Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Tình hình thi hành và một số ví dụ vi phạm Luật Chứng khoán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.93 KB, 29 trang )

Nội dung chính:
Phần 1: Tổng quan về Luật chứng khoán
1/ Điều kiện ra đời của luật ck
2/ Quá trình hình thành và phát triển luật chứng khoán
3/ Vai trò của Luật Chứng khoán
4/ Nội dung cơ bản của Luật Chứng khoán các văn bản dưới luật có liên
quan
Phần 2: Tình hình thi hành và một số ví dụ
vi phạm Luật Chứng khoán
1. Kết quả đạt được
2. Những tồn tại, hạn chế của hệ thống pháp luật về chứng khoán và thị
trường chứng khoán và một số nguyên nhân
3. Một số vụ vi phạm luật chứng khoán
Phần 3: Một số giải pháp sửa đổi và hoàn
thiện Luật chứng khoán
1. Sự cần thiết phải sửa đổi Luật chứng khoán
2. Nội dung dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung của Luật Chứng khoán.
3. Đánh giá tác động của dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Chứng khoán.
Phần 1: Tổng quan về Luật Chứng khoán
1/ Điều kiện ra đời của luật ck
Có thể nói, TTCK không thể vận hành và phát triển mạnh nếu không có một
khuôn khổ pháp lý cần thiết cho tổ chức và hoạt động của nó. Trong việc đánh
giá tầm quan trọng của các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của TTCK thì
yếu tố đầu tiên là môi trường pháp lý, yếu tố thứ hai là hàng hoá trên thị trường
và tiếp theo là tình hình chính trị và sự hiểu biết của công chúng về chứng
khoán. Ơ các quốc gia có TTCK mới nổi, pháp luật điều chỉnh thị trường còn
lỏng lẻo, chưa hoàn thiện. Các hiện tượng tiêu cực dễ nảy sinh trên TTCK như
mua bán nội gián, hành vi lũng đoạn thị trường, thao túng giá chứng khoán,
thông tin sai sự thật, có thể gây thiệt hại cho nhà đầu tư, không đảm bảo được
quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia TTCK. Thêm vào đó,


TTCK là một loại thị trường hàng hoá đặc biệt, hoạt động rất nhạy cảm, có sự
tham gia của nhiều chủ thể khác nhau, đại diện cho những nhóm quyền lợi khác
nhau (quyền lợi của nhà đầu tư, của chủ thể phát hành, niêm yết, chủ thể kinh
doanh chứng khoán). Chính vì vậy, nhà nước phải ban hành hệ thống pháp luật
đồng bộ để điều chỉnh các hoạt động trên TTCK, nhằm hạn chế các hiện tượng
tiêu cực nảy sinh trên thị trường này và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
nhà đầu tư. Luật pháp là một công cụ hữu hiệu có thể quyết định tới sự phát
triển của thị trường chứng khoán.
2 / Quá trình hình thành và phát triển luật chứng khoán
Ở Việt Nam có một đặc thù là ngay từ năm 1996, khi chưa có TTCK chính
thức tập trung ra đời, đã có Uỷ ban chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) thành
lập theo Nghị định 75/CP ngày 28/11/1996. Điều này khẳng định sự quan tâm
tích cực từ phía nhà nước đối với loại thị trường hàng hoá đặc biệt này, đồng
thời tạo cơ sở pháp lý cho sự ra đời của TTCK ở Việt Nam. Theo Nghị định
này, UBCKNN là cơ quan đảm bảo cho TTCK hoạt động tuân thủ pháp luật,
hiệu quả, công bằng, công khai, hạn chế tình trạng lừa đảo, các hành vi tiêu cực
nảy sinh trên thị trường, bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhà đầu tư. Mặc dù
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của UBCKNN chỉ được thể hiện ở tầm Nghị
định, song vị trí pháp lý của nó được khẳng định là một cơ quan thuộc Chính
phủ, có nhiều thẩm quyền, trong đó có thẩm quyền ban hành văn bản qui phạm
pháp luật.
Tiếp theo Nghị định 75/CP là Nghị định 48/1998/NĐ – CP về chứng khoán
và TTCK. Để TTCK Việt Nam đạt tiêu chuẩn của TTCK quốc tế, có khả năng
thu hút vốn đầu tư nước ngoài, yêu cầu văn bản pháp luật điều chỉnh về tổ chức
và hoạt động của TTCK phải được ban hành bởi đạo luật. Nghị định số
48/1998/NĐ-CP là văn bản pháp luật cao nhất cho hoạt động của thị trường
chứng khoán Việt Nam lúc bấy giờ.
Do Nghị định 48/1998/NĐ- CP còn nhiều hạn chế và bất cập, nên đã được
sửa đổi bổ sung sau Nghị định 144/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 (Nghị định
144). So với Nghị định 48, Nghị định 144 có phạm vi điều chỉnh tương đối rộng

