Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm GIÁO DỤC HỌC SINH CÁ BIỆT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.82 KB, 19 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI
Trường THPT NGUYỄN TRÃI
--o0o-Mã số:

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

GIÁO DỤC HỌC SINH CÁ BIỆT

Người thực hiện: HOÀNG THANH
Lĩnh vực nghiên cứu: Quản lý giáo dục
Phương pháp giảng dạy bộ mơn:

Có dính kèm:
 Mơ hình

 Phần mềm

 Phim ảnh  Hiện vật khác

Năm học: 2014 – 2015


SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC
I. Thông tin chung về cá nhân:
1.

Họ và tên: HOÀNG THANH

2.

Ngày tháng năm sinh: 24/01/1957



3.

Nam Nữ: Nam

4.

Địa chỉ: THPT Nguyễn Trãi –BH,ĐN

5.

Điện thoại: CQ: 0613. 884351 ; DĐ: 0919.005997

6.

Fax:

7.

Chức vụ: Giáo viên

8.

Đơn vị công tác: Trường THPT Nguyễn Trãi

E-Mail:

II. Trình độ đào tạo:
-


Học vị (hoặc trình độ chun mơn, nghiệp vụ) cao nhất: Cử nhân

-

Năm nhận bằng: 1985

-

Chuyên ngành đào tạo: Sư phạm Tiếng Anh

III.

Kinh nghiệm khoa học:

-

Lĩnh vực chun mơn có kinh nghiệm: Tiếng Anh

-

Số năm có kinh nghiệm: 30 năm

-

Các sáng kiến kinh nghiệm đã có trong 5 năm gần đây:

+ Phương pháp dạy ngữ pháp
+ Cơng nghệ hóa tồn bộ chương trình Reading Anh văn 10
+ Đổi mới phương pháp hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp khối 12 trường THPT
+ Vai trị của tổ chức cơng đồn cơ sở

+ Teaching Speaking and Listening
+ Công tác chủ nhiệm trong nhà trường phổ thông hiện nay


+ Bàn về công tác thi đua
GIÁO DỤC HỌC SINH CÁ BIỆT
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Bản thân tôi đã nhiều năm làm công tác chủ nhiệm lớp là chủ tịch cơng Đồn và
phụ trách phong trào Văn hóa – văn nghệ nên có điều kiện tiếp xúc với nhiều đối
tượng học sinh: học sinh ngoan, học sinh xuất sắc, học sinh khá, học sinh trung bình
và cả học sinh “ khơng ngoan”. Trong đó có các học sinh rơi vào trường hợp “học
sinh cá biệt” đáng nói nhất là có cả học sinh bị đưa ra Hội đồng kỷ luật nhà trường,
kết quả có học sinh phải đình chỉ học tập một năm do hình thức vi phạm nặng.
Đứng trước tình hình đó, bản thân là một trong những giáo viên chủ nhiệm cần
phát huy tinh thần trách nhiệm của mình nhiều hơn đối với học sinh. Trong khi ngày
nay Nhà nước ta rất quan tâm và đầu tư cho giáo dục, bằng nhiều giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục. Trong toàn ngành giáo dục đang thực hiện
cuộc vận động “Hai không với bốn nội dung”; phong trào thi đua “Mỗi thầy cô giáo
là tấm gương đạo đức, tự học, sáng tạo”, phong trào thi đua “Xây dựng trường học
thân thiện học sinh tích cực”.
Cơng tác giáo dục gắn chặt vai trò của giáo viên chủ nhiệm (GVCN) không thể
xem nhẹ, nhất là trong việc giáo dục học sinh cá biệt. Mỗi thầy cô giáo với tinh thần
trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp của mình bằng mọi cách phải giúp các em có
được nhận thức đúng đắn trong lao động, học tập, phải uốn nắn các em từ người
“xấu” trở thành người “tốt”. Nếu không khéo sẽ làm hỏng cả một thế hệ của các em,
đồng thời cũng là một gánh nặng cho gia đình và xã hội.
Với những lý do trên, bằng những kinh nghiệm tích lũy của bản thân, tơi viết sáng
kiến kinh nghiệm với đề tài “Giáo dục học sinh cá biệt”, với đề tài này hy vọng ít
nhiều sẽ góp phần thêm vào công tác giáo dục cá biệt. Đồng thời cùng nhau nghiên
cứu một số phương pháp giáo dục để ngày càng lành mạnh và trong sạch hóa mơi

trường giáo dục trong quá trình xây dựng sự nghiệp giáo dục chung.
Trang 2


II. THỰC TRẠNG TRƯỚC KHI THỰC HIỆN:
Thực tế cho thấy một số trường ln lấy thành thích và chạy đua theo thành tích
học tập mà quên đi nhiệm vụ cao cả của nghề dạy học là giáo dục nhân cách, đạo đức
cho học sinh, từng bước hoàn thiện, từ cái chưa có thành cái có, giáo dục, cảm hóa
học sinh hư hỏng, nghịch ngợm thành học sinh ngoan. Bên cạnh đó một số GVCN chỉ
thích nhận những lớp chủ nhiệm chỉ thích nhận những lớp chủ nhiệm là lớp chọn, lớp
nguồn, lớp có nhiều học sinh ngoan mà sợ trách nhiệm đối với những lớp có học sinh
quậy phá hoặc có hạnh kiểm trung bình khá.
Trong tất cả các lĩnh vực, nhân tố con người sẽ quyết định cho mọi sự thành công
hay thất bại. Trong xu thế hội nhập quốc tế, giao lưu văn hóa ngày nay mỗi con người
chúng ta cần ra sức phấn đấu học tập để trở thành chủ nhân tương lai của đất nước
như nhà nước ta đã xác định con người là tài sản quý giá và quan trọng nhất, là nguồn
lực lớn và cần thiết đối với quốc gia dân tộc. Trên cơ sở đó ngành giáo dục – đào tạo
đóng vai trị then chốt trong mọi hoạt động và người thầy đóng vai trò quyết định cho
sự nghiệp đào tạo thế hệ trẻ cho tương lai, trong đó giáo dục học sinh cá biệt là một
trong những đóng góp nhất định cho vai trị này.
Ngày nay trong cơng cuộc đổi mới đất nước, tiếp cận với những tiến bộ về khoa
học – cơng nghệ địi hỏi những người phục vụ trong cơng tác giáo dục phải xác định
rõ vai trò, trách nhiệm của mình là sự nghiệp trồng người. Những sản phẩm của mình
tạo ra nó sẽ quyết định cho cả một thế hệ và thế hệ này phải là một thế hệ trẻ năng
động, đồng nhất, hạn chế tối đa học sinh cá biệt. Do đó vai trị của người thầy là nhân
tố quan trọng để quyết định cho những sản phẩm mà mình tạo ra. Người thầy là
những người phục vụ trực tiếp trong lĩnh vực giáo dục để đào tạo, rèn luyện cho thế
hệ trẻ, trong đó GVCN đóng vai trò quan trọng đối với các cấp học nhất là cấp học
phổ thông.
Giáo viên là những người được đào tạo về kiến thức, về nghiệp vụ chuyên môn

đồng thời còn được trang bị đầy đủ kỹ năng trong việc giáo dục nhân cách học sinh
nhất là thông qua công tác chủ nhiệm nhằm giúp học sinh phát triển một cách toàn
Trang 3


diện. Mặt dù đã được đào tạo kỹ lưỡng, nhưng mỗi giáo viên có năng khiếu, sở trường
riêng, về chuyên môn phần lớn đáp ứng nhu cầu giảng dạy, nhưng về kỹ năng quản lý,
giáo dục học sinh trong công tác chủ nhiệm thì chắc khơng phải ai cũng làm tốt nhất
là việc giáo dục học sinh cá biệt.
Thực tế nhà trường trong những năm qua, nhiều giáo viên còn gặp khó khăn trong
cơng tác chủ nhiệm. Do đặc thù của địa phương, nên lượng học sinh vào học tại
trường có một số đối tượng khơng ngang bằng nhau về học lực lẫn hạnh kiểm.
Việc xếp lớp, với hình thức đại trà, ở mỗi lớp đều có học sinh giỏi; khá; trung
bình. Đặc biệt là đối với học sinh khối lớp 10 sau một thời gian học từ một đến hai
tháng mới nỗi trội lên những học sinh yếu, kém về học lực. Từ đó những học sinh này
có những biểu hiện sa sút về học lực lẫn hạnh kiểm do nhiều nguyên nhân tác động đã
dẫn đến tình trạng như thường xuyên không thuộc bài, không làm bài tập, bỏ học, cúp
tiết, mê chơi game, không chấp hành nội quy nề nếp trường lớp, gọi chung là học sinh
cá biệt… từ đó dẫn đến các tiêu cực khác…
Những đối tượng nêu trên mặt dù số lượng không nhiều, trung bình chỉ chiếm
khoảng 5%/lớp. Nhưng đối với vai trị của GVCN đây là vấn đề khơng ít khó khăn
trong cơng tác quản lý lớp không khéo sẽ làm ảnh hưởng đến những học sinh khác,
nhất là đối với những giáo viên mới ra trường chưa có nhiều kinh nghiệm, đã làm ảnh
hưởng không nhỏ đến chất lượng chung của nhà trường. Từ đó mà đối với mỗi giáo
viên ngồi kiến thức chun mơn giỏi địi hỏi phải có kỹ năng trong công tác chủ
nhiệm nhằm kịp thời giáo dục những học sinh cá biệt trở thành những học sinh ngoan.
Giúp các em có được nhận thức đúng đắn về vai trò, trách nhiệm của một người học
sinh, đồng thời giúp cho người thầy có được niềm tin đam mê nghề nghiệp, tạo một
mơi trường giáo dục thân thiện, tích cực đầy ý nghĩa. Đây là vấn đề quan trọng trong
công tác chủ nhiệm ở trường THPT hiện nay.

Đối với học sinh THPT, hầu hết các em bước sang giai đoạn phát triển toàn diện
về thể chất. Nên đặc điểm tâm lý của các em rất dễ bị kích động do những yếu tố xã
hội bên ngoài, các em thường tự khẳng định mình là người lớn chứ khơng phải là học
Trang 4


sinh THCS nữa, cho nên các em thấy mình có quyền giải quyết các vấn đề theo kiểu
người lớn, tự quyết định cho bản thân mà không nghe theo sự giáo dục của người
khác kể cả cha mẹ. Một số em nghĩ rằng thầy cơ sẽ khơng làm gì được mình ngồi
việc nhắc nhỡ, hăm dọa, mời phụ huynh … từ đó mà các biểu hiện cá biệt dần dần
xuất hiện.
Dĩ nhiên, trong trường nào vẫn có một số học sinh “cá biệt”, bị cám dỗ, còn sa ngã
vào những trị ăn chơi vơ bổ, thậm chí hút hít, cờ bạc, trộm cắp,... Nhưng đó chỉ là
con số nhỏ.
Tuy nhiên cần khẳng định rằng các em học sinh cá biệt tuy học lực yếu nhưng bù
lại lại có những năng khiếu đặc biệt như văn nghệ, thể dục, thể thao, vi tính,… Những
khả năng này, nhà trường có thể phát huy để các em có thể góp sức vào phong trào
hoạt động của nhà trường và từ đó có thể định hướng cho các em theo đúng sở
trường… Giáo dục học sinh cá biệt chỉ có thể GIÁO DỤC mới hiệu quả.
Đối với thầy cô làm công tác chủ nhiệm trước hết phải hiểu biết về tâm lý lứa tuổi
của các em để có các giải pháp xử lý tình huống cho thích hợp. Trong lớp học có rất
nhiều đối tượng học sinh: học sinh giỏi, học sinh khá, học sinh yếu kém. Đối với học
sinh khá, giỏi thường các em rất có ý thức, nghe lời thầy cơ, các em sẽ thấy hối hận
khi mình lỡ vi phạm và các em sửa đổi những khuyết điểm của mình một cách tự giác
rất nhanh. Những đối với học sinh yếu, kém (học sinh chậm tiến) khi vi phạm các em
sửa đổi rất chậm, thậm chí khơng hề sửa đổi mà vi phạm ngày càng tăng lên dẫn đến
học lực ngày càng sa sút và kết quả phải lưu ban hoặc bỏ học giữa chừng. Do đó giáo
viên khi làm cơng tác chủ nhiệm phải nắm rõ các đối tượng của lớp mình để có hướng
giáo dục cho phù hợp. Làm thay đổi thái độ học tập của học sinh từ “xấu” chuyển
sang “tốt” góp phần nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường và giảm tỷ lệ bỏ

học hàng năm.
III. NỘI DUNG CHUYÊN ĐỀ:
Viết về vấn đề này, bản thân tôi muốn làm thế nào để giúp cho những học sinh cá

Trang 5


biệt từng bước thay đổi thái độ của mình trong học tập theo hướng tích cực. Giúp các
em biết tự tơn trọng bản thân mình và xác định được việc học sẽ phục vụ chính bản
thân các em và tạo điều kiện để giúp đỡ gia đình, góp phần xây dựng quê hương, đất
nước. Giúp các em thấy được công lao to lớn của các bậc làm cha, làm mẹ nuôi con
ăn học; sự vất vả của các thầy cô trong việc truyền đạt tri thức và giáo dục nhân cách,
kỹ năng sống cho các em. Từ đó các em biết mình sẽ làm gì để thay những lời tri ân
đầy ý nghĩa.
Bên cạnh phần nào giúp cho các thầy cơ quan tâm hơn về vai trị, trách nhiệm của
mình đối với nghề nghiệp, đặc biệt là trong công tác chủ nhiệm. Nghề dạy học là một
nghề thiêng liêng cao cả, không phải ai cũng làm được như cố Thủ tướng Phạm Văn
Đồng đã nói “Nghề dạy học là nghề cao cả nhất trong những nghề cao cả”. Đồng
thời giúp cho một số ít thầy cơ xóa đi tư tưởng kỳ thị, phân biệt đối với những học
sinh không ngoan mà phải xác định “tất cả vì đàn em thân u” để góp phần xây
dựng mơi trường học tập “Trường học thân thiện, học sinh tích cực”.
1. Thực trạng vấn đề
Từ thực tiễn của nhà trường, hiện nay học sinh cá biệt, chưa ngoan không phải là
phổ biến nhưng ở trường nào cũng chịu ảnh hưởng bởi đối tượng học sinh này đối với
phong trào chung của lớp, chúng gây ảnh hưởng thường xuyên đến kết quả thi đua
của bạn bè tồn lớp. Nhìn chung những biểu hiện của các em là chưa có sự kết hợp
chặt chẽ giữa gia đình – nhà trường – xã hội. Bên cạnh cịn có nhiều nguyên nhân
khác gây ra:
a. Nguyên nhân dẫn đến học sinh cá biệt:
- Các em đi học do gia đình ép buộc, chưa có sự quan tâm của cha mẹ đến việc

học của con cái.
- Sự kích động của phim ảnh, các trò trơi bạo lực từ game, do tác động của xã
hội, bị bè bạn không tốt lôi kéo.
- Do cho mẹ ly hôn, dẫn đến buồn chán; Hồn cảnh gia đình khó khăn, phải làm

Trang 6


thêm giúp gia đình nên thường xuyên bỏ học, học lực sa sút.
- Do lớp học có quá nhiều học sinh yếu, kém…
- Tư chất của học sinh chậm trong nhận thức, hổng kiến thức từ lớp dưới nên chán
học, thường hay nghịch phá, mất trật tự.
- Sức ép trong thi cử, sức ép của gia đình nhà trường và xã hội đã khiến cho học
sinh căng thẳng rơi vào lối sống trầm cảm, tự ti về bản thân mình.
Bên cạnh cũng có thể một số nguyên nhân xuất phát từ giáo viên như:
*Đối với giáo viên bộ môn:
- Do học yếu kém nên giáo viên bộ môn phân biệt trong cư xử.Thường xuyên gọi
trả bài.
- Cho nhiều điểm kém; So sánh giữa học sinh này với học sinh khác.
- Hăm dọa sẽ ở lại lớp … làm cho học sinh mất đi niềm tin dẫn đến bi oan, chán
chường, khơng muốn học những mơn đó…
*Đối với giáo viên chủ nhiệm:
-Trong q trình giáo dục học sinh cá biệt cịn sử dụng tùy tiện các phương pháp
không phù hợp và chưa khoa học.
- Xử lý học sinh trong lớp không công bằng; Không xây dựng được quy định
riêng cho lớp.
- Xử lý không đến nơi, đến chốn; Chỉ nhắc nhỡ mà khơng có biện pháp cưỡng
chế.
- Học sinh vi phạm lỗi nhẹ cũng mời phụ huynh; Chưa kết hợp với phụ huynh,
chưa thơng báo kịp thời với phụ huynh.

