BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ CÔNG THƯƠNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP.HCM
KHOA TÀI CHÍNH-NGÂN HÀNG
******
TÊN ĐỀ TÀI
Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng
đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại
ngân hàng Phương Đông
Chi nhánh Tân Bình TP.HCM
Giảng viên hướng dẫn: NCS.ThS Vũ Thị Thùy Linh
Sinh viên: Hà Đông Nhật
Lớp: CĐTN11A
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, NĂM 2012
LỜI CẢM ƠN
Khoảng thời gian thực tập tại ngân hàng thương mại cổ phần Phương Đông – chi
nhánh Tân Bình, em đã thực sự có cơ hội vận dụng những kiến thức, lý luận đã được
trang bị trong nhà trường vào thực tiễn hoạt động kinh doanh của ngân hàng, để rồi, từ
những thực tế đó đã bổ sung thêm nhiều kiến thức, kinh nghiệm quý báu cho chính
bản thân mình. Em xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo, các cô, chú, anh, chị ở các
phòng ban và giảng viên NCS.ThS Vũ Thị Thùy Linh đã tạo điều kiện và tận tình
hướng dẫn em hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này. Tuy nhiên, do hạn chế về kiến
thức và thời gian nên bài làm của em không tránh khỏi những thiếu sót, khuyết điểm,
do vậy em kính mong được sự chỉ bảo, đóng góp ý kiến của quý thầy cô và các cô,
chú, anh, chị trong cơ quan để chuyên đề thực tập của em được hoàn thiện với kết quả
tốt hơn nữa.
NHẬN XÉT
(Của cơ quan thực tập)
NHẬN XÉT
(Của giảng viên hướng dẫn)
NHẬN XÉT
(Của người phản biện)
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
BẢNG 2.1 SƠ ĐỒ TỔ CHỨC
BẢNG 2.2 CHỈ TIÊU TÀI CHÍNH OBC
BẢNG 2.3 TÌNH HÌNH HUY ĐỘNG VỐN BA THÁNG 6-7-8
BẢNG 2.4 PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH HUY ĐỘNG VỐN
BẢNG 2.5 DƯ NỢ PHÂN THEO THỂ LOẠI CHO VAY
BẢNG 2.6 CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG THEO TÌNH TRẠNG QUÁ HẠN CỦA
DƯ NỢ GỐC NĂM 2010
BẢNG 2.7 DỰ PHÒNG RỦI RO TÍN DỤNG NĂM 2011
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DNV&N: Doanh nghiệp vừa và nhỏ
NHTM: Ngân hàng thương mại
OCB: ORICOMBANK- Ngân hàng Thương mại cổ phần Phương Đông
CĐ: Công đoàn
TNHH: Trách nhiệm hữu hạn
NHNN: Ngân hàng nhà nước
NHPĐ: Ngân hàng Phương Đông
CNH-HĐH: Công nghiệp hóa-Hiện đại hóa
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Với sự tăng trưởng số lượng đầy ấn tượng, gấp 15 lần trong vòng 10 năm
(2000 - 2010), các Doanh Ngiệp Việt Nam đã thể hiện sức sống mãnh liệt của mình.
Chiếm 97% trong số khoảng hơn 500 nghìn Doanh Nghiệp đang hoạt động trong nền
kinh tế Việt Nam, các Doanh Nghiệp vừa và nhỏ được ghi nhận là động lực cho sự
phát triển của Việt Nam thời gian qua ( />tuyen-con-duong-phat-trien-cua-dn-vua-va-nho-viet-nam). Cùng với sự phục hồi của
nền kinh tế, nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng tăng theo.
Tuy nhiên DNV&N thường gặp những hạn chế nhất định về vốn, công nghệ sản
xuất, mặt bằng sản xuất,… nên đòi hỏi phải có những chương trình hỗ trợ về tiếp cận
vốn (tín dụng ưu đãi, đa dạng kênh huy động vốn và ưu đãi thuế). Nắm bắt điều này,
nhiều ngân hàng thương mại đã triển khai hàng loạt các chương trình tài chính hỗ trợ
cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ như quỹ bảo lãnh tín dụng doanh nghiệp vừa và
nhỏ, cung cấp tín dụng, quỹ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ
Mặc dù vậy, chính sách tài hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta
vẫn còn nhiều hạn chế, trong đó nổi lên một số vấn đề chính như chính sách bảo lãnh
tín dụng; chính sách hỗ trợ lãi suất và tín dụng ưu đãi trong năm 2010 (6%) và năm
2011 (3%); chính sách ưu đãi thuế; hỗ trợ mặt bằng sản xuất kinh doanh; hỗ trợ đổi
mới công nghệ, hỗ trợ xúc tiến mở rộng thị trường( />tai-chinh-ho-tro-phat-trien-dn-nho-va-vua-12693230.html).
Theo dự tính trong tương lai nhu cầu về vốn ngày càng tăng và đáp ứng yêu cầu
sàn xuất kinh doanh tạo ra năng lực mới, nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh
nghiệp. Để hoạt động kinh doanh phát triển và cạnh tranh của các doanh nghiệp. Để
hoạt động kinh doanh phát triển và cạnh tranh được trên thị trường các doanh nghiệp
cần phải đầu tư một lượng vốn không nhỏ, mà vốn tự có của doanh nghiệp chỉ đáp
ứng một phần nào nhu cầu vốn của họ. Đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ do
vốn tự có ít nên các nhu cầu về vốn là rất cấp thiết. Vì vậy ngân hàng chính là nơi các
doanh nghiệp này tìm đến giải quyết các khâu về vốn.