(liên quan đến sự mở rộng phạm vi quản lý đối với hoạt động phát hành chứng
khoán ra công chúng; qui định thủ tục đăng ký phát hành chứng khoán ra công
chúng thay cho cơ chế cấp phép phát hành; phân định rõ điều kiện niêm yết và
điều kiện phát hành chứng khoán; nới lỏng điều kiện niêm yết chứng khoán để
tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nhà nước sau khi cổ phần hoá có thể niêm
yết chứng khoán ngay; qui định bổ sung đối tượng phải công bố thông tin là
công ty chứng khoán (bên cạnh các đối tượng là tổ chức niêm yết, công ty quản
lý quĩ, và TTGDCK); bổ sung thêm loại hình Quỹ đầu tư chứng khoán bằng
vốn góp của các thành viên; cụ thể hoá các hành vi bị cấm trên thị trường chứng
khoán).
Việc ban hành Nghị định 144 đã đánh dấu một bước quan trọng trong quá
trình hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động của thị trường chứng khoán Việt
Nam, là cơ sở pháp lý quan trọng bảo đảm cho thị trường hoạt động an toàn,
công bằng, hiệu quả, bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư. Tuy nhiên, do sự phát triển
của nền kinh tế nói chung và thị trường chứng khoán Việt Nam nói riêng và để
phù hợp với định hướng chiến lược phát triển thị trường chứng khoán đến năm
2010, thì việc ban hành Nghị định 144 và sau đó là hàng loạt các văn bản hướng
dẫn thi hành cũng chưa tạo ra được môi trường pháp lý đầy đủ, đồng bộ và ổn
định để điều chỉnh mọi hoạt động trên thị trường chứng khoánThực tiễn hoạt
động của TTCK
Trong điều kiện kinh tế phát triển cao, nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển
lớn, đòi hỏi phi phát triển thị trường chứng khoán trở thành kênh huy động vốn
quan trọng cho nền kinh tế. Để đạt được mục tiêu phát triển quy mô thị trường
chứng khoán từ 10 - 15% GDP vào năm 2010 (khoảng 10 - 15 tỷ USD), đồng
thời tạo ra khuôn khổ pháp luật nhằm quản lý thị trường hoạt động có hiệu quả
và lành mạnh, đáp ứng với điều kiện hội nhập đòi hỏi cần phải hoàn chỉnh thể
chế về chứng khoán và thị trường chứng khoán, trong đó quan trọng nhất là ban
hành Luật Chứng khoán. Từ thực trạng hoạt động của thị trường chứng khoán
Việt Nam nói trên, có thể thấy rằng việc Luật Chứng khoán được Quốc hội
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 29/6/2006, có hiệu

lực thi hành từ ngày 1/1/2007 mang tính cần thiết khách quan
3/ Các vai trò:
1. Luật Chứng khoán ra đời góp phần hoàn chỉnh thể chế về kinh tế
thị trường ở nước ta, quán triệt tinh thần đổi mới của Đảng và Nhà nước thể
hiện trong Nghị quyết Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IX và lần thứ
X.
2. Luật Chứng khoán ra đời khắc phục những khiếm khuyết, bất cập
trong khuôn khổ pháp luật chứng khoán và thị trường chứng khoán (Nghị định
144), đồng bộ hoá với Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư mà Quốc hội đã thông
qua. Điều này hết sức quan trọng vì tạo ra môi trường pháp luật ổn định cho các
nhà đầu tư.
3. Luật Chứng khoán ra đời tạo điều kiện hình thành khuôn khổ pháp
luật trong việc quản lý, giám sát thị trường, đảm bảo nguyên tắc hoạt động thị
trường: công khai, công bằng, minh bạch và bảo vệ lợi ích hợp pháp của các
nhà đầu tư.
4. Luật Chứng khoán ra đời tạo điều kiện cho thị trường chứng khoán
phát triển nhanh và bền vững; tăng cường khả năng huy động vốn của Chính
phủ, các doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán cho đầu tư phát triển; tạo cơ
hội đầu tư cho công chúng nhằm tăng nhanh luồng luân chuyển vốn đầu tư. Thị
trường chứng khoán phát triển sẽ làm cho các doanh nghiệp minh bạch. Điều
này góp phần làm cho nền kinh tế của chúng ta minh bạch.
5. Luật Chứng khoán tạo điều kiện thị trường chứng khoán Việt Nam
hội nhập với thị trường chứng khoán khu vực và quốc tế. Thông qua hoạt động
đầu tư gián tiếp có khả năng khơi thông nguồn vốn nước ngoài vào Việt Nam,
đồng thời tạo cơ hội để các nhà đầu tư Việt Nam đầu tư ra nước ngoài.
Vậy luật chứng khoán ra đời là một điều tất yếu giúp thúc đẩy và kiểm soát
TTCK Việt Nam phát triển đúng hướng.
4/ Nội dung cơ bản của Luật Chứng khoán các văn bản dưới luật có liên
quan
Về tổng thể, Luật Chứng khoán bao gồm 11 chương và 136 Điều với các nội

dung cơ bản như sau:
1. Chương 1: Những quy định chung (9 điều – từ điều 1 đến điều 9)
2. Chương 2: Chào bán ck ra công chúng (15 điều – từ điều 10 đến
điều 24)
3. Chương 3: Công ty đại chúng (8 điều – từ điều 25 đến điều 32)
4. Chương 4: Thị trường giao dịch chứng khoán (9 điều – từ điều 33
đến điều 41)
5. Chượng 5: Đăng ký lưu ký, bù trừ và thanh toán chứng khoán
(17điều – từ điều 42 đến điều 58)
6. Chương 6: Công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư
chứng khoán (23 điều – từ điều 59 đến điều 81)
7. Chương 7: Quỹ đầu tư chứng khoán, công ty đầu tư chứng khoán
và ngân hàng giám sát (18 điều – từ điều 82 đến điều 99)
8. Chương 8: Công bố thông tin (8 điều – từ điều 100 đến 107)
9. Chương 9: Thanh tra và xử lý vi phạm (23 điều – từ điều 108 đến
điều 130)
10.Chương 10: Giải quyết tranh chấp, khiếu nại tố cáo và bồi thường
thiệt hại (3 điều – từ điều 131 đến điều 133)
11.Chương 11: Điều khoản thi hành (3 điều – từ điều 134 đến điều
136)
1. Về phạm vi và đối tượng điều chỉnh, Luật Chứng khoán có phạm vi điều
chỉnh rộng, quy định về hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng,
niêm yết, giao dịch, kinh doanh, đầu tư chứng khoán và các dịch vụ về
chứng khoán và thị trường chứng khoán. Riêng về hoạt động đầu tư chứng
khoán, để thống nhất với Luật Đầu tư vừa được Quốc hội thông qua, Luật
Chứng khoán thống nhất điều chỉnh đối với hoạt động đầu tư gián tiếp như
mua, bán cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu hoặc thông qua quỹ đầu tư chứng
khoán của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Đối tượng áp
dụng của Luật Chứng khoán là tổ chức, cá nhân Việt Nam và tổ chức, cá
nhân nước ngoài tham gia đầu tư chứng khoán và hoạt động trên thị trường