- Có thái độ kỳ thị đối với học sinh yếu, kém (cá biệt); Không thường xuyên theo
dõi lớp mà chỉ giao cho lớp trưởng quản lý.
- Bầu Ban cán sự lớp không đủ năng lực; Phạt học sinh vi phạm quá nặng.
- Chỉ nói mà khơng thực hiện…

Trang 7


b. Biểu hiện của học sinh cá biệt:
- Bỏ học, cúp tiết, thường đi học trễ;Không đồng phục, phù hiệu; Đầu tóc, tác
phong.
- Mất trật tự trong giờ học; Khơng chú ý nghe thầy cơ giảng dạy; Thiếu văn hóa
(nói tục, chửi thề).
- Đùa giỡn, chọc ghẹo người khác quá mức; Sách vỡ không đầy đủ, thường xuyên
không chép bài; Mê chơi game, lôi kéo, rủ rê bè bạn.
- Đi học về nhà khơng đúng giờ; Thường nói dối; Khơng giữ vệ sinh trường lớp

2. Một số giải pháp
a. Đối với bản thân học sinh cá biệt:
- Gặp riêng học sinh cá biệt bằng tình cảm chân thành của mình, Giáo viên chủ
nhiệm bình tĩnh, nhẹ nhàng, tế nhị, phân tích có lý, cố tình, mức độ nguy hại của
khuyết điểm. Giáo viên thức tỉnh học sinh bằng những câu chuyện đạo đức để cảm
phục học sinh.
Chúng tôi ý thức được rằng, Giáo dục đạo đức là nền tảng để giáo dục tri thức, tài
năng cho học sinh, nhất là những học sinh cá biệt.
- Tin tưởng giao công việc tập thể phù hợp với khả năng của học sinh cá biệt. Đây
là việc làm mang tính 2 mặt, địi hỏi giáo viên chủ nhiệm phải thường xuyên giám sát,
kiểm tra và động viên kịp thời khi học sinh đạt được thành tích dù là nhỏ nhất.
- Tổ chức hoạt động tập thể, hoạt động nhân đạo để tạo điều kiện cho học sinh cá
biệt, tham gia, xây dựng môi trường lành mạnh, tích cực, để các em có cơ hội tự thể

hiện mình. Cơng tác này thực sự đặc biệt có ý nghĩa đối với học sinh trầm cảm, tự ti.
Các em sẽ mạnh bạo, tích cực hơn trong học tập và rèn luyện. Cho các em tham gia và
thực hiện tốt các chuyên đề ngoại khoá, rèn luyện kỹ năng sống để các em tiến bộ.
- Tổ chức cho tập thể lớp quan tâm tận tình giúp đỡ dưới mọi hình thức như: thăm
hỏi, đơi bạn, nhóm bạn cùng tiến. Giáo viên chủ nhiệm có thể lấy tấm gương tốt trong
Trang 8


tập thể, hoặc chính một học sinh cá biệt đă tiến bộ để cảm hoá học sinh cá biệt.
- Áp dụng quy định thưởng, phạt “phân minh, nghiêm túc, công bằng” để học sinh
cá biệt có động lực mục tiêu phấn đấu.
- Thầy cô luôn là tấm gương về đạo đức, về lối sống, về trình độ chun mơn.
Đồng thời thầy cơ chủ nhiệm phải ln có tình cảm u thương, niềm tin động viên
học sinh bởi “Chỉ có tấm lòng mới đánh thức được tấm lòng”. Giáo viên cần phải
khéo léo, linh hoạt, trong mỗi trường hợp cụ thể, biết tập hợp và sử dụng sức mạnh
của các yếu tố giáo dục nhằm rèn luyện cho học sinh cá biệt. Giáo viên chủ nhiệm cần
tuyệt đối tránh tư tưởng định kiến cách cư xử thiếu sư phạm đối với học sinh.
b. Kết hợp với gia đình cha mẹ học sinh cá biệt và khu dân cư:
- Trong cuộc họp cha mẹ học sinh đầu năm, chúng tôi phát cho cha mẹ học sinh
nghiên cứu trước một tuần một số tài liệu tư vấn trong đó có cuốn “Dạy con nên
người” của nhà trường. Chúng tôi không chỉ chia sẻ với cha mẹ học sinh những kiến
thức giáo dục con cái mà còn tạo được sự thống nhất những quan điểm giáo dục với
cha mẹ học sinh.
- Trao đổi thẳng thắn, chân thành đối với cha mẹ học sinh để hiểu được hồn cảnh
gia đình, tính cách của học sinh cá biệt. Đây là hoạt động rất quan trọng bởi hầu hết
những học sinh cá biệt đều do ảnh hưởng từ nền tảng giáo dục của gia đình.
- Tổ chức thăm gia đình học sinh nhằm tạo thiện cảm tốt đối với học sinh cá biệt
và với cha mẹ học sinh. Giáo viên thường xuyên trao đổi, gọi điện liên hệ với gia đình
học sinh để từ đó hiểu rõ hơn về học sinh.
- Kết hợp với địa phương, Khu dân cư để theo dõi giáo dục, ngăn chặn kịp thời

những học sinh vi phạm, tạo mối quan hệ chặt chẽ giữa Gia đình – Nhà trường – xã
hội.
c. Kết hợp với giáo viên bộ môn và nhà trường:
- Kết hợp chặt chẽ đối với giáo viên bộ môn vừa để hiểu hơn về học sinh vừa giúp
học sinh có những cố gắng ở từng môn học.Đồng thời, kết hợp chặt chẽ với ban

Trang 9


QLHS, ĐTN để thống nhất biện pháp giáo dục học sinh cá biệt.
- Công tác quản lý của Nhà trường nên thường xuyên quan tâm, chú ý đến công
tác giáo dục học sinh cá biệt và ghi nhận kết quả giáo dục học sinh cá biệt của Giáo
viên chủ nhiệm. Sự quan tâm của nhà trường sẽ động viên Giáo viên chủ nhiệm hoàn
thành tốt được nhiệm vụ này.
Các biện pháp trên có liên quan chặt chẽ với nhau đã và đang được chúng tôi thực
hiện. Chúng tôi cũng hiểu rằng: Thực tiễn giáo dục học sinh cá biệt là rất khó khăn và
khơng phải học sinh cá biệt nào cũng giáo dục thành công. Dù vậy, chúng tôi vẫn
đang hàng ngày nỗ lực, cố gắng, học hỏi để thực hiện tốt cơng việc này.
d. Tìm hiểu mối quan hệ bè bạn của học sinh
Ngồi những thơng tin mà GVCN tìm hiểu về học sinh cá biệt, bên cạnh cần phải tìm
hiểu mối quan hệ bè bạn của học sinh đó để biết những đối tượng mà học sinh này
đang chơi chung họ như thế nào. Có thể GVCN tìm hiểu thông qua lớp trưởng, các
học sinh khác trong lớp, thơng qua phiếu khảo sát… Có những học sinh ít giao tiếp
với bạn bè chỉ thích chơi game mà học tập giảm sút, nên khuyến khích các học sinh
khác trong lớp thường xuyên tiếp xúc để có biện pháp giúp đỡ bạn, giúp các em sống
trong mơi trường đồn kết, gắn bó giúp đỡ lẫn nhau trong bất kỳ trường hợp nào.
GVCN có thể giáo dục các em bằng cách nêu gương, điểm hình giúp các em tự nhận
thấy những khuyết điểm của mình để từng bước sửa chữa. GVCN nên gặp riêng từng
học sinh để trao đổi, giải thích cho các em hiểu những sai trái của mình để các em có
hướng khắc phục, khơng nên làm các em cảm thấy mặc cảm trước lớp.

e. Giao nhiệm vụ cho học sinh:
Thường GVCN không giao nhiệm vụ cho những học sinh cá biệt, vì cho rằng
những học sinh này sẽ khơng làm được gì, coi thường các em mà chỉ ln la gầy, nêu
tên là chính. Điều đó khơng khéo dễ làm hỏng các em hơn.
Cho nên đối với những đối tượng này, GVCN nên tạo cho các em một cơ hội để
các em thấy được vai trị của mình trong tập thể, đồng thời phát huy tính làm chủ của

Trang 10


các em và nhận thấy rằng mình khơng bị lạc lỏng, không bị bỏ rơi. Như tham gia các
hoạt động văn hóa văn nghệ, tham gia các trị chơi dân gian, các hoạt động thể thao,
tham gia làm báo tường, cắm trại nhân các ngày lễ hội của trường tổ chức…Khi hoàn
thành nhiệm vụ GVCN phải đánh giá kết quả bằng cách nêu gương trước tập thể lớp
f. Rèn luyện học sinh tính trung thực
Phải rèn luyện cho học sinh tính trung thực, tự lập, vượt qua mọi khó khăn thử
thách, khơng nên ỷ lại. Có được tính trung thực điều đó khẳng định là các em đã
trưởng thành, phải chịu trách nhiệm trước cơng việc của mình làm, nếu có sai phạm
phải tự nhận lấy, khơng đổ lỗi cho người khác. Từ đó giúp các em tự khẳng định được
mình và các em sẽ đắn đo trước những cơng việc mà mình sắp làm nhằm hạn chế bớt
những sai phạm.
Một giáo viên nhận nhiệm vụ làm công tác chủ nhiệm, quản lý một lớp học với
ngần 45 học sinh quả là không dễ dàng, muốn được số học sinh đó đều trở thành học
sinh ngoan, kết quả học tập tốt lại càng không dễ. Năm học nào cũng vậy, lớp học nào
cũng vậy, thầy cô chủ nhiệm là những người ln đối mặt với biết bao khó khăn, thử
thách và mong muối duy nhất là làm thế nào cho học sinh mình thành đạt, sự nghiệp
trồng người là tiếng vang suốt cuộc đời đối với các thầy giáo, cô giáo, làm tốt được
học sinh nhớ. Lỡ làm điều gì sai thì học sinh cũng khơng qn…Hạn chế tối đa những
trường hợp học sinh phải đưa ra Hội đồng kỷ luật, vì nếu học sinh bị đình chỉ học tập
hay bị ghi vào học bạ hạnh kiểm xấu nó sẽ đeo đuổi suốt đời đối với các em mà bản

thân thầy cơ chủ nhiệm cũng thấy đau lịng trước những trường hợp như thế.
Giáo dục thế hệ trẻ để trở thành chủ nhân tương lai của đất nước là nhiệm vụ hàng
đầu. Để giáo dục học sinh nói chung, học sinh cá biệt nói riêng địi hỏi các ngành, các
cấp cùng tuyên truyền cho cả xã hội quan tâm hơn đối với thế hệ trẻ. Đặc biệt quan
tâm nhiều hơn đối với những học sinh được coi là cá biệt nhằm xây dựng mơi trường
sống có văn hóa, lành mạnh, bổ ích.
IV. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI

Trang 11


Tóm lại việc giáo dục học sinh cá biệt có thành cơng hay khơng thì phụ thuộc vào
người thầy, người thầy phải là người có “Tâm”.Chữ “Tâm” tơi muốn nói ở đây không
phải chỉ là sự yêu thương vô bờ đối với học trò như một người con, người em ruột thịt
của mình mà cịn là tâm huyết tha thiết yêu nghề, tập trung cho từng hành động nhỏ
nhất của mình từ lời ăn tiếng nói, ăn mặc, hành động, chăm chút cho từng tiết giảng,
từng cử chỉ của mình.
Vì trong mắt các em, người thầy đặc biệt là giáo viên chủ nhiệm là “thần tượng”,
đối với các em đừng để “thần tượng” sụp đổ trong mắt các em, các em sẽ hụt hẫng và
hoàn toàn mất phương hướng.
Hầu hết học sinh cá biệt không ý thức được nhiệm vụ học tập của mình, khơng ý
thức được vai trị của việc học tập đối với cuộc đời của mình, vì vậy các em khơng có
thói quen tự giác, việc đi học với các em chỉ là để vừa lòng cha mẹ, thầy cô, để được
găp bạn, để không phải làm việc nhà…
Các em chỉ học cho có học, chứ khơng biết học để làm gì, học có tác dụng như thế
nào đến cuộc sống của mình sau này, vì vậy người giáo viên chủ nhiệm phải chỉ ra
cho các em thấy tác dụng của việc học bằng những ví dụ cụ thể những tấm gương rất
gần gũi với các em của sự thành công và thất bại trong cuộc sống do sự học mang lại
Trước tiên, người giáo viên chủ nhiệm phải tránh cái nhìn lý tưởng hố về lớp
học, về học sinh của mình. Lớp nào, trường nào cũng có học sinh cá biệt chỉ khác là

biểu hiện của cái “cá biệt” đó như thế nào mà thơi và số lượng nhiều hay ít. Có em
“cá biệt” về đạo đức có em “cá biệt” về học tập có em đặc biệt “cá biệt”…
Kế đến, không gọi các em là học sinh cá biệt, đặc biệt là trước lớp, trước mặt
người khác
Các em chỉ là những “học sinh chưa ngoan”, những “học sinh có hồn cảnh đặc biệt”.
Chúng ta gọi các em là “học sinh cá biệt” (cá biệt tức là khác biệt) vậy vơ hình chung
chúng ta đã cố tách học sinh đó ra khỏi lớp, cơ lập các em trước lớp.Nhiệm vụ của
chúng ta là giáo dục các em học sinh “chưa ngoan” này trở thành học sinh ngoan. Tôi

Trang 12


xin trích dẫn một câu danh ngơn: “Nếu bạn nhìn ai đó với ánh mắt u thương, bạn sẽ
khơng nhìn thấy những nét xấu xa mà bạn sẽ chỉ nhìn thấy tồn những nét đẹp mà
thơi”.
Bên cạnh đó, đa số các em học sinh cá biệt rất cần một điểm tựa tinh thần tin cậy
để có thể được sẻ chia tâm sự, để được bộc bạch những khó khăn những nỗi niềm
riêng tư thầm kín, thầy cơ sẽ trở thành một người bạn lớn của các em.
Tìm cách cho các em thể hiện cái “tơi” cá nhân của mình trước tập thể, không
thẳng tay trừng trị các em, đừng làm mất đi điểm tựa cuối cùng của các em.
Hãy nhìn các em bằng sự bao dung của người cha, sự nhân từ của người mẹ, sự gần
gũi, cảm thông của người anh người chị, sự thân thiết của người bạn.
Thầy cơ hãy nhẹ nhàng phân tích những ưu khuyết điểm những đúng sai trong
nhận thức và hành động của các em, cố gắng giúp các em tự nhận ra sai lầm, lỗi lầm
của mình mà khơng phải mang mặc cảm nặng nề về lỗi lầm đó của mình, tạo cho các
em thiện chí sửa chữa và khơng tái phạm.
Khơng la mắng chửi bới các em, đừng biến lớp học thành “địa ngục” đối với các em,
đừng biến giờ sinh hoạt hay giờ ra chơi thành một giờ “tổng sỉ vả” đối với các em,
đừng để học sinh nghĩ cứ gặp thầy cô là lại bị la mắng
Hơn thế nữa, học sinh cá biệt dù cho có khó giáo dục đến đâu đi chăng nữa thì

bên trong các em vẫn ln tiềm ẩn những nhân tố, những phẩm chất tích cực nếu có
phương pháp đúng chúng ta vẫn khơi gợi để làm thức tỉnh các em.
Để từ đó phát huy làm điểm tựa cho các em, khôi phục lại niềm tin để các em thấy
rằng mình khơng hề kém cỏi, khơng phải là “đồ bỏ đi”; từ đó có thể vứt bỏ được sự tự
ti, mặc cảm mà tự giác, chủ động hội nhập với các bạn. Hãy tìm ra điểm mạnh của các
em để có thể “ khích tướng” vì đa số học sinh sự sĩ diện là rất lớn.
Cùng lúc, thầy cơ hãy nhìn nhận vấn đề theo chiều hướng tích cực, đừng nghiêm
trọng hố vấn đề hãy tạo cho các em một lối thoát, một cơ hội để sửa chữa, xin đừng
“mổ một con gà bằng một cái búa”.

Trang 13


Hãy tin tưởng chờ đợi sự chuyển biến của các em, khơng nên nóng vội, vì thầy cơ
càng nóng vội càng tạo áp lực lên các em, các em càng bối rối, càng sa vào đối phó
Cần lưu ý, thầy cơ hãy cố gắng nhìn nhận sự tiến bộ của các em khơng q khắt
khe, nên có cái nhìn bao dung, độ lượng, chân tình, vị tha.
Trân trọng từng sự tiến bộ của các em dù là nhỏ nhất vì đó là cả một sự nỗ lực, cố
gắng rất lớn của các em, mạnh dạn biểu dương các em trước tập thể. Đừng tiết kiệm
lời khen với các em vì một lời động viên khen ngợi cịn có giá trị hơn rất nhiều những
bản kiểm điểm.
Hãy tôn trọng quyền lựa chọn, sự quyết định của học sinh trong phạm vi cho
phép, cùng nhau xây dựng nội quy của lớp, các em sẽ tự giác thực hiện vì nội quy đó
do chính các em đưa ra.
Tơn trọng cả sự “cá biệt” của các em vì mỗi cá nhân là một nhân cách độc đáo cần
phải được tôn trọng. Xin đừng áp đặt thô bạo với các em, không xúc phạm làm tổn
thương danh dự của các em trước tập thể, cố gắng thận trọng khi phát ngơn vì học
sinh cá biệt hết sức nhạy cảm. Thầy cô hãy cố gắng điềm tĩnh, biết tự kiềm chế vì
“học sinh cá biệt” là một sự “thử thách” rất lớn đối với đức tính điềm tĩnh, tự kiềm
chế của mỗi giáo viên, nếu nóng vội là công sức mà chúng ta cố gắng sẽ đổ xuống

sơng, xuống biển.
Khơng nên q khắt khe xử lí mạnh tay bằng những hình thức kỉ luật nặng nề, không
nên đe doạ, thành kiến với các em. Đừng nhắc đi nhắc lại nhiều lần lỗi vi phạm của
các em sẽ tạo nên sự xấu hổ dần dần dẫn đến sự chai lì.
Cuối cùng, phải kiên quyết cứng rắn, lời nói phải đi đơi với việc làm. Xin đừng hứa
sng. Đã nói thì phải kiên quyết thực hiện, biết khơng thực hiện được thì kiên quyết
khơng nói.
Giáo dục học sinh cá biệt có một ý nghĩa rất to lớn đối với xã hội; thành công
trong giáo dục học sinh cá biệt sẽ góp phần quan trọng trong việc giữ gìn an ninh trật
tự xã hội và cung cấp cho xã hội những cơng dân tốt. Đối với gia đình, CMHS, giáo

Trang 14


dục học sinh cá biệt sẽ đem lại nguồn hạnh phúc lớn lao cho họ, giúp họ tránh được
nỗi bất hạnh lớn nhất là con cái hư hỏng. Đối với tập thể lớp đó là điều kiện đảm bảo
cho lớp ổn định, trật tự, nề nếp, các thành viên trong lớp sẽ cùng nhau tu dưỡng và
học tập đạt kết quả tốt.
Từ những thực tế trên, chúng tôi đã chú trọng công tác giáo dục học sinh cá biệt.
Bước đầu, chúng tơi cũng có được những thành cơng và góp phần khẳng định chất
lượng giáo dục của Nhà trường.
V. ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG
* Đối với nhà trường và các đoàn thể
Cần tổ chức nhiều hơn các hoạt động vui chơi, giải trí cho học sinh để các em có
được sân chơi lành mạnh, bổ ích.
Cần tăng cường công tác giáo dục kỹ năng sống cho các em, để các em hiểu thêm
về vai trò, trách nhiệm của lứa tuổi học đường.
Chỉ đạo cho GVCN tăng cường công tác phối hợp với cha mẹ học sinh để kịp thời
giáo dục những học sinh cá biệt có hiệu quả.
* Đối với cơ quan cấp trên

 Nên tổ chức phối hợp thường xuyên với các lực lượng giáo dục,đặc biệt là hội
cha mẹ học sinh để phụ huynh không coi việc giáo dục con em là việc riêng của nhà
trường.
 Các cấp lãnh đạo thường xuyên tổ chức các cuộc thi, các hội thảo về công tác
chủ nhiệm lớp để giáo viên học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau.
 Có hình thức khen ngợi các giáo viên làm cơng tác chủ nhiệm tốt nhằm động
viên khuyến khích họ thực hiện tốt hơn.
 Mở lớp hướng dẫn, nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng để giáo viên có cơ
hội chia sẻ, học tập những bài học hay, những kinh nghiệm tốt, áp dụng vào thực tế,
góp phần thúc đẩy nâng cao chất lượng giáo dục.

Trang 15


 Giáo dục là cả một quá trình rất cần sự nỗ lực và kiên trì của mỗi giáo
viên,cần biết lựa chọn và kết hợp sử dụng các phương pháp phù hợp với từng đối
tượng học sinh. Bằng lòng yêu nghề mến trẻ, bằng sự vị tha, bao dung, độ lượng,…
chắc chắn giáo viên chủ nhiệm sẽ thành công trong cơng tác giáo dục học sinh lớp
mình phụ trách. Nói cách khác nhà giáo là một con người trí tuệ, đức độ giàu lịng
nhân ái khoan dung có vai trị như là người cha, người mẹ đúng như câu nói: “Cha mẹ
cho hình hài vóc dáng cịn thầy cơ cho các em kiến thức, nhân nghĩa để các em có thể
vững bước trên con đường đời đầy chông gai thử thách”.
 Tơi rất mong nhận được sự góp ý của hội đồng giáo dục nhà trường cũng như
của tất cả các quý thầy cô. Và đặc biệt là các thầy cô đã từng làm công tác chủ nhiệm
lớp để cho đề tài ngày càng hoàn thiện hơn.
 Cần mở những lớp tập huấn kỹ năng giáo dục học sinh cá biệt cho GVCN cấp
THPT.
VI. DANH MỤC TÀI LIỆU TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Luật giáo dục
- Điều lệ trường phổ thông.

- Điều 22 và 23: quyền hạn, nhiệm vụ của giáo viên chủ nhiệm lớp (Chương IV –
Điều lệ trường phổ thông ngày 2/4/1979 của Bộ Giáo dục và Đào tạo)
- Một số chuyên đề về công tác giáo viên chủ nhiệm của Sở GD-ĐT Đồng Nai
- Giáo trình giáo dục học - Nhà xuất bản đại học quốc gia.
NGƯỜI THỰC HIỆN
(Ký tên và ghi rõ họ tên)

HOÀNG THANH

Trang 16


SỞ GD&ĐT ĐỒNG NAI
TRƯỜNG THPT NGUYỄN TRÃI

–––––––––––

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
––––––––––––––––––––––––
Nguyễn Trãi, ngày 28 tháng 04 năm 2015

PHIẾU NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Năm học: 2014 - 2015
–––––––––––––––––
Tên sáng kiến kinh nghiệm: GIÁO DỤC HỌC SINH CÁ BIỆT
Họ và tên tác giả: Hoàng Thanh Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị: Trường THPT Nguyễn Trãi
Lĩnh vực: (Đánh dấu X vào các ô tương ứng, ghi rõ tên bộ môn hoặc lĩnh vực khác)
- Quản lý giáo dục

 - Phương pháp dạy học bộ môn: ............................... 
- Phương pháp giáo dục  - Lĩnh vực khác: ........................................................ 
Sáng kiến kinh nghiệm đã được triển khai áp dụng: Tại đơn vị 
Trong Ngành 
1. Tính mới (Đánh dấu X vào 1 trong 3 ô dưới đây)
- Đề ra giải pháp thay thế hồn tồn mới, bảo đảm tính khoa học, đúng đắn 
- Đề ra giải pháp thay thế một phần giải pháp đã có, bảo đảm tính khoa học, đúng đắn 
- Giải pháp mới gần đây đã áp dụng ở đơn vị khác nhưng chưa từng áp dụng ở đơn vị mình, nay
tác giả tổ chức thực hiện và có hiệu quả cho đơn vị 
2. Hiệu quả (Đánh dấu X vào 1 trong 5 ô dưới đây)
- Giải pháp thay thế hoàn toàn mới, đã được thực hiện trong tồn ngành có hiệu quả cao 
- Giải pháp thay thế một phần giải pháp đã có, đã được thực hiện trong tồn ngành có hiệu quả
cao 
- Giải pháp thay thế hoàn toàn mới, đã được thực hiện tại đơn vị có hiệu quả cao 
- Giải pháp thay thế một phần giải pháp đã có, đã được thực hiện tại đơn vị có hiệu quả 
- Giải pháp mới gần đây đã áp dụng ở đơn vị khác nhưng chưa từng áp dụng ở đơn vị mình, nay
tác giả tổ chức thực hiện và có hiệu quả cho đơn vị 
3. Khả năng áp dụng (Đánh dấu X vào 1 trong 3 ơ mỗi dịng dưới đây)
- Cung cấp được các luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính sách:
Trong Tổ/Phịng/Ban  Trong cơ quan, đơn vị, cơ sở GD&ĐT 
Trong ngành 
- Đưa ra các giải pháp khuyến nghị có khả năng ứng dụng thực tiễn, dễ thực hiện và dễ đi vào cuộc sống:
Trong Tổ/Phòng/Ban 
Trong cơ quan, đơn vị, cơ sở GD&ĐT 
Trong ngành 
- Đã được áp dụng trong thực tế đạt hiệu quả hoặc có khả năng áp dụng đạt hiệu quả trong phạm vi rộng:
Trong Tổ/Phòng/Ban 
Trong cơ quan, đơn vị, cơ sở GD&ĐT 
Trong ngành 
Xếp loại chung: Xuất sắc Khá 

Đạt 
Không xếp loại 
Cá nhân viết sáng kiến kinh nghiệm cam kết và chịu trách nhiệm không sao chép tài liệu của
người khác hoặc sao chép lại nội dung sáng kiến kinh nghiệm cũ của mình.
Tổ trưởng và Thủ trưởng đơn vị xác nhận đã kiểm tra và ghi nhận sáng kiến kinh nghiệm này đã
được tổ chức thực hiện tại đơn vị, được Hội đồng chuyên môn trường xem xét, đánh giá; tác giả
không sao chép tài liệu của người khác hoặc sao chép lại nội dung sáng kiến kinh nghiệm cũ của
chính tác giả.
Phiếu này được đánh dấu X đầy đủ các ô tương ứng, có ký tên xác nhận của tác giả và người có
thẩm quyền, đóng dấu của đơn vị và đóng kèm vào cuối mỗi bản sáng kiến kinh nghiệm.
NGƯỜI THỰC HIỆN SKKN
XÁC NHẬN CỦA TỔ
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
(Ký tên và ghi rõ họ tên)
CHUYÊN MÔN
(Ký tên, ghi rõ
(Ký tên và ghi rõ họ tên)
họ tên và đóng dấu)


Trang 2



×