Tải bản đầy đủ (.doc) (131 trang)

Phân tích hiện tượng xung đột trong hệ thống kênh phân phối của sản phẩm thức ăn chăn nuôi gia súc Cargill, tìm hiểu nguyên nhân và các cách giải quyết xung đột đó.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (571.44 KB, 131 trang )

Mục lục
Mở đầu........................................................................................................................................2
1. Tính cấp thiết của đề tài......................................................................................................2
2. ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài.............................................................................3
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài..........................................................................................4
4. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu.........................................................................................4
Chơng 1: Tổng quan tài liệu và cơ sở khoa học của đề tài..........................................................5
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài.................................................................................................5
1.1.1. Phơng pháp tiếp cận trong nghiên cứu......................................................................5
1.1.2. Những yếu tố chi phối hệ thống canh tác..................................................................6
1.1.3. Các lý luận về hệ thống canh tác.............................................................................10
1.1.4. Hình thành nền nông nghiệp phát triển bền vững...................................................13
1.2. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nớc có liên quan đến đề tài..................................14
1.2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới..........................................................................14
1.2.2. Tình hình nghiên cứu trong nớc..............................................................................19
1.2.3. Đặc điểm hệ thống canh tác vùng nhiệt đới và những vấn đề cần nghiên cứu ở vùng
đất ven sông Hồng.............................................................................................................25
Chơng 2: Vật liệu, nội dung và phơng pháp nghiên cứu...........................................................30
2.1. Địa điểm, nội dung, vật liệu nghiên cứu........................................................................30
2.2. Phơng pháp nghiên cứu..................................................................................................30
Chơng 3: Kết quả nghiên cứu và thảo luận...............................................................................32
3.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xà hội của các hệ thống canh tác......................................32
3.1.1. Tài nguyên khí hậu..................................................................................................32
3.1.2. Tài nguyên đất đai...................................................................................................34
3.1.3. Các tiểu vùng sinh thái nông nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Néi......................42
3.1.4. C¸c tiĨu vïng kinh tÕ - sinh th¸i vïng ngoại thành Hà nội.....................................43
3.1.5. Các điều kiện về vật chất, kinh tế, kỹ thuật cho sản xuất nông nghiệp của Hà nội.50
3.2. Mô tả, đánh giá hiệu quả kinh tế và môi trờng của một số hệ thống canh tác...............52
3.2.1. HƯ thèng c©y bëi DiƠn.............................................................................................52
3.2.2. HƯ thèng c©y Cam Canh..........................................................................................58
3.2.3. Hệ thống cây Hồng xiêm Xuân Đỉnh......................................................................63


3.2.4. Hệ thống cây hồng quả............................................................................................66
3.2.5. Hệ thống cây Vải thiều............................................................................................68
3.2.6. Hệ thống cây Na dai................................................................................................70
3.3. Đề xuất định hớng phát triển sản xuất các hệ thống canh tác đà đợc nghiên cứu để nhân
rộng ra địa bàn.......................................................................................................................72
3.3.1. Thị trờng tiêu thụ sản phẩm.....................................................................................72
3.3.2. Tiềm năng phát triển sản xuất.................................................................................78
3.3.3. Phân hạng đất thích hợp..........................................................................................78
3.3.4. Định hớng phát triển sản xuất.................................................................................80
Kết luận và kiến nghÞ................................................................................................................90


Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp Thành phố
Hà nội nói chung và các huyện ngoại thành nói riêng đà có thay đổi quan trọng
và chuyển dần sang sản xuất hàng hoá. Trong những năm qua, nhiều chơng trình,
dự án có liên quan đến sản xuất nông nghiệp đà đợc triển khai ở các huyện ngoại
thành, đặc biệt các huyện có vùng đất ven sông Hồng nh chơng trình 773,
khuyến nông, khuyến lâm
Vùng đất ven sông Hồng trên địa bàn thành phố Hà nội là một trong
những vùng đất có lịch sử phát triển lâu đời, là cái nôi của nền văn minh lúa nớc,
là vùng đồng bằng với địa hình tơng đối bằng phẳng, đất đai màu mỡ, khí hậu đa
dạng rất thuận lợi cho việc phát triển các loại cây trồng nông nghiệp nuôi sống
con ngời.
Thực trạng các hệ thống canh tác của Vùng đất ven sông Hồng còn manh
mún, cha hình thành các vùng sản xuất với quy mô tập trung lớn với các loại cây
chiến lợc. Việc hoàn thiện hệ thống canh tác cha đợc đầu t, chú trọng đúng mức,
hiệu quả kinh tế cha cao.
Đại bộ phận ngời nông dân ở vùng đất này đều sống dựa vào nông nghiệp,

mà thu nhập từ sản xuất nông nghiệp lại không cao. Do đó đời sống của nhân
dân còn gặp nhiều khó khăn. Một trong những nguyên nhân dẫn đến thu nhập
thấp của bà con nông dân vùng đất ven sông Hồng trên địa bàn thành phố Hà nội
là cha tìm ra (hoặc cha học hỏi đợc) các hệ thống canh tác cây trồng có hiệu quả
kinh tế cao để áp dụng vào sản xuất.
Hệ thống nông nghiệp là một hệ thống kết hợp đan xen giữa các nhóm
quy luật: quy luật sinh học, quy luật kinh tế - xà hội. Giữa các nhóm có vai trò
quyết định nh nhau, vì vậy nghiên cứu phát triển hệ thống canh tác nói riêng và
hệ thống nông nghiƯp nãi chung cÇn cã sù tham gia cđa mét nhóm cán bộ liên
ngành, ở từng ngành giải quyết các tồn tại của mình theo quan điểm tiếp cận hệ
thống. Hệ thống canh tác cây trồng đợc coi là hợp phần quan trọng nhất của hệ
thống nông nghiệp ở các vùng sinh thái. Bố trí hệ thống cây trồng thích hợp
trong một khu vực hay một đơn vị sản xuất nông nghiệp ở mỗi vùng sinh thái là
nhằm khai thác tốt nhất, hiệu quả nhất các nguồn lực tự nhiên, kinh tế - xà hội
của các vùng sinh thái, tạo cho hệ thống một sức sản xuất cao, bền vững và bảo
vệ môi trờng.

2


Phát triển hệ thống nông nghiệp là một giải pháp tốt nhất cho việc giải
quyết các vấn đề kinh tế - xà hội, phát triển sản xuất một cách lâu dài, ổn định,
phù hợp với nền nông nghiệp nớc ta.
Từ những cơ sở lý luận khoa học và thực tiễn sản xuất đang diễn ra ở vùng
đất ven sông Hồng, việc nghiên cứu hệ thống canh tác để từ đó xác định hệ
thống cây trồng thích hợp là một đòi hỏi cấp bách, có cơ sở khoa học để phát
triển nông nghiệp bền vững và bảo vệ môi trờng. Do đó trên cơ sở tổng kết, đa ra
hệ thống cây trồng thích hợp cho từng vùng sinh thái để sử dụng tốt nhất nguồn
nhiệt, nguồn nớc, đất đai, lao độngvà bảo vệ môi trờng, tránh đợc tối đa những
điều kiện bất lợi xảy ra là hết sức cần thiết. Từ những nghiên cứu hệ thống canh

tác và bài học đợc rút ra tác giả hình thành luận án mang tên: Nghiên cứu một
số hệ thống canh tác ở vùng đất ven sông Hồng thuộc địa bàn Thành phố
Hà nội và định hớng phát triển bền vững.
Đề tài nghiên cứu một số hệ thống canh tác có hiệu quả nhằm khuyến cáo
cho bà con nông dân vùng Đồng bằng sông Hồng nói chung và nông dân vùng
ven sông Hồng thuộc địa bàn thành phố Hà nội nói riêng nhân rộng các hệ thống
canh tác có hiệu quả đó ra địa bàn, góp phần nâng cao thu nhập, xoá đói giảm
nghèo tiến tới làm giầu cho ngời dân, giải quyết một phần tính bức xúc của vấn
đề nêu ra ở trên .
2. ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ đóng góp cơ sở khoa học trong việc xác
định hệ thống canh tác chính trên vùng đất ven sông Hồng trên quan điểm
nghiên cứu hệ thống, quan điểm sinh thái, quan điểm về hiệu quả kinh tế xà hội
và hớng tới sự phát triển bền vững.
ý nghĩa thực tiễn của đề tài là đề xuất một số hệ thống canh tác thích hợp
trên vùng đất vừa đem lại hiệu quả kinh tế cao theo hớng sản xuất hàng hoá, vừa
phù hợp với điều kiƯn kinh tÕ - x· héi cđa vïng, gióp cho ngời sản xuất đạt hiệu
quả kinh tế cao trên một đơn vị diện tích, nâng cao đời sống cho ngời dân trong
huyện.
Hệ thống canh tác thích hợp còn có ý nghĩa trong việc bảo vệ môi trờng,
sử dụng quỹ đất hiện có một cách hợp lý, phát huy cao nhất tiềm năng và lợi thế
về đất đai, khí hậu, trên cơ sở phù hợp với môi trờng sinh thái.
Những giải pháp và đề xuất góp phần phát triển hệ thống canh tác không
chỉ đúng với vùng ven sông Hồng mà còn có ý nghĩa cho những địa phơng khác
có các điều kiện tơng tự.

3


3. Mục đích nghiên cứu của đề tài

Nghiên cứu đánh giá thực trạng sản xuất, thị trờng tiêu thụ, hiệu quả kinh
tế và môi trờng của một số hệ thống canh tác cây ăn quả có hiệu quả hiện có
trong vùng đồng bằng sông Hồng.
Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xà hội ảnh hởng đến sự phát triển hệ thống
canh tác cây ăn quả vùng Đồng bằng sông Hồng.
Nghiên cứu mô tả chi tiết một số hệ thống canh tác cây ăn quả trong vùng
với các nội dung:
+ Thực trạng sản xuất
+ Đặc điểm về giống, sự sinh trởng và phát triển
+ Tình hình chăm sóc, bón phân
+ Chất lợng sản phẩm
+ Hiệu quả kinh tế và môi trờng
+ Thị trờng tiêu thụ
+ Tiềm năng phát triển sản xuất
+ Định hớng sản xuất theo hớng phát triển bền vững
Nghiên cứu đề xuất một số định hớng và những giải ph¸p chđ u nh»m
ph¸t triĨn c¸c hƯ thèng canh t¸c thích hợp trên quan điểm sinh thái và phát triển
bền vững nhằm tăng hiệu quả sử dụng đất, bảo đảm an toàn lơng thực, giải quyết
thực phẩm, tăng các loại cây trồng có giá trị hàng hoá cao, tăng thu nhập, nâng
cao đời sống cho nông dân vùng đất ven sông Hồng.
4. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tợng nghiên cứu
Đối tợng nghiên cứu của đề tài tập trung vào các hệ thống canh tác cây ăn quả do
hộ nông dân thực hiện, trên cơ sở phát triển kinh tế hộ tăng thu nhập cho nông
dân.
Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu là vùng đất ven sông Hồng thuộc địa bàn thành phố Hà nội.