Tín dụng của các ngân hàng thương mại là một trong những hình thức sử dụng
vốn đối với các doanh nghiệp nói chung và các oanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng. Tuy
nhiên trong những năm qua vấn đề tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp
không ít khó khăn và tồn tại như: sự an toàn, chất lượng, hiệu quả đặc biệt là vấn đề
chất lượng của khoản tín dụng. Đây cũng là mối quan tâm hàng đầu của các ngân
hàng trong đó có ngân hàng Phương Đông Chi nhánh Tân Bình, vậy làm sao để đạt
được lợi nhuận tối đa mà hoạt động tín dụng vẫn an toàn, hiệu quả luôn là một vấn đề
cấp thiết và quan trọng đối với các ngân hàng. Chính vì lẽ đó mà em đã chọn đề tài:
“Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại
ngân hàng Phương Đông - Chi nhánh Tân Bình” nhằm mục đích nghiên cứu, phân
tích, đánh giá thực trạng hoạt động tín dụng doanh nghiệp vừa và nhỏ của chi nhánh
trong thời gian qua và từ đó đề xuất một vài giải pháp nhằm mở rộng, nâng cao hiệu
quả hoạt động tín dụng doanh nghệp vừa và nhỏ.
Phương pháp nghiên cứu:
Dựa trên những lý luận chung của các học thuyết kinh tế về tín dụng doanh nghiệp,
đồng thời sử dụng các phương pháp thống kê phân tích, tổng hợp và so sánh các tài
liệu thu thập được về thực trạng tín dụng tiêu dùng tại ngân hàng Phương Đông chi
nhánh Tân Bình, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm góp phần mở rộng và nâng cao
hiệu quả hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp vừ và nhỏ.
Phạm vi nghiên cứu:
Hoạt động tín dụng doanh nghiệp tại ngân hàng Phương Đông Chi nhánh Bình Dương
có so sánh và tham khảo thêm về một số ngân hàng khác cũng như những nguồn tài
liệu khác. Trên cơ sở đó kết hợp với đặc điểm hoạt động, phạm vi, quy mô của Chi
nhánh và lý thuyết chung về tín dụng doanh nghiệp trong ngân hàng thương mại để
đề xuất một số giải pháp mở rộng, nâng cao hiệu quá hoạt động tín dụng đối với
doanh nghiệp vừa và nhỏ trong giai đoạn tới.
Kết cấu nội dung nghiên cứu:
gồm có ba phần:
Chương 1: Những vấn đề lí luận về tín dụng và chất lượng tín dụng
Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại
ngân hàng Phương Đông-chi nhánh Tân Bình
Chương 3: Giải pháp mở rộng, nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng đối với các
doanh nghiệp vừa và nhỏ tại ngân hàng Phương Đông – chi nhánh Tân Bình.
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ TÍN DỤNG VÀ CHẤT LƯỢNG
TÍN DỤNG
1.1/ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI (NHTM)
1.1.1/ Ngân hàng thương mại và hoạt động của NHTM
1.1.1.1 / Lịch sử hình thành và phát triển.
Nghề ngân hàng bắt đầu với nghiệp vụ đổi tiền và đúc tiền của các thợ
vàng. Việc đúc thành những đồng tiền riêng của mỗi quốc gia hoặc vùng lãnh
thổ kết hợp với thương mại và giao lưu quốc tế tạo ra các yêu cầu đúc hoặc
đổi tiền tại các cửa khẩu hoặc trung tâm thương mại. Người làm nghề đúc
tiền, đổi tiền thực hiện việc kinh doanh tiền tệ bằng cách đổi ngoại tệ thành
bản tệ và ngược lại.Lợi nhuận thu được là chênh lệch giá mua bán.
Những người làm nghề đổi tiền là những người giàu, trước đó có thể
làm yêu cầu cất giữ tiền của các lãnh chúa các nhà buôn nhiều người làm
nghề đổi tiền thực hiện luôn việc cất giữ hộ. Việc cất trữ hộ làm tăng thu
nhập, đa dạng hóa các loại tiền, tăng qui mô sản xuất của người kinh doanh
tiền tệ. Việc cất trữ hộ giùm người khác là điều kiện của việc thanh toán hộ và
thanh toán không dùng tiền mặt. Với những ưu điểm của mình thanh toán
không dùng tiền mặt đã thu hút các thương gia gửi tiền nhiều hơn.
Trong điều kiện lưu thông tiền kim loại các chủ cửa hàng vàng bạc vừa đổi
tiền, thanh toán hộ, vừa đúc tiền. Những ngân hàng này gọi là những ngân
hàng của những thợ vàng.
Nghề ngân hàng cũng được bắt nguồn từ người cho vay nặng lãi. Một
số người cho vay nặng lãi thực hiện cả viêc đổi tiền giữ tiền và thanh toán hộ.
Các ngân hàng đầu tiên dùng vốn tự có để tài trợ cho hoát động của họ, nhưng
điều đó không kéo dài. Từ hoạt động thực tiễn, các ngân hàng nhận thấy
thường xuyên có người gửi vào và có người lấy tiền ra, xong tất cả gửi tiền
đều không rút ra cùng một lúc nên đã tạo ra số dư thường xuyên ở ngân hàng.