chứng khoán Việt Nam và các tổ chức, cá nhân khác có liên quan đến hoạt
động chứng khoán và thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, Luật có quy định
trường hợp Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có quy định khác
với quy định của Luật này thì áp dụng Điều ước quốc tế đó.
2. Về giải thích từ ngữ, Luật Chứng khoán đưa ra những khái niệm, thuật ngữ
cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán, bao gồm: khái niệm về
thị trường chứng khoán, thị trường giao dịch chứng khoán, chào bán chứng
khoán ra công chúng, kinh doanh chứng khoán… Những khái niệm này
được xây dựng để đảm bảo chuẩn hoá theo thông lệ quốc tế, đồng thời phù
hợp với thực tiễn của Việt Nam.
3. Về quản lý nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán, Luật
Chứng khoán thể hiện vai trò của Nhà nước trong việc ban hành các văn bản
quy phạm pháp luật, cấp các loại giấy phép, thanh tra, kiểm tra và xử lý vi
phạm trong lĩnh vực chứng khoán. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước
về chứng khoán và thị trường chứng khoán, Bộ Tài chính chịu trách nhiệm
trước Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về thị trường chứng
khoán. Trong Luật quy định rõ Uỷ ban Chứng khoán nhà nước là cơ quan
thuộc Bộ Tài chính nhưng được thực hiện một số chức năng và thẩm quyền
nhất định như cấp các loại giấy phép, giám sát, thanh tra, xử lý vi phạm
hành chính trong hoạt động chứng khoán và thị trường chứng khoán… nhằm
đảm bảo tính độc lập cần thiết và thực quyền của Uỷ ban Chứng khoán nhà
nước trong việc quản lý cũng như thực hiện các vấn đề nghiệp vụ về chứng
khoán và thị trường chứng khoán. Bộ Tài chính thực hiện chức năng ban
hành văn bản quy phạm pháp luật theo thẩm quyền và chỉ đạo Uỷ ban
Chứng khoán nhà nước thực hiện chiến lược, kế hoạch, chính sách, chế độ
về chứng khoán và thị trường chứng khoán.
4. Về chào bán chứng khoán ra công chúng, Luật Chứng khoán thống nhất
điều chỉnh hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng của các đối
tượng và theo hướng dẫn cụ thể của Chính phủ về điều kiện chào bán chứng
khoán đối với doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước

ngoài chuyển đổi thành công ty cổ phần, doanh nghiệp mới thành lập thuộc
lĩnh vực cơ sở hạ tầng hoặc công nghệ cao; về chào bán chứng khoán ra
nước ngoài và các trường hợp cụ thể khác.
Riêng đối với việc phát hành trái phiếu Chính phủ, hiện nay được điều chỉnh
bởi Luật Ngân sách. Do vậy, tại Luật này không điều chỉnh việc phát hành
trái phiếu Chính phủ. Tuy nhiên, việc niêm yết, giao dịch trái phiếu Chính
phủ trên Sở Giao dịch chứng khoán, Trung tâm Giao dịch chứng khoán phải
tuân theo quy định của Luật Chứng khoán.
5. Về công ty đại chúng, đây là một nội dung mới trong Luật Chứng khoán,
quy định về công ty đại chúng và các nghĩa vụ công ty đại chúng phải tuân
thủ. Việc đặt ra các quy định về công ty đại chúng nhằm đảm bảo tất cả các
doanh nghiệp có chứng khoán được công chúng sở hữu rộng rãi (kể cả các
doanh nghiệp đã phát hành chứng khoán ra công chúng trước khi Luật
Chứng khoán có hiệu lực hoặc phát hành riêng lẻ nhiều lần theo quy định
của Luật Doanh nghiệp) phải tuân thủ nguyên tắc công khai, minh bạch, từ
đó có thể bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư. Hoạt động
chào mua công khai được quy định để đảm bảo tính công khai, minh bạch,
tránh việc các công ty đại chúng bị “thâu tóm” không công bằng, không
công khai và để bảo vệ các cổ đông thiểu số trong doanh nghiệp bị “thâu
tóm”.
Luật Chứng khoán quy định việc chào mua công khai chỉ được thực hiện sau
khi Uỷ ban Chứng khoán nhà nước chấp thuận và đã được công bố trên các
phương tiện thông tin đại chúng trước thời điểm dự kiến thực hiện.
6. Về thị trường giao dịch chứng khoán, Luật quy định Sở Giao dịch chứng
khoán, Trung tâm Giao dịch chứng khoán là pháp nhân hoạt động theo mô
hình công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần. Thủ tướng Chính
phủ quyết định thành lập, giải thể, chuyển đổi cơ cấu tổ chức và hình thức sở
hữu. Mô hình tổ chức và hoạt động giữa Sở Giao dịch chứng khoán và
Trung tâm Giao dịch chứng khoán cơ bản là giống nhau, chỉ khác nhau về
hàng hoá và phương thức giao dịch.