4



Chơng 1: Tổng quan tài liệu và cơ sở khoa học của đề tài
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài
1.1.1. Phơng pháp tiếp cận trong nghiên cứu
Khi nghiên cứu một hệ thống, điều quan tâm đầu tiên là tìm hiểu mục tiêu
của hệ thống cần đạt đợc là gì ? và hệ thống đang hoạt động để đạt tới mục tiêu gì.
Triết học duy vật biện chứng đà chỉ ra rằng, để nghiên cứu một hiện tợng
tự nhiên hoặc x· héi ta ph¶i xem xÐt nã trong mèi quan hệ với các hiện tợng
khác vì mọi hiện tợng đều có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Mặt khác mỗi hiện tợng đều luôn luôn nằm trong trạng thái biến đổi và phát triển mà nguồn lực và
động lực chủ yếu của hiện tợng đó nằm trong bản thân sự vật, vì vậy việc nghiên
cứu một sự vật phải xem xét lý thuyết hệ thống là nền tảng của phơng pháp luận
(Phạm Chí Thành, 1996) [32].
Lý thuyết hệ thống đợc ứng dụng ngày càng rộng rÃi trong nhiều ngành
khoa học giúp cho sự hiểu biết và giải thích các mối quan hệ tơng hỗ. Cơ sở lý
thuyết hệ thống đợc L. Vonbertanlanfy đề xớng vào đầu thế kỷ này đà đợc sử
dụng nh một cơ sở giải quyết các vấn đề phức tạp và tổng hợp. Trong thời gian
gần đây, quan điểm này rất phát triển trong sinh học cũng nh trong nông nghiệp.
Hệ thống là một tổng thể cã trËt tù cđa c¸c u tè kh¸c nhau cã quan hệ và
tác động qua lại. Một hệ thống có thể đợc xác định nh một tập hợp các đối tợng
hoặc các thuộc tính, đợc liên kết bằng nhiều mối tơng tác.
Quan điểm hệ thống là sự khám phá đặc điểm của hệ thống đối tợng bằng
cách nghiên cứu bản chất và đặc tính của các mối tác động qua lại giữa các yếu
tố (Phạm Chí Thành, 1996) [32] .
Hệ thống là một tập hợp các phần tử có quan hệ với nhau tạo nên một
chỉnh thể thống nhất và vận động, nhờ đó xuất hiện những thuộc tính mới ®ỵc
5


gọi là tính trồi. Hệ thống không phải là một phép cộng đơn giản các yếu tố,
các đối tợng, chúng có tác động qua lại lẫn nhau và có mối quan hệ ràng buộc

chặt chẽ với nhau.
Ngoài những yếu tố bên trong của hệ thống, các yếu tố bên ngoài của hệ
thống không nằm trong hệ thống, nhng có tác động tơng tác với hệ thống gọi là
yếu tố môi trờng. Những yếu tố môi trờng tác động nên hệ thống là yếu tố đầu
vào, còn những yếu tố môi trờng chịu sự tác động trở lại của hệ thống là các
yếu tố đầu ra. Phép biến đổi của hệ thống là khả năng thực tế khách quan của
hệ thống trong việc biến đổi đầu vào thành đầu ra. Trạng thái của hệ thống
là khả năng kết hợp giữa các đầu ra và các đầu vào của hệ thống ở một thời
điểm nhất định. Độ đa dạng của hệ thống là mức độ khác nhau giữa các trạng
thái hoặc giữa các phần tử của hệ thống. Mục tiêu của hệ thống là trạng thái mà
hệ thống mong muốn và cần đạt tới. Hành vi của hệ thống là tập hợp các đầu
ra của hệ thống có thể đợc trên cơ sở các giải pháp thích hợp, đem lại hiệu quả
cao cho cả hệ thống. Cấu trúc của hệ thống là hình thức cấu tạo bên trong của hệ
thống, bao gồm sự sắp xếp vị trí giữa các phần tử cùng các mối quan hệ giữa
chúng (Phạm Chí Thành, 1996) [32].
1.1.2. Những yếu tố chi phối hệ thống canh tác
Lịch sử phát triển của nông nghiệp gắn liền với lịch sử hình thành, phát
triển và hoàn thiện hệ thống cây trồng cho từng vùng khí hậu nông nghiệp và thổ
nhỡng đặc thù.
Hệ thống canh tác là một trong những nội dung quan träng cđa hƯ thèng
n«ng nghiƯp. Bè trÝ hƯ thèng canh tác hợp lý có ý nghĩa làm tăng sản lợng sản
phẩm trên một đơn vị diện tích và bảo vệ độ phì nhiêu của đất.
Trong quá trình nghiên cứu hệ thống canh tác cần chú ý đến mối quan hệ
giữa cây trồng và khí hậu, đất đai, phơng thức canh tác và quần thể sinh vật. Sự
thay đổi hệ thống cây trồng trong hệ canh tác có ý nghĩa rất lớn trong việc tăng
sản lợng lơng thực, thực phẩm và nâng cao độ phì nhiêu, bảo vệ đất.
Việc phân tích hệ thống canh tác truyền thống là cơ sở cho việc chuyển
đổi cơ cấu ngành trồng trọt. Bởi vì chỉ có từ các kết quả đánh giá phân tích các
đặc điểm của cây trồng tại khu vực nghiên cứu thì mới tìm ra các hạn chế và lợi
thế so sánh để đề xuất các cơ cấu cây trồng hợp lý.

Trong các tiêu chuẩn đánh giá điều kiện tự nhiên của vùng đà có rất nhiều
tác giả đa vào các điều kiện sinh thái để phân tích và đa ra các hệ thống cây
trồng khác nhau cho các hệ thống canh t¸c.

6


Nghiên cứu các tài liệu liên quan về phơng pháp nghiên cứu xác định hệ
thống cây trồng hợp lý cho hệ thống canh tác, các tác giả đề cập đến các yếu tố
cơ bản sau đây:
- Khí hậu
- Đất đai
- Giống cây trồng
- Loại cây trồng
- Điều kiện kinh tế - xà hội
- Thị trờng
- Môi trờng và sự phát triển bền vững
1.1.2.1. Điều kiện khí hậu
Khi nghiên cứu hệ thống canh tác cần chú ý đến các yếu tố khí hậu vì cây
trồng là yếu tố quan trọng của hệ thống canh tác, mà cây trồng là sinh vật sống
phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên, đặc biệt là điều kiện khí hậu. Khí hậu cung cấp
năng lợng chủ yếu cho quá trình tạo thành chất hữu cơ, tạo năng suất cây trồng.
Cơ cấu cây trồng tận dụng cao nhất điều kiện khí hậu sẽ cho tổng sản phẩm cao
nhất và kinh tế nhất. Vì vậy có thể nói khí hậu là yếu tố quan trọng nhất trong
việc nghiên cứu hệ thống canh tác. Nghiên cứu hệ thống canh tác là phải làm sao
chống chịu đợc các hiện tợng nh bÃo, lụt, úng, hạn
1.1.2.2. Điều kiện về đất đai
Đất đai là một thành phần quan trọng trong hệ thống sinh thái nói chung
và sinh thái nông nghiệp nói riêng. Đất là nền tựa cho cây trồng tồn tại và sinh
trởng, trong đó mọi hoạt động trao đổi dinh dỡng và nớc của cây trồng phần lớn

đợc thực hiện từ đất. Mặt khác mỗi loại cây trồng đều có đặc điểm là thích hợp
với chỉ một hoặc vài loại đất có địa hình và tính chất lý hoá nhất định, trong điều
kiện khí hậu vùng không có sai khác lớn, thì tính chất đặc điểm đất đai cùng chế
độ nớc có vai trò quyết định sự sai khác của hệ thống canh tác (Hoàng Văn Đức,
1980) [12], (Đỗ Văn Hoà, 1996) [20].
Bản đồ đất Việt Nam tỷ lệ 1/ 1.000.000 đà phân biệt có 14 nhóm và 31
loại đất.
ở nớc ta trớc đây, vùng Đồng Bằng Sông Hồng vẫn thờng trồng một năm
hai vụ lúa: Vụ lúa chiêm (từ tháng 12 đến tháng 5) và vụ lúa mùa với các giống
cảm quang mạnh (từ tháng 7 đến tháng 11) ở những chân ruộng có nớc quanh
năm. Với những thành tựu của cuộc cách mạng xanh chúng ta đà thay vụ lúa
chiêm (12 - 5) bằng vụ lúa xuân (2 - 6), thay vụ lúa mùa với các giống lúa cảm
quang m¹nh (7 - 11) b»ng vơ lóa mïa sím víi các giống lúa phản ứng nhiệt độ
7


(7 - 10) và đa thêm một vụ đông với các cây nh cà chua, su hào, bắp cải, khoai
tây vào cơ cấu cây trồng (Phùng Văn Chinh, Lý Nhạc, 1987) [2].
Do đó cơ cấu cây trồng vùng Đồng Bằng Sông Hồng trong những năm 60
- 70 đà có sự chuyển đổi, góp phần làm tăng sản lợng lơng thực và sản phẩm trên
một hecta đất canh tác.
Trên đất hai vụ lúa chủ động nớc đà thay hệ thống cây trồng lúa chiêm lúa mùa bằng hệ thống cây trồng lúa xuân - lúa mùa sớm - vụ đông.
Trên đất một vụ lúa - một vụ màu đà thay hệ thống cây trồng lúa mùa mùa đông xuân (ngô, khoai lang, thuốc lá, lạc) bằng hệ thống cây trồng lúa
mùa - cây vụ đông - màu vụ xuân.
1.1.2.3. Điều kiện về giống cây trồng
Nớc ta nằm trong vùng nhiệt đới do đó cây trồng đa dạng và phong phú.
Các loại cây trồng lơng thực chủ yếu có lúa, ngô, khoai, sắnCác loại cây ăn
quả có chuối, cam, quýt, vải, nhÃn, xoài, dứaCác loại rau thực phẩm có cải bắp,
xu hào, cà chuaCác loại cây công nghiệp lâu năm có cao su, chè, cà phê, điều,
tiêu