Do tình chất vô danh của tiền, chủ ngân hàng có thể sử dụng tạm thời một
phần tiền gửi của khách để cho vay. Hoạt động cho vay tạo nên lợi nhuận lớn
cho ngân hàng, do vậy các ngân hàng đều tìm cách mở rộng thu hút tiền gửi
để cho vay bằng cách trả lãi cho người gửi tiền. Bằng cách cung cấp các tiện
ích khác nhau mà ngân hàng ngày càng huy động được nhiều tiền gửi, là điều
kiện để mở rộng cho vay và lãi suất cho vay.
Tóm lại, ngân hàng là một loại hình tổ chức quan trọng đối với nền
kinh tế.
Các ngân hàng có thể định nghĩa qua các chức năng, dịch vụ và vai
trò chúng thực hiện trong nền kinh tế. Vấn đề là ở chỗ các yếu tố trên đang
không ngừng thay đổi. Thật tế, rất nhiều tổ chức tài chính bao gồm cà công ty
chứng khoán ,công ty mô giới, quỹ tương hỗ và công ty bảo hiểm hàng đầu
đang cố gắng cung cấp các dịch vụ ngân hàng. Ngược lại ngân hàng đang đối
phó với các đối thủ cạnh tranh( các tổ chức phi tài chính ngân hàng) bằng
cách ở rộng phạm vi về cung cấp các dịch vụ bất động sản và mô giới chứng
khoán, tham gia hoạt động bảo hiểm đầu tư quĩ tương hỗ và thực hiện nhiều
dịch vụ mô giới khác.
Các tiếp cận quang trọng nhất là có thể xem xét các tổ chức này trên
phương diện những loại hình mà chúng cung cấp. Ngân hàng là các tổ chức
tài chính cung cấp các danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất đặc biệt là
tín dụng thanh toán và các chức năng tài chính so với bất kì tổ chức kinh
doanh nào trong nào kinh tế. Một số định nghĩa dựa trên các hoạt động chủ
yếu.
Ví dụ, luật tổ chức của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam ghi “
hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vu ngân hàng với
nội dung thường xuyên và nhận tiền gửi và sử dụng số tiền vay này để cấp tín
dụng và cung cấp các dịch vụ thanh toán.”
Hình thức ngân hàng đầu tiên-ngân hàng của các thợ vàng, hoặc ngân
hàng của kẻ cho vay nặng lãi thực hiện cho vay với các cá nhân chủ yếu các
người giàu như quan lại, địa chủ nhằm mục đích phục vụ tiêu dùng. Nhiều
ngân hàng lớn còn mở rộng việc cho vay với các vua chúa, nhằm tài trợ phần
chi tiêu cho chiến tranh.Hình thức cho vay chủ yếu là thấu chi tức là chi cho
khách hàng số tiền gửi tại ngân hàng, một hình thức cho vay vời nhiều rủi ro.
Do lợi nhuận cho vay từ rất cao, nhiều chủ ngân hàng đã lạm dụng ưu thế của
chứng chỉ tiền gửi phát hành tiền gửi khống để cho vay. Thực trạng này đã
đẩy ngân hàng đến chỗ mất khả năng thanh toán và phá sản.
Sự sụp đổ cho các ngân hàng gây mất khả năng thanh toán , ảnh hưởng
xấu đến hoạt động mua bán. Hơn nữa lãi suất cao nên những nhà buôn không
thể sử dụng lãi suất cao này. Trước tình hình đó nhà buôn tự thành lập ngân
hàng gọi là ngân hảng thương mại. Và như vậy ngân hàng thương mại hình
thành xuất phát từ tư bản thương nghiệp.Ngân hàng thương mại cũng thức
hiện các nghiệp vụ truyền thống của ngân hàng như huy động tiền gửi thanh
toán, cất trữ và cho vay. Tuy nhiên điểm khác biệt giữa các ngân hàng thương
mại và các nhà buôn vay dưới hình thức chiết khấu thương phiếu. Đây là
khoản cho vay ngắn hạn, dựa trên quá trình luân chuyển của hàng hóa với lãi
suất thấp hơn với lợi nhuận tiền vay. Để đảm báo an toàn ngân hàng thương
mại ban đầu không cho vay với người tiêu dùng không cho vay trung và dài
hạn, không cho vay đối với nhà nước.
Sự phá sản của ngân hàng thương mại đã gây tổn thất cho người gửi
tiền. Ngân hàng này không cho vay, chỉ nhận giữ tiền hộ để lấy phí. Đồng
thời tại mỗi nước, trong những điều kiện lịch sử cụ thể đã hình thành nhiều
loại ngân hàng khác nhau như ngân hàng tiết kiệm, ngân hàng phát triển, ngân
hàng đầu tư, ngân hàng trung ương tạo nên hệ thống các ngân hàng. Trong
đó từ ngân hàng trung ương có chức năng xây dựng và quản lí chính sách tiền
tệ quốc gia, các ngân hàng cón lại dù có một số đặc điểm khác nhau nhưng
đều kinh doanh tiền tệ và tín dụng.
Cùng với sự phát triển kinh tế và công nghệ, hoạt động ngân hàng đã
có những bước tiến rất nhanh.Trước hết đó là sự đa dạng cac loại ngân hàng
và các hoạt động ngân hàng. Từ các ngân hàng tư nhân, quá trình tụ tập và
tích trữ vốn trong ngân hàng đã hình thành nên các ngân hàng cổ phần. Qúa
trình gia tăng vai trò quản lí nhà nước đối với các hoạt động ngân hàng đã tạo
ra các ngân hàng sở hữu nhà nước, ngân hàng liên doanh các ngân hàng phát
triển mạnh ở thế kỉ 20. Nhiều ngiệp vụ truyền thống vẫn được giữ bên cạnh
nghiệp vụ mới vẫn còn phát triển.Ngân hàng thương mại từ chỗ cho vay ngắn
hạn là chủ yếu đã mở rộng cho vay trung và dài hạn, cho vay bất động sản.