Trong Luật quy định Sở Giao dịch chứng khoán có chức năng tổ chức thị
trường giao dịch chứng khoán cho các chứng khoán đủ điều kiện niêm yết
tại Sở Giao dịch chứng khoán theo phương thức khớp lệnh tập trung và
phương thức giao dịch khác theo quy định tại Quy chế giao dịch chứng
khoán của Sở Giao dịch chứng khoán; Trung tâm Giao dịch chứng khoán tổ
chức thị trường giao dịch chứng khoán cho các chứng khoán không đủ điều
kiện niêm yết tại Sở Giao dịch chứng khoán theo phương thức thoả thuận và
các phương thức giao dịch khác quy định tại Quy chế Giao dịch chứng
khoán của Trung tâm Giao dịch chứng khoán. Chứng khoán niêm yết tại
Trung tâm Giao dịch chứng khoán được giao dịch tại công ty chứng khoán
là thành viên của Trung tâm Giao dịch chứng khoán theo Quy chế của Trung
tâm.
Về điều kiện niêm yết tại Sở Giao dịch chứng khoán, Trung tâm Giao dịch
chứng khoán, trong Luật chỉ quy định những nguyên tắc cơ bản về điều kiện
niêm yết; quy định cụ thể về mức vốn điều lệ, số năm có lãi, số lượng cổ
đông nắm giữ… do Chính phủ hướng dẫn vì nhiều quốc gia, tiêu chuẩn niêm
yết là so Sở Giao dịch chứng khoán, Trung tâm Giao dịch chứng khoán quy
định sau khi được Uỷ ban Chứng khoán nhà nước chấp thuận. Và, trong điều
kiện của Việt Nam, tiêu chuẩn niêm yết trên Sở Giao dịch chứng khoán,
Trung tâm Giao dịch chứng khoán có thể thay đổi để linh hoạt điều chỉnh
khi điều kiện thị trường thay đổi.
7. Đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán chứng khoán, tổ chức và hoạt động
của Trung tâm lưu ký chứng khoán: Giống như Sở Giao dịch chứng khoán
và Trung tâm Giao dịch chứng khoán, Trung tâm Lưu ký chứng khoán cũng
được tổ chức theo mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ
phần theo quy định của Luật Chứng khoán, có chức năng tổ chức, quản lý và
giám sát hoạt động đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán chứng khoán.
Thành viên lưu ký tại Trung tâm Lưu ký chứng khoán là các ngân hàng
thương mại hoạt động tại Việt Nam, công ty chứng khoán đáp ứng đủ các
điều kiện như về trang thiết bị, về hoạt động kinh doanh… được Uỷ ban

Chứng khoán nhà nước cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động lưu ký
chứng khoán. Luật quy định chứng khoán của các công ty đại chúng phải
được đăng ký, lưu ký tập trung tại Trung tâm lưu ký chứng khoán. Quy định
như vậy là phù hợp với thông lệ quốc tế về đăng ký và lưu ký tập trung,
khắc phục được tình trạng các nhà đầu tư nắm giữ trực tiếp chứng chỉ chứng
khoán. Điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc theo dõi biến động sở
hữu, cũng như thuận tiện cho việc giao dịch, thanh toán và tiến tới thực hiện
chính sách phi vật chất chứng khoán như một số nước đã tiến hành.
8. Về công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, Luật
quy định công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán
được tổ chức dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ
phần theo Luật Doanh nghiệp do Uỷ ban Chứng khoán nhà nước cấp Giấy
phép thành lập và hoạt động. Giấy phép này đồng thời là giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh.
Các điều kiện cấp Giấy phép thành lập và hoạt động công ty chứng khoán,
công ty quản lý quỹ được quy định bao gồm điều kiện về trụ sở, trang thiết
bị phục vụ hoạt động kinh doanh chứng khoán, có đủ số vốn pháp định và
giám đốc hoặc tổng giám đốc và các nhân viên thực hiện nghiệp vụ kinh
doanh chứng khoán phải có chứng chỉ hành nghề. Riêng điều kiện về mức
vốn pháp định sẽ do Chính phủ quy định cụ thể vì đây là chỉ tiêu định lượng
có thể thay đổi theo tình hình phát triển của thị trường.
Về nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán: Luật quy định công ty chứng khoán
được thực hiện các nghiệp cụ môi giới, bảo lãnh phát hành và tư vấn đầu tư
chứng khoán; công ty quản lý quỹ được thực hiện nghiệp vụ quản lý quỹ đầu
tư chứng khoán và quản lý danh mục đầu tư chứng khoán. Chứng chỉ hành
nghề chứng khoán được cấp cho các cá nhân có đủ điều kiện. Đây cũng là
một điểm mới so với cơ chế hiện hành. Chứng chỉ hành nghề không có thời
hạn và chỉ có giá trị khi người có chứng chỉ hành nghề làm việc tại một công
ty chứng khoán hay công ty quản lý quỹ. Luật quy định trách nhiệm của
công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ phải báo cáo Uỷ ban Chứng

