Tải bản đầy đủ (.doc) (94 trang)

Giải pháp mở rộng cho vay đối với DNNQD tại NHTMCP Quân Đội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (597.88 KB, 94 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Nền kinh tế nước ta đã từng bước chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao
cấp sang nền kinh tế thị trường. Nền kinh tế mở đòi hỏi các doanh nghiệp phải hết
sức nỗ lực trong sản xuất kinh doanh để có thể chiến thắng trong cạnh tranh, đáp
ứng cho yêu cầu tồn tại và phát triển. Bên cạnh các DNNN, yêu cầu của nền kinh tế
đã tạo điều kiện cho hàng loạt các loại hình DNNQD hình thành và phát triển chiếm
một tỉ trọng cao trong số lượng các doanh nghiệp và đóng góp một phần giá trị lớn
cho nền kinh tế. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, khi nước ta đã gia nhập tổ chức
thương mại thế giới, thì thách thức đối với các doanh nghiệp nói chung và các
DNNQD nói riêng càng lớn cả về quy mô hoạt động và chất lượng sản phẩm sản
xuất. Các doanh nghiệp cần phải có một năng lực tài chính mạnh để có thể đáp ứng
những nhu cầu cần thiết của mình trong quá trình sản xuất. Tuy nhiên, không phải
lúc nào các doanh nghiệp cũng có đủ vốn theo nhu cầu của mình, điều đó có nghĩa
là các doanh nghiệp phải huy động vốn từ các nguồn bên ngoài. Đối với các
DNNN, vốn của doanh nghiệp là do Nhà nước cấp, đối với các DNNQD, vốn của
doanh nghiệp là do các thành viên sáng lập tự góp và khi có nhu cầu về vốn lớn
vượt quá khả năng của doanh nghiệp thì bắt buộc doanh nghiệp phải huy động từ
các nguồn bên ngoài và đi vay ngân hàng được coi là một giải pháp chủ yếu và tối
ưu nhất trong điều kiện của nước ta hiện nay. Tuy nhiên, không phải lúc nào nhu
cầu của DNNQD cũng được đáp ứng vì nhiều lÝ do khác nhau do đó nhiều khi
doanh nghiệp đã mất đi những cơ hội kinh doanh của mình. Câu hỏi đặt ra là làm
thế nào để các DNNQD thoả mãn được các nhu cầu về vốn của mình, đặc biệt là
bằng nguồn vay ngân hàng.
NHTMCP Quân Đội được thành lập với mục đích là đáp ứng nhu cầu vốn
của các DNNN đặc biệt là các doanh nghiệp Quân đội. Nhưng sau hơn 13 năm
trưởng thành và phát triển, phạm vi hoạt động của NHTMCP Quân Đội đã mở rộng
ra và đáp ứng nhu cầu về vốn cho mọi thành phần kinh tế. Trong thời gian qua ngân
hàng đã từng bước tăng trưởng về số lượng tín dụng đối với các DNNQD với chất
lượng tín dụng khá cao và đã duy trì được một số khách hàng truyền thống có tiềm
lực mạnh. Tuy nhiên, với những gì đạt được chưa phải là đã tương xứng với tiềm



1
năng của ngân hàng cũng như của các DNNQD, việc không ngừng mở rộng cho vay
đối với các DNNQD là rất cần thiết để NHTMCP Quân Đội không ngừng mở rộng
và phát triển, chính vì vậy Tôi đã chọn đề tài: "Giải pháp mở rộng cho vay đối với
DNNQD tại NHTMCP Quân Đội"
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài.
Đề tài tập trung vào việc nghiên cứu vai trò của TDNH còng nh của các
DNNQD đối với sự phát triển của nền kinh tế trong giai đoạn hiện nay. Đồng thời
đề tài cũng chú trọng vào việc phân tích tình hình cho vay của NHTMCP Quân Đội
đối với các DNNQD trong những năm gần đây, từ đó đưa ra những vấn đề còn tồn
tại và đi tìm hiểu những nguyên nhân của những tồn tại để đề ra những giải pháp
góp phần mở rộng hơn nữa doanh sè cho vay đối với các DNNQD của NHTMCP
Quân Đội.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
Đề tài phân tích một cách khái quát về những vấn đề chung như: những vấn
đề cơ bản về Tín dụng ngân hàng, về DNNQD và hoạt động chung của NHTMCP
Quân Đội trong thời gian vừa qua và tập trung vào việc phân tích thực trạng cho
vay đối với DNNQD và đưa ra các giải pháp mở rộng cho vay đối với DNNQD tại
NHTMCP Quân Đội.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu thống kê, phân tích, so sánh và đặc
biệt là sử dụng lý luận, nghiên cứu các chính sách marketing, quản trị trong ngân
hàng để rót ra kết luận và những đề xuất chủ yếu.
5.Tên và kết cấu luận văn.
- Tên luận văn:
“Giải pháp mở rộng cho vay đối với DNNQD tại ngân hàng TMCP Quân
đội”.
- Kết cấu luận văn ngoài phần mở đầu và kết luận gồm:
Chương I: DNNQD và vai trò của TDNH đối với sự phát triển của các

DNNQD.
Chương II: Thực trạng hoạt động cho vay đối với DNNQD của NHTMCP
Quân Đội.

2
Chương III: Giải pháp mở rộng cho vay đối với DNNQD tại NHTMCP
Quân Đội.

3
CHƯƠNG 1
TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VÀ VAI TRÒ CỦA TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI
VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC DOANH NGHIỆP NGOÀI QUỐC
DOANH.
1.1. TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VÀ VAI TRÒ CỦA TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG.
1.1.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng.
Tín dụng là một phạm trù kinh tế, ra đời, tồn tại và phát triển cùng với sự ra
đời tồn tại và phát triển của của nền sản xuất và lưu thông hàng hoá. Tín dụng ra đời
là một yếu tố khách quan của sự phát triển kinh tế xã hội.
Mặc dù hoạt động tín dụng ra đời từ rất lâu nhưng cho đến nay người ta vẫn
chưa thống nhất khi định nghĩa đầy đủ về tín dụng. Khái niệm “tín dụng“ có nguồn
gốc từ thuật ngữ La tinh credittum có nghĩa là sự tin tưởng, tín nhiệm. Hiểu một
cách nôm na thì tín dụng là sự vay mượn giữa hai bên (Bên cho vay và Bên vay).
Theo từ điển thuật ngữ tín dụng, tín dụng là một phạm trù kinh tế thể hiện
mối quan hệ giữa người cho vay và người đi vay. Trong quan hệ này người cho vay
có nhiệm vụ chuyển giao quyền sử dụng tiền hoặc hàng hoá cho vay cho người đi
vay trong một thời gian nhất định. Người đi vay tới kỳ hạn trả nợ có nghĩa vụ hoàn
trả số tiền hoặc hàng hoá đã vay, có kèm hoặc không kèm một khoản lãi.
Theo Các Mác thì "tín dụng - dưới hình thức biểu hiện của nó - là sự tín
nhiệm Ýt nhiều có căn cứ đã khiến cho người này giao cho người khác một số tư

bản nào đó dưới hình thái hàng hoá được đánh giá thành một số tiền nhất định. Số
tiền này bao giờ cũng phải được trả lại trong một thời hạn đã được Ên định"
Theo quan niệm của các nhà nghiên cứu kinh tế, tín dụng được coi là quan
hệ vay mượn lẫn nhau giữa người cho vay và người đi vay với điều kiện có hoàn trả
cả vốn lẫn lãi sau một thời gian nhất định. Hay nói một cách khác, tín dụng là một
phạm trù kinh tế phản ánh mối quan hệ kinh tế mà trong đó mỗi cá nhân hay tổ
chức nhường quyền sử dụng (chuyển nhượng) một khối lượng giá trị hoặc hiện vật
cho một cá nhân hay tổ chức khác với những ràng buộc nhất định về: Số tiền hoàn
trả (gốc và lãi), thời gian hoàn trả, lãi suất, cách thức vay mượn và thu hồi