Nhiều ngân hàng mở rộng cho vay tiêu dùng, kinh doanh chứng khoán, cho
thuê Các hình thức huy động ngày càng phong phú.Các loại hình tiền gửi
khác nhau được đưa ra nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng. Bên
cạnh các hình thức huy động tiền gửi, ngân hàng cũng đã mở rộng các hình
thức cho vay ngân hàng trung ương và các ngân hàng khác. Công nghệ ngân
hàng đang góp phần làm thay đổi các hoạt động cơ bản của ngân hàng. Thanh
toán điện tử thay thế dần thanh toán thủ công đẩy nhanh tốc độ, tính an toàn
nhất trong thanh toán. Các loại thẻ thay thế dần các loại tiền giấy và dịch vụ
ngân hàng 24h, dịch vụ ngân hàng đang ngày càng tạo ra nhiều tiện ích cho
dân chúng.
Quá trình phát triển của ngân hàng đã tạo ra mối quan hệ ràng buộc
ngày càng chặt chẽ, sự phụ thuộc ngày càng lớn giữa các ngân hàng. Các hoạt
động ngân hàng xuyên quốc gia và đa quốc gia đã được thúc đẩy thành các
hiệp hội các tổ chức liên kết ngân hàng nhằm tạo ra những chính sách thống
nhất trong diều hành và hệ thống trong mỗi quốc gia khu vực và kinh tế.
1.1.1.2 / Các hoạt động của ngân hàng
Ngân hàng là một doanh nghiệp cung cấp dịch vụ cho công chúng và
các doanh nghiệp. Thành công của các doanh nghiệp phụ thuộc vào năng lực
dịch vụ tài chính mà có nhu cầu thực hiện một cách hiêu quả.
a. Mua bán ngoại tệ
Một trong những dịch vụ ngân hàng đầu tiên thực hiện trao đổi mua bán
ngoại tệ: Mua, bán một loại tiền này lấy một loại tiền khác hưởng phí dịch
vụ.
b. Nhận tiền gửi
Một trong những nguồn quan trọng là gửi thanh toán và tiết kiệm
khách hàng. Và ngân hàng mở dịch vụ nhận tiền gửi để bảo quản hộ người
có tiền với cam kết hoàn trả đúng hạn. Trong cuộc cạnh tranh và tìm được
các khoản tiền gửi, các ngân hàng đã trả lãi tiền gửi như là phần thưởng
cho khách hàng về việc sẵn sàng hi sinh nhu cầu tiêu dùng trước mắt và
cho phép ngân hàng sử dụng tạm thời
c. Cho vay
-Cho vay thương mại
Ngay ở thời kì đầu các ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu mà thực tế
là cho vay đối với người bán(người bán chuyển các khoản phải thu cho
ngân hàng để lấy tiền trước). Sau đó ngân hàng cho vay trực tiếp với
khách hàng(là người mua), giúp họ mua hàng dự trữ để có vốn kinh
doanh.
- Cho vay tiêu dùng
Trong giai đoạn hầu hết các ngân hàng không tích cực cho vay
đối với các cá nhân và hộ gia đình bởi vì họ tin rằng các khoản tiêu
dùng vỡ nợ tương đối cao. Sự gia tăng trong thu nhập của người tiêu
dùng và sự cạnh tranh trong cho vay đã hướng các ngân hàng tới người
tiêu dùng như là một khách hàng tiềm năng. Sau chiến tranh thế giới
thứ 2, tín dụng tiêu dùng đã trở thành loại tín dụng phát triển nhanh
nhất ở các nước có nền kinh tế phát triển.
- Tài trợ dự án
Bên cạnh cho vay truền thống là cho vay ngắn hạn các ngân hàng ngày
càng trở nên năng động trong tài trợ trung và dài hạn: tài trợ xây nhà
máy, phát triển công nghệ cao Một số ngân hàng còn cho vay đầu tư
vào nhà đất.
d. Bảo quản tài sản hộ.
Các ngân hàng thực hiện việc lưu trữ vàng, và các giấy tờ có giá và tài sản
cho khách hàng trong két. Ngân hàng thường giữ hộ những tài sản chính,
giấy tờ có giá, cầm cố với nguyên tắc an toàn,bảo mật, thuận tiện. Dịch vụ
này phát triển cùng với một số dịch vụ khác như mua bán hộ giấy tờ có giá
cho khách, thanh toán hộ
e. Cung cấp các tài khoản giao dịch và tài khoản thanh toán
Khi khách hàng gửi tiền vào ngân hàng,ngân hàng không chỉ thực hiện
việc bảo quản mà còn thực hiện lệnh chi trả cho khách hàng.Thanh toán
qua ngân hàng đã mở đầu cho thanh toán không dùng tiền mặt, tức là
người gửi tiền không cần đến ngân hàng lấy tiền mà chỉ cần viết phiếu chi
trả cho khách, khách hàng mang giấy đến ngân hàng sẽ nhận được tiền.
Các tiện ích thanh toán không dủng tiền mặt( nhanh chóng, an toàn, chính
xác, tiết kiệm chi phí) đã góp phần rút ngắn thời gian kinh doanh và nâng
cao thu nhập cho khách hàng. Khi ngân hàng mở chi nhánh phạm vi thanh
toán qua ngân hàng được mở rộng tạo nhiều lợi ích hơn. Điều này đã
khuyến khích các khách hàng gửi tiền vào ngân hàng để nhờ ngân hàng
thanh toán hộ.Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, bên cạnh
các thể thức thanh toán sec, ủy nhiệm chi, LC, đã phát triển hình thức
thanh toán mới bằng thẻ.
f. Quản lý ngân quĩ
Các ngân hàng mở tài khoản và giữ tiền của phần lớn các doanh nghiệp và
cá nhân. Nhờ đó ngân hàng giữ được mối liên hệ chặt chẽ với nhiều khách
hàng, do có kinh nghiệm trong quản lý ngân quỹ và khả năng thu ngân,
nhiều ngân hàng đã cung cấp cho khách hàng dịch vụ ngân quĩ.Trong đó
ngân hàng đồng ý việc quản lí thu chi cho một công ty kinh doanh và tiến
hành đầu tư thặng dư tiền mặt tạm thời vào các chứng khoán sinh lời và
các tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần đến tiền mặt.
g. Tài trợ các hoạt động của chính phủ.
Khả năng huy động và cho vay với khối lượng lớn của ngân hàng đã trở
thành trọng tâm chú ý của các chính phủ.Do nhu cầu chi tiêu lớn trong khi
nguồn thu không đủ, chính phủ các nước đều muốn tiếp cận với khoản vay
ngân hàng.Ngày nay chính phủ dành quyền cấp phép hoạt động vời điều
kiện là họ phải cam kết thực hiện ở một mức độ nào đó các chính sách của
chính phủ và tài trợ cho chính phủ. Các ngân hàng thường mua trái phiếu
chính phủ theo một tỷ lệ nhất định trên tổng lượng tiền gửi mà ngân hàng
huy động được.
h. Bảo lãnh
Do khả năng thanh toán cho một khách hàng là rất lớn và do ngân hàng
nắm giữ tiền gửi của khách hàng, nên ngân hàng có uy tín trong bảo lãnh
cho khách hàng. Trong những năm gần đây nghiệp vụ bảo lãnh ngày càng
đa dạng phát triển. Ngân hàng thường bảo lãnh cho khách hàng của mình
mua chịu hàng hóa và trang thiết bị, phát hành chứng khoán, và vay vốn từ
tổ chức tín dụng khác
i. Cho thuê thiết bị trung và dài hạn(leasing)
Nhằm để bán được các thiết bị, đặc biệt là các thiết bị có giá trị lớn.
Nhiều hãng sản xuất và thương mại đaã cho thuê. Cuối hợp đồng thuê
khách hàng có thể mua(do vậy có thể gọi là hợp đồng thuê mua). Rất
nhiều ngân hàng tích cực cho khách hàng quyền lựa chọn thuê các thiết bị
máy móc cần thiết thông qua hợp đồng thuê mua, trong đó ngân hàng mua
thiết bị và cho khách hàng thuê vời điều kiện khách hàng phải trả hơn 70%
hay 100% gái trị của tài sản cho thuê. Do vậy cho thuê của ngân hàng
cũng giống như nhiều điểm cho vay và được xếp vào tín dụng trung và dài
hạn.
j. Cung cấp dịch vụ ủy thác và tư vấn.
Do hoạt động trong lĩnh vực tài chính nên ngân hàng có rất nhiều chuyên
gia quản lí tài chính. Vì vậy, nhiều cá nhân và doanh nghiệp đã nhờ ngân
hàng quản lý tài sản và quản lí hoạt động tài chính hộ. Dịch vụ ủy thác
phát triển sang cả ủy thác vay hộ, ủy thác cho vay hộ, ủy thác phát hành và
ủy thác đầu tư Nhiều khách hàng còn xem ngân hàng là một chuyên gia
tư vấn tài chính. Ngân hàng sẵn sàng tư vấn về đầu tư, quản lí tài chính,
thành lập, mua bán, sáp nhập doanh nghiệp.
k. Cung cấp dịch vụ mô giới và đầu tư chứng khoán.
Nhiều ngân hàng đang phấn đấu cung cấp đủ các dịch vụ tài chính cho
phép khách hàng thỏa mãn mọi nhu cầu. Đây là một trong những lí do
chính khiến các ngân hàng bắt đầu bán các dịch vụ mô giới chứng khoán,
cung cấp cho khách hàng cơ hội mua chứng khoán, cổ phiếu, trái phiếu và
các chứng từ có giá khác Trong một và trường hợp công ty tổ chức ra
công ty mua bán chứng khoán hay công ty mô giới chứng khoán đề cung
cấp dịch vụ mô giới .
f. Cung cấp dịch vụ bảo hiểm
Từ nhiều năm nay, các ngân hàng bán bảo hiểm cho khách hàng,điều đó
đảm bảo việc hoàn trả cho khách hàng trong trường hợp khách hàng bị
chết, bị tàn phế, hay gặp rủi ro trong hoạt động, mất khả năng thanh toán.
Ngân hàng liên doanh với công ty bảo hiểm con, ngân hàng cung cấp dịch
vụ tiết kiệm gắn với bảo hiểm như tiết kiệm an sinh, tiết kiệm hưu trí
m. Cung cấp các dịch vụ đại lí.