khoán nhà nước về những người hành nghề tại công ty chứng khoán, công ty
quản lý quỹ đó và định kỳ các cá nhân hành nghề tại công ty chứng khoán,
công ty quản lý quỹ đó và định kỳ các cá nhân hành nghề phải bồi dưỡng,
đào tạo chứng khoán để cập nhật những quy định, những nghiệp vụ mới.
9. Về Quỹ đầu tư chứng khoán, công ty đầu tư chứng khoán và ngân hàng
giám sát, Luật quy định các loại hình quỹ đầu tư chứng khoán, việc thành
lập quỹ đầu tư chứng khoán; quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư; Đại hội nhà
đầu tư; Điều lệ quỹ; giải thể quỹ; các quy định hạn chế đối với quỹ đại
chúng; quy định về quỹ mở, quỹ đóng.
Ngoài ra, để đáp ứng nhu cầu phát triển của thị trường, đa dạng hoá các loại
hình quỹ đầu tư chứng khoán, Luật Chứng khoán quy định về thành lập, tổ
chức và hoạt động của công ty đầu tư chứng khoán (thực chất là quỹ đầu tư
chứng khoán dạng pháp nhân) được tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần
theo quy định của Luật Doanh nghiệp để đầu tư vào chứng khoán. Công ty
đầu tư chứng khoán trong Luật này là loại hình công ty mới, hiện chưa có ở
Việt Nam, tổ chức và bộ máy của công ty này mang tính đặc thù cao, do vậy
trong Luật chỉ quy định những nguyên tắc cơ bản về việc thành lập và hoạt
động của loại hình công ty này còn các nội dung cụ thể sẽ do Chính phủ
hướng dẫn để đảm bảo tính thực thi và phù hợp với tình hình thực tế.
Về ngân hàng giám sát, Luật Chứng khoán không đặt ra các quy định về cấp
phép đối với ngân hàng giám sát mà chỉ quy định ngân hàng giám sát thực
hiện giám sát việc quản lý quỹ đại chúng chỉ khi có Giấy chứng nhận đăng
ký hoạt động lưu ký chứng khoán.
10.Về Công bố thông tin, Luật Chứng khoán dành một chương quy định về
đối tượng và phương thức công bố thông tin; nghĩa vụ công bố thông tin của
tổ chức phát hành, tổ chức niêm yết, công ty đại chúng, công ty chứng
khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, công ty đầu tư chứng khoán
và Sở Giao dịch chứng khoán, Trung tâm Giao dịch chứng khoán. Các đối
tượng này khi công bố thông tin phải đồng thời báo cáo Uỷ ban Chứng
khoán nhà nước về nội dung thông tin được công bố. Nội dung và phương

thức công bố thông tin của từng đối tượng do Bộ Tài chính quy định.
11.Thanh tra và xử lý vi phạm, để đảm bảo thị trường chứng khoán hoạt động
có hiệu quả, ngăn ngừa các hành vi vi phạm và hạn chế rủi ro trên thị trường
chứng khoán, hạn chế đến mức thấp nhất việc hình sự hoá các quan hệ kinh
tế trong lĩnh vực chứng khoán, trong Luật quy định rõ quyền hạn của Uỷ ban
Chứng khoán nhà nước trong việc thực hiện các biện pháp thanh tra thị
trường và xử lý các hành vi vi phạm, theo đó quy định rõ các căn cứ, điều
kiện, biện pháp tiến hành thanh tra về hoạt động chứng khoán và thị trường
chứng khoán, quyền và nghĩa vụ của đối tượng chịu sự thanh tra thị trường
chứng khoán.
Về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường
chứng khoán: Trong Luật quy định cụ thể về các hành vi vi phạm trong lĩnh
vực chứng khoán và thị trường chứng khoán và hình thức xử lý tương ứng
với từng hành vi vi phạm. Riêng về mức tiền xử phạt được quy định trong
văn bản dưới Luật cho phù hợp với tình hình thực tế trong từng thời kỳ và
quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.
12.Về giải quyết tranh chấp, khiếu nại tố cáo và bồi thường thiệt hại, Luật
Chứng khoán quy định nội dung và nguyên tắc giải quyết tranh chấp; việc
giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng
khoán, quy định cụ thể về trách nhiệm của Uỷ ban Chứng khoán nhà nước
trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, thời hạn giải quyết khiếu nại, tố cáo;
tổ chức, cá nhân bị thiệt hại về kinh tế do việc vi phạm pháp luật chứng
khoán có quyền khởi kiện để yêu cầu tổ chức, cá nhân gây thiệt hại phải bồi
thường.
• Các văn bản luật liên quan:
 Nghị định số 52/2006/NĐ-CP: Quy định về phát hành trái phiếu
doanh nghiệp
 Nghị định số 14/2007/NĐ-CP: Quy định thi hành một số điều của
luật chứng khoán
 Nghị định số 85/2010/NĐ-CP: có hiệu lực từ ngày 20/9/2010 thay

thế nghị định số 36/2007/NĐ-CP
 Quyết định số 3/2007/QĐ-TTg: Quy định chức năng nhiệm vụ của
UBCK NN
 Quyết định số 599/2007/QĐ-TTg: Chuyển trung tâm GDCK
TP.HCM thành sở GDCK TP.HCM
 Quyết định số 29/2009/QĐ-TTg: Chế độ tự chủ về biên chế và kinh
phí hoạt động của UBCK NN
 Quyết định số 55/2009/QĐ-TTg: Về tỷ lệ tham gia của nhà đầu tư
nước ngoài tại ttck VN
 Quyết định số 12/2007/QĐ-BTC: Quy chế quản trị công ty (đã niêm
yết)
 Quyết định số 13/2007/QĐ-BTC: Ban hành mẫu bản cáo bạch trong
hồ sơ chào bán chứng khoán ra công chúng.
 Quyết định số 15/2007/QĐ-BTC: Ban hành điều lệ áp dụng cho các
công ty niêm yết.
 Thông tư số 17/2007/TT-BTC: Hướng dẫn hồ sơ đăng ký chào bán
chứng khoán ra công chúng.
 Thông tư số 18/2007/TT-BTC: Hướng dẫn việc mua bán lại cổ phiếu
 Thông tư số 27/2010/ TT-BTC: Quy định mức thu, chế độ thu nộp,
quản lý phí hoạt động chứng khoán tại các sở giao dịch chứng khoán
và trung tâm lưu ký chứng khoán Việt Nam
 Thông tư số 09/2010/TT-BTC: Hướng dẫn về việc công bố thong tin
trên ttck (thay thế thông tư số 38/2007/TT-BTC)
 Thông tư số 50/2009/TT-BTC: Hướng dẫn giao dịch diện tử trên
ttck
 Và một số quyết định, thông tư, văn bản điều chỉnh khác.
Phần 2: Tình hình thi hành và một số ví dụ vi
phạm Luật Chứng khoán
1. Kết quả đạt được
Qua 3 năm thi hành, Luật Chứng khoán và các văn bản hướng dẫn đã đạt

