Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Tiểu luận thực trạng quyền cho và nhận bộ phận cơ thể ở việt nam, nguyên nhân và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.43 KB, 16 trang )

LỜI MỜ ĐẦU:
Kinh tế ngày càng phát triển thì những vấn đề xã hội cũng ngày một phức tạp
hơn. Cùng với sự phát triền không ngừng của các lĩnh vực như văn hóa, công nghệ
khoa học kĩ thuật thì ngành luật ở Việt Nam cũng không ngừng hoàn thiện để phục
vụ cuộc sống. Các điều luật không chỉ gói gọn trong khuôn khổ chật hẹp tàn dư chế
độ cũ với những e ngại về ảnh hưởng đến những vấn đề nhạy cảm mà đã hoàn toàn
thay đồi, hay nói cách khác chúng ta đã dám đối mặt với những yêu cầu mà cuộc
sống đề ra chứ không còn e dè trong bế tắc nữa. Một trong những biểu hiện cụ thế
nhất là quyền nhân thân, quyền con người đã được quan tâm một cách sâu sắc. Đặc
biệt là các quyền như hiến bộ phận cơ thế, hiến bộ phận cơ thể hay hiến xác sau khi
chết, quyền nhận bộ phận cơ thế, quyền xác định lại giới tính lần đầu tiên xuất
hiện trong Bộ luật dân sự nước ta năm 2005. Khi mà nhu cầu được cấy ghép bộ
phận cơ thể luôn ở mức cao, tỉ lệ cho chỉ bằng phần một phận rất nhỏ nhu cầu thì
những những qui định của pháp luật về vấn đề này càng đáng quan tâm hơn và cần
có những nghiên cún mang tính chất tống quát.
NỜĨ DUNG:
l.Thực trạng quyền cho và nhận bộ phận cơ thế ở Việt Nam:
/. /. Thực trạng pháp luật:
BLDS 1995 quy định trên tinh thần "Công dân được làm những gì phù họp với
quy định pháp luật", còn BLDS 2005 thì quy định theo hướng "Công dân được làm
những gì pháp luật không cấm". Theo ông Đinh Trung Tụng, thứ trưởng Bộ tư
pháp: “BLDS 2005 thể hiện theo nguyên tắc các chủ thể QHDS được làm tất cả
những gì mà pháp luật không cấm và không trái với đạo đức xã hội. Quy định như
thế tạo thuận lợi cho các chủ thề khi tham gia vào các giao dịch dân sự, kinh tế và
các QHDS theo nghĩa rộng, có môi trường thoáng hơn, người ta có thể làm tất cả
những gì mà pháp luật không cấm”, về vấn đề những điểm khác biệt nổi bật trong
Bộ luật dân sự 2005 so với Bộ luật dân sự năm 1995 Thứ trưởng nói: “Đây là sự bồ
sung những quyền dân sự cơ bản của công dân mới được quy định trong BLDS
2005. Trong BLDS 2005, các quyền nhân thân của cá nhân có bổ sung hai quyền rất
quan trọng là quyền được hiến bộ phận cơ the người, hiến xác, quyền được xác định
lại giới tính. Đây là hai quyền dân sự cơ bản mới, được quy định cụ thể trong BLDS


2005, nhưng cũng quy định có tính nguyên tắc thôi. Đây là quyền của công dân,
mọi người được hiến, được nhận bộ phận cơ thể người vì mục đích chữa bệnh hoặc
nghiên cứu khoa học. Nghiêm cấm các hành vi nhằm mục đích kinh doanh, thương
mại. Quyền xác định lại giới tính cũng xác định cá nhân có quyền xác định lại giới
tính trong trường hợp có dị tật bấm sinh hoặc giới tính chưa được định hình rõ”. Có
thê thấy rằng qui định về quyền hiến và nhận bộ phận cơ thể người là một quyền
mới, xuất phát trừ nhu cầu của xã hội và điều kiện khoa học công nghệ phát triên
nhanh chống hiện nay.
Điều 33. Quyền hiến bộ phận cơ thê
Cá nhân có quyền được hiến bộ phận cơ thê của mình vì mục đích chữa bệnh
cho người khác hoặc nghiên cứu khoa học
Điều 35. Quyền nhận bộ phận cơ thê người
Cá nhân có quyên nhận bộ phận cơ thê của người khác đê chữa bệnh cho
mình.
Nghiêm cam việc nhận, sử dụng bộ phân của người khác nham mục đích
thương mại
Nhu vậy ngay tù' điều luật mang tính khái quát như điều 33 và 35, ta cũng nhận
thấy rằng việc hiến hoặc nhận là quyền của cá nhân, cá nhân có quyền được hiến và
nhận bộ phân CO' thể, và cũng thế hiện rõ mục đích của việc hiến bộ phận cơ thê đó
là vì chữa bệnh và nghiên cứu khoa học. Quyền hiến bộ phận cơ thê là tiền đề để có
quyền nhận bộ phận cơ thế. Quyền hiến bộ phận cơ thê là một quyền nằm trong hệ
thống quyền nhân thân cơ bản vì thế nó có đầy đủ đặc điềm của một quyền nhân
thân, đó là đặc điếm tính cá nhân tuyệt đối, không xác định bằng tiền, quyền nhân
thân không xác lập dựa vào các sự kiện pháp lí mà chúng được xác định trực tiếp
bàng qui định của pháp luật, là một loại quyền tuyệt đối.
Đe có những qui định cụ thế về vấn đề này ngày 29 tháng 11 năm 2006 Quốc
hội khóa XI, kì họp thứ 10 đã thông qua Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thê
người và hiến lấy xác số 75/2006/QH11.
> về phạm vi điều chỉnh và đổi tượng áp dụng:
Luật này quy định về hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thế người và hiến, lấy xác;

tố chức, hoạt động của ngân hàng mô và Trung tâm điều phối quốc gia về ghép bộ
phận cơ the nguửi.
Luật này áp dụng đối với tồ chức, cá nhân Việt Nam, người Việt Nam định cư ở
nước ngoài, tô chức, cá nhân nước ngoài có liên quan đến hiến, lấy, ghép mô, bộ
phận cơ thê người và hiến, lấy xác tại Việt Nam.
> về các nguyên tắc trong việc hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thê người và
hiến, lấy xác
• Tự nguyện đối với người hiến, người được ghép.
Đây là nguyên tắc cơ bản nhất trong quyền hiến và nhân bộ phận cơ thể con
người. Là một quyền nằm trong hệ thống quyền nhân thân của công dân, chính vì
thế nó có đầy đủ các đặc điềm của một quyền nhân thân cơ bản. Tự nguyên là bảm
thân tự quyết định không bị ép buộc từ bất cứ cá nhân tổ chức nào. Nó thề hiện
quyền năng của chủ thề, hay nói cách khác là nó thê hiện ý chí của chủ thể, hơn nữa
quyền hiến bộ phận cơ thế luôn gắn liền với một chủ the nhất định và không thể
dịch chuyển cho những chủ thể khác, theo đó quyền hiến bộ phận cơ thê là quyền
của một cá nhân, cá nhân đó có quyền được thế hiện ý chí của mình, quyền này
không thể đế cho người nào khác quyết định thay. Luật này của Việt Nam nằm
trong hệ thống chủ động đồng ý, khác với các nước Pháp, Tây Ban Nha, Nauy ĩại
thuộc hệ thống suy đoán đồng ý, tuy nó đều dựa trên nguyên lí tôn trọng quyền chủ
thế nhưng trên thực tế các nước nằm trong hệ thống suy đôán đồng ý thường có tỉ lệ
hiến bộ phận cơ thể cao hơn rất nhiều so với những nước trong hệ thống chủ động
đồng ý.
• Vì mục đích nhân đạo, chữa bệnh, giảng dạy hoặc nghiên cứu khoa học.
Đây là mục đích có ý nghĩa to lớn nhất trong quyền hiến bộ phận cơ thề.
Như đã biết khi nói đến quyền người ta thường nghĩ tới quyền lợi của chủ thế, là
quyền năng mà chủ thể có thề dựa vào đó thê hiện lọi ích của mình, tuy nhiên với
quyền hiến bộ phận cơ thế này nó lại vì mục đích cộng đồng nhiều hơn là của chủ
thề, lợi ích của chủ thể là một phần rất nhỏ so với đóng góp mà xã hội nhận được.
Đó cũng chính là điểm khác biệt căn bản giữa quyền hiến bộ phận cơ thê với các
quyền nhân thân khác, nó hướng tới lọi ích của cả cộng đồng. Đa phần các nước

trên thế giới đều quy định rõ sử dụng cho mục đích chữa bệnh và nghiên cứu khoa
học Cũng giống như Pháp, Tynidi, mục đích hiến mô, bộ phận cơ thế người ở Ma
rốc cũng chỉ được thực hiện trong một số mục đích nhất định như hiến vì mục đích
chữa bệnh hoặc nghiên cứu khoa học, do các cơ sở được cấp phép đảm nhiệm. Ớ
Việt Nam pháp luật hiện hành quy định ngoài mục đích hiến mô, bộ phận cơ the
được hiến và sử dụng vào mục đích chữa bệnh và nghiên cứu khoa học thì hiến mô,
bộ phận cơ thề còn được sử dụng vào mục đích giảng dạy. (Xem thêm Khoản 2,
Điều 4, Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ the và hiến, lấy xác năm 200Ố).
• Không nhằm mục đích thương mại
Trong cơ thế con người có những bộ phận có thê tài sinh, nhưng cũng có
những bộ phận không thề tái sinh được, hơn nữa số người hiến quá ít so với nhu cầu
được ghép, theo qui luật cung cầu giá trị vật chất của bộ phận cơ thể là rất cao.
Chính vì thế đế bộ phận cơ thể con người không biến thành món hàng hóa, khéo
theo đó là hàng loạt những hệ quả xã hội thì nguyên tấc quan trọng không kém là
không được dùng bộ phận cơ thể người trong mọi trường họp vì mục đích thương
mại. GS Sadek Beloucif, thành viên ủy ban Tư vấn đạo đức quốc gia CH Pháp tỏ ra
đồng tình với quy định trên và chia sẻ: "Có quốc gia đã định giá đến 30.000 USD
một quả thận, 100.000 USD một mảnh gan giành cho ghép. Tuy nhiên, không thế
thương mại hóa việc cho - nhận tạng. Bởi như vậy, sẽ tăng thêm hố sâu ngăn cách
giàu nghèo. Người nghèo sẽ chết vì không thề có những khoản tiền lớn cho mua
tạng ghép".
• Giữ bí mật về các thông tin có liên quan đến người hiến, người được
ghép, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có
quy định khác.
Nguyên tắc này được các quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam hết sức
coi trọng. Thứ nhất nhằm tránh sự mua bán ngầm giữa người hiến và người nhận,
thứ hai tránh các quyền và nghĩa vụ dân sự, nghĩa vụ gia đình phát sinh (trường họp
hiến tinh trùng, trứng, phôi), thứ ba nó khiến cho người nhận không bị ám ảnh về
bộ phận của người khác mà mình đang giữ khi hai người có cuộc sống rất khác biêt.
Tuy nhiên trường hợp những người có quan hệ huyết thống lấy nhau không phải là

không có, do vậy nguyên tắc vô danh cũng gây bất lợi.
> về điều kiệu hiến bộ phận cơ thê
• Độ tuổi:
Pháp luật Việt Nam hiện hành quy định cá nhân phải từ đủ 18 tuồi trở lên mới có
quyền hiến mô, bộ phận cơ thể khi còn sống và sau khi chết (Điều 5 Luật Hiến, lấy
ghép mô, bộ phận cơ thề và hiến, lấy xác năm 2006). Qua đó có thể thấy pháp luật
Việt Nam quy định về độ tuối hiến sau khi chết của cá nhân muộn hơn so với ở
Pháp (pháp luật Việt Nam quy định đủ 18 tuổi trở lên mới được hiến hoặc đăng ký
hiến sau khi chết, còn pháp luật Pháp quy định là 13 tuổi). Sở dĩ có quy định như
vậy bởi các nhà làm luật nước ta quan niệm rằng ở tuồi đó, người hiến mới phát
triển đầy đủ về tâm, sinh lý cũng như về mặt pháp lý họ là người có đầy đủ năng
lực hành vi dân sự có thế bằng hành vi của mình tham gia xác lập các quyền và
nghĩa vụ nhất định theo quy định của pháp luật. Neu độ tuổi là một dấu hiệu định
lượng, là điều kiện cần để hiến mô, bộ phận cơ thể thì khả năng nhận thức và điều
khiển hành vi là dấu hiệu định tính để xác định xem cá nhân đã hoàn thiện về mặt
tâm lý, về khả năng nhận thức hay chưa.
• Sức khỏe:
Việc hiến bộ phận cơ thế là vì mục đích chữa bệnh nên sự bảo đảm an toàn cho
người nhận là hết sức quan trọng. Ớ Việt Nam, Luật hiến, lấy ghép mô, bộ phận cơ
thề và hiến, lấy xác năm 2006 chỉ quy định chung chung người hiến và người nhận
đều phải làm những thủ tục để kiểm tra sức khỏe, nhưng Luật không quy định kiềm
tra sức khỏe bao gồm những gì, nhưng nghiên cứu các quy định cụ thể trong Quyết
định số 43/2006/QĐ-BYT ngày 29 tháng 12 năm 2006 của Bộ trưởng Bộ Y tế năm
2006 về việc ban hành quy trình kỹ thuật ghép thận từ người cho sống và quy trình
kỹ thuật ghép gan từ người cho sống có quy định điều kiện để người hiến được
tuyển sử dụng là không bị ung thư, xơ gan, nhiễm Nguyöün Thiu Kim Cúc - 351823 -
Lớp N02 7
HIV dương tính, điều đó cho thấy những quy định cụ thế về sức khỏe với người
hiến thận hoặc gan ở Việt Nam được quy định cụ thể trong các văn bản dưới luật và
có thể thấy các quy định về vấn đề này là tương đối chặt chẽ nhằm đảm bảo sức

khỏe cho cả người hiến và người nhận.
> Thủ tục đăng kí hiếu và nhận bộ phận cơ thê:
Được qui định rất rõ ràng tại điều 12 Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể
người và hiến lấy xác số 75/2006/QHl( bên cạnh đó tại điều 13 có qui định về thủ
tục thay đổi, hủy bỏ đơn đăng ký hiến mô, bộ phận cơ thể ở người sống). Mầu đơn,
có thể tham khảo Quyết định số 07/2008QĐ-BYT ngày 14/2/2008 của Bộ Y tế về
việc ban hành các mẫu đơn tự nguyện hiến, hủy đăng ký hiến mô, bộ phận cơ the ở
người sống, sau khi chết và hiến xác; các mẫu thẻ đăng ký hiến mô, bộ phận cơ thể
người sau khi chết và hiến xác.
> Quyền lợi của chủ thê hiến bộ phận cơ thế:
Qui định tại điều 17 Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thế người và hiến lấy
xác năm 2006. Theo đó người đã hiến mô được chăm sóc, phục hồi sức khoẻ miễn
phí ngay sau khi thực hiện việc hiến mô tại cơ sở y tế; được chăm sóc, phục hồi sức
khoẻ miễn phí ngay sau khi thực hiện việc hiến bộ phận cơ thê người tại cơ sở y tế
và được khám sức khỏe định kỳ miễn phí; được cấp thẻ bảo hiếm y tế miễn phí;
được ưu tiên ghép mô, bộ phận cơ thể người khi có chỉ định ghép của cơ sở y tế;
được tặng Kỷ niệm chương vì sức khỏe nhân dân theo quy định của Bộ trưởng Bộ
Y tế.
Ngoài ra điều kiện của các cơ sở y tế trong việc lấy và ghép cũng được qui định rất
cụ thế trong luật này.
1.2. Thực trạng xã hội:
> Nhu cầu về ghép mô bộ phận cơ thê người ở Việt Nam
Ớ Việt Nam trong những năm qua, nhu cầu đuợc ghép mô và nhu cầu có xác đê
phục vụ việc nghiên cún khoa học, giảng dạy là rất lớn và ngày một gia tăng. Cả
nuớc có khoảng 5.000 - 6.000 nguời suy thận mạn cần đuợc ghép thận. Riêng Hà
Nội đã có gần 1.500 người được chỉ định ghép gan. Do không có nguồn của người
hiến nên cho đến nay đã có hàng trăm người phải sang Trung Quốc, Singapore và
một số nước khác đê ghép thận, ghép gan. Còn ở trong nước chỉ có khoảng 300 ca
được ghép thành công, trong đó chủ yếu là ghép thận chiếm tỷ lệ cao nhất sau đó
đến ghép tế bào máu (ghép tủy) và ghép gan. Tất cả các ca ghép này đều lấy thận,

gan của người sống là cha, mẹ, anh, chị, em trong gia đình, cùng huyết thống, có
các chỉ số sinh học tương đương. Trong khi đó, trên thế giới các nguồn lấy mô, bộ
phận cơ thế người đế ghép đều có nguồn từ người cho sống cùng huyết thống và từ
người cho sống không cùng huyết thống. Đó là những người bị chết não hay bệnh
nhân đã ngừng tim.
Nhu cầu ghép giác mạc rất cao, theo số liệu điều tra năm 2007, tỷ lệ mù lòa
trong cả nước là 0,59% (trong đó có 5,6% mù do sẹo giác mạc và mù do đục giác
mạc chiếm tỷ lệ 8,9%, trong tồng số người mù do các nguyên nhân khác nhau) ước
tính sơ bộ tương đương với khoảng 27.800 người mù do các bệnh lý giác mạc đòi
hỏi cần có giác mạc đế ghép, nhưng trên thực tế không có đủ nguồn của người cho
giác mạc.
Tuy nhiên, không chỉ Việt Nam mà trên thế giới, tình trạng thiếu mô, bộ phận
cơ thể người để ghép luôn tạo nên những sức ép lớn, theo số liệu của WHO (năm
2002) thì trên thế giới có 36.857 triệu người mù, trong đó 5,1% là mù lòa do bệnh
giác mạc và mỗi năm có khoảng 10 triệu người bị mù do hỏng giác mạc, nhưng chỉ
khoảng 120.000 người được ghép giác mạc. Riêng châu Á, ước tính mỗi năm có
khoảng 1 triệu bệnh nhân bị suy thận mạn giai đoạn cuối nhưng chỉ có khoảng
60.000 bệnh nhân được ghép thận (50% từ người chết não và 50% từ người cho
sống).
Trước thực trạng đó, đòi hỏi phải có hệ thống pháp luật đủ mạnh, đồng bộ để
tạo cơ sở cho việc hiến, tặng mô, bộ phận cơ thể người đáp ứng nhu cầu khẩn thiết
ngày nay, đồng thời tạo hành lang pháp lý cho cán bộ y tế khi tiến hành lấy, ghép
mô, bộ phận cơ thế người và đó cũng chính là lý do đế Quốc hội đã thông qua Luật
Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác và luật đã có hiệu lực thi
hành từ ngày 1/7/2007.
> Thực trạng về van đề vi phạm các nguyên tắc hiến bộ phận cơ thế'.
Chính vì giá trị rất lớn của bộ phận cơ thể người nên đã có không ít những hành
vi trái pháp luật xảy ra, vi phạm hầu hết các nguyên tắc hiến bộ phận cơ thế. Neu đi
ngang qua các bệnh viện lớn có thể thấy rất nhiều người đứng ở cống ra vào, đó là
những con người nghèo khố, vì kế sinh nhai họ chấp nhận bán bộ phận cơ thể của

mình khi ai đó có nhu cầu mua, lợi dụng tâm lí đó nhiều cò mồi đã thu được những
món lời khá lớn. Trong thời gian gần đây trên Mạng (Internet) thỉnh thoảng xuất
hiện những lời rao bán thận cho biêt là người bán đang trong cảnh khốn khó, cần
tiền nhiều hoặc cần gấp. Có trưởng họp đê nuôi người thân nằm bệnh viện như vợ
nuôi chồng, mẹ nuôi con nằm bệnh viện đã lâu Nguyên Thiu Kim Cúc - 351823 - Lớp
N02 10
đang cạn tiền thang thuốc. Có trường hợp là sinh viên ra tỉnh học không còn được
tài trợ vì gia đình đang khốn khó. Mua bán nội tạng, đến nay vẫn bị xem là hành vi
bất hợp pháp trên thế giới. Thế nhưng chuyện rao bán nội tạng hoặc nhờ có mối lái
trong việc bán nội tạng là điều vẫn xảy ra ở Việt Nam. Hoặc những người không
may sa vào lưới của bon buôn thịt bán người xuyên quốc gia thì cũng rất dề bị bán
nội tạng.
Mua bán nội tạng con người, bị lên án vì vấn đề đạo đức. Các nguyên tắc bình
đắng, công bằng, và nhân phẩm con người bị cho là không đựoc tôn trọng khi
những người nghèo khố phải hy sinh sức khỏe và đôi khi cả mạng sống đê đổi lấy
đồng tiền qua cách bán đi một phần cơ phận của họ.
Hiện nay ở Việt Nam ghép thận là có phần trăm thành công lớn nhất cho nên
mua bán thận xảy ra rất nhiều với mức độ ngày một tinh vi hơn. Bác sĩ Trần Ngọc
Sinh, Trưởng Khoa Tiết Niệu - Bệnh Viện Chợ Rầy, xác nhận với báo chí trong
nước rằng thật sự là có chuyện mua bán thận, và bản thân ông, ở chức vị này, từng
được rất nhiều người xin giúp đỡ, thực hiện việc cấy ghép thận trong các vụ mua
bán. ông cũng nói rằng nếu như người bán và người mua có thỏa thuận trước, người
bán sẵn sàng làm đơn hiến tặng thì như vậy bác sĩ khó long biết được, đây cũng là
một lỗ hổng trong pháp luật mà những kẻ buôn bán nội tạng trái phép dựa vào đế
lách luật. Năm 2008, một sinh viên bị liệt não do bán thận, đó là anh Tô Công Luân
sinh viên trường kinh tế kĩ thuật công nghiệp 1 thành phố Hồ Chí Minh. Khi bệnh
viên nhận Luân đang ở trong trạng thái suy thận cấp, không có phản ứng cơ, trên
bụng và ngực đầy những vết sẹo, qua kiếm tra cho biết Luân đã mất một quả thận,
bệnh máu khó đông. Những vết sẹo cho thấy Luân đã trải qua ít nhất là 3 ca phẫu
thuật nhiều lần chìm trong trạng thái hôn mê đây cũng chính là nguyên nhân khiến

não Luân không hoạt động bình thường, ít lâu sau khi về nhà Luân đã tử vong. Một
người có thề cho thận mà sức khỏe vẫn bình thường nhưng cái chết thương tâm này
đã gióng lên một hồi chuông cảnh báo về vấn đề buôn bán thận trái pháp luật và
đạo đức nhân nghĩa trong xã hội đã xuống cấp trầm trọng, coi mạng người không
bằng cỏ rác.
Một vấn đề nữa là chợ đen trong mua bán trứng người ở nước ta, cũng như mua
bán nội tạng, việc mua bán trứng người cũng diễn ra thông qua các đường dây khá
chuyên nghiệp, tại các bệnh viện phụ sản hay bệnh viện Nam y chỉ cần đế ý chúng
ta cũng thấy được tình trạng cò mồi lảng vảng ngay cửa chính.
Có thê nói rằng tình trạng chợ đen trong buôn bán mô bộ phận cơ thề con người
ngày một tăng cao hơn về số lượng, hành động của chúng cũng ngày một tinh vi
hơn, phạm vi hoạt động của chúng mở rộng trên toàn cầu, những điềm nóng như
Trung Quốc, Àn Độ, vùng Nam Mĩ, đáng lo ngại là vấn đề này xuất hiện ở cả nước
đang phát triền và cả nước phát triền, vấn đề bức thiết đặt ra là làm sao để quyền
hiến bộ phận cơ thể được mở rộng mà không gây ra các hiện tượng tiêu cực khác.
> Dấu chấm hỏi trong luật hiển bộ phận cơ thê người
Trên các phương tiện thông tin đại chúng có xuất hiện trường hợp tử tù tự
nguyện hiến bộ phận cơ thế của mình, mặc dù những người tử tù là những người
không còn năng lực hành vi pháp luật nhưng họ vẫn có quyền được hiến vì đó là
một nghĩa cử cao đẹp, làm ích cho đời, trả nợ cho đời. Tuy nhiên vấn đề đặt ra là
liệu có nên giảm án cho những người tử tù đó hay không, thực tế vấn đề này đã tốn
không ít giấy mực của giới báo chí và luật gia.
2.Nguyên nhân và một số giải pháp cho vấn đề.
2.1.Điều kiện kinh tế - xã hội
Xã hội loài người có những bước phát triền vượt bậc trên tất cả các phương
diện. Trong đó đáng kể nhất là sự phát triển thần tốc của ngành khoa học công
nghệ, trên cơ sở đó công nghệ tế bào sinh học, y học mà đặc biệt là giải phẫu học đã
đạt được nhiều thành tựu hết sức lớn lao, làm cuộc sống con người thay đối kỳ diệu,
từ chỗ con người có thê bị chết do một bộ phận cơ thê nào đó bị bệnh, hỏng, con
người lại có thể được tái sinh sự sống của mình qua việc được cấy, ghép một mô,

bộ phận cơ thê của người nào đó sống hoặc đã bị chết hiến tặng. Nước ta là một
nước xã hội chủ nghĩa vì vậy quyền lợi của người dân được đặt ở vị trí cao nhất,
bảo vệ sức khỏe tính mạng thân thế của công dân là trách nhiệm của nhà nước,
chính vì vậy quyền hiến và nhận bộ phận cơ thề người thê hiện tính chất nhân đạo
của pháp luật Việt Nam đồng thời cũng cho thấy việc nắm bắt nhu cầu xã hội nhanh
chóng của các nhà làm luật.
Tuy nhiên nhìn ở một khía cạnh khác, chúng ta vẫn thấy những lỗ hống trong
pháp luật, đó là điều kiện đê những kẻ xấu có cơ hội kiếm tiền. Nguyên nhân cũng
khác dễ hiếu, bởi vì quyền hiến nhận bộ phận cơ thê con người là một quyền mới,
không những thế nó còn có tính chất hết sức phức tạp liên quan đến những vấn đề
nhạy cảm của xã hội. Mặt khác cũng phải thừa nhận rằng luật Việt Nam rất cụ thế
nhưng vẫn lỏng lẻo, thường khó khăn cho những người chấp hành tốt pháp luật và
lại dễ dàng cho những kẻ phạm pháp?? Trước hết chúng ta cần quan tâm tới việc bố
sung các điều luật làm mở rộng phạm vi tác động của quyền hiến bộ phận CƯ thế
người. Có thế thêm vào đối tượng áp dụng của quyền hiến bộ phận cơ thể như
người nước ngoài đang sinh sống ở Việt Nam cũng có Nguyên Thiu Kim Cúc -
351823 - Lớp N02 13
quyền hiến, hay về các nguyên tắc hiến mô bộ phận cơ thê nên học tập những nuớc
đã công nhận quyền hiến bộ phận cơ thể người từ lâu như Pháp, Anh Ớ Pháp,
trong các đạo luật về đạo đức y sinh quy định việc hiến, lấy ghép mô, bộ phận cơ
thể người phải tôn trọng các nguyên tắc như: nguyên tắc an toàn về y tế và cẩn
trọng (Điều L. 1211-6/7 Bộ luật Y tế cộng đồng Cộng hòa Pháp), nguyên tắc này
nhằm tránh những rủi ro có thể xảy ra với người hiến và người nhận trong quá trình
hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thê người; nguyên tắc phân phối sản phẩm ghép và
thủ tục đăng ký vào danh sách chờ ghép. Bên canh đó những qui định về điều kiện
hiến cũng cần chặt chẽ hơn.
2.2. Vấn đề đưa quyền hiến nhận mô bộ phận cơ thể người đến mọi người dân
Thực sự vấn đề tuyên truyền vận động người dân hiến bộ phận cơ thề chưa
hoạt động thực sự có hiệu quả nếu không muốn nói là quá xã dời thực tế. Quan
niệm của người dân ta là khi chết, con người phải được bảo toàn về thân thể, nó là

một nét truyền thống tâm linh nhưng nó cũng chính là nguyên nhân của việc người
dân Việt không chấp nhận hiến bộ phận cơ thể là một việc làm tốt. Không những
thế các cuộc vận động hiến mô bộ phận cơ thê cũng cần tố chức sôi nôi có hiệu quả
hơn, từ đó làm thay đối suy nghĩ của người dân về việc hiến bộ phận cơ thể mình,
để họ có cái nhìn sâu sắc hơn về vấn đề này. Đây là một công việc hết sức khó
khăn, tuy nhiên bản chất người Việt Nam là lương thiện và nhân đạo cho nên để
không phải là không thể, chỉ có điều cần có thời gian và phải có những qui định
đảm bảo lợi ích của người hiến.
2.3. Cơ sở vật chất của y tế Việt Nam
Một điểm nữa khiến cho quyền hiến bộ phận cơ thê người vẫn không trở nên
phổ biến là bởi vì thực tế cơ sở y tế của nước ta cũng chưa an toàn tuyệt đối với
người hiến, chỉ cần suy nghĩ thông thường là “vì sao mình phải hiến trong khi
những tai họa trong phẫu thuật sẽ làm cuộc sống của mình bị đảo lộn”. Vì thế điều
hết sức quan trọng cần phải làm đó là phải tiến hành xây dựng nhiều những ngân
hàng tiếp quản và phân phối bộ phận cơ thể người, đồng thời các cơ sở y tế cũng
cần có trang thiết bị cùng với những bác sĩ lành nghề để tiến hành lấy và ghép mô,
bộ phận cơ thể một cách an toàn bảo về tối đa sức khỏe của người hiến và người
ghép.
2.4 Chỉnh sách đối ngoại:
Lợi dụng những un đãi cho người nước ngoài ở Việt Nam, với những chính
sách trên tinh thần hữu nghị và tôn trọng, những kẻ xấu đã tạo thành những đường
dây buôn bán trẻ em phụ nữ thậm chí là cả nam giới cho đến nội tạng con người.
Những con đường làm ăn phi pháp và trái với đạo nghĩa làm người ấy đã và đang
làm giàu nhanh chóng cho những kẻ buôn thịt bán người. Cần có sự móc nối giữa
các quốc gia trên phạm vi toàn thế giới, chỉ có thế, nạn mua bán mô bộ phận cơ thế
mới không có điều kiện để tồn tại.
KÉT LUÂN:
Trên đây là một số nghiên cứu của bản thân về quyền hiến bộ phận cơ thê và
nhận bộ phận cơ thề, trong đó có nêu thục trạng nguyên nhân và một số giải pháp.
Đây là một vấn đề khá mới trong luật dân sự Việt Nam, chính vì thế nó có những

phức tạp riêng. Đê nhận thức đuợc vấn đề chúng ta cần có cài nhìn rộng, thoáng và
công bằng để giải quyết chúng. Tuy vẫn còn tồn đọng một số vấn đề nhung nhìn
chung quyền hiến và nhận bộ phận cơ thể đã co những buớc phát triển chậm nhung
vững chắc. Khi điều kiện xã hội và điều kiện khoa học đang phát triến tùng ngày thì
luật về quyền hiến và nhận bộ phận cơ thế cũng cần có những bồ sung cho hợp lí,
các biện pháp trùng trị kẻ cố tình vi phạm pháp luật về vấn đề này cũng cần cụ thế,
với mức cao, bên cạnh đó cũng cần xây dựng niềm tin cho nguời dân thông qua các
hoạt động xã hội và việc xây dựng cơ sở y tế đạt chất luợng cao.

×