Xu thế thâm canh, tăng vụ đòi hỏi có những giống cây trồng vừa có khả
năng chịu đợc thâm canh để cho năng suất cao, vừa có thời gian sinh trởng ngắn
để đáp ứng cho các cơ cấu gieo trồng đà đợc xác lập. Trên những vùng sinh thái
có điều kiện địa hình và đất đai khó khăn đòi hỏi các giống cây trồng phải có đặc
điểm thích ứng và chống chịu với các điều kiện đặc thù đó.
Muốn nh vậy các giống cây trồng mới phải trải qua các bớc khảo nghiệm
cơ bản theo từng thời vụ gieo trồng để kiểm tra, đánh giá về năng suất, tính
chống chịu với sâu bệnh và khu vực hoá để xác định tính thích hợp trong các
điều kiện sinh thái khác nhau trớc khi đợc công nhận để sử dụng trong công thức
luân canh cụ thể (Đào Trọng Hải, 1997) [18].
1.1.2.4. Loại cây trồng
Cây trồng là thành phần chủ yếu của hệ thống canh tác. Nghiên cứu hệ
thống canh tác là bố trí hệ thống cây trồng nh thế nào để lợi dụng tốt nhất các
điều kiện khí hậu và đất đai. Muốn bố trí hệ thống canh tác thích hợp, chúng ta
cần nắm vững yêu cầu các loại và giống cây trồng đối với các kiểu khí hậu, đất
đai và khả năng của chúng sử dụng điều kiện ấy (Nguyễn Vy, 1982) [49].
Khác với khí hậu và đất đai là các yếu tố mà con ngời ít có khả năng thay
đổi đối với cây trồng, con ngời cã thĨ lùa chän vµ di thùc chóng vµ víi trình độ
hiểu biết sinh học hiện đại, con ngời có khả năng thay đổi bản chất của chúng
theo hớng mà mình mong muốn.
1.1.2.5. Điều kiện kinh tế - xà hội

8


Nhìn chung trình độ dân trí và tập quán sản xuất của ngời dân có ảnh đến
việc xác định hệ thống canh tác trong vùng. Đồng bào dân tộc thiểu số vốn trình
độ dân trí thấp lại có tập quán canh tác lạc hậu chủ yếu là tự cấp, tự túc, họ quen
với hệ canh tác nơng rẫy, chọc lỗ, bỏ hạt, không chú trọng đến thâm canh cây
trồng và sản xuất hàng hoá. Bởi vậy, xác định hệ thống canh tác cho cộng đồng

dân c này phải tính tới khả năng thực tế và trong tơng lai phải trên khả năng của
họ một bớc, đồng thời phù hợp với tập quán sản xuất của họ
Đối với đồng bào Kinh, viƯc lùa chän hƯ thèng canh t¸c cã chiỊu híng
thn lợi và đa dạng hơn vì họ đà có trình độ canh tác cao hơn, có khả năng áp
dụng những tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất để đạt đợc hiệu quả kinh tế cao hơn.
Hệ thống canh tác đối với nhóm ngời này theo hớng thâm canh cao đòi hỏi trình
độ kỹ thuật tiên tiến và không những tự cung tự cấp đủ lơng thực, thực phẩm mà
còn sản xuất ra những nông sản có tính chất hàng hoá.
Cơ sở hạ tầng cũng liên quan đến việc xác định hệ thống canh tác. Nơi có
cơ sở hạ tầng phát triển (đờng giao thông, thuỷ lợi,) thì bố trí hệ thống canh tác
có tính đến việc thuận cho việc chăm sóc, thâm canh, thu hoạch sản phẩm và vận
chuyển đến cơ sở chế biến hoặc thị trờng tiêu thụ
1.1.2.6. Điều kiện thị trờng
Nhu cầu thị trờng và định hớng kinh tế - xà hội trong từng thời kỳ cũng
cần đợc xem xét kỹ khi xác định hệ thống canh tác. Nhu cầu thị trờng sẽ là một
trong những yếu tố quyết định cho hộ gia đình dự tính canh tác gì, số lợng bao
nhiêu, vào thời điểm nào để đem lại hiệu quả cao nhất về mặt kinh tế và yếu tố
này trở nên quan trọng khi sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp phát triển. Do
vậy, xác định hệ thống canh tác phải phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế xà hội của từng vùng. (Đào Trọng Hải, 1997) [18].
1.1.2.7. Điều kiện môi trờng
Hệ sinh thái nông nghiệp nói chung và hệ sinh thái đồng ruộng nói riêng
là một trong những hợp phần chủ yếu của toàn bộ hệ sinh thái môi trờng. Việc
xác định hệ thống canh tác mục đích không những thu đợc hiệu quả kinh tế cao
nhất, hiệu quả về mặt xà hội mà còn phải tính đến hiệu quả về mặt môi trờng.
Tác động trở lại của hệ thống canh tác đó đối với môi trờng xung quanh là
tích cực hay tiêu cực để đảm bảo cho việc phát triển bền vững. Vì vậy hệ thống
canh tác đợc xác định phải có tác động bảo vệ môi trờng ở các khía cạnh sau:
- Bảo vệ và nâng cao độ phì nhiêu của đất.
- Giảm đợc xói mòn đất nh việc sử dụng hệ thống canh tác nông lâm kết
hợp.

- Sử dụng tiết kiệm các loại phân vô cơ và thuốc trừ sâu, trừ cá d¹i…

9


ở các tỉnh vùng cao và miền núi, hệ thống nông nghiệp cổ truyền là hệ
thống mang nhiều tính chất địa phơng, bao gồm các tập quán canh tác của các
dân tộc đà sống lâu đời ở địa phơng mà điển hình nhất là hệ thống nơng rẫy du
canh đà bộc lộ nhiều mặt hạn chế nh khai thác cạn kiệt các nguồn tài nguyên sẵn
có của đất, không trả lại độ phì nhiêu cho đất, gây ảnh hởng xấu tới môi trờng
xung quanh. Mặt khác khi sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp phát triển, do
nhu cầu thị trờng ngời nông dân tập trung mọi nguồn lực để bóc lột đất, bắt đầu
sản xuất ra nhiều nhất sản phẩm nông nghiệp để đáp ứng nhu cầu thị trờng, và họ
không còn để ý đến bảo vệ môi trờng, làm cho môi trờng xung quanh ngày càng
bị suy giảm theo chiều hớng xấu đi. Do đó việc xác định hệ thống canh tác cần
quan tâm đến cả hai khía cạnh: vừa đảm bảo đợc lợi ích kinh tế của ngời sản
xuất, vừa bảo vệ đợc môi trờng cũng nh sự cân bằng của hệ sinh thái tự nhiên.
Các hệ sinh thái tự nhiên luôn có sự cân bằng về năng lợng và vật chất.
Thông thờng ngời ta phá các quần thể tự nhiên và thay thế bằng các quần thể
nhân tạo, thì sự cần bằng vốn có của nó bị phá vỡ và phải tạo lại bằng các biện
pháp kỹ thuật. Muốn đạt đợc hệ sinh thái nhân tạo có hiệu quả cao cần thiết phải
nghiên cứu quy luật của hệ sinh thái tự nhiên ở cùng điều kiện.
Mặt khác con ngời phải nghiên cứu cấu trúc của hệ sinh thái nhân tạo cho
phù hợp, trong vòng tròn đó là giải quyết mối quan hệ giữa cây trồng với hệ sinh
thái đồng ruộng, giữa hệ sinh thái đồng ruộng với môi trờng xung quanh. Hệ
sinh thái đồng ruộng là tập hợp có trật tự bên trong hay bên ngoài của các yếu tố
có liên quan đến nhau (hay tác động lẫn nhau). Thành phần của hệ sinh thái
đồng ruộng là các yếu tố, đó là phần không biến đổi của hệ sinh thái, giữa các
yếu tố có mối tác động qua lại với nhau, các mối quan hệ và tác động giữa các
yếu tố bên trong mạnh hơn so với các yếu tố bên ngoài hệ sinh thái, tạo nên trật

tự của hệ sinh thái (Đào Trọng Hải, 1997) [18].
1.1.3. Các lý luận về hệ thống canh tác
Nhiều tác giả khi nghiên cứu về hệ thống canh tác đà đa ra những ý kiến
khác nhau:
ở Mỹ một số nhà nghiên cứu cho rằng hệ thống canh tác hay hệ thống
nông trại, hệ thống nông nghiệp (Farming Systems) là sự bố trí một cách thống
nhất và ổn định các ngành nghề trong nông trại, đợc quản lý bởi hộ gia đình
trong môi trờng tự nhiên, sinh học và kinh tế - xà hội, phù hợp với mục tiêu,
mong muốn và nguồn lực của nông hộ[63]. Do đấy khái niệm hệ thống nông
trại (Farming Systems) gần giống với khái niệm hệ thống sản xuất (Production
Systems) coi nông trại nh một phối hợp của các hệ thống trồng trọt, đồng cỏ,

10


chăn nuôi, quản lý tài chính (Chombart de Lauwe, 1963. Dẫn theo Phạm Chí
Thành và Trần Văn Diễn [32].
Các tác giả ở Viện lúa Quốc tế thì cho rằng hệ thống canh tác là tập hợp
các đơn vị chức năng riêng biệt của các hoạt động trồng trọt, chăn nuôi và tiếp
thị. Các đơn vị đó có mối quan hệ qua lại với nhau vì cùng dùng chung nguồn
nhân lực từ môi trờng. Khái niệm này thờng đợc dùng với những giới hạn vợt
khỏi ranh giới cụ thể của từng nông trại, để nói lên những đơn vị nông trại có
hình thức tơng tự. (IRRI, 1980. Dẫn theo Phạm Chí Thành và công sự [34].
Cũng có tác giả cho rằng hệ thống canh tác là hình thức tập hợp của một
tổ hợp đặc thù các tài nguyên trong nông trại ở một môi trờng nhất định, là
những phơng pháp công nghệ sản xuất ra những sản phẩm nông nghiệp sơ cấp.
Định nghĩa này không bao gồm hoạt động chế biến, vốn thờng vợt quá hình thức
phổ biến của nông trại, thờng chỉ sản xuất ra các sản phẩm trồng trọt và chăn
nuôi. Nhng nó bao gồm những nguồn lực của nông trại đợc sử dụng cho việc tiếp
thị những sản phẩm đó (IRRI, 1989. Dẫn theo Phạm Chí Thành và cộng sự [34].