được những kết quả quan trọng, cụ thể như sau:
- Tạo lập được khuôn khổ pháp lý cao, đồng bộ và thống nhất cho hoạt động
của TTCK, loại bỏ những mâu thuân với các văn bản pháp luật khác có liên
quan .
- Các quy định pháp lý hiện hành nhìn chung phù hợp với luật pháp, thông lệ
quốc tế, tạo nền móng cho TTCK Việt Nam có khả năng hội nhập với các thị
trường vốn quốc tế và khu vực.
- Tạo hành lang pháp lý quan trọng, đảm bảo TTCK hoạt động, công khai,
minh bạch, an toàn và hiệu quả; giúp TTCK phát huy vai trò quan trọng đối
với nền kinh tế.
Tính đến hết năm 2009, mức vốn hóa thị trường đạt 37,6% GDP, tăng 3 lần
so với năm 2008. So với thời điểm năm 2005, khối lượng giao dịch tính đến hết
năm 2009 tăng gấp 96 lần, số công ty niêm yết là 457, tăng 11,1 lần.
Thông qua TTCK, các doanh nghiệp, Chính phủ đã huy động vốn đầu tư vào
sản xuất kinh doanh góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Riêng 3 năm qua, tổng khối lượng huy động vốn qua
TTCK gần 200.000 tỷ đồng, vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài tăng gần 2 lần, từ
mức 4,5 tỷ USD năm 2007 lên gần 9 tỷ USD năm 2009.
- Luật Chứng khoán đã tạo cơ sở pháp lý cho việc chuyển đổi Trung tâm
GDCK, Trung tâm Lưu ký Chứng khoán từ đơn vị sự nghiệp có thu thành
các pháp nhân thành lập và hoạt động theo mô hình công ty trách nhiệm hữu
hạn hoặc công ty cổ phần, làm tăng tính chủ động trong hoạt động của Sở
GDCK, Trung tâm GDCK, Trung tâm LKCK, tạo vai trò độc lập với cơ
quan quản lý nhà nước trong việc tổ chức, quản lý, điều hành hoạt động tại
Sở GDCK, Trung tâm GDCK, Trung tâm LKCK.
- Tạo cơ sở pháp lý trong việc xây dựng hệ thống các tổ chức trung gian hoạt
động trên TTCK và các nhà đầu tư chuyên nghiệp.
- Từng bước nâng cao điều kiện niêm yết phù hợp với quy mô vốn của các
công ty niêm yết tương xứng với các TTCk khu vực, góp phần minh bạch
hóa, nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp Việt

Nam trong xu thế hội nhập.
- Luật Chứng khoán và các văn bản hướng dẫn thi hành đã tạo cơ sở pháp lý
để quản lý các công ty đại chúng và hoạt động chào bán chứng khoán ra
công chúng: tính đến hết năm 2009, đã có gần 1000 công ty đăng ký là công
ty đại chúng theo quy định của Luật Chứng khoán (không bao gồm các công
ty niêm yết). Việc đăng ký này tạo cơ sở để các cơ quan quản lý giám sát
việc thực hiện các nghĩa vụ công ty đại chúng, bảo vệ quyền lợi của các cổ
đông trong công ty.
- Luật Chứng khoán và các văn bản hướng dẫn mở rộng hơn các quy định về
bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư, đặc biệt được áp dụng chung cho các tổ chức,
cá nhân trong nước và nước ngoài tham gia đầu tư và hoạt động trên TTCK
Việt Nam, không phân biệt đối xử giữa nhà đầu tư trong nước và nước ngoài
(trừ trường hợp Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có quy định
khác với quy định của Luật này thì áp dụng Điều ước quốc tế đó). Do vậy,
thị trường đã thu hút được đông đảo các nhà đầu tư tham gia đặc biệt là nhà
đầu tư có tổ chức và nhà đầu tư nước ngoài. Tính đến hết năm 2007, số
lượng tài khoản giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài là gần 7.900 tài khoản,
tăng gấp 3 lần so với năm 2006.
- Việc quản lý, giám sát TTCK luôn được coi trọng nhằm đảm bảo cho thị
trường hoạt động an toàn và ổn định. UBCKNN đã thường xuyên tổ chức các
đoàn kiểm tra định kỳ, đột xuất đối với hoạt động của các tổ chức tham gia thị
trường. Những trường hợp vi phạm về công bố thông tin, giao dịch cổ phiếu nội
bộ… đã được xử lý theo luật định để đảm bảo tính công bằng, công khai, minh
bạch của thị trường. Thông qua công tác giám sát hoạt động giao dịch đã phát
hiện một số trường hợp vi phạm quy định về giao dịch, công bố thông tin, giao
dịch cổ phiếu của cổ đông nội bộ… từ đó kịp thời uốn nắn và cú biện pháp xử
lý nghiêm những vụ việc vi phạm, bước đầu đã tạo được lòng tin nơi công
chúng.
2.Những tồn tại, hạn chế của hệ thống pháp luật về chứng khoán và thị
trường chứng khoán và một số nguyên nhân