4
 Đối tượng của sự chuyển nhượng bao gồm:
- Hình thái hiện vật - hàng hoá: đó chính là việc kéo dài thời hạn thanh toán
trong quan hệ mua bán.
- Hình thức giá trị: thực chất là việc “ứng trước” hay “đầu tư” trực tiếp bằng
tiền (cho vay bằng tiền ).
 Những điều kiện mà hai bên thường thoả thuận là:
- Khối lượng hàng hoá hay tiền tệ được chuyển nhượng.
- Thời hạn sử dụng vốn của người vay.
- Thu nhập (lợi tức) mà người cho vay được hưởng.
- Những điều kiện ràng buộc nghĩa vụ hoàn trả của người đi vay
 Những điều kiện này mà một trong hai bên không chấp nhận thì không thể
hình thành quan hệ tín dụng. Nh vậy, tín dụng thể hiện các đặc trưng cơ bản:
- Sự chuyển nhượng giá trị từ người sở hữu sang người sử dụng.
- Sau một thời gian thu hồi về một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu:
thu hồi đúng thời hạn cả gốc và lãi.
- Việc chuyển nhượng được thực hiện trên cơ sở sự tin tưởng của người
chuyển nhượng với người sử dụng.
Ngoài ra, trong quan hệ tín dụng còn có những đặc trưng khác cần đề cập nh khả
năng rủi ro, tính bảo đảm, quy luật cung cầu, cạnh tranh, giá trị và quy luật lưu thông tiền

tệ
Còng trong từ điển thuật ngữ tín dụng có đề cập đến khái niệm “tín dụng Ngân
hàng”: “Đó là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và TCTD khác với doanh nghiệp, cá
nhân. Trong quan hệ tín dụng này, ngân hàng vừa là người đi vay, vừa là người cho
vay. Khác với tín dụng Thương mại, tín dụng ngân hàng không cung cấp tín dụng dưới
hình thức hàng hoá”
Luật Các Tổ chức Tín dụng đã được sửa đổi bổ sung năm 2004 quy định cụ
thể về hoạt động tín dụng và cấp tín dụng của TCTD nh sau: “Hoạt động tín dụng là

5
việc TCTD sử dụng nguồn vốn tự có, nguồn vốn huy động để cấp tín dụng. Cấp tín
dụng là việc tổ chức tín dụng thỏa thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với
nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính,
bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác.”
Như vậy, Tín dụng ngân hàng mang bản chất chung của quan hệ tín dụng.
Đó là quan hệ tin cậy lẫn nhau trong việc vay và cho vay giữa các ngân hàng, các
TCTD với các pháp nhân và cá nhân, được thực hiện theo nguyên tắc hoàn trả và
có lãi.
1.1.2. Đặc điểm của tín dụng ngân hàng.
Bản chất của tín dụng ngân hàng là một giao dịch về tài sản trên cơ sở hoàn
trả và có các đặc trưng sau:
 Tài sản giao dịch trong quan hệ tín dụng ngân hàng bao gồm hai hình
thức là cho vay (bằng tiền) và cho thuê (bất động sản và động sản). Trong những
năm 1960 trở về trước hoạt động tín dụng của ngân hàng chỉ có cho vay bằng tiền.
Xuất phát từ tính đặc thù đó mà nhiều lúc thuật ngữ tín dụng và cho vay được coi là
đồng nghĩa với nhau. Từ những năm 1970 trở lại đây, dịch vụ cho thuê vận hành và
cho thuê tài chính đã được các ngân hàng hoặc các định chế tài chính khác cung cấp
cho khách hàng. Đây là một sản phẩm kinh doanh của ngân hàng, một hình thức tín
dụng bằng tài sản thực (nhà ở, văn phòng làm việc, máy móc, thiết bị).
 Xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, vì vậy người cho vay khi chuyển

giao tài sản cho người đi vay sử dụng phải có cơ sở để tin rằng người đi vay sẽ trả
đúng hạn. Đây là yếu tố hết sức cơ bản trong quản trị tín dụng. Trong thực tế một số
nhân viên tín dụng khi xét duyệt cho vay không dựa trên cơ sở đánh giá mức độ tín
nhiệm về khách hàng mà lại chú trọng đến các bảo đảm, chính quan điểm này đã
làm ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng. Cần lưu ý rằng các bậc tiền bối đã bằng từ
"credo" hoặc "tín" để đặt tên cho "credit" hoặc "tín dụng" không phải là vấn đề ngẫu
nhiên. Điều đó có nghĩa là quan hệ tín dụng được xây dựng trên cơ sở lòng tin và uy
tín trong thanh toán.
 Giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay, hay nói
cách khác là người đi vay phải trả thêm phần lãi ngoài vốn gốc. Để thực hiện được
nguyên tắc này phải xác định lãi suất danh nghĩa lớn hơn tỉ lệ lạm phát, hay nói

6
cách khác phải xác định lãi suất thực dương (lãi suất thực = lãi suất danh nghĩa - tỉ
lệ lạm phát). Tuy nhiên, vì lãi suất chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác nhau,
nên trong một số trường hợp cụ thể lãi suất danh nghĩa có thể thấp hơn lạm phát,
ngoại lệ này chỉ tồn tại trong mét giai đoạn ngắn.
 Trong quan hệ tín dụng ngân hàng tiền vay được cấp trên cơ sở cam
kết hoàn trả vô điều kiện. Về khía cạnh pháp lí, những văn bản xác định quan hệ tín
dụng nh hợp đồng tín dụng, khế ước thực chất là lệnh phiếu, trong đó bên đi vay
cam kết hoàn trả vô điều kiện cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
1.1.3. Vai trò của tín dụng ngân hàng.
1.1.3.1. Đối với nền kinh tế
TDNH góp phần thúc đẩy quá trình tái sản xuất xã hội:
Thứ nhất: Vai trò quan trọng nhất của TDNH là cung ứng vốn một cách kịp
thời cho các nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của các chủ thể kinh tế trong xã hội. Nhờ
đó mà các chủ thể này có thể đẩy nhanh tốc độ sản xuất cũng nh tốc độ tiêu thụ sản
phẩm.
Thứ hai: Một hệ thống các hình thức TDNH đa dạng không những thoả mãn
nhu cầu đa dạng về vốn của nền kinh tế mà còn làm cho sự tiếp cận các nguồn vốn

tín dụng trở nên dễ dàng, tiết kiệm chi phí giao dịch và giảm bớt các chi phí nguồn
vốn cho các chủ thể kinh doanh.
Thứ ba: Việc mở rộng và nâng cao hiệu quả các hình thức TDNH sẽ tạo sự
chủ động cho các doanh nghiệp trong việc thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh
khi nó không phải phụ thuộc quá nhiều vào nguồn vốn tự có của bản thân. Điều này
giúp cho các nhà sản xuất tích cực tìm kiếm cơ hội đầu tư mới và nâng cao năng lực
sản xuất của xã hội.
Thứ tư: Các nguồn vốn tín dụng được cung ứng luôn kèm theo các điều kiện
tín dụng để hạn chế rủi ro đạo đức và rủi ro lựa chọn đối nghịch buộc những người
đi vay phải quan tâm thực sự đến hiệu quả sử dụng vốn để đảm bảo quan hệ lâu dài
với các tổ chức cung ứng tín dụng.
Tín dụng ngân hàng là kênh chuyển tải tác động của Nhà nước đến các
mục tiêu vĩ mô.

7
Các mục tiêu vĩ mô của nền kinh tế bao gồm ổn định giá cả, tăng trưởng kinh
tế và tạo công ăn việc làm. Việc đảm bảo đạt được mục tiêu kinh tế vĩ mô hài hoà
phụ thuộc một phần vào khối lượng và cơ cấu tín dụng xét cả về mặt thời hạn cũng
như đối tượng tín dụng. Vấn đề này, đến lượt nó, lại phụ thuộc vào các điều kiện tín
dụng nh lãi suất, điều kiện vay, yêu cầu thế chấp, bảo lãnh và chủ trương mở rộng
tín dụng được quy định trong chính sách tín dụng từng thời kì. Nh vậy thông qua
việc thay đổi và điều chỉnh các điều kiện tín dụng, Nhà nước có thể thay đổi quy mô
tín dụng hoặc chuyển hướng vận động của nguồn vốn tín dụng, nhờ đó mà ảnh
hưởng đến tổng cầu của nền kinh tế cả về quy mô cũng nh kết cấu. Sự thay đổi của
tổng cầu dưới tác động của chính sách tín dụng sẽ tác động ngược lại tới tổng cung
và các điều kiện sản xuất khác. Điểm cân bằng cuối cùng giữa tổng cung và tổng
cầu dưới tác động của chính sách tín dụng sẽ cho phép đạt được các mục tiêu vĩ mô
cần thiết.
Tín dụng ngân hàng là công cụ thực hiện các chính sách xã hội.
Các chính sách xã hội, về mặt bản chất được đáp ứng bằng nguồn tài trợ

không hoàn lại từ Ngân sách Nhà nước. Song phương thức tài trợ không hoàn lại
thường bị hạn chế về quy mô và thiếu hiệu quả. Để khắc phục hạn chế này, phương
thức tài trợ không hoàn lại thường bị hạn chế về quy mô và thiếu hiệu quả. Để khắc
phục hạn chế này, phương thức tài trợ không hoàn lại có xu hướng bị thay thế bởi
phương thức tài trợ có hoàn lại của tín dụng nhằm duy trì nguồn cung cấp tài chính
và có điều kiện mở rộng quy mô tín dụng chính sách. Chẳng hạn việc tài trợ vốn
cho người nghèo ngày nay được thực hiện phổ biến bằng tín dụng đối với người
nghèo với lãi suất thấp. Thông qua phương thức tài trợ này, các mục tiêu chính sách
được đáp ứng một cách chủ động và hiệu quả hơn. Khi các đối tượng chính sách
buộc phải quan tâm đến hiệu quả sử dụng vốn để đảm bảo hoàn trả đúng thời hạn
thì kĩ năng lao động của họ cũng sẽ được cải thiện từng bước. Đây là sự đảm bảo
chắc chắn cho sự ổn định tài chính của các đối tượng chính sách và từng bước làm
cho họ có thể tồn tại độc lập với nguồn vốn tài trợ. Đó chính là mục đích của việc
sử dụng phương thức tài trợ các mục tiêu chính sách bằng con đường tín dụng.
1.1.3.2. Đối với NHTM.

8
Tín dụng là hoạt động sử dụng vốn chủ yếu của các NHTM (chiếm trên 80%
nguồn vốn của ngân hàng) và đem lại một phần lợi nhuận lớn cho ngân hàng. Tín
dụng có vai trò rất quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của các NHTM, thể
hiện:
+ Hoạt động tín dụng giúp ngân hàng ngày càng mở rộng quan hệ với khách
hàng, từ đó làm tăng khả năng huy động vốn từ các đơn vị kinh tế. Đồng thời tạo
điều kiện đa dạng hoá các hoạt động kinh doanh khi tham gia tín dụng vào các lĩnh
vực kinh tế khác nhau trong nền kinh tế, từ đó góp phần giảm bớt được các rủi ro
trong hoạt động kinh doanh ngân hàng.
+ Hoạt động tín dụng của ngân hàng càng phát triển, ngân hàng càng tạo
được vị thế của mình trên thị trường. Việc đáp ứng nhu cầu vốn của các thành phần
kinh tế sẽ giúp cho ngân hàng nâng cao vị thế cạnh tranh trên thị trường đảm bảo
cho sự phát triển ngày càng vững mạnh của ngân hàng.

+ Hoạt động tín dụng là một hoạt động truyền thống đem lại lợi nhuận chủ
yếu cho ngân hàng. Hoạt động này càng phát triển thì ngân hàng càng có điều kiện
vững mạnh về vốn để mở rộng hoạt động cũng nh nâng cao chất lượng hoạt động
của ngân hàng trên thị trường.
1.1.3.3. Đối với khách hàng.
Khách hàng đến giao dịch với ngân hàng rất đa dạng bao gồm các khách
hàng cá nhân, các khách hàng doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế- xã hội khác.
Khách hàng của NHTM luôn cần tới nghiệp vụ tín dụng của NHTM để khắc phục
sự chênh lệch về thời gian cũng như qui mô các nguồn vốn của mình.
Khi các khách hàng của NHTM có nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi do khách
hàng trả tiền trước, được chậm trả đối với hàng hoá đầu vào, chưa đến kì hạn thanh
toán các khoản nợ… họ sẽ cần đến nghiệp vụ tín dụng như một biện pháp giúp
mang lại sự an toàn và một mức lãi suất nhất định cho nguồn vốn đó. Việc gửi
khoản tiền tạm thời nhàn rỗi vào NHTM sẽ giúp cho khách hàng yên tâm về sự an
toàn của vốn, đồng thời mang lại cho họ khoản lãi suất tiền gửi tại đây.
Ngược lại, khi khách hàng của NHTM lâm vào tình trạng thiếu vốn do chưa
thu được tiền hàng, phải đặt tiền trước để mua nguyên liệu đầu vào, phát sinh một
số khoản chi ngoài dự toán…tín dụng của NHTM sẽ giúp họ có được giải pháp tốt

9
để bù đắp sự thiếu hụt tạm thời, duy trì hoạt động ổn định. Đây chính là một nguồn
tài trợ phổ biến trong mọi nền kinh tế.
Hoạt động tín dụng của ngân hàng có vai trò quan trọng đối với khách hàng
thể hiện ở chỗ:
- TDNH đáp ứng nhu cầu về vốn của các chủ thể kinh tế trong xã hội khi
nguồn vốn tự có của họ không đủ để đáp ứng được nhu cầu. Chính nhờ có nguồn
vốn này mà các chủ thể có được vốn để thoả mãn các nhu cầu tiêu dùng, sản xuất
hoặc chi trả cho các khoản cần thiết.
- Nhờ được đáp ứng nhu cầu về vốn khi cần thiết trong quá trình sản xuất
kinh doanh mà hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp được diễn ra

liên tục đảm bảo cho quá trình cung ứng sản phẩm, góp phần ổn định cho sự phát
triển, nâng cao năng lực cạnh tranh, từ đó đóng góp một phần quan trọng vào sự
phát triển kinh tế- xã hội.
- TDNH góp phần phát huy tối đa nội lực và thúc đẩy việc hạch toán kinh
doanh của các doanh nghiệp, sử dụng vốn có hiệu quả hơn và khai thác triệt để
được các tiềm năng kinh doanh: tổ chức hoạt động kinh doanh với chi phí thấp nhất,
nâng cao vòng quay của vốn để có lợi nhuận cao nhất theo quy định của Nhà
nước.
- TDNH đóng vai trò quan trọng trong việc kích cầu nhờ đáp ứng nhu cầu
vốn cho tiêu dùng của các cá nhân trong xã hội, từ đó tạo điều kiện tăng trưởng nền
kinh tế.
Tóm lại, TDNH có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc cung cấp vốn cho
nhu cầu kinh doanh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ bởi chúng không đủ điều kiện
để tham gia vào các thị trường vốn trực tiếp. Cao hơn thế, khả năng cung ứng vốn
của tín dụng ngân hàng còn góp phần đẩy nhanh nhịp độ tích tụ, tập trung vốn và
tăng cường khả năng cạnh tranh giữa các doanh nghiệp. Tín dụng ngân hàng còn
được sử dụng nh công cụ để phát triển các ngành kinh tế chiến lược theo yêu cầu
của Chính phủ.
1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ DNNQD.
1.2.1. Khái niệm DNNQD.

10
Hiện nay, Việt Nam bao gồm các thành phần kinh tế : kinh tế Nhà nước, kinh
tế tập thể, kinh tế cá thể tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản Nhà nước và
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, nếu chia theo hình thức sở hữu thì nền
kinh tế Việt Nam bao gồm 2 loại hình doanh nghiệp chính: doanh nghiệp nhà nước
và doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Doanh nghiệp Nhà nước.
DNNN là một tổ chức kinh tế thuộc sở hữu Nhà nước, do Nhà nước đầu tư
vốn, thành lập và tổ chức quản lí, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công Ých,

nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế- xã hội do Nhà nước giao. DNNN được ngân
sách Nhà nước đầu tư toàn bộ hoặc một phần vốn điều lệ ban đầu nhưng không thấp
hơn tổng mức vốn pháp định của các ngành nghề mà doanh nghiệp đó kinh doanh.
Ngoài số vốn nhà nước đầu tư, doanh nghiệp được quyền huy động vốn dưới các
hình thức khác, nhưng không được thay đổi hình thức sở hữu của doanh nghiệp.
Việc phân phối lợi nhuận sau thuế ( lợi nhuận sau khi nộp thuế thu nhập doanh
nghiệp) được thực hiện theo quy định của Chính phủ. Kinh tế quốc doanh được xác
định là thành phần kinh tế đóng vai trò chủ đạo; làm đòn bẩy tăng trưởng kinh tế và
giải quyết những vấn đề xã hội, mở đường, hướng dẫn, liên kết hỗ trợ các thành
phần kinh tế khác cùng tồn tại và phát triển; làm lực lượng vật chất để Nhà nước
thực hiện chức năng điều tiết và quản lí vĩ mô nền kinh tế.
Doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Bao gồm toàn bộ những đơn vị kinh tế mang hình thức sở hữu phi Nhà nước
về tư liệu sản xuất, những đơn vị kinh tế này dựa trên cơ sở do tư nhân ( bao gồm
một hoặc một tập thể các cá nhân) bỏ vốn đầu tư dưới mọi hình thức, nhằm mục
đích chủ yếu là lợi nhuận và chịu sự chi phối của các chủ đầu tư. Các loại hình
doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế này rất đa dạng, và tạo ra các thành phần kinh
tế khác nhau như kinh tế cá thể, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản tư
nhân và được tổ chức dưới hình thức: doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm
hữu hạn, công ty cổ phần, công ty liên doanh, hợp tác xã, cá nhân, doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài, kinh tế hộ gia đình… Các doanh nghiệp này hoạt động dựa
trên số vốn của mình và tự chịu trách nhiệm về mọi hoạt động sản xuất kinh doanh
trên cơ sở lãi hưởng lỗ chịu. Các DNNQD được pháp luật quy định rất chặt chẽ đối

11
với mọi hoạt động vì đây là là khu vực kinh tế phức tạp và liên quan đến nhiều vấn
đề xã hội.
1.2.2. Đặc điểm của DNNQD.
Trong nền kinh tế thị trường, mọi thành phần kinh tế đều tự chủ trong hoạt
động sản xuất kinh doanh của mình. Chính sách kinh tế mở đã tạo cơ hội cho kinh

tế ngoài quốc doanh phát huy hết khả năng tiềm tàng mà trong nền kinh tế tập trung
quan liêu bao cấp đã không còn cơ hội phát triển, đều có thể có quyền bình đẳng.
Chính điều này đã tạo nên sức mạnh và những thế mạnh riêng cho thành phần kinh
tế ngoài quốc doanh.
Các DNNQD ở nước ta mang một số đặc điểm nh sau:
• Thứ nhất, các DNNQD phân bố không đều trên các vùng và các ngành kinh
tế. Trên 70% số lượng các DNNQD tập trung ở các tỉnh và thành phố lớn như: Hà
Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Bà Rịa – Vũng Tàu, thành phố Hồ Chí Minh, Đồng
Nai…Đây là những khu vực kinh tế mạnh của cả nước, là những nơi đông dân với
mức thu nhập rất cao, là những điểm mạnh để thực hiện quá trình CNH-HĐH đất
nước. Mặt khác, các DNNQD cũng tập trung chủ yếu vào các ngành công nghiệp và
dịch vụ, là những ngành đang có xu hướng phát triển mạnh ở nước ta hiện nay.
• Thứ hai, trừ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các ngân hàng cổ
phần, còn hầu hết các DNNQD là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, quy mô sản xuất
nhỏ hẹp. Bởi đa số các DNNQD là do các tư nhân bỏ vốn ra để thành lập với số vốn
hạn chế và chủ yếu là để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng trong nước, hơn nữa các
chủ đầu tư còn thiếu mạnh dạn trong việc quyết định đầu tư do thị trường còn nhiều
bấp bênh và công nghệ còn lạc hậu.
• Thứ ba, phần nhiều các doanh nghiệp được thành lập mang tính tự phát, đa
số hoạt động trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ, khách sạn chiếm 50 - 70%; trong
lĩnh vực công nghiệp chiếm 10 - 20 %; trong lĩnh vực xây dựng chiếm 2 - 6%; trong
lĩnh vực hạ tầng cơ sở, khai thác và phân phối điện chiếm từ 0,5 - 1%; còn lại là
trong lĩnh vực tài chính - tín dụng.
• Thứ tư, cơ sở sản xuất của đa số các DNNQD đều bị phân tán, manh mún,
thường phải sử dụng đất ở, nhà ở của gia đình trong khu dân cư làm mặt bằng sản
xuất kinh doanh; cùng với tình trạng trang bị kĩ thuật lạc hậu nên cơ sở sản xuất của

12
DNNQD thường gây ô nhiễm môi trường, gây ra những khiếu kiện, làm cho doanh
nghiệp khó mở rộng sản xuất kinh doanh.

• Thứ năm, khả năng tài chính còn yếu. Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ thì
vốn sử dụng vào sản xuất kinh doanh của một hộ phi nông nghiệp là 29,78 triệu
đồng, của một trang trại là 94 tỉ đồng, của một doanh nghiệp phi nông nghiệp là 3,7
tỉ đồng, DNNQD vay vốn tại các ngân hàng thương mại và vay vốn tín dụng ưu đãi
của Nhà nước tại Quỹ hỗ trợ phát triển còn Ýt và chiếm tỉ trọng thấp, chưa đáp ứng
được yêu cầu phát triển sản xuất kinh doanh.
• Thứ sáu, thiếu thông tin về sản phẩm, giá cả, nhu cầu thị hiếu thị trường.
Mặc dù là khối kinh tế năng động, phản ứng nhanh nhạy với sự thay đổi của thị
trường nhưng do nền kinh tế của Việt Nam còn thiếu nhiều yếu tố của một nền kinh
tế thị trường hoàn chỉnh trong đó có vấn đề về thông tin thị trường nên sự nắm bắt
thông tin của các doanh nghiệp còn nhiều hạn chế. Việc thiếu thông tin còn do một
nguyên nhân nữa là do các DNNQD mặc dù luôn chú trọng trang thiết bị, ứng dụng
khoa học công nghệ hiện đại nhưng do điều kiện của Việt Nam hiện nay thì những
công nghệ đó chưa thể sánh kịp được với thế giới và còn rất nhiều lạc hậu( trừ khối
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài).
• Thứ bảy, thị trường hẹp, bấp bênh, nhiều rủi ro. Đây là điều dễ nhận thấy ở
các doanh nghiệp nh doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, hợp tác
xã, kinh tế hộ… Hầu hết các DNNQD mua nguyên liệu đầu vào và tiêu thụ sản
phẩm đầu ra ngay tại thị trường địa phương và dựa vào mạng lưới quan hệ cá nhân
do đó rủi ro là không thể tránh khỏi.
1.2.3. Vai trò của DNNQD đối với sự phát triển kinh tế đất nước.
Với lĩnh vực tham gia rộng rãi nh vậy, kinh tế ngoài quốc doanh đã tạo một
phần không nhỏ GDP, thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế đất nước, thu hót lao
động, tận dụng, khai thác tiềm năng của đất nước… Nhận thức tầm quan trọng của
khu vực kinh tế này, năm 1986, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta đã
khẳng định đường lối phát triển kinh tế theo hướng “kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng
XHCN”. Sự khẳng định này khiến cho kinh tế Quốc doanh không còn giữ vị trí độc