Theo Nguyễn Văn Luật: Hệ thống canh tác là tổ hợp cây trồng bố trí theo
không gian và thời gian với biện pháp kỹ thuật đợc thực hiện nhằm đạt năng suất
cây trồng cao và nâng cao độ phì của đất đai [24].
Các cách hiểu trên của các tác giả cho chúng ta nhận thức chung nhất về
khái niệm hệ thống canh tác, đó là một hệ thống đợc giới hạn trong một nông
trại, mà chứa đựng trong nó là các hệ phụ: trồng trọt, chăn nuôi, chế biến, tiếp
thị, quản lý kinh tế đợc bố trí một cách có hệ thống và tơng đối ổn định, phù hợp
với mục tiêu của từng nông trại.
Theo Nguyễn Duy Tính [40] cho r»ng, hƯ thèng trång trät lµ hƯ phơ trung
tâm của hệ thống Nông nghiệp, cấu trúc của nó quyết định sự hoạt động của các
hệ phụ khác nh chăn nuôi, chế biến, ngành nghề Với khái niệm về hệ thống
canh tác nh đà nêu ở phần trên thì hƯ thèng trång trät lµ bé phËn chđ u cđa hệ
thống canh tác.
Nói đến trồng trọt nghĩa là nói đến cây trồng. Cây trồng đợc trồng với các
mục đích khác và ngợc lại với mục đích khác nhau ngời ta sẽ trồng các loại cây
trồng khác nhau. Nh vậy cây trồng nông nghiệp có nhiều chức năng khác nhau:
có thể là cây cung cấp lơng thực, thực phẩm có thể chỉ làm chức năng bảo vệ cho
con ngời, gia súc hoặc cây trồng khác, hoặc cũng có thể chỉ là phục vụ giải trí,
cải tạo đất Nhìn chung cây trồng n«ng nghiƯp hiƯn nay vÉn chđ u phơc vơ
cho mơc tiêu lơng thực, thực phẩm trực tiếp phục vụ cho con ngời, cho phát triển
chăn nuôi và làm nguyên liệu cho các ngành Công nghiệp chế biến.
Nghiên cứu hệ thống canh tác nói chung và nghiên cứu hệ thống trồng trọt
nói riêng cho đến nay vẫn đợc coi là rất phức tạp vì nó liên quan và có mối quan
11


hệ chặt chẽ tới nhiều nguồn tài nguyên (đất, khí hậu) và các lĩnh vực khác nh
sâu bệnh, trình độ ngời lao động, vấn đề đầu t, tác động qua lại của hệ thống cây
trồng [58]. Tuy nhiên tất cả các vấn đề nghiên cứu trên đều nhằm mục đích sử
dụng hợp lý và có hiệu quả tài nguyên đất, tài nguyên khí hậu nhằm nâng cao

năng suất cây trồng.
Tơng tù nh vËy cịng cã nhiỊu c¸ch hiĨu kh¸c nhau vỊ hƯ thèng trång trät.
Zandstra [65]; Dufumier [16] cho r»ng: Hệ thống trồng trọt (Cropping Systems)
là hoạt động sản xuất của cây trồng trong nông trại nó bao gồm tất cả các hợp
phần cần thiết để sản xuất một tổ hợp của các cây trồng nông trại và mối quan hệ
của chúng với môi trờng. Các hợp phần này bao gồm cả các yếu tố tự nhiên, sinh
học cần thiết cũng nh kỹ thuật, lao động và các yếu tố quản lý.
Đào Thế Tuấn [43], [45] cho rằng: Cơ cấu cây trồng là thành phần các
giống và loài cây đợc bố trí theo không gian và thời gian trong một hệ sinh thái
nông nghiệp, nhằm tận dụng hợp lý nhất nguồn tự nhiên, kinh tế, xà hội của nó.
Ông cũng cho rằng bố trí cây trồng hợp lý là biện pháp kỹ thuật tổng hợp, nhằm
sắp xếp lại hoạt động của hệ sinh thái và một cơ cấu cây trồng hợp lý, khi nó lợi
dụng tốt nhất điều kiện khí hậu và né tránh thiên tai, lợi dụng đặc tính sinh học
của cây trồng, tránh sâu bệnh và cỏ dại, đảm bảo sản lợng cao và tỷ lệ hàng hoá
lớn, đảm bảo tốt chăn nuôi và ngành kinh tế hỗ trợ, sử dụng hợp lý lao động và
vật t.
Từ các khái niệm trên cho thấy: Hệ thống trồng trọt là một thể thống nhất
trong mối quan hệ tơng tác giữa các loại cây trồng đợc bố trí hợp lý trong không
gian và thời gian, tức là mối quan hệ giữa các loại cây trồng, giống cây trồng
trong từng vụ và giữa các vụ khác nhau trên một mảnh đất. Vì vậy đối tợng
nghiên cứu của hệ thống trồng trọt là:
- Công thức luân canh và hình thức đa canh
- Cơ cÊu c©y trång, gièng c©y trång trong tõng mïa vơ nhất định
- Kỹ thuật canh tác cho hệ thống trồng trọt đó
Tuy nhiên mỗi hệ thống trồng trọt lại có quan hệ hữu cơ với môi trờng bên
ngoài gồm các ®iỊu kiƯn tù nhiªn, ®iỊu kiƯn kinh tÕ - x· hội, trình độ canh tác,
quản lý của ngời lao động và nh vậy với những môi trờng khác nhau sẽ quyết
định sự tồn tại của hệ thống cây trồng khác nhau.
Theo Nguyễn Duy Tính [40]. Nghiên cứu hệ thống cây trồng trong một hệ
thống nông nghiệp nhằm bố trí lại hoặc chuyển đổi chúng để tăng hệ số sử dụng

ruộng đất, sử dụng có hiệu quả tiềm năng đất đai, và lợi thế so sánh của từng
vùng sinh thái nông nghiƯp cịng nh sư dơng cã hiƯu qu¶ tiỊn vèn, c¬ së vËt chÊt

12


kỹ thuật và lao động, nhằm thu đợc lợi nhuận cao trên một đơn vị diện tích đất
canh tác.
Nội dung chủ yếu trong nghiên cứu phát triển hệ thống cây trồng là mở
rộng diện tích canh tác trên cơ sở khai thác những vùng sinh thái không thuận lợi
bằng những hệ thống cây trồng thích ứng với các điều kiện bất thuận (hạn hán,
úng lụt). Tăng vụ ở các vùng thuận lợi và tơng đối thuận lợi nếu xét thấy hệ số
quay vòng của đất còn thấp. Thâm canh trên những vùng sinh thái có hệ số sử
dụng đất cao.
Nh vậy nghiên cứu phát triển hệ thống canh tác tức là nghiên cứu để bố trí
lại hoặc chuyển đổi hệ thống cây trồng thích ứng với các điều kiện đất ®ai, khÝ
hËu, ngn níc, lao ®éng, tiỊn vèn…Cïng víi qu¸ trình chuyển đổi hệ thống cây
trồng cần có những giải pháp kinh tế - kỹ thuật và quản lý cho toàn bộ hệ thống
phù hợp với mỗi vùng sinh thái [12], [34].
1.1.4. Hình thành nền nông nghiệp phát triển bền vững
Để duy trì sự sống con ngời hiện nay phải giải quyết những vấn đề hết sức
phức tạp và khó khăn đó là: bùng nổ dân số, ô nhiễm môi trờng, mất cân bằng
sinh thái. Nhiều nớc trên thế giới đà xây dựng và phát triển nền nông nghiệp theo
quan điểm nông nghiệp bền vững (Permalculture hoặc Sustainable Agriculture).
Các nhà khoa học đà nêu lên những nguyên tắc chính trong việc xây dựng
hệ thống nông nghiệp bền vững:
- Mỗi yếu tố thực hiện nhiều chức năng
- Mỗi chức năng quan trọng đợc nhiều yếu tố hỗ trợ
- u tiên sử dụng tài nguyên sinh học
- Tái chu kỳ năng lợng tại chỗ

- Đa canh và đa dạng hoá các loài cây có lợi để tăng sản lợng và tăng mức
độ tơng tác trong hệ thống
- Tìm cách sử dụng không gian và mô hình tự nhiên có lợi nhất
Năm 1993 uỷ ban thế giới về môi trờng và phát triển (WCED) của Liên
hợp quốc đà đa ra khái niệm của sự bền vững là sự đáp ứng đợc các nhu cầu hiện
nay của con ngời nhng không làm tổn hại đến nhu cầu riêng của thế hệ tơng lai.
Nhóm cố vấn nghiên cứu nông nghiệp Quốc tế (CGIAR - 1989) định
nghĩa nông nghiệp bền vững là quản lý thành công các nguồn tài nguyên đối với
nông nghiệp để đảm bảo thoả mÃn các nhu cầu thay đổi của con ngời nhng vẫn
duy trì là tăng cờng chất lợng của môi trờng (Lê Đình Thắng, 1993) [37].
Mục đích của các hệ thống canh tác là phải đạt đợc các yêu cầu về hiệu
quả kinh tế, sự ổn định về xà hội và sự bền vững về mặt môi trờng. Hiệu quả
13


kinh tế cao bao giờ cũng là động lực phát triển sản xuất, nhất là trong điều kiện
nền kinh tế thị trờng nh ở nớc ta hiện nay, đây là một trong những cơ chế tự điều
khiển các hoạt động sản xuất. Một loại cây trồng hoặc vật nuôi có hiệu quả kinh
tế cao, đợc thị trờng đòi hỏi sẽ đợc phát triển rộng rÃi, không cần có các khuyến
cáo hoặc các chỉ thị phải phát triển nh trớc đây. Tuy nhiên nếu chỉ theo hiệu quả
kinh tế cao nhất mà không chú ý đến các điều kiện rằng buộc khác nh điều kiện
tự nhiên và đất đai, tình hình nhân lực và vốn đầu t, các tiến bộ khoa học và công
nghệ sản xuất thì sẽ bị thất bại hoặc gây hậu quả xấu cho môi trờng thì cũng sẽ
bị loại trừ . Do đó hiệu quả kinh tế của các hệ thống nông nghiệp nói chung, hệ
thống canh tác nói riêng phải đợc đặt trong các điều kiện kinh tÕ - x· héi cơ thĨ.
HiƯu qu¶ kinh tÕ phải gắn liền với hiệu quả về xà hội và môi trờng thì sản xuất
mới bền vững, đó mới là nền nông nghiệp bền vững.
Phát triển kinh tế và sản xuất nông nghiệp bền vững có quan hệ chặt chẽ,
sản xuất nông nghiệp bền vững đợc coi nh một phần của quá trình phát triển, hỗ
trợ và tăng cờng chất lợng đời sống của nhân dân và liên quan đến toàn bộ xÃ

hội.
Nh vậy nông nghiệp bền vững là tiền đề cho sự định c. Nếu không thiết
lập đợc hệ thống sản xuất nông nghiệp ổn định và vững vàng, tồn tại lâu dài, đáp
ứng đợc các nhu cầu của nông dân về thức ăn, ở, mặc, vật liệu xây dựng và hệ
sinh thái tốt thì ngời nông dân phải bỏ đi nơi khác. Điều này có ý nghĩa đặc biệt
trong việc nghiên cứu xây dựng các mô hình sản xuất nông nghiệp ở vùng cao và
miền núi để có thể ổn định đợc đời sống cho đồng bào dân tộc và xoá bỏ tình
trạng du canh, du c. Một trong những giải pháp cho sự phát triển bền vững là cần
quan tâm đến việc quản lý và sử dụng đất nông nghiệp lâu bền. Việc quản lý sử
dụng đất nông nghiệp lâu bền bao hàm các quy trình công nghệ, chính sách và
các hoạt động nhằm hội nhập những nguyên lý kinh tế, xà hội với các yêu cầu
bảo vệ môi trờng.
1.2. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nớc có liên quan đến đề tài
1.2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Trên thế giới các nhà khoa học nông nghiệp đà và đang tập trung mọi nỗ
lực nghiên cứu cải tiến hoàn thiện hệ thống canh tác bằng cách đa thêm một số
loại cây trồng và hệ thống canh tác nhằm tăng sản lợng lơng thực, thực phẩm
trên một đơn vị diện tích trong một năm.
Trong lịch sử của chủ nghĩa t bản, Anh là nớc tiến hành công nghiệp hoá
sớm nhất. Khi đó ngời ta suy nghĩ một cách giản đơn rằng trong nền kinh tế
hàng hoá, nông nghiệp cũng phải xây dựng nh công nghiệp theo hớng tập trung
quy mô lớn mà quên mất một đặc điểm cơ bản của nông nghiệp khác với công
14


nghiệp là nó tác động vào sinh vật (cây trồng, vật nuôi) và điều đó không phù
hợp với hình thức sản xuất tập trung quy mô lớn.
Chính C. Mác lúc đầu cũng có những suy nghĩ sai lầm nh vậy, nhng về
cuối đời cũng chính C. Mác đà phải nhận định lại: Ngay ở nớc Anh với nền Công
nghiệp phát triển, hình thức sản xuất Nông nghiệp có lợi nhất không phải là các

xí nghiệp nông nghiệp với quy mô lớn mà là các trang trại gia đình không dùng
lao động làm thuê.
Theo nghiên cứu của FAO, [58] cho biết quá trình biến đổi của các hệ
thống nông nghiệp đợc bắt đầu từ khi con ngời biết khai thác thiên nhiên bằng
các biện pháp canh tác và đợc thực hiện vào khoảng thời đại đồ đá mới. Từ đó
các ngành trồng trọt, chăn nuôi đà phát triển lan ra khắp các lục địa nhằm giải
quyết nhu cầu sống cơ bản của con ngời. Hệ thống nông nghiệp đốt rẫy và du
mục ở vùng tiểu á có từ cách đây 7000 năm, ở lục địa Trung Hoa và Trung Mỹ
từ 3000 - 4000 năm, sau đó lan ra Địa Trung Hải và các lục địa khác (Dufumier
[16], Đào Thế Tuấn [45]. Với hình thức này con ngời trồng trọt hoa màu, ngũ
cốc trong 2 - 3 năm, sau đó bỏ hoá cho rừng tái sinh từ 10 - 30 năm, đất đợc tái
tạo lại độ phì, với phơng thức canh tác này đủ nuôi sống 20 - 30 ngời/ km2
Hệ thống nông nghiệp luân canh có cày xới bắt đầu từ khi xà hội có khả
năng sản xuất ra các phơng tiện làm đất, phá vỡ các thảm cỏ, đào bới gốc rễ cây
rừng (Thời kỳ đồ sắt). Thời gian này vòng canh tác ngắn: 2 - 4 năm trồng hoa
màu lơng thực, sau đó bỏ hoá để cỏ mọc 10 - 15 năm (Dufumier [16], Shaner và
cộng sự [63].
Hệ thống nông nghiệp dùng sức kéo, kết hợp giữa trồng trọt và chăn nuôi,
trong đó chăn nuôi giữ vai trò cung cấp thực phẩm và sức kéo đà làm tăng năng
suất lao động lên gấp 2 - 3 lần. Với hệ thống canh tác này đất đợc khai thác và
phục hồi độ màu mỡ trở lại nhờ đợc bón phân chuồng nên năng suất cây trồng
đạt khá cao (Hải Đạt, [7].
Đan Mạch thực hiện hệ thống 6 khu: củ quả - ngũ cốc xuân - cây phân
xanh - ngũ cốc đông - khoai tây - để nghỉ mùa đông (Bùi Huy Đáp, 1996), [6].
Từ những năm 60, các nhà sinh lý thực vật đà phát hiện rằng: trong tự
nhiên, không có một cây nào có khả năng sử dụng toàn thể tài nguyên thiên
nhiên ở một vùng, đặc biệt ở vùng nhiệt đới. Do vậy hiện nay trên đất đang sản
xuất nông nghiệp, ánh sáng, đất đai, nguồn nớc còn cha đợc sử dụng đúng mức,
còn nhiều khả năng tăng vụ, phát triển sản xuất.
ở Châu á vào cuối thập kỷ 60, các nhà nghiên cứu Viện Lúa Quốc tế

(IRRI) đà nhận thức rằng giống lúa mới thấp cây, đứng lá tiềm năng sản lợng cao
chỉ có thể giải quyết vấn đề lơng thực trong một phạm vi hạn chế. Do đó từ
những năm đầu của thập kỷ 70 các nhà khoa học của các nớc châu á đà đi sâu
15


nghiên cứu toàn bộ hệ thống cây trồng trên đất lúa theo hớng lấy lúa làm nền,
tăng cờng phát triển các loại cây hoa màu trồng cạn. Các chế độ trồng xen, trồng
gối, trồng nối tiếp ngày càng đợc chú ý nghiên cứu. Theo hớng này ở châu á đÃ
hình thành Mạng lới hệ thống canh tác châu á, một tổ chức hợp tác nghiên
cứu giữa Viện Nghiên Cứu Lúa Quốc Tế (IRRI) và nhiều quốc gia trong vùng.
Nhìn chung các nghiên cứu hệ thống cây trồng mới rất đa dạng phong phú và tập
trung giải quyết các vấn đề sau:
- Tăng vụ ngắn ngày để thu hoạch trớc mùa ma lũ.
- Thử nghiệm tăng vụ màu bằng các cây trồng mới, xen canh, luân canh
tăng vụ.
- Xác định hiệu quả kinh tế của các công thức luân canh, tìm và khắc phục
các yếu tố hạn chế để phát triển công thức đạt hiệu quả cao.
Chơng trình nghiên cứu nông nghiệp phối hợp toàn ấn Độ 1960 - 1972 lấy
hệ thâm canh tăng vụ chu kỳ một năm làm hớng chiến lợc phát triển sản xuất
nông nghiệp đà kết luận: Hệ canh tác dành u tiên cho cây lơng thực, chu kỳ một
năm hai vụ ngũ cốc (hai vụ lúa nớc, hoặc một vụ lúa và một vụ lúa mì), đa thêm
vào một vụ đậu đỗ và đáp ứng đợc 3 mục tiêu: khai thác tối u tiềm năng của đất
đai, ảnh hởng tích cực đến độ phì nhiêu của đất trồng và đảm bảo lợi ích của ngời nông dân (Hoàng Văn Đức, 1992) [12].
ở Đài Loan để nâng cao hiệu quả sử dụng đất bằng bố trí hệ thống canh
tác hợp lý, ngời ta đà nghiên cứu đa ra các giống cây trồng hoa màu chịu rợp
trồng xen trong mía (mía là cây công nghiệp chiếm diện tích lớn nhất ở Đài
Loan), nghiên cứu cây hoa màu chịu hạn trồng mùa khô để đa vào trồng sau khi
thu hoạch lúa mùa (IRRI, 1982) [61].
Kết quả nghiên cứu của các nhà Lâm học trên Thế giới khẳng định ở

những vùng đất nông nghiệp nếu có xây dựng các đai rừng chắn gió thì tốc độ
gió giảm từ 30 - 50% trong giới hạn 20H và độ ẩm không khí tăng lên từ 7 15%, do đấy làm tăng độ ẩm đất, điều hoà đợc chế độ nhiệt theo hớng có lợi cho
cây trồng (Phạm Chí Thành, [33]).
Nhiều chuyên gia phát triển nông thôn chủ trơng xây dựng hệ thống Nông
Lâm Ng kết hợp ở vùng trũng nhằm nâng cao hiệu quả của hệ thống canh tác và
tính ổn định của chúng. Rất nhiều nông dân Philippin đà trồng Chuối tiêu trên bờ
ruộng Lúa - Cá và Chuối đà cho họ một nguồn thu lớn. Ngoài Chuối một số cây
ăn quả bản địa cũng đợc khuyến khích phát triển nh Ch«m Ch«m, Landzon,
Soursop, MÝt…(International Institute of Rural Reconstruction), [62].
ë Trung Quốc, từ những năm 1980, ở khu vực phía Nam đà thí nghiệm
xây dựng nền nông nghiệp sinh thái. ở Xiaoliang, một vùng đồi của Quảng

16


Đông bị sa mạc hoá, xói mòn mạnh, nhiệt độ mặt đất cao, trớc đây ngời ta trồng
bạch đàn nhng đều không thành công. Cuối cùng đà chọn hệ thống canh tác theo
hớng đa dạng hoá hệ thống cây trồng và trồng nhiều tầng. Theo Triệu Quốc Kỳ
(1994) [22] trên ®Êt lóa 2 vơ thc vïng nói phÝa Nam thêng đợc canh tác 2 hoặc
3 vụ với hệ thống cây trồng là: Lúa - Lúa mì - khoai tây (hoặc lạc - đậu tơng lúa mì). Trên đất lúa một vụ thuộc vùng cao nguyên (gồm tỉnh Vân Nam, Quế
Châu, Tứ Xuyên, Tây Tạng), thờng đợc canh tác với hệ thống cây trồng là lúa
luân canh với cây trồng cạn (Triệu Quốc Kỳ, 1994) [22].
ở Thái Lan trong điều kiện thiếu nớc, một hệ thống canh tác lúa xuân lúa mùa ít mang lại hiệu quả và chi phí tiền nớc quá lớn, cộng thêm sự độc canh
cây lúa làm ¶nh hëng xÊu ®Õn chÕ ®é ®Êt. B»ng viƯc chun dịch cây lúa xuân
sang cây đậu tơng giá trị tổng sản phẩm tăng lên đáng kể, diện tích tăng gấp rỡi,
hiệu quả kinh tế tăng gấp đôi, độ phì đất đợc nâng lên rõ rệt. ĐÃ mang lại một
thành công lớn trong chuyển dịch cơ cấu cây trồng ở Thái Lan (Tejwani, V.L Chun K. Lai Indonesia 1992) [64]
VÝ dô: Tại Chiềng Mai (Bắc Thái Lan) trong những năm 1971 - 1976 đÃ
thí nghiệm 6 công thức hệ thống cây trồng trong canh tác nh sau:
- Lúa + lúa mì + ngô

- Lúa + cà chua + lạc
- Lúa + đậu + đậu tơng
- Lúa + khoai lang + bắp cải
- Lúa + cà chua + đỗ xanh
- Lúa + lạc + bắp cải (hoặc ngô non)
Kết quả điều tra ë ChiỊng Mai cho thÊy hƯ canh t¸c 2 vơ lúa + 1 vụ màu
hoặc lúa cạn là phổ biến nhất. Cây màu thờng là đậu tơng, thuốc lá, tỏi, hành,
đậu đỗ, rau xanh. Tỷ lệ trồng 3 vụ trong năm (lúa - màu - lúa cạn) còn ít.
ở Indonexia đà nghiên cứu mối quan hệ giữa khí hậu ở các vùng sinh thái
khác nhau và hệ canh tác hiện cã cho thÊy nh sau:
- T¹i tØnh Bago cã mét mùa ớt liên tục, một khoảng đứt quÃng ngắn thờng
ở giữa tháng 6 và tháng 8, lúa thu hoạch suốt năm, đỉnh cao thu hoạch tháng 5, 6
trong mùa ớt, lạc thu hoạch suốt năm, một đỉnh nhỏ ở tháng 6.
- Tại Banuma có mùa khô ngắn, mùa ớt dài. Hai đỉnh thu hoạch lúa
khoảng (tháng 9, 10) chứng tỏ đa số nông dân trồng hai vụ lúa trên một diện
tích. Ngô thu hoạch vào đỉnh mùa ma, đậu tơng thu hoạch vào cuối mùa khô
(tháng 10) hoặc vào cuối mùa ma (tháng 5), lạc thu hoạch quanh năm (Nguyễn
Điền - Trần Đức, 1993), [10]; (Bùi Thị Xô, 1994) [50].
17


ở những khu vực đất bằng, nông dân châu á đà sử dụng nhiều hệ canh
tác. Những hệ thống này gồm các hệ thống cây trồng khác nhau (lúa, rau, khoai
lang, ngô, đậu) nói chung hệ thống cây trồng luân canh giữa chế độ cây trồng
nớc và chế độ cây trồng cạn, giữa cây lơng thực và cây họ đậu, hệ thống luân
canh giữa không gian và thời gian đà đợc nhiều nhà nghiên cứu đề cập và kết
luận có hiệu quả (Hoàng Văn Đức, 1992) [13]; (Triệu Quốc Kỳ, 1994) [22].
Vấn đề hiệu quả kinh tế của các công thức luân canh trên đất lúa cũng đợc
nhiều nhà khoa học quan tâm, đặc biệt ở ấn Độ và Pakistang. Nghiên cứu về vấn
đề này các tác giả đà đề cập đến cơ cấu luân canh cây trồng hợp lý, phụ thuộc

vào điều kiện canh tác và giá cả nông sản hàng hoá trên thị trờng. Tại vùng
Dandkadi, năm 1981 có 13 công thức luân canh khác nhau đợc áp dụng, năm
1982 có 18 công thức luân canh, năm 1983 có 16 công thức luân canh, trong đó
phổ biến nhất là cơ cấu 2 vụ. Tại vùng Mirrapur và Tangril có các công thức luân
canh đáng chú ý là lúa - lúa hè, đảm bảo nền cho việc tăng thêm vụ đông cho
một đơn vị diện tích với các cây trồng là lúa mì, cải canh, khoai tây, ớt, kêCông
thức luân canh này đợc nông dân áp dụng rộng rÃi vì nó đảm bảo lơng thực
quanh năm và có hiệu quả kinh tế cao (Bùi Thị Xô, 1994) [50]
Chơng trình SALT của Philippines đà khảo nghiệm có kết quả với hệ
thống cây trồng và biện pháp canh tác nh sau: các cây hằng năm và cây lâu năm
đợc trồng thành băng xen kẽ rộng từ 4 - 5m, các loại cây họ đậu cố định đạm đợc
trồng thành 2 hàng dầy theo đờng đồng mức để tạo thành hàng rào. Khi những
cây hàng rào cao 1,5 - 2m ngời ta đốn, để lại 40cm gốc, cành lá dùng để rải lên
băng tạo lớp che phủ và giữ ẩm, chống xói mòn. Cây lâu năm thờng là cây cà
phê, cao su, camĐiểm trình diễn từ năm 1978 trên đất có độ dốc 20 0, thực tế
thu nhập bình quân hàng năm trên 1ha áp dụng SALT cao gấp 3 lần so với hệ
thống độc canh cổ truyền. Mô hình này cũng đợc B. T. Kang (IITA) mang áp
dụng ở Nigiêria gọi là canh tác theo băng (Alley Cropping) (Hoàng Văn Đức,
1992) [13]
Nh vậy, ở nớc ngoài, các nghiên cứu về hệ thống canh tác, hệ thống cây
trồng, các biện pháp trồng xen, trồng gối, trồng nối tiếp, thâm canh, tăng vụ đợc
tiến hành từ rất sớm. Việc đa các cây ăn quả, cây họ đậu vào hệ thống canh tác
đợc đánh giá rất cao trong việc cải tạo, bồi dỡng đất đai, tăng tính ổn định của hệ
thống và góp phần làm tăng hiệu quả, tăng năng suất và sản lợng của toàn bộ hệ
thống canh tác. Những nghiên cứu này đà đợc ứng dụng có hiệu quả trong sản
xuất nông nghiệp và góp phần phát triển khoa học hệ thống nông nghiệp, góp
phần tăng năng suất cây trồng và nâng cao đời sống của nhân dân lao động.

18



1.2.2. Tình hình nghiên cứu trong nớc
Tình hình nghiên cứu hệ thống nông nghiệp nói chung và hệ thống canh
tác nói riêng ở nớc ta đà đợc bắt đầu từ rất lâu.
Trong bài Nghiên cứu hệ thống canh tác ở miền Bắc Việt Nam Phạm
Chí Thành đà nêu chủ trơng xây dựng chế độ canh tác theo các biến sinh thái với
hệ thống phân cấp của Valenza (1982) thay thế cho cách làm hiện tại là xây dựng
chế độ canh tác cho từng thửa ruộng cụ thể và chế độ canh tác cho từng hợp tác
xÃ.
Chia chế độ canh tác ra thành phần cứng và phần mềm. Phần cứng gồm
các biện pháp bắt buộc phải làm vì nó phục vụ cho những cái chung của cả hệ
thống. Còn phần mỊm gåm c¸c biƯn ph¸p kü tht cã thĨ thay ®ỉi theo thÞ trêng,
theo ®iỊu kiƯn kinh tÕ, phong tơc và kỹ năng lao động của từng nông dân.
Cuộc cách mạng đầu tiên trong nông nghiệp diễn ra ở Tây âu vào cuối thế
kỷ 18 đầu thế kỷ 19 đà làm thay đổi chế độ độc canh bằng chế độ luân canh với
4 khu luân chuyển trong 4 năm giữa ngũ cốc và cỏ 3 lá. Trớc đó nông dân vùng
này độc canh lúa mỳ 2 năm rồi bỏ hoá 1 năm. Cuộc cách mạng về hệ thống canh
tác đà làm thay đổi cơ cấu cây trồng, đa cây thức ăn gia súc và cây họ đậu vào
công thức luân canh, nhờ đó năng suất cây trồng tăng lên đáng kể, đất đai đợc
bồi dỡng cải tạo (Phùng Đăng Chinh và cộng sự, [2]; (Phạm Bình Quyền và cộng
sự, [29]. Giai đoạn của Nông nghiệp gắn với công nghiệp, cơ giới hoá, hoá học
hoá, thuỷ lợi hoáđà tạo ra nhiều nông sản hàng hoá và cũng xuất hiện những
mặt trái của nền Nông nghiệp theo hớng Công nghiệp. Giai đoạn 3 của cuộc
cách mạng trong Nông nghiệp theo hớng trí tuệ, con ngời sử dụng hợp lý nguồn
tài nguyên, vừa đạt năng suất cao vừa bảo vệ đợc môi trờng (Cao Liêm - Trần
Đức Viên, [23].
Khi tiến hành nghiên cứu ở Sóc Sơn, Phạm Chí Thành [31] đà đa vào dạng
địa hình, chế độ ma, hiện trạng thuỷ lợi để chia ra các nhóm biến sinh thái. Sau
đó ở mỗi nhóm biến sinh thái, dựa vào tiêu chuẩn phân vị loại đất (địa hình, độ
dầy tầng đất, thành phần cơ giới, pH, lân dễ tiêu, mùn) để chia thành các biến

sinh thái. Trên từng biến sinh thái tiến hành nghiên cứu hệ thống canh tác truyền
thống, từ đó rút ra các mặt hạn chế và đề xuất hệ thống canh t¸c míi cho tõng
biÕn sinh th¸i cã kÌm theo c¸c biện pháp kỹ thuật thích ứng.
Vào những năm đầu của thập kỷ 60, Đào Thế Tuấn cùng với các nhà
nghiên cøu cđa ViƯn Khoa häc Kü tht N«ng nghiƯp ViƯt Nam trên cơ sở vận
dụng những căn cứ cơ sở khoa học xác định hệ thống cây trồng hợp lý và theo
yêu cầu của thực tế sản xuất đòi hỏi, đà tiến hành nhiều đề tài nghiên cứu về cơ
cấu cây trồng ở vùng Châu thổ Sông Hồng và đà đa ra những nhận định về những
yêu cầu cần đạt đợc của một cơ cấu cây trồng nh sau:
19


- Lợi dụng tốt nhất các điều kiện khí hậu và tránh đợc những tác hại của
thiên tai.
- Lợi dụng tốt nhất các điều kiện đất đai, bảo vệ và bồi dỡng độ màu mỡ của
đất.
- Lợi dụng tốt nhất các đặc tính sinh học của cây trồng (khả năng cho năng
suất cao, phẩm chất tốt, ngắn ngày, tính thích ứng rộng, tính chống chịu
bất lợi của điều kiện ngoại cảnh).
- Tránh đợc tác hại của sâu bệnh, cỏ dại víi viƯc sư dơng Ýt nhÊt c¸c biƯn
ph¸p ho¸ häc.
- Đảm bảo tỷ lệ sản phẩm hàng hoá cao, đảm bảo hiệu quả kinh tế cao.
- Đảm bảo hỗ trợ cho ngành sản xuất chính và phát triển chăn nuôi, tận
dụng các nguồn lợi tự nhiên (Đào Thế Tuấn, 1987) [47].
Các tác giả cũng đà đa ra nhận xét: Trên đất lúa 2 vụ, đa cơ cấu vụ lúa
xuân với các giống lúa ngắn ngày đà để lại một khoảng thời gian trống giữa hai
vụ lúa (từ sau thu hoạch lúa mùa sớm và lúa mùa chính vụ đến khi cấy lúa xuân)
tạo điều kiện để xây dựng một hệ thống cây trồng có hiệu quả trên đất 2 vụ lúa
Từ những kết quả nghiên cứu của mình, các tác giả đà đa ra một số hệ
thống cây trồng cụ thể cho vùng Đồng Bằng Sông Hồng nh sau:

- Trên ®Êt 2 vơ lóa chđ ®éng níc tíi:
+ Lóa Mïa - màu vụ Đông (khoai tây, khoai lang, ngô) - lúa Xuân.
+ Lúa Mùa - rau vụ Đông (cà chua, xu hào, bắp cải) - lúa Xuân.
- Trên đất 2 vơ lóa thÊp ngËp níc:
+ Lóa Mïa - bÌo d©u - lóa Xu©n
+ Lóa Mïa - bÌo d©u - lóa Xuân - điền thanh (Đào Thế Tuấn, 1989) [44].
Chế độ canh tác trên đất 2 vụ lúa với các hệ thống trồng trọt nh trên từng
bớc đợc áp dụng rộng rÃi ở châu thổ sông Hồng và các vùng khác trong cả nớc
đà tạo nên những chuyển biến khá rõ nét về sản xuất lơng thực, thực phẩm ở từng
vùng trong cả nớc.
Nghiên cứu về hệ thống cây trồng trên đất canh tác chủ yếu nhờ nớc trời,
Bùi Huy Đáp đà có nhận xét: hai vụ màu Đông và Xuân, lúa mùa tiếp chân, sử
dụng những loại màu Xuân có thời gian sinh trởng dài, ngắn khác nhau, tuỳ theo
sau mµu sÏ trång lóa Mïa sím hay lóa Mïa chÝnh vụ. Đây là chế độ canh tác
khai thác đợc khá triệt để tiềm lực của các loại đất cao cấy một vụ lúa mùa nhờ
nớc trời. Trên chân đất chuyên trồng màu ở các vùng đất bÃi ven sông, hệ thống
cây trồng có hiệu quả ngay sau nớc rút, trồng ngô thu đông (hoặc rau, đậu sớm),

20


sau đó trồng ngô xuân (hoặc đậu tơng, đậu đỗ khác vụ xuân) (Bùi Huy Đáp,
1996) [6].
Một số tác giả cho rằng, ở nớc ta có 3 loại hình luân canh tăng vụ:
- Luân canh giữa cây trồng cạn với nhau.
- Luân canh giữa cây trồng cạn với cây trồng nớc.
- Luân canh giữa cây trồng nớc với nhau.
ở chân đất quanh năm không ngập nớc, thành phần cơ giới nhẹ, dễ thoát
nớc thờng luân canh cây họ đậu (đậu tơng, lạc, đậu cô ve, đậu xanh). Ngoài
luân canh tăng vụ cây lơng thực, cây công nghiệp, cây thức ăn gia súc còn có

những hệ thống cây trồng luân canh giữa cây dợc liệu (bạc hà, địa hoàng, bạch
chỉ) với cây lơng thực hoặc cây công nghiệp ngắn ngày (Phùng Văn Chinh, Lý
Nhạc, 1987) [2]
Hệ thống canh tác là tổ hợp cây trồng bố trí theo không gian và thời gian
với hệ thống biện pháp kỹ thuật đợc thực hiện nhằm đạt năng suất cây trồng cao
và nâng cao độ phì của đất đai, Nguyễn Duy Tính (1995), [40]
Phạm Chí Thành (1993), [32] cho rằng để xây dựng hệ thống canh tác
phải đợc làm từng biến sinh thái của từng vùng và hệ thống canh tác phải đợc
xây dựng theo quan điểm lịch sử, theo một trật tự từ thấp lên cao, vì vậy nó là
yếu tố động theo thời gian và không gian.
Phạm Chí Thành (1994), [34] khi nghiên cứu chuyển đổi hệ thống canh
tác vùng kinh tế sinh thái và du lịch ven đờng 21 tỉnh Hà Tây cho rằng: nớc ta
cũng nh nhiều nớc đang phát triển khác đà áp dụng một chiến lợc phát triển chủ
yếu dựa trên thành tựu của cuộc cách mạng xanh, nhằm vào một số sản phẩm
nông nghiệp quan trọng nhất nh lúa nớc, lúa mỳ, ngôbằng cách tập trung đầu t
vào một số nhân tố phát triển quan trọng nhất và cũng dễ cải tiến nh năng suất
cao, thuỷ lợi, phân bón hoá học và thuốc phòng trừ dịch hại. Cách phát triển này
chỉ thực hiện đợc ở một số vùng có điều kiện sinh thái thuận lợi, còn ở các vùng
đất có vấn đề nh hạn, úng, mặn, phèn, cát, đất trọccác tiến bộ kỹ thuật này tỏ
ra cha thích ứng. Ngay với các vùng thuận lợi, năng suất đà gần đạt tới giới hạn
cao, giá cả vật t nông nghiệp tăng lên làm cho hiệu quả đầu t giảm, giảm tốc độ
phát triển.
Muốn đẩy nhanh sự phát triển nông nghiệp trong thời gian tới, phải tìm
một số chiến lợc phát triển khác thích ứng với các điều kiện sinh thái khó khăn,
không đòi hỏi đầu t lớn, có hiệu quả kinh tế cao.
Mâu thuẫn chủ yếu của sự phát triển về kinh tế nớc ta là cần có một tốc độ
phát triển nhanh nhng khả năng đầu t lại hạn chế. Giải quyết vấn đề này không

21



chỉ trông mong vào đầu t nớc ngoài mà phải phát hiện và huy động chủ yếu các
nguồn lực bên trong hệ thống. Các nguồn lực đó là:
- Đất đai: chủ yếu không phải là phát triển theo chiều rộng (mở thêm diện
tích) mà theo chiều sâu (thâm canh, tăng vụ).
- Lao động: là nguồn lợi lớn nhất (theo kinh nghiệm của các nớc Đông á)
mà hiện ta đang coi là khó khăn.
- Nguồn vốn của dân, hiện nay ta vẫn cha huy động đợc nhiều do thiếu
chính sách vốn, nhiều lao động, tiết kiệm năng lợng.
Trần An Phong (1995), [26] khi nghiên cứu cơ sở khoa học của cải thiện
hệ thống cây trồng trên quan điểm sinh thái và phát triển lâu bền, cho rằng: các
hệ thống sử dụng đất và hệ thống cây trồng đợc chọn phải phù hợp với điều kiện
sinh thái, vừa có giá trị sản lợng, thu nhập cao, nâng cao độ phì nhiêu của đất
vừa tạo nhiều việc làm cho các nông hộ theo hớng đa dạng hoá cho các cây
trồng.
Trần An Phong (1993), [27] trong nghiên cứu cơ sở khoa học sử dụng đất
Đồng Bằng Sông Cửu Long đà nhấn mạnh khả năng thâm canh tăng vụ và đa
dạng hoá cây trồng ở vïng phï sa chđ ®éng níc, ®ång thêi chó ý tăng vụ và đổi
mới giống ở vùng đất phèn mặt và sản xuất chủ yếu dựa vào nớc ma.
Lê Thanh Hà (1993), [17] nghiên cứu hệ thống canh tác trên đất dốc Văn
Yên - Yên Bái cho thấy các hệ thống canh tác có hiệu quả trên đất dốc Văn Yên
là: quế - rừng; sắn - mía - rừng; cây ăn quả - mơ; gừng - rừng.
Phạm Chí Thành - Trần Đức Viên (1994), [35] nghiên cứu chuyển đổi hệ
thống canh tác vùng trũng Đồng Bằng Sông Hồng cho thấy những hệ thống canh
tác mới (cây ăn quả - nuôi cá - cấy lúa), (cá - vịt) tăng thu nhập thn tõ 2 - 5 lÇn
so víi hƯ thèng canh tác cũ.
Phạm Chí Thành (1994), [34] nghiên cứu sử dụng vùng đất đồi gò tỉnh Hà
Tây cho thấy chúng ta có đủ điều kiện để kiến tạo những hệ thống canh tác có
hiệu quả kinh tế, sinh thái cao thay thế diện tích đất trống, đồi núi trọc.
Võ Tòng Xuân (1993), [52] nghiên cứu mô hình canh tác lúa - tôm ở xÃ

Đại Thành, huyện Phụng Hiệp - Cần Thơ cho thấy tổng lợi nhuận tăng đáng kể,
tác giả cũng chỉ ra mật độ nuôi thích hợp là 1,4 con/m2.
Mai Văn Quyền (1992), [30] trong tài liệu đánh giá hiện trạng hệ thống
trồng trọt trên vùng đất xám huyện Đức Hoµ - Long An chØ ra hƯ thèng trång trät
tèi u và mối quan hệ tơng tác giữa trồng trọt và chăn nuôi ở từng môi trờng sinh
thái cụ thể.