2.1. Những tồn tại, hạn chế
Bên cạnh những kết quả đạt được trong thời gian qua, công tác xây dựng và
thực thi pháp luật về chứng khoán cũng đã bộc lộ một số bất cập, hạn chế. Cụ
thể:
a/ Phạm vi điều chỉnh của Luật còn hẹp, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế.
Luật chứng khoán hiện hành chỉ điều tiết hoạt động chào bán chứng khoán
ra công chúng mà chưa quy định về chào bán chứng khoán riêng lẻ. Theo cách
quy định trong Luật Chứng khoán 2006 của Việt Nam, hoạt động chào bán
chứng khoán được điều tiết theo hai luật khác nhau: Luật Chứng khoán điều
chỉnh hành vi chứng khoán ra công chúng và Luật doanh nghiệp điều chỉnh
hành vi chào bán chứng khoán riêng lẻ. Một số nước như Ba Lan , Bungaria,
Đài Loan cũng quy định tương tự như Luật chứng khoán 2006 của Việt Nam.
Tuy nhiên cách thức quy định như vậy tạo nên sự phức tạp và thực tế đã bị
một số tổ chức phát hành lách luật, lợi dụng tính đơn giản về thủ tục trong chào
bán chứng khoán riêng lẻ, khó kiểm soát và gây thiệt hại cho các cổ đông đa số.
Hơn nữa, các chứng khoán chào bán riêng lẻ cũng có thể niêm yết trên SGDCK,
hoặc được thực hiện đồng thời với chào bán chứng khoán ra công chúng. Để
thống nhất quản lý, phạm vi điều chỉnh của Luật Chứng khoán nên mở rộng
thêm, bao gồm cả hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ. Một số nước khác
như Trung Quốc, Thái Lan, Hàn Quốc, Nhật Bản……cũng đã áp dụng quy định
này. Nói cách khác, phạm vi điều chỉnh của Luật chứng khoán cần quy định:”
điều chỉnh các hành vi phát hành và giao dịch chứng khoán của công ty đại
chúng, bảo vệ lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư, duy trì trật tự kinh tế xã hội và
lợi ích chung của xã hội, thúc đẩy kinh tế phát triển “
b/ Việc quản lý đối với TTCK
Quản lý TTCK được thực hiện qua 2 cấp: cấp quản lý Nhà nước và cấp
quản lý tự quản. Chức năng của Bộ Tài Chính là quản lý Nhà nước trong lĩnh
vưc tài chính, vừa là tổ chức phát hành trên TTCK, vừa là tổ chức kinh doanh,
vừa là cơ quan quản lý nhà nước đối với thị trường. Khi “vừa đá bóng, vừa thổi
còi” đã phát sinh các xung đột về lợi ích: việc quy định giá tối thiểu cao hơn

nhiều giá trị thực của cổ phiếu trong cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước đươc
hiểu là bộ đã lạm dụng thị trường để bán quá đắt cổ phiếu doanh nghiệp Nhà
nước cổ phần hóa, gây tổn hại tới quyền lợi của nhà đầu tư và tiềm ẩn bất ổn
của thị trường ( ví dụ: giá tối thiểu trong đấu giá cổ phiếu Vietcombank được
quy định cao gấp 10 lần giá trị định giá) ; hoặc việc áp thuế trong lĩnh vực kinh
doanh chứng khoán vừa mang tính trùng lặp ( do thu nhập của cổ đông về bản
chất là lợi nhuận sau thuế), vừa gây tăng chi phí vốn cho nền kinh tế ( trong khi
hiện tại, sau khủng hoảng tài chính, cần giảm chi phí vốn để giảm khó khăn cho
doanh nghiệp và tăng tích lũy đầu tư phát triển kinh tế)…
Nhưng do chức năng và nhiệm vụ của Bộ Tài chính quá lớn nên không đủ
điều kiện nhân lực, vật lực để quan tâm đến hoạch định và thực thi chính sách
phát triển thị trường: tuy vận hành được 10 năm, song TTCK chưa có chiến
lược thống nhất, vì thế việc tái cấu trúc thị trường thời gian tới là cấp bách,
song bộ khó có đủ khả năng thực thi khi khối lượng các công việc là quá lớn
Theo Luật Chứng khoán 2006, SGDCK là công ty TNHH hoặc công ty cổ
phần. Hiện tại SGDCK thành phố Hồ Chí Minh và SGDCK Hà Nội là công ty
TNHH một thành viên thuộc sở hữu Nhà nước nhưng thực chất hai doanh
nghiệp này trực thuộc UBCK Nhà nước, do vậy không phát huy được vai trò
của các thành viên, thậm chí còn xuất hiện xung đột giữa các bên liên quan.
Bên cạnh SGDCK, Hiệp hội chứng khoán là tổ chức tự quản và có vai trò
quan trọng cho sự phát triển thị trường và bảo vệ lợi ích thành viên. Đặc biệt
trong bối cảnh hội nhập quốc tế, hiệp hội còn có vai trò là rào cản kĩ thuật nhằm
tránh sự thôn tính và ảnh hưởng của các tổ chức kinh doanh chứng khoán nước
ngoài. Nhưng hiệp hội đang hoạt động theo Luật hợp tác xã, do đó không phát
huy được vai trò tích cực đối với các thành viên dẫn đến hiện tượng xảy ra cạnh
tranh quá mức và không lành mạnh trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán và
cả lĩnh vực cung cấp dịch vụ tài chính tại Việt Nam.
c) Công bằng trong Luật Chứng khoán
Trong Luật đã quy định quyền, nghĩa vụ của các nhà đầu tư, công ty chứng
khoán, công ty quản lý quỹ và các thành viên khác cũng như các chế tài cần