13

tôn nh trước nữa, thay vào đó là sở hữu tư nhân được thừa nhận, kinh tế ngoài quốc
doanh được tồn tại và phát triển bình đẳng với kinh tế nhà nước.
Trong gần 20 năm thực hiện đường lối, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà
nước, được sự đồng tình hưởng ứng của nhân dân, DNNQD gồm kinh tế cá thể, tiểu
chủ và kinh tế tư bản tư nhân, hoạt động dưới hình thức hộ kinh doanh cá thể và các
loại hình doanh nghiệp của tư nhân đã phát triển rộng khắp trong cả nước, đóng góp
quan trọng vào nền kinh tế, huy động các nguồn lực xã hội vào sản xuất, kinh
doanh, tạo thêm việc làm; cải thiện đời sống nhân dân, tăng ngân sách nhà nước,
góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội của đất nước. Cùng với các thành phần
kinh tế khác sự phát triển của DNNQD đã góp phần giải phóng lực lượng sản xuất,
thúc đẩy phân công lao động xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH -
HĐH, phát triển kinh tế thị trường theo hướng XHCN, tăng thêm sản lượng công
nghiệp, lao động và doanh nhân Việt Nam… Nghiên cứu hoạt động của DNNQD
trong mối quan hệ với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, ta sẽ thấy rõ vai trò quan
trọng của DNNQD trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Cụ thể là:
Một là: DNNQD ngày càng chiếm tỉ trọng lớn và ổn định trong tổng sản
phẩm quốc nội ( khoảng 50% GDP), tạo nên nguồn tài chính cho Nhà nước nhằm
phục vụ mục tiêu kinh tế - xã hội quan trọng. Đồng thời nó cũng góp phần quan
trọng vào việc phát triển kinh tế nước ta để nước ta có thể sánh vai các nước trên
khu vực và thế giới.
Bảng 1.1: Tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp.
Đơn vị: tỷ đồng

Năm
2005
Năm 2006 Năm 2007
TỔNG SỐ
416.562
,8

487.49
2,1 117%

578.945,20 119%
Kinh tế Nhà nước
141.116
,6
154.23
0,5 109%

171.282,0
6 111%
Trung ương
104.371,
5
116.750
,4 112%

131.927,95 113%
Địa phương
36.745,
1
37.480
,1 102%

39.354,11 105%

14
Kinh tế ngoài Nhà Nước
120.127

,1
148.78
2,5 124%

186.288,2
2 125%
Tập thể
1.969,
4
2.032
,1 103%

2.072,74 102%
Tư nhân
79.900,
9
103.016
,8 129%

133.921,84 130%
Cá thể
38.256,
8
43.733
,6 114%

50.293,64 115%
Khu vực có vốn đầu tư
nước ngoài
155.319

,1
184.47
9,1 119% 221374,92 120%
(Nguồn: Tổng cục thống kê năm 2005 - 2006)
Hai là: Kinh tế ngoài quốc doanh tạo sự cạnh tranh lành mạnh, là động lực
phát triển nền kinh tế. Trước đây hầu hết các lĩnh vực kinh tế, các ngành nghề sản
xuất kinh doanh đều do khu vực quốc doanh đảm nhận. Hiện nay, trừ một số Ýt các
lĩnh vực, ngành nghề mà Nhà nước giữ vai trò độc quyền, còn lại hầu hết các lĩnh
vực sản xuất kinh doanh đều có sự tham gia của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh
với mức độ ngày càng lớn. Sự phát triển của kinh tế ngoài quốc doanh đã tác động
mạnh mẽ đến các DNNN, buộc các doanh nghiệp này phải đổi mới công nghệ, đổi
mới phương thức kinh doanh để tồn tại và đứng vững trong cơ chế thị trường. Nói
cách khác, kinh tế ngoài quốc doanh đã thúc đẩy kinh tế quốc doanh phát triển
mạnh mẽ hơn thông qua cạnh tranh lành mạnh, làm cho nền kinh tế năng động hơn.
Như vậy, sự phát triển khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã góp phần quan trọng
hình thành và xác lập vị trí của các chủ thể sản xuất kinh doanh theo yêu cầu của cơ
chế thị trường, đẩy nhanh việc hình thành nên kinh tế nhiều thành phần, thúc đẩy
cải cách DNNN cải tổ cơ chế quản lí theo hướng thị trường, mở cửa hợp tác với bên
ngoài, nâng cao năng lực cạnh tranh.
Ba là: DNNQD góp phần tập trung vốn của xã hội tạo cơ sở vật chất ban đầu
cho nền kinh tế, sự hình thành DNNQD đã tạo điều kiện tập trung những bộ phận
kinh tế nhỏ lẻ trở thành các HTX, các doanh nghiệp. Tổng số vốn đầu tư phát triển
cho khu vực ngoài quốc doanh đã liên tục tăng lên trong các năm vừa qua năm 2005
là 130645 tỉ đồng; năm 2006 là 197321 tỉ đồng; năm 2007 là 279350 tỉ đồng.
(nguồn: kinh tế 2004- 2005 thời báo kinh tế Việt Nam).
Bốn là: DNNQD là một khu vực kinh tế có tiềm năng lớn của đất nước. Nền
kinh tế nước ta còn đang ở giai đoạn đầu của nền kinh tế thị trường do đó các

15
DNNQD ở Việt Nam mới được khôi phục và còn ở trình độ phát triển thấp nên có

nhiều khả năng chưa được khai thác, còn nằm ở dưới dạng tiềm năng.
Năm là: DNNQD có nhiều đóng góp vào quá trình lành mạnh hoá hoạt động
kinh tế. Bởi các loại hình doanh nghiệp quốc doanh thường gắn liền với sự quản lí
trực tiếp của chủ sở hữu nên trong các quyết định quản trị có sự cân nhắc cẩn thận,
cũng như sự ổn định trong nội bộ, Ýt có hiện tượng quan liêu, cửa quyền.
Sáu là: DNNQD phát triển góp một phần đáng kể trong việc tăng thu cho
NSNN. Sản xuất kinh doanh phát triển là tiền đề tạo ra nguồn thu cho NSNN. Do
vậy, để tăng nguồn thu cho ngân sách, biện pháp quan trọng nhất là không ngừng
phát triển kinh tế và đời sống xã hội. Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tồn tại và
phát triển là một bộ phận đóng góp to lớn cho NSNN (khoảng 30%) thông qua thuế
và các khoản khác. Nguồn này sẽ được dùng để đầu tư cho các ngành kinh tế yếu
kém. Nói cách khác, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh có vai trò điều hoà thu nhập
cũng như đóng góp vào NSNN.
Bảy là: Mục đích chính của các nhà doanh nghiệp thuộc DNNQD là lợi Ých
kinh tế, tuy nhiên sự hình thành và phát triển của nó đã tạo ra không Ýt những lợi
Ých xã hội và một trong những tác động đó là sự góp phần đáng kể của nó vào việc
giải quyết công ăn việc làm. Như chúng ta đã biết, khu vực kinh tế ngoài quốc
doanh với quy mô vốn đầu tư không nhiều có thể dễ dàng thành lập bởi một số cá
nhân, gia đình hay một số tổ chức cùng với việc sử dụng kĩ thuật sản xuất cần tương
ứng nhiều lao động, vì vậy, đây là nơi cung cấp việc làm nhanh nhất, giúp tạo việc
làm với số vốn thấp hơn nhiều doanh nghiệp có quy mô lớn. Vì vậy, hàng năm có
khoảng hơn một triệu lao động có việc làm được tạo ra chủ yếu nhờ khu vực kinh tế
này.
Tám là: DNNQD góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
đa dạng hoá ngành nghề kinh doanh, tăng tỉ trọng dịch vụ, công nghiệp nhẹ trong
tổng GDP cả nước, tăng kim ngạch xuất nhập khẩu, thúc đẩy cạnh tranh, tăng thêm
sản lượng công nghiệp vào doanh nghiệp Việt Nam. Chủ trương của nhà nước ta là
phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai
trò chủ đạo đồng thời xu hướng của nhà nước ta là muốn chuyển dịch cơ cấu kinh tế


16
trong đó ở giai đoạn đầu là theo cơ cấu công nghiệp- nông nghiệp- dịch vụ sau đó
hướng tới cơ cấu dịch vụ- công nghiệp- nông nghiệp.
Chín là: Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đóng góp cho nền kinh tế một
khối lượng lớn hàng hoá, dịch vụ phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, sự
phát triển của khu vực kinh tế này đa dạng về ngành nghề, quy mô và hình thức
kinh doanh đã góp phần to lớn trong việc lấp chỗ trống cho những thiếu hụt từ kinh
tế quốc doanh, tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tạo ra sức sống cho nền
kinh tế. Bằng việc sản xuất hàng hoá, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã đóng
góp to lớn vào việc tạo ra sù phong phú về chủng loại hàng hoá, nâng cao chất
lượng sản phẩm, từng bước cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân. Do đó cơ hội
lựa chọn hàng hoá và dịch vụ của nhân dân tăng lên và các doanh nghiệp phải ra
sức cạnh tranh với nhau để có thể tiêu thụ sản phẩm của mình nhiều nhất.
Cuối cùng, mét vai trò đặc biệt của DNNQD đối với riêng ngành ngân hàng
đó là DNNQD đang trở thành một trong những thị trường vốn tín dụng rộng lớn đầy
tiềm năng. Với sự phát triển ngày càng mạnh của DNNQD thì nhu cầu về vốn sẽ
ngày càng tăng, như vậy, tạo thị trường có tiềm năng lớn cho các nghiệp vụ tín dụng
ngân hàng như huy động tiền gửi, cho vay, thanh toán… Tuy nhiên, trên thực tế,
thật đáng tiếc là các NHTM hiện nay còn ngần ngại khi lựa chọn DNNQD làm
khách hàng, đặc biệt là trong hoạt động cho vay.
1.2.4. Xu hướng phát triển của DNNQD tại nước ta và đường lối của
Đảng trong việc phát triển DNNQD.
Xu hướng phát triển của DNNQD.
Qua nghiên cứu hoạt động của DNNQD, nghiên cứu tình hình thị trường,
tình hình kinh tế Việt Nam những năm qua và định hướng kinh tế Việt Nam trong
thời gian tới, chúng ta có thể nhận định một số xu hướng phát triển chính của
DNNQD trong thời gian tới như sau:
Chính sách mở cửa nền kinh tế, chính sách tạo điều kiện bình đẳng giữa các
thành phần kinh tế tiếp tục thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế nói chung và của
DNNQD nói riêng. Trong điều kiện tiếp xúc với thị trường bên ngoài, với kĩ thuật

và công nghệ sản xuất tiên tiến, mô hình tổ chức và phương pháp quản lí mới, hiện
đại…thì DNNQD sẽ có nhiều ưu thế hơn vì đây được coi là khu vực kinh tế năng

17
động nhất trong nền kinh tế. Chính vì vậy, trong thời gian tới, các DNNQD sẽ phát
triển với số lượng lớn, loại hình kinh doanh đa dạng trên tất cả các mặt, các lĩnh vực
của nền kinh tế và có xu hướng mở rộng phạm vi và quy mô hoạt động không chỉ
trong nước mà còn vươn ra tầm quốc tế đặc biệt là sau khi nước ta chính thức gia
nhập tổ chức thương mại thế giới. Sự cạnh tranh do đó ngày càng trở nên mạnh mẽ
và quyết liệt đòi hỏi các doanh nghiệp phải có một sức mạnh thật sự và tự chủ trong
kinh doanh để có thể tồn tại và phát triển.
DNNQD đang có những chuyển biến mạnh mẽ, góp phần ngày càng lớn vào
sự phát triển của đất nước nhưng vẫn chưa tương ứng với tiềm năng của thành phần
kinh tế này, nhiều khi, sự phát triển còn mang tính tự phát, vì vậy trong thời gian tới
DNNQD cần được hướng dẫn, tạo điều kiện để phát triển đúng hướng, có hiệu quả.
Trên thực tế, DNNQD cũng đang rất được sự quan tâm của Nhà nước trong việc
phát triển và mở rộng, Nhà nước cũng tạo điều kiện để khu vực kinh tế này có thể
phát triển hết khả năng mà nó vốn có. Việc ra đời của các văn bản quy định, việc
sửa đổi các văn bản pháp luật thể hiện sự quan tâm rất lớn của Nhà nước trong
việc điều chỉnh hoạt động của các DNNQD.
Các DNNQD ngày càng phát triển mạnh và hiệu quả kinh tế mà nó đem lại
đã ngày càng khẳng định vị thế của các DNNQD trong nền kinh tế, thể hiện ở bảng
tổng hợp doanh thu của các doanh nghiệp:

18
Bảng 1.2: Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu.


Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007
Tổng

mức
(tỷ đồng)

cấu
(%)
Tổng
mức (tỷ
đồng)

cấu
(%)
Tổng
mức (tỷ
đồng)

cấu
(%)
Tổng sè
480,2
02
1
00
580,7
10
1
00
714,
421
10
0 120.9 123.0

Doanh nghiệp
Nhà nước
66,6
31
13.
88
72,0
95
12.
41
77,
423
10.8
4 108.2 107.4
Doanh nghiệp
ngoài QD
413,5
71 86.12
508,6
15 87.59
636,
998 89.16 123.0 125.2
- Tập thể
4,6
69 1.13
5,64
0 1.11
6,
945 1.09 120.8 123.1
- Cá thể

296,8
34
71.7
7
363,3
25
71.4
3
404,
044 63.43 122.4 111.2
- Tư nhân
99,6
25
24.0
9
124,5
31
24.4
8
204,
512 32.11 125.0 164.2
- KV có vốn đầu
tư nước ngoài
12,4
43 3.01
15,11
9 2.97
21,
497 3.37 121.5 142.2
(Nguồn: Con số và sự kiện số 1+2 năm 2007)

Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã đạt được mức tăng trưởng lớn về
doanh thu hàng hoá cả về số lượng và tỉ lệ, và mức tăng trưởng đó còn có xu hướng
tăng lên trong thời gian sắp tới, trong đó khu vực tư nhân đạt được mức tăng
trưởng cao nhất, điều đó chứng tỏ khu vực kinh tế tư nhân ở nước ta đang có sự
phát triển mạnh mẽ.
Đặc biệt, luật doanh nghiệp mới sửa đổi đã cho phép các chủ thể kinh tế
quyền tự do gần nh tuyệt đối trong kinh doanh. Nghị định NĐ 109/2004/NĐCP của
chính phủ về đăng kí kinh doanh và thông tư liên tịch số 07/2001/BKH- TCTK của
Bộ kế hoạch và đầu tư và Tổng cục thống kê về hướng dẫn ngành nghề đăng kí kinh
doanh, quy định: người kinh doanh có thể làm bất cứ gì mà pháp luật không cấm
miễn là tự chịu trách nhiệm với hoạt động của mình, do đó các doanh nghiệp có xu
hướng sẽ đa dạng hoá các hoạt động kinh doanh của mình theo hướng có lợi. Điều
đó dẫn đến một xu hướng mang tính chất vừa là cơ hội vừa là thách thức cho hệ
thống ngân hàng đó là trong thời gian tới DNNQD sẽ cần một khối lượng vốn tín

19
dụng cả trong ngắn hạn cũng nh trung dài hạn. Trong thời gian tới, buôn bán dịch
vụ, thương mại, sản xuất của DNNQD sẽ phát triển mạnh, đây sẽ là một đối tượng
khách hàng quan trọng trong tương lai gần của hệ thống NHTM. Ngoài ra, việc đa
dạng hóa hoạt động kinh doanh có thể gây khó khăn trong quá trình cung ứng vốn
của các ngân hàng, đó là: giấy phép kinh doanh của doanh nghiệp sẽ khẳng định
điều gì? Năng lực hoạt động của doanh nghiệp trong bối cảnh đa năng được thể hiện
nh thế nào? và những phương thức cho vay từng lần, theo hạn mức của ngân hàng
còn phù hợp nữa hay không khi doanh nghiệp luôn cần vốn trong vòng quay sản
xuất của mình? Nó đòi hỏi hệ thống ngân hàng phải không ngừng hoàn thiện và đổi
mới mình để có thể tồn tại và phát triển hơn nữa trong điều kiện mới của thị trường.
Đường lối của Đảng trong việc phát triển DNNQD.
Nghị quyết Đại hội Đảng IX đã xác định:” Thực hiện nhất quán chính sách
phát triển kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp
luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng

XHCN, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, trong đó kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế
tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân; kinh tế cá
thể, tiểu chủ được Nhà nước tạo điều kiện và giúp đỡ để phát triển; kinh tế tư bản
Nhà nước được khuyến khích phát triển rộng rãi trong những ngành nghề sản xuất
không bị pháp luật cấm.” Nghị quyết Đại hội IX cũng đề ra một số nhiệm vụ, chủ
trương chính sách chủ yếu trong thời kì tới nh sau để phát triển DNNQD:
 Thống nhất các quan điểm chỉ đạo phát triển khu vực kinh tế ngoài
quốc doanh mà cụ thể hơn là DNNQD. Phát triển DNNQD là chiến lược lâu dài
trong chiến lược phát triển chung của nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng
XHCN.
 Tạo môi trường thuận lợi về thể chế trong tâm lí xã hội cho sự phát
triển của DNNQD. Thời gian tới sẽ sửa đổi, bổ sung luật doanh nghiệp và một số
quy định chưa thống nhất giữa các văn bản pháp luật đã ban hành về những vấn đề
liên quan đến DNNQD theo hướng xoá bỏ phân biệt đối xử giữa các thành phần
kinh tế; sửa đổi, bổ sung một số quy định theo hướng vừa tạo thuận lợi vừa chặt chẽ
trong cấp đăng kí kinh doanh theo yêu cầu “một cửa - một dấu”, nghiên cứu, rà soát

20
lại, bãi bỏ những giấy phép, chứng chỉ hành nghề không cần thiết, gây khó khăn cho
đăng kí kinh doanh và hoạt động của doanh nghiệp. Làm tốt công tác phổ biến
tuyên truyền quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với việc
phát triển DNNQD, cổ vũ và biểu dương kịp thời những doanh nhân, đơn vị sản
xuất, kinh doanh làm ăn có hiệu quả, đúng pháp luật, có đóng góp tích cực vào phát
triển kinh tế - xã hội đất nước bảo đảm lợi Ých của người lao động.
 Sửa đổi, bổ sung một số cơ chế, chính sách bảo đảm sự bình đẳng
giữa các thành phần kinh tế về cơ hội và khả năng lựa chọn các điều kiện để phát
triển, chú trọng tạo điều kiện hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Một số chính
sách sẽ được sửa đổi, bổ sung là: chính sách đất đai, chính sách tài chính, tín dung;
chính sách hỗ trợ về thông tin, xúc tiến thương mại…

 Tiếp tục hoàn thiện và tăng cường quản lí Nhà nước, xác định rõ chức
năng quản lí Nhà nước đối với DNNQD. Chính phủ giao cho một cơ quan làm đầu
mối ở trung ương, uỷ ban nhân dân các tỉnh giao cho một cơ quan đầu mối ở địa
phương để phối hợp theo dõi, tổng hợp tình hình, phát hiện và đề xuất những biện
pháp tháo gỡ khó khăn và chủ động uốn nắn những sai phạm của DNNQD.
 Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của mặt trận tổ
quốc, các đoàn thể nhân dân và các hiệp hội doanh nghiệp với việc phát triển
DNNQD. Các cấp uỷ Đảng có trách nhiệm quán triệt và phổ biến sâu rộng trong
Đảng và nhân dân về quan điểm của Đảng đối với sự phát triển của DNNQD, hoàn
thiện về công tác tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của Đảng bộ, chi bé trong các
DNNQD.
Như vậy, trong thời gian tới cùng với những chính sách khuyến khích phát
triển kinh tế của Nhà nước và trước yêu cầu mới của thị trường, các DNNQD sẽ
phát triển như vũ bão và ngày càng khẳng định vị thế của mình trên thị trường, đóng
góp một phần quan trọng vào sự phát triển nền kinh tế đất nước.
1.3. VẤN ĐỀ CHO VAY ĐỐI VỚI CÁC DNNQD.
1.3.1. Vai trò của TDNH đối với các DNNQD.
Các DNNQD có vai trò rất quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế đất
nước. Tuy nhiên các DNNQD lại rất thiếu vốn trong quá trình hoạt động sản xuất
kinh doanh của mình. Chính vì vậy, để phát huy tính năng động trong kinh doanh,

21
khai thác tối đa nguồn lực sẵn có trong khu vực kinh tế này Nhà nước cần hỗ trợ
cho họ để tạo điều kiện cho họ phát triển lành mạnh. Một giải pháp hữu hiệu nhất là
đầu tư vốn hỗ trợ cho khu vực kinh tế này thông qua kênh TDNH bởi TDNH là
hình thức hỗ trợ vốn phổ biến trong điều kiện ở nước ta hiện nay, nó có vai trò rất
quan trọng đối với sự phát triển của các DNNQD, thể hiện:
 TDNH thúc đẩy sự ra đời và phát triển của các DNNQD theo mục tiêu
phát triển đất nước. Mỗi doanh nghiệp khi muốn được thành lập đều phải cần có
một lượng vốn tối thiểu để bắt đầu hoạt động sản xuất kinh doanh theo quy định của

pháp luật, trong nhiều trường hợp lượng vốn mà các thành viên sáng lập đóng góp
không đủ và khi đó họ tìm cách vay ngân hàng để có đủ lượng vốn cần thiết. Và
trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của mình doanh nghiệp luôn có nhu
cầu về vốn để đảm bảo quá trình sản xuất được diễn ra liên tục và hiệu quả do đó
trường hợp thiếu vốn là không thể tránh khỏi, chính vì vậy, TDNH sẽ đáp ứng các
nhu cầu này của doanh nghiệp. Nh vậy, TDNH có vai trò rất quan trọng đối với sự
tồn tại và phát triển của các DNNQD, cung cấp vốn cho họ để họ đáp ứng kịp thời
các nhu cầu, từ đó thúc đẩy sự phát triển của các DNNQD nói riêng và của nền kinh
tế nói chung.
 TDNH là đòn bẩy kinh tế giúp cho các doanh nghiệp nói chung và
DNNQD nói riêng thực hiện quá trình tái sản xuất mở rộng, ứng dụng khoa học
công nghệ thông qua các khoản TDNHTM. Khi nền kinh tế phát triển, tái sản xuất
mở rộng là yêu cầu tất yếu của các doanh nghiệp, TDNH cung ứng vốn một cách
kịp thời cho các nhu cầu sản xuất và góp phần đẩy nhanh tốc độ sản xuất của các
doanh nghiệp. Khoa học kĩ thuật phát triển đòi hỏi các doanh nghiệp phải kịp thời
tiếp thu và ứng dụng những tiến bộ mới vào trong sản xuất để nâng cao sản lượng
và chất lượng sản phẩm sản xuất ra, TDNH cũng là một cách để nhờ đó doanh
nghiệp có thể trang bị cho mình các máy móc thiết bị hiện đại cho quá trình sản
xuất thông qua các khoản vay trung dài hạn.
 TDNH góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của DNNQD. Khi
doanh nghiệp đi vay để thực hiện quá trình sản xuất kinh doanh của mình đòi hỏi
các doanh nghiệp phải hoàn trả vốn gốc và lãi trong một thời gian nhất định từ đó
mới đảm bảo được mối quan hệ lâu dài với ngân hàng, nâng cao uy tín của doanh

22
nghiệp. Điều đó yêu cầu các doanh nghiệp phải chủ động trong quá trình sản xuất
kinh doanh và kích thích các doanh nghiệp tích cực tìm kiếm cơ hội đầu tư mới, sử
dụng vốn đầu tư có hiệu quả để vừa đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp vừa đảm
bảo nghĩa vụ trả nợ cho ngân hàng. Vai trò này rất quan trọng vì nó là động lực thúc
đẩy các DNNQD tăng cường hoạt động sao cho có hiệu qủa cao, nó giúp các doanh

nghiệp xác định được mục tiêu trong kinh doanh và đòi hỏi một sự nỗ lực cao trong
quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
 TDNH là công cụ tài trợ cho các dự án, tạo việc làm, tăng thu nhập,
thực hiện mục tiêu của Chính phủ là phát triển kinh tế đa thành phần. Trong điều
kiện của một nước đang phát triển như nước ta hiện nay, các dự án đầu tư, mở rộng
sản xuất đáp ứng yêu cầu CNH- HĐH đất nước ngày càng nhiều và cần một lượng
vốn đủ lớn để được đưa vào thực thi, điều đó rất cần đến sự giúp đỡ của các ngân
hàng. Khi các dự án được thực hiện thì rất cần đến lao động do đó góp phần tạo
công ăn việc làm cho lao động thất nghiệp, góp phần tăng thu nhập, nâng cao đời
sống nhân dân thực hiện mục tiêu vĩ mô của nền kinh tế. Hơn nữa, nước ta đang
tiến hành xây dựng các khu công nghiệp, các vùng kinh tế, điều đó tạo ra rất nhiều
cơ hội kinh doanh và tìm kiếm việc làm đồng thời cũng mở ra nhiều hội cho các
ngân hàng trong hoạt động tín dụng.
 Quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và DNNQD càng phát triển lâu dài
thì cũng tạo điều kiện để phát triển các mối quan hệ khác nh quan hệ trong hoạt
động thanh toán, bảo lãnh. Quan hệ tín dụng muốn phát triển lâu dài thì doanh
nghiệp phải đảm bảo được sự phát triển, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tăng uy tín
và hình ảnh của mình trên thị trường từ đó mới tạo được niềm tin trong ngân hàng
khi quyết định cho vay. Khi doanh nghiệp đã phát triển đến mức độ cao thì các nhu
cầu trong sử dụng các dịch vụ khác của ngân hàng như: thanh toán qua ngân hàng,
tư vấn trong kinh doanh, sử dụng séc, thẻ thanh toán cũng tăng lên. Điều đó không
chỉ giúp doanh nghiệp thực hiện nhanh chóng các mục tiêu hoạt động của mình mà
còn tạo điều kiện cho ngân hàng mở rộng hoạt động, tăng lợi nhuận, do đó làm cho
mối quan hệ của ngân hàng và doanh nghiệp càng ngày càng phát triển.
Như vậy, TDNH có vai trò rất quan trọng đối với các doanh nghiệp đặc biệt
là các DNNQD, nó góp phần kích thích sự phát triển của các doanh nghiệp này, đáp

23
ứng các nhu cầu của xã hội và mục tiêu phát triển của nền kinh tế để nước ta tiến
những bước vững chắc vào quá trình hội nhập với nền kinh tế thế giới.

1.3.2. Sự cần thiết của việc cho vay đối với các DNNQD.
Trong quá trình hoạt động, các DNNQD luôn luôn cần vốn để đáp ứng cho
các nhu cầu sản xuất, kinh doanh của mình. Có hai loại nhu cầu về vốn của các
doanh nghiệp đó là nhu cầu về vốn trong ngắn hạn và nhu cầu về vốn trong dài hạn.
Nhu cầu về vốn ngắn hạn.
Nhu cầu về vốn ngắn hạn xuất phát từ độ lệch của lưu chuyển tiền tệ của các
doanh nghiệp, tức là lưu chuyển tiền vào và tiền ra thường không ăn khớp về mặt
thời gian và qui mô.Đây là một hiện tượng tất yếu do chu kì hoạt động và ngân quỹ
của doanh nghiệp quyết định. Chu kì hoạt động là khoảng thời gian từ khi mua
nguyên liệu đưa vào tồn kho cho đến khi thu được tiền từ bán hàng tồn kho. Chu kì
hoạt động gồm hai giai đoạn: giai đoạn tồn kho là khoảng thời gian từ khi mua hàng
tồn kho cho đến khi bán hàng tồn kho, giai đoạn tồn kho càng dài thì số dư hàng tồn
kho càng tăng trong mối tương quan với doanh số bán và ngược lại, giai đoạn tồn
kho dài hay ngắn phụ thuộc vào khoảng cách giữa các lần mua nguyên liệu, thời
gian sản xuất, khoảng cách và quy mô giữa các lần tiêu thụ sản phẩm và tất cả các
yếu tố trên lại phụ thuộc vào đặc điểm kinh doanh của mỗi ngành, qui mô của
doanh nghiệp và hoạt động của thị trường; giai đoạn thực hiện khoản phải thu là
khoảng thời gian từ khi bán hàng tồn kho cho đến khi thu được tiền bán hàng, thời
gian thu tiền phụ thuộc vào tỉ trọng bán chịu so với doanh số bán và thời gian bán
chịu. Chu kì ngân quỹ được xác định bằng chu kì hoạt động trừ đi giai đoạn phải trả
người bán (giai đoạn phải trả người bán là khoảng thời gian mua chịu hàng hoá của
doanh nghiệp). Sự không ăn khớp đó đòi hỏi phải có nguồn tài trợ về ngân quỹ để
đáp ứng mức chênh lệch đó và cho vay ngắn hạn sẽ giải quyết nhu cầu đó cho
doanh nghiệp.
Ngoài ra, cho vay ngắn hạn còn để đáp ứng nhu cầu vốn thời vụ của các
doanh nghiệp, tức là nhu cầu tài sản lưu động thời vụ, trong đó chủ yếu là hàng tồn
kho (tồn kho nguyên liệu, tồn kho trong quá trình chế biến và tồn kho thành phẩm)
và các khoản phải thu. Tỉ trọng cho vay của ngân hàng để đáp ứng nhu cầu vốn thời
vụ của doanh nghiệp phụ thuộc vào chiến lược quản trị tài chính của doanh nghiệp


24
là chiến lược quản trị bảo thủ hay chiến lược quản trị năng động: trong chiến lược
tài chính bảo thủ phần lớn nhu cầu vốn thời vụ được tài trợ bằng vốn lưu động ròng
và các khoản nợ ngắn hạn khác, khi đó vốn vay ngân hàng chiếm tỉ trọng thấp;
trong chiến lược tài chính năng động, vốn lưu động ròng chỉ tham gia để đầu tư cho
tài sản lưu động thường xuyên, còn tài sản lưu động dao động sẽ được tài trợ bằng
nợ phải trả người bán, nợ khác và vay ngân hàng, như vậy, vốn vay ngân hàng sẽ
chiếm phần lớn nhu cầu vốn thời vụ.
Mặt khác, cho vay ngắn hạn của ngân hàng còn vì các lÝ do khác như: cho
vay tạm thời để chờ giải ngân các khoản tín dụng dài hạn hoặc phát hành trái phiếu;
cho vay để xử lí các tình huống đặc biệt, như cho vay để thay thế các khoản nợ
khác, cho vay để bổ sung vốn do thua lỗ hoặc lợi nhuận giảm Những nhu cầu vay
đặc biệt này chỉ chiếm một tỉ trọng nhỏ trong cho vay ngắn hạn của các NHTM và
được ngân hàng xét duyệt cho vay một cách cẩn trọng, đồng thời giám sát một cách
nghiêm ngặt.
Nhu cầu về vốn dài hạn.
Nhu cầu về vốn dài hạn của doanh nghiệp là các nhu cầu về tài sản cố định
và tài sản lưu động thường xuyên; trả các khoản nợ hiện hữu như thanh toán cho
các khoản nợ khi không thể thực hiện được nghĩa vụ trả nợ vay đến hạn, hoặc do sự
tăng trưởng liên tục trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp từ đó làm phát
sinh nhu cầu duy trì khoản nợ cũ, hoặc để thanh toán cho các trái phiếu được quyền
mua lại có lãi suất lúc phát hành cao; và thành lập doanh nghiệp mới hoặc mua lại
doanh nghiệp đang hoạt động. Đó là các nhu cầu rất chính đáng và cần được đáp
ứng đầy đủ để doanh nghiêp không bị bỏ qua các cơ hội trong kinh doanh.
Đặc trưng của các nhu cầu này là thường có giá trị lớn và trong một thời gian
dài nên cần phải được đáp ứng bằng các nguồn vốn mang tính chất dài hạn. Ngoài
vốn chủ sở hữu, đi vay trung dài hạn từ các định chế tài chính và phát hành chứng
khoán ra thị trường tài chính là hai nguồn tài trợ dài hạn chủ yếu của các doanh
nghiệp. LÝ do các doanh nghiệp chọn vay trung dài hạn thay vì phát hành chứng
khoán để huy động vốn là:

Các doanh nghiệp nhỏ bị hạn chế về khả năng tìm nguồn vốn trên thị trường
tài chính vì tiềm lực tài chính không mạnh và có uy tín không cao trên thị trường, vì

25

×