22


Tào Quốc Tuấn (1994), [48] nghiên cứu xác định cơ cấu cây trồng hợp lý
vùng phù sa ngọt đồng bằng Sông Cửu Long, nêu lên 28 mô hình cho vùng, định
hớng phát triển và các giải pháp tổ chức trong đó có giải pháp về chính sách.
Để giải quyết tình trạng phá rừng và thoái hoá đất do canh tác nơng rẫy, ở
nhiều nớc đà sử dụng hệ canh tác Nông Lâm kết hợp nhằm phối hợp hai mục
đích mẫu thn víi nhau trong mét hƯ sinh th¸i (Roche, 1974). Nội dung của phơng pháp là giao đất cho nông dân trồng rừng và kết hợp trồng cây lơng thực
giữa các hàng cây còn non. Cây lơng thực đợc trồng là Ngô, Khoai, Lạc, Đậu
Lúc rừng đà khép tán, giao lại cho cơ quan lâm nghiệp và lĩnh tiền thởng. Phơng
pháp này áp dụng ở Nigeria có kết quả tốt. ở các vùng rừng nhiệt đới, ngời ta có
thể dùng các cây lâu năm nh Cao su, Cà phê, Dừa,thay cho các cây trồng lơng
thực hàng năm.
Đào Thế Tuấn, [45] nghiên cứu các cây lâm nghiệp lâu năm trên đất dốc
đà nhận xét: hệ sinh thái cây lâu năm có chu trình dinh dỡng gần giống với hệ
sinh thái rừng về mặt bảo vệ độ màu mỡ của đất và hút các chất dinh dỡng ở tầng
sâu. Mỗi năm từ hệ sinh thái cây lâu năm bị lấy đi một lợng chất dinh dỡng nhng
chúng đợc hoàn trả bằng một lợng phân bón mà con ngời đa vào. Hệ sinh thái
cây lâu năm có nhợc điểm đơn điệu về thành phần loài, có thể dẫn tới giảm tính
chống chịu với sâu bệnh và các tác nhân phá hoại, sẽ đợc con ngời hỗ trợ bằng
việc phòng trừ sâu bệnh và một loạt các biện pháp bổ xung khác. Để phát triển
hệ sinh thái này phải phối hợp cây trồng và cây rừng tốt nhất, kết hợp cả trồng

trọt và chăn nuôi.
Đào Châu Thu, [38]; Bùi Quang Toản, [42] khi nghiên cứu về đất dốc ở
Tây Bắc đà rút ra kết luận: có thể xây dựng đợc những mô hình sản xuất nông
nghiệp ổn định trên đất dốc trên cơ sở một hệ thống phân loại sử dụng đất hợp lý
theo quan điểm sinh thái Nông Lâm kết hợp.
Trần Nh ý đề xuất các hệ thống canh tác trên đất dốc ở một số vùng thuộc
miền núi phía Bắc, đà đa ra các hệ thống cây ăn quả thay thế cho cây lơng thực
tạo thu nhập cao và bảo vệ đợc môi trờng, hạn chế việc phá rừng đốt nơng tràn
lan, giúp dân định canh, định c.
Lê Thành Đờng (1992), [9] nghiên cứu hiệu quả kinh tế của các loại hoa
màu trồng tại Phú Châu - An Giang đà chọn ra 2 loại cây cho lÃi cao gần 4 triệu
đồng/ha/vụ là bắp và đậu trắng.
Nguyễn Ngọc Trâm (1994), [41] nghiên cứu cơ cấu cây trồng và hệ thống
luân canh cây trồng vùng đất cát ven biển Thừa Thiên - Huế, rút ra kết luận công
thức: ớt - lúa cho giá trị gia tăng cao nhất và hiệu quả chi phí đầu t cao nhÊt.

23


Lê Hng Quốc (1994), [28] trong nghiên cứu chuyển đổi cơ cấu cây trồng
vùng gò đồi tỉnh Hà Tây cho thấy một số hệ thống cây trồng cho hiệu quả kinh
tế cao vùng gò đồi Hà Tây:
- Trên đất đỏ vàng trồng lúa: là hệ thống canh tác 3 vụ, trong đó 2 lúa và 1
rau (hoặc khoai tây - đậu tơng) hoặc 2 màu 1 lúa (lạc Xuân - lúa Mùa đậu tơng hoặc khoai tây).
- Trên đất phù sa đợc bồi (bÃi bồi): công thức 2 màu (ngô Thu Đông - ngô
Xuân Hè - cũng cho hiệu quả khá cao.
- Trên đất phù sa không đợc bồi: công thức 3 vụ cho hiệu quả cao. Trong đó
vụ Xuân có thể trồng lúa Xuân hoặc lạc Xuân, ngô Xuân. Vụ Mùa trồng
lúa Mùa và vụ Đông trồng rau, khoai lang, đậu tơng.
Đây là hệ thống cây trồng trên vùng đất phù sa có giá trị sản phẩm và có

thu nhập cao.
ở cùng một điều kiện sinh thái, chế độ luân canh 3 vụ mang lại hiệu quả
kinh tế cao, thu nhập thuần và tỷ suất lợi nhuận cao, làm tăng độ phì của đất, đặc
biệt là các cây họ đậu tham gia. Cây trồng vụ đông có vai trò quan trọng, làm
tăng độ ẩm đất và làm tăng năng suất cây trồng vụ sau.
Trần An Phong (1993), [26] khi nghiên cứu bớc đầu cơ sở khoa học cải
thiện hệ thống cây trồng trên quan điểm sinh thái và phát triển lâu bền cho rằng:
muốn tạo lập một nền nông nghiệp theo quan điểm sinh thái phải nhận thức và tổ
chức thực hiện có kết quả rõ ràng việc sử dụng đất hợp lý với cải thiện hệ thống
cây trồng và đa canh trong nông nghiệp, xem đó là một bộ phận hợp thành
chiến lợc sử dụng đất hợp lý theo quan điểm sinh thái và phát triển lâu bền
với mục tiêu quản lý và bảo tồn tài nguyên thiên nhiên, định hớng sự thay đổi
công nghệ và tổ chức thực hiện nhằm đảm bảo việc thoả mÃn nhu cầu liên tục
của con ngời thuộc các thế hệ hôm nay và cả mai sau.
Để đáp ứng những mục tiêu đồng thời của việc tăng các sản lợng và giảm
bớt rủi ro môi trờng, việc thâm canh có thể diễn ra theo cả hai hớng không gian
và thời gian, trên cả hai hớng trên, sự thâm canh thông qua đa dạng hoá có liên
quan tới lựa chọn cây trồng, vật nuôi, đầu t và các hoạt động quản lý mà chúng
thúc đẩy các mối quan hệ sinh thái tích cực và các quá trình sinh học trong tổng
thể hệ sinh thái nông nghiệp. Hiệu quả hệ sinh thái nông nghiệp đợc cải tiến đôi
khi thể hiện thông qua hệ thống cây trồng hỗn hợp, trong khi đó mọi tài nguyên
bên trong đợc quản lý tốt để nâng cao hiệu quả sản lợng.
Tóm lại: Nhiều công trình nghiên cứu trong nớc tổng hợp và chuyên đề về
hệ thống canh tác đà đợc tiến hành ở nhiều nơi và đà có những kết quả nhất định.
Phần lớn các tác giả nghiên cứu theo híng chän c¸c hƯ thèng canh t¸c cã c¸c hƯ

24


thống cây trồng phù hợp trên các loại đất với các loại cây trồng (lâu năm hoặc

hàng năm) vừa đảm b¶o cã hiƯu qu¶ kinh tÕ cao, hiƯu qu¶ x· hội lớn, vừa bảo vệ
đất. Tuy nhiên trong những nghiên cứu trớc đây, các tác giả còn ít đề cập về
những tiến bộ khoa học và kỹ thuật công nghệ sinh học mới, do yếu tố thị trờng
và các hạn chế khác nên các mô hình canh tác không mở ra diện rộng đợc Đây
là những vấn đề cần đợc đa vào trong nghiên cứu hệ thống canh tác nói riêng và
hệ thống nông nghiệp nói chung hiện nay.
1.2.3. Đặc điểm hệ thống canh tác vùng nhiệt đới và những vấn đề cần nghiên
cứu ở vùng đất ven sông Hồng
1.2.3.1.

Đặc ®iĨm hƯ thèng canh t¸c ë vïng nhiƯt ®íi Èm

- Vùng nhiệt đới có tiềm năng quang hợp cao
Nguyên lý cơ bản của sản xuất Nông nghiệp là biến năng lợng ánh sáng
mặt trời thành lơng thực và các sản phẩm khác. Tuy vậy tiềm năng của ánh sáng
chỉ có thể phát huy đợc khi có đủ nớc và dinh dỡng.
ở vùng Nhiệt đới năng lợng ánh sáng đạt đợc 130 - 220 Kcal/cm3/năm,
trong khi ở các nớc Ôn đới chỉ có 80 - 120 Kcal/cm 3/năm. Nhng những điều kiện
khác ngoài ánh sáng thì ở các nớc Nhiệt đới lại không đủ: Trong mùa khô năng
lợng ánh sáng nhiều nhng lại thiếu ẩm, ngợc lại vào mùa ma lại Ýt ¸nh s¸ng
(Kassan - 1973), (Chang - 1968).
ë vïng NhiƯt đới có thể trồng trọt quanh năm nhng mới chỉ sử dụng đợc
80% mùa sinh trởng. Trong khi ở Đài Loan nhờ biện pháp tăng vụ đà sử dụng đợc 93% mïa sinh trëng (Holliday - 1976). Mïa c©y trång sinh trởng đợc xác
định bằng chiều dài mùa ma. Nh vậy ở vùng Nhiệt đới mùa ma thờng kéo dài
hơn ở vùng Ôn đới, chính vì vậy ở những vùng Nhiệt đới ẩm cây trồng hầu nh có
bộ lá xanh quanh năm. Nếu trồng các loại cây theo chu trình C 4 (Chu trình axit
dicacboxylic) nh Ngô, Mía, Cao lơng sẽ có khả năng đồng hoá năng lợng ánh
sáng mặt trời cao hơn những cây trồng có quang hợp theo chu tr×nh C 3 (Chu tr×nh
calvin) nh Lóa, Lóa m×, Đậu tơng (Holliday - 1976).
Coopor - 1970, đà đa ra minh chứng về khả năng sản xuất chất khô của

thảm thực vật tự nhiên ở vùng Nhiệt đới ẩm là 146 tấn/ha trong khi ở vùng Ôn
đới là 20 - 25 tấn/ha/năm.
Khả năng biến đổi năng lợng ánh sáng mặt trời thành chất khô của cây
trồng Nhiệt đới thờng cao gấp 2 đến 3 lần cây trồng ở vùng Ôn đới. Nh Mía ở
Hawai có 10 - 15 tấn đờng/ha/năm, Cọ dầu ở Malaysia có từ 5 - 6 tấn
dầu/ha/năm, Lúa ở ấn Độ (cấy 3 vụ đợc 15 tấn/ha/năm).
Theo Holliday - 1976 cho thấy: tỷ lệ biến đổi năng lợng ánh sáng mặt trời
của cây hàng năm đạt kỷ lơc cao nhÊt víi Cá voi ë Puerto Rico 110,6 tÊn/ha chÊt
25


×