thiết khi các thành viên này vi phạm Luật, gây tổn hại quyền lợi của người khác
vào thị trường. Tuy nhiên vấn đề này dường như chưa được xác định rõ cho đối
tượng quản lý Nhà nước và thị trường.
d) Chào bán chứng khoán ra công chúng
Ở nước ta hiện nay vẫn còn tồn tại hình thức chuyển nhượng cổ phiếu của
cổ đông nhưng vẫn chưa có chế tài cụ thể quy định các công ty đại chúng phải
có kế hoạch niêm yết trên SGDCK và thời hạn đối với việc chào bán chứng
khoán riêng lẻ cho một số đối tượng.
Quy mô của các công ty đại chúng,công ty niêm yết tại VN là nhỏ,số
lượng công ty chứng khoán là quá nhiều.Tuy nhiên,vấn đề chào mua công khai
cổ phiếu của các công ty đại chúng chưa được quy định đầy đủ và chi tiết tại
điều 32 luật CK.

(Tài liệu tham khảo: “MỘT SỐ Ý KIẾN VỀ LUẬT CHỨNG KHOÁN 2006” của
PGS.TS. Trần Đăng Khâm – khoa NH – TC)
Ngoài ra:
- Một số thuật ngữ trong Luật Chứng khoán chưa được định nghĩa hoặc chưa
được định nghĩa chính xác dẫn đến các cách hiểu khác nhau hoặc làm hạn chế
cho công tác quản lý, giám sát thị trường.
- Một số quy định tại Luật chưa cụ thể, rõ ràng (như phạm vi các hoạt động
mà tổ chức kinh doanh chứng khoán được thực hiện hoặc các tổ chức được thực
hiện hoạt động kinh doanh chứng khoán) đã dẫn đến tình trạng các doanh
nghiệp khác không được cấp phép thực hiện hoạt động kinh doanh chứng khoán
nhưng vẫn triển khai các nghiệp vụ tương tự hoặc các tổ chức kinh doanh
chứng khoán sau khi được cấp giấy phép thành lập và hoạt động đã tận dụng
điều kiện trang thiết bị, cơ sở vật chất của mình để thực hiện những nghiệp vụ
khác trong khi không có quy định hướng dẫn. Điều này ảnh hưởng đến tính an
toàn trong hoạt động của các tổ chức kinh doanh chứng khoán, hoạt động của
thị trường và ảnh hưởng đến lợi ích nhà đầu tư.
- Quá trình xây dựng Luật Chứng khoán đã đảm bảo nguyên tắc quy định chi

tiết các vấn đề để đảm bảo thi hành ngay. Tuy nhiên, do TTCK vẫn đang trong
giai đoạn phát triển và luôn có xu hướng hình thành những yếu tố mới, do vậy,
một số quy định pháp lý cụ thể đã hạn chế khả năng phản ứng nhanh trước biến
động thị trường của cơ quan quản lý nhà nước. Đặc biệt là các quy định liên
quan đến chỉ tiêu, điều kiện hoạt động, tiêu chí giám sát hoạt động thị trường
được quy định ngay trong Luật nên đôi khi không thể sửa đổi kịp thời để phù
hợp với thực tiễn quản lý thị trường và điều kiện thị trường.
2.2. Nguyên nhân của hạn chế
- Chứng khoán vẫn còn là lĩnh vực mới với đa số công chúng Việt nam và
thị trường chứng khoán vẫn đang trong giai đoạn phát triển, chưa ổn định. Ngày
càng xuất hiện nhiều thể chế, sản phẩm, nghiệp vụ chứng khoán… mà Luật
Chứng khoán và các văn bản pháp luật liên quan chưa tính đến.
- Việc ban hành các quy định pháp lý nhìn chung đều có độ trễ so với mục
tiêu đề ra, đồng thời nhiều quy định tại Luật Chứng khoán chưa được hướng
dẫn thực hiện
• Quy trình xây dựng các văn bản pháp lý về cơ bản tuân thủ đúng các quy
định hiện hành, đặc biệt trong vấn đề lấy ý kiến các thành viên tham gia
thị trường, ý kiến của các đơn vị, Bộ ban ngành hữu quan. Tuy nhiên, do
các quy định trong lĩnh vực chứng khoán đều là các quy định chuyên
ngành, đòi hỏi sự am hiểu về thị trường, kinh nghiệm và trình độ chuyên
môn sâu. Việc lấy ý kiến để xây dựng văn bản pháp lý trên cơ sở đòi hỏi
sự đồng thuận cao, đặc biệt đối với các nội dung chuyên ngành hẹp, mất
rất nhiều thời gian. Điều này ảnh hưởng rất nhiều tới tiến độ ban hành
các quy định pháp lý điều hành thị trường.
• Ngoài ra, nhiều sản phẩm, hoạt động chứng khoán đã được đề cập tại
Luật Chứng khoán nhưng chưa được hướng dẫn thực hiện, cụ thể như: (i)
nhóm các sản phẩm của thị trường chứng khoán phái sinh như: quyền
chọn, hợp đồng tương lai; (ii) nhóm các nghiệp vụ chứng khoán như giao
dịch ký quỹ cho vay mua chứng khoán, bán khống và các dịch vụ tài
chính khác; (iii) các quy định hướng dