu'),
nl, !, write_ln('Hua se mua cho xe may di hoc va mua MTXT').
% Luật tư vấn cho người ở độ tuổi 18 đến 22 với giới tính là Nữ.
tuvan7(X,Y):-
nguoi(X), tuoi(X,Y), (Y>21), Y<30, gioitinh(X,'Nam'), nghenghiep(X,'LDTO'),
nl, !, write_ln('Trao cac giai thuong khich le tinh that,cup, bang khen').

% Luật tư vấn cho người ở độ tuổi 22 đến 30 với giới tính là Nam và nghề nghiệp
là lao động trí óc.
tuvan8(X,Y):-
nguoi(X), tuoi(X,Y), (Y>21), (Y<30), gioitinh(X,'Nu'), nghenghiep(X,'LDTO'),
nl, !, write_ln('Trao cac cup, bang khen').
% Luật tư vấn cho người ở độ tuổi 22 đến 30 với giới tính là Nữ và nghề nghiệp :
lao động trí óc.
tuvan9(X,Y):-
nguoi(X), tuoi(X,Y), (Y>21), Y<30, gioitinh(X,'Nam'), nghenghiep(X,'LDCT'),
nl, !, write_ln('Thuong tien mat hoac hien vat').
% Luật tư vấn cho người ở lứa tuổi 22 đến 30 với giới tính là Nam và nghề
nghiệp là lao động chân tay.
tuvan10(X,Y):-
nguoi(X), tuoi(X,Y), (Y>21), (Y<30), gioitinh(X,'Nu'), nghenghiep(X,'LDCT'),
nl, !, write_ln('Thuong tien va hien vat').
% Luật tư vấn cho người ở lứa tuổi 22 đến 30 với giới tính là nữ và nghề nghiệp :
lao động chân tay.
tuvan11(X,Y):-
nguoi(X), tuoi(X,Y), (Y>29), (Y<45), gioitinh(X,'Nu'), nghenghiep(X,'LDTO'),
diavixahoi(X,'Cao'), nl, !, write_ln('Thang chuc va thuong tien mat, hien vat').
% Luật tư vấn khen thưởng cho người ở lứa tuổi 30 đến 44, giới tính Nữ và nghề
nghiệp là lao động trí óc và địa vị xa hội cao.
tuvan12(X,Y):-
nguoi(X), tuoi(X,Y), (Y>29), (Y<45), gioitinh(X,'Nam'),
nghenghiep(X,'LDTO'), diavixahoi(X,'Cao'),
nl, !, write_ln('Thang chuc, de bat vao giu cac chuc vu quan trong hon.').
Nhóm 19 – Khoa học Máy tính K11 21/25
Tìm hiểu về Quản trị tri thức và vai trò của Quản trị tri thức trong thực tiễn
% Luật tư vấn cho người ở độ tuổi 30 đến 44 với giới tính Nam, nghề nghiệp lao
động trí óc và địa vị xã hội cao.

tuvan13(X,Y):-
nguoi(X), tuoi(X,Y), (Y>29), (Y<45), gioitinh(X,'Nu'), nghenghiep(X,'LDTO'),
diavixahoi(X,'Trungbinh'),
nl, !, write_ln('Thang chuc').
% Luật tư vấn cho người ở độ tuổi 30 đến 44 với giới tính Nữ, nghề nghiệp lao
động trí óc và địa vị xã hội trung bình.
tuvan14(X,Y):-
nguoi(X), tuoi(X,Y), (Y>29), (Y<45), gioitinh(X,'Nam'),
nghenghiep(X,'LDTO'), diavixahoi(X,'Trungbinh'),
nl, !, write_ln('Thang chuc').
% Luật tư vấn cho người ở độ tuổi 30 đến 44 với giới tính Nam, nghề nghiệp lao
động trí óc và địa vị xã hội trung bình.
tuvan15(X,Y):-
nguoi(X), tuoi(X,Y), (Y>44), (Y<55), gioitinh(X,'Nu'), nghenghiep(X,'LDTO'),
diavixahoi(X,'Cao'),
nl, !, write_ln('Thang chuc va thuong tien mat, hien vat').
% Luật tư vấn cho người ở độ tuổi 45 đến 54 với giới tính Nữ, nghề nghiệp lao
động trí óc và địa vị xã hội cao.
tuvan16(X,Y):-
nguoi(X), tuoi(X,Y), (Y>44), (Y<55), gioitinh(X,'Nam'),
nghenghiep(X,'LDTO'), diavixahoi(X,'Cao'),
nl, !, write_ln('Thang tien trong su nghiep.').
% Luật tư vấn cho người ở độ tuổi 45 đến 54 với giới tính Nam, nghề nghiệp
lao động trí óc và địa vị xã hội Cao.
tuvan17(X,Y):-
nguoi(X), tuoi(X,Y), Y>54, gioitinh(X,'Nu'), nghenghiep(X,'LDTO'),
diavixahoi(X,'Trungbinh'),
nl, !, write_ln('Duoc nghi ngoi va di du lich').
% Luật tư vấn cho người ở độ tuổi lớn hơn 55 với giới tính Nữ, nghề nghiệp lao
động trí óc và địa vị xã hội trung bình.

Nhóm 19 – Khoa học Máy tính K11 22/25
Tìm hiểu về Quản trị tri thức và vai trò của Quản trị tri thức trong thực tiễn
tuvan18(X,Y):-
nguoi(X), tuoi(X,Y), Y>54, gioitinh(X,'Nam'), nghenghiep(X,'LDTO'),
diavixahoi(X,'Trungbinh'),
nl, !, write_ln('Duoc tiep tuc cong hien cho su nghiep khoa hoc').
% Luật tư vấn cho người ở độ tuổi hơn 54 với giới tính Nam, nghề nghiệp lao
động trí óc và địa vị xã hội trung bình.
tuvan19(X,Y):-
nguoi(X), tuoi(X,Y), Y>54, gioitinh(X,'Nu'), nghenghiep(X,'LDCT'),
nl, !, write_ln('Duoc huong luong cao va duoc nghi ngoi').
% Luật tư vấn cho người ở độ tuổi >54 với giới tính Nam, nghề nghiệp lao động
chân tay.
tuvan20(X,Y):-
nguoi(X), tuoi(X,Y), Y>54, gioitinh(X,'Nam'), nghenghiep(X,'LDCT'),
nl, !, write_ln('Duoc nghi ngoi va duoc di day di do.').
% Luật tư vấn cho người ở độ tuổi >54 với giới tính Nam, nghề nghiệp lao động
chân tay.
Nhóm 19 – Khoa học Máy tính K11 23/25
Tìm hiểu về Quản trị tri thức và vai trò của Quản trị tri thức trong thực tiễn
KẾT LUẬN
Tri thức có vai trò hết sức quan trọng góp phần tạo nên mọi thành tựu và tiến
bộ trong lịch sử phát triển của văn minh nhân loại. Mặc dù những câu hỏi có tính
triết học về bản chất của tri thức, về quá trình hình thành tri thức, về quan hệ giữa
vật chất và trí tuệ Vẫn không ngừng được tranh luận và chưa có được câu trả lời
thoả đáng, nhưng trong mọi lĩnh vực hoạt động khoa học, kinh tế, văn hoá, tri thức
vẫn luôn được tìm kiếm, phát hiện, và tác động ngày càng lớn đến sự phát triển xã
hội loài người.
Máy tính điện tử, công cụ chủ yếu của Công nghệ thông tin hiện đại, là loại
máy móc thay thế con người trong các hoạt động lao động trí óc. Chất lượng và khối

lượng của các hoạt động trí óc này không ngừng tăng lên theo sự tiến triển nhanh
chóng về khả năng lưu trữ và xử lý thông tin của máy. Từ hàng chục năm nay, cùng
với khả năng tính toán khoa học kỹ thuật không ngừng được nâng cao, các hệ thống
máy tính đã được ứng dụng để tổ chức nhiều cơ sở dữ liệu thuộc mọi qui mô trong
các ngành kinh tế, xã hội, hình thành dần kết cấu hạ tầng thông tin quốc gia, nền
móng của sự phát triển kinh tế thông tin ở nhiều nước. Sự phong phú về thông tin, dữ
liệu cùng với khả năng kịp thời khai thác chúng đã mang đến những năng suất và
chất lượng mới cho công tác quản lý, hoạt động kinh doanh, phát triển sản xuất và
dịch vụ…
Do là công cụ quản lý, hệ QTTT đòi hỏi phải có công nghệ và nhà tư vấn để
khuyến cáo về cách thức thực hiện đối với việc kiểm soát, phân tích và lập lưu đồ đối
với tri thức.
Nhóm 19 – Khoa học Máy tính K11 24/25
Tìm hiểu về Quản trị tri thức và vai trò của Quản trị tri thức trong thực tiễn
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] PGS.TS Phan Huy Khánh, Công nghệ tri thức, Tài liệu đào tạo sau đại học
[2] PGS.TS Phan Huy Khánh, Lập trình Logíc trong Prolog, NXB Đại học
quốc gia Hà Nội - năm 2004
[3] Bùi Xuân Toại – Trương Gia Việt (Biên dịch), Trí tuệ nhân tạo – Các cấu
trúc và chiến lược giải quyết vấn đề, NXB Thống kê, 2000
[4] TS. Nguyễn Thanh Thủy, Trí tuệ nhân tạo – Các phương pháp giải quyết
vấn đề và kỹ thuật xử lý tri thức, NXB Giáo dục, 1995
[5] Wikipedia – Bách khoa toàn thư mở - Lịch sử ngành Trí tuệ nhân tạo
/>[6] Các tài liệu trên Internet.
Nhóm 19 – Khoa học Máy tính K11 25/25

×