Nhiều ngân hàng trong quá trình hoạt động không thể thiết lập chi nhánh
hoặc văn phòng ở khắp nơi. Nhiều ngân hàng(thường ngân hàng lớn)cung cấp các
dịch vụ đại lý cho các ngân hàng thanh toán hộ,phát hành các chứng chỉ tiền gửi
làm ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ.
1.1.2/ Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại
1.1.2.1/ Tín dụng và sự cần thiết của tín dụng ngân hàng trong hoạt động
kinh tế.
- Tín dụng được coi là mối quan hệ vay mượn lẫn nhau giữ người cho
vay và người đi vay trong điều kiện có hoàn trả vốn gốc và lãi sau một
thời gian nhất định. Hay nói một cách khác, tín dụng là một phạm trù
kinh tế phản ánh mối quan hệ kinh tế mà trong đó mỗi cá nhân hay tổ
chức nhường quyền sử dụng một khối lượng giá trị hoặc hiện vật cho
một cá nhân hay một tổ chức khác với những ràng buộc nhất định về
thời gian hoàn trả, lãi suất, cách thức vay mượn và thu hồi
Trong quan hệ mua bán chịu, thông thường giá mua bán chịu hàng hóa
thường cao hơn giá bán trao tiền ngay, phần chênh lệch này chính là lãi
của hàng hóa đem bán chịu. Quan hệ mua bán chịu chỉ diễn ra giữa các
đơn vị có liên quan trực tiếp lẫn nhau. Vì vậy nó không đáp ứng nhu
cầu vay mượn ngày càng tăng của nền sản xuất hàng hóa. Mặc khác do
đặc điểm tuần hoàn vốn trong quá trình tái sản xuất, xã hội thường
xuyên xuất hiện hiện tượng thừa vốn ở các tổ chức cá nhân này và nhu
cầu thừa vốn ở các cá nhân khác. Hiện tượng thừa thiếu vốn phát sinh
do có sự chênh lệch về thời gian sử dụng vốn của tổ chức hay cá nhân
đó. Trong khi đó các khoản thu nhập và chi tiêu ở các tổ chức và các
nhân trong quá trình tái sản xuất đòi hỏi phải được tiến hành liên tục
đòi hỏi phải được tiến hành liên tục. Vậy để khắc phục tình trạng này
chỉ có ngân hàng, một tổ chức chuyên kinh doanh tiền tệ mới có thể
giải quyết mâu thuẫn đó.
Vậy tín dụng ngân hàng là gì?
“Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng bằng tiền tệ mà một bên là
ngân hàng- là tổ chức chuyên kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với một
bên là tất cả các tổ chức cá nhân trong xã hội trong đó ngân hàng giữ
vai trò là người đi vay và cho vay”
Với tư cách là người đi vay: Ngân hàng huy động mọi nguồn vốn tạm
thời nhàn rỗi trong xã hội bằng cách nhận tiền gửi của các doanh
nghiệp, tổ chức, cá nhân hay phát hành chứng chỉ tiền gửi trái phiếu để
huy động vốn trong xã hội.
Với tư cách là người cho vay: Ngân hàng đáp ứng nhu cầu của các
doanh nghiệp tổ chức, cá nhân có nhu cầu thiếu vồn cần được bổ sung
trong hoạt động sản xuất kinh doanh và tiêu dùng.Với ngân hàng này
đã thực hiện chức năng phân phối lại vốn, tiền tệ để đáp ứng nhu cầu
tái sản xuất trog xã hội.
Đây là hình thức tín dụng chủ yếu trong nền kinh tế thị trường,nó luôn
đáp ứng nhu cầu về vốn một cách linh hoạt và kịp thời.
1.1.2.2/ Các hình thức tín dụng
Tín dụng cho vay tồn tại rất nhiều hình thức, nhiều tên gọi. Tuy nhiên
căn cứ vào một số tiêu thức khác nhau mà phân chia tín dụng ngân
hàng. Sau đây là một số cách mà ngân hàng thường sử dụng phân chia
và đánh giá:
a. Phân chia theo thời hạn tín dụng
Theo cách này tín dụng ngân hàng được phân thành làm 3 loại:
- Tín dụng ngắn hạn: là khoản tín dụng dưới 1 năm và được bổ sung cho
sự thiếu hụt tạm thời vốn lưu động của doanh nghiệp nó co thể được
vay cho những sinh hoạt cá nhân.
- Tín dụng trung hạn : là những khoản tín dụng từ 1-3 năm, loại tín dụng
này thường dùng để cung cấp mua sắm tài sản cố định và cải tiến biến
đổi kĩ thuật, mở rộng xây dựng công trình nhỏ có thời gian thu hồi vốn
nhanh.
- Tín dụng dài hạn: là khoản tín dụng từ 3 năm trở lên, loại hình này
dùng để cung cấp vốn cho đầu tư xây dựng cơ bản: đầu tư xây dựng xí
nghiệp mới, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, cải tiến mở rộng sản xuất
có qui mô lớn.
Tín dụng trung và dài hạn được đầu tư để hình thành vốn tài sản cố
định và một phần bổ sung cho vốn lưu động.
b. Phân theo mục đích
Theo tín dụng này thì tín dụng ngân hàng rất đa dạng và phong phú:
-Cho vay bất động sản: là loại cho vay liên quan đến mua sắm, và xây
dựng bất động sản, nhà ở, đất đai, bất động sản trong lĩnh vực công
nghiệp và dịch vụ.
- Cho vay công nghiệp và thương mại: là cho vay ngắn hạn để bổ sung
vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực này.
-Cho vay nông nghiệp: là loại cho vay để trang trải các chi phí sản xuất
như phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trông
- Cho vay cá nhân: là loại cho vay để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng mua sắm
các vật dụng đắt tiền. Ngày nay ngân hàng còn cho vay để trang trải các
khoản chi phải thông thường của đời sống thông dụng với tên gọi là tín
dụng tiêu dùng và phát hành thẻ tín dụng
-Thuê mua và các loại tín dụng khác.
c. Phân loại theo căn cứ đảm bảo
- Cho vay không đảm bảo: là loại cho vay không cần tài sản thế chấp,
cầm cố
- hoặc bảo lãnh của người thứ ba. Việc cho vay chỉ dựa trên uy tín. Đối
với khách hàng tốt, trung thực trong khả năng kinh doanh, khả năng tài
chính mạnh, quản trị có hiệu quả thì ngân hàng có thể cấp tín dụng mà
không cần đòi hỏi nguồn nợ bổ sung.
- Cho vay có đảm bảo: là loại cho vay được ngân hàng cung cấp với
điều kiện phải có tài sản thế chấp hoặc có sự báo lãnh của bên thứ ba.
Đối với khách hàng không có uy tín cao đối với ngân hàng khi vay vốn
thì cần có sự đảm bảo. Sự đảm bảo này căn cứ vào pháp lý để ngân
hàng có thêm một nguồn thứ 2 bổ sung cho nguồn nợ thứ nhất thiếu
chắc chắn nhằm bù lại khoản tiền vay trong trường hợp không có khả
năng trả nợ.
d. Phân loại theo đối tượng tín dụng
Theo tiêu thức này được chia thành 2 loại:
- Tín dụng lưu động là loại tín dụng được cấp phát để hình thành vốn
lưu động của hệ thống kinh tế như cho vay để dự trữ hàng hóa đối với
xí nghiệp, thương nghiệp, bù đắp lượng vốn lưu động thiếu hụt.
• Loại này được chia thành 2 loại:
+Cho vay dự trữ hàng hóa, cho vay chi phí sản xuất.
+Cho vay để thanh toán các khoản nợ dưới hình thức chiết khấu kì
phiếu, với thời hạn cho vay là ngắn hạn.
- Tín dung cố định: là loại tín dụng được cấp phát để hình thành loại tài
sản cố định. Loại này thường được để đầu tư mua sắm tài sản cố định,
cải tiến và đổi mới kĩ thuật, mở rộng sản xuất và xây dựng các công
trình. Thời hạn cho vay các loại này là trung và dài hạn.
e. Phân theo tiêu thức hoàn trả tiền vay
Theo cách này là khoản cho vay có thể phân theo hai cách. Cách
thứ nhất là có thể trả một lần cả gốc và lãi khi đến hạn. Hai là
khoản tiền vay sẽ trả nhiều lần theo nhiều kì.
f. Phân theo xuất xứ vốn vay
Các loại do ngân hàng trực tiếp cho vay, có loại vay gián tiếp tức là do
ngân hàng mua lại nợ từ chủ nợ.
g. Phân loại theo hình thức giá tự có
Một là cho vay bằng tiền, đây là loại cho vay chủ yếu của các ngân
hàng được thực hiện bằng các kĩ thuật khác nhau.
Hai là cho vay bằng tài sản, loại này thường phổ biến dưới hình thức
tài trợ thuê mua.
h. Phân loại theo thành phần kinh tế
- Tín dụng đối với thành phần kinh tế quốc doanh
- Tín dụng đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh
1.2 / CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.2.1/ Khái niệm
Tín dụng là hoạt động tài trợ cho khách hàng (còn được gọi là tín dụng ngân
hàng) .
Tín dụng(credit) xuất phát từ chỗ la tinh credo(tin tưởng, tín nhiệm). Trong
thực tế cuộc sống thuật ngữ tín dụng được hưởng theo nhiều nghĩa khác nhau:
ngay cả trong quan hệ tài chính, tùy theo bối cảnh cụ thể mà thuật ngữ tín
dụng có những nội dung riêng. Trong quan hệ tài chính quan hệ tín dụng có
thể hiểu theo các nghĩa sau:
+Xét trên gốc độ dịch chuyển quỹ cho vay từ chủ thể thặng dư tiết kiệm sang
chủ thể thiếu hụt tiết kiệm thì tín dụng được coi là phương pháp dịch chuyển
quỹ từ người cho vay sang người di vay.
+Trong quan hệ tài chính cụ thể, tín dụng là một quan hệ về giao dịch tài sản
trên cơ sở hoàn trả giữ hai chủ thể. Như một công ty công nghiệp hoặc thương
mại bán hàng trả chậm cho một công ty khác, trong trường hợp này người bán
hàng chuyển giao hàng cho bên mua và sau một thời gian thỏa thuận bên mua
trả tiền cho bên bán. Phổ biến hơn là giao dịch ngân hàng và các định chế tài
chính khác với các doanh nghiệp và cá nhân thể hiện với hình thức cho vay,
tức là ngân hàng cấp tiền vay cho bên đi vay và sau một thời gian nhất định
người đi vay phải hoàn trả cả gốc lẫn lãi.
Tín dụng là một giao dịch về tài sản(tiền hoặc hàng hóa) giữa các bên
cho vay(ngân hàng và các định chế tài chính khác) và bên đi vay(cá nhân và
các tổ chức khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử
dụng trong một thời gian nhất dđịnh theo thỏa thuận, bên đi vay có trách
nhiệm hoàn trả vô điều kiện cả gốc và lãi cho bên đi vay khi đến hạn thanh
toán.
Từ khái niệm trên, bản chất của tín dụng là một giao dịch trên cơ sở hoàn trả
và có đặc trưng sau:
+Tài sản giao dịch trong quan hệ khách hàng bao gồm hai hình thức cho vay
(bằng tiền) và cho thuê( bất động sản và động sản). Trong những năm 1960
trở về trước hoạt động tín dụng của ngân hàng chỉ cho vay bằng tiền. Xuất
phát từ tính đặc thù đó mà nhiều thuật ngữ tín dụng và cho vay được coi là
đồng nghĩa với nhau. Từ năm 1970 trở lại đây, dịch vụ cho thuê vận hành và
cho thuê tài chính đã được các ngân hàng và các định chế tài chính cung cấp
cho khách hàng. Đây là sản phẩm kinh doanh của ngân hàng, một hình thức
tín dụng bằng tài sản thực.
+ Xuất phát từ tính chất hoàn trả, bởi vậy người cho vay tiền chuyển giao tài
sản cho người đi vay và sử dụng phải có cơ sở để tin rằng người đi vay sẽ trả
đúng hạn. Đây là yếu tố hết sức cơ bản trong quản trị tín dụng. Trong thực tế
một khi số nhân viên tín dụng khi xét duyệt cho vay không dựa trên cơ sở
đánh giá mức độ tín nhiệm của khách hàng mà chú trọng đến đảm bảo, chính
quan điểm này đã ảnh hưởng chất lượng tín dụng.
+Giá trị hoàn trả thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay hay nói cách khác
người đi vay phải trả thêm phần lãi ngoài gốc. Để thực hiện nguyên tắc này
phải xác định lãi suất danh nghĩa hơn là tỷ lệ lạm phát. Hay nói cách khác,lãi
suất thực phải dương(Lãi suất thực=Lãi suất danh nghĩa-tỷ lệ lạm phát). Tuy
nhiên, lãi suất chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau, nên trong một số
trường hợp cụ thể lãi suất danh nghĩa có thể thấp hơn tỷ lệ lạm phát, ngoại lệ
này chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn.
+Trong quan hệ tín dụng ngân hàng tiền vay được cấp trên cơ sở cam kết
hoàn trả vô điều kiện. Về khía cạnh pháp lý, những văn bản xác định quan hệ
tín dụng như hợp đồng tín dụng, khế ước thực chất là lệnh phiếu, trong đó
bên đi vay cam kết hoàn trả vô điều kiện cho bên cho vay.
1.2.2/ Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng.
1.2.1.1 / Các hoạt động tín dụng xét ở góc độ ngân hàng
Các khoản tín dụng ngân hàng có chất lượng tốt khi hiệu quả sử dụng vốn
cao, an toàn và mang lại hiệu quả kinh tế của chủ thể sử dụng và đồng thời và
mang lại một mức lợi nhuận nào đó cho ngân hàng. Dưới đây là một số chỉ
tiêu đánh giá chất lượng của ngân hàng:
a. Các chỉ tiêu về an toàn tín dụng và mức độ rủi ro
- Tỷ lệ nợ quá hạn:
Dư nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn =
Tổng dư nợ
Nợ quá hạn là phần còn lại khi đến hạn hoặc có thêm thời gian gia hạn
nhưng vẫn chưa thu hồi đủ được.
- Tổng dư nợ quá hạn trong kì và tổng dư nợ quá tích lũy
- Cơ cấu nợ quá hạn “theo tuổi”: phân nhóm nợ quá hạn theo thời gian
quá hạn và theo khách hàng, ước tính tỷ lệ nợ quá hạn chuyển sang nợ
khó đòi. Chi tiết nợ quá hạn theo tuổi sau:
+Tên khách hàng
+Tổng dư nợ
+Quá hạn dưới 3 tháng
+Quá hạn dưới 3-6 tháng
+Quá hạn từ 6 tháng đến 1 năm
+Quá hạn trên 1 năm
- Tỷ lệ nợ phần trăm nợ quá hạn theo tuổi
- Tỷ lệ nợ quá hạn trong kỳ: cùng với tỷ lệ nợ quá hạn, tỷ lệ thu hồi nợ
quá hạn cho ta biết mức độ quản lí nội bộ đối với nợ quá hạn. Nếu tỷ lệ
nợ thu hồi nợ quá hạn nhỏ thì thực tế ngân hàng có thể đang đứng
trước một rủi ro mất một lượng vốn cho vay. Tỷ lệ này có thể xác định
bằng công thức:
Doanh số thu nợ quá hạn trong kỳ
Tỷ lệ nợ quá hạn =
Dư nợ quá hạn đầu kỳ+ Dư nợ quá hạn trong kỳ
Một tỷ lệ được coi là chấp nhận được là dưới 3%.
b. Các chỉ tiêu về sử dụng vốn
- Lượng dư nợ tích lũy đến thời điểm hết kỳ và cơ cấu dư nợ(ngắn,
trung, dài hạn)
- Tỷ lệ cho vay trên tổng vốn dư nợ:
Tổng dư nợ đến kỳ hạn
Tỷ lệ cho vay =
Tổng lượng vốn huy động tích lũy
Tỷ lệ này cho biết khả năng ngân hàng tận dụng vốn huy động trong hoạt động tín
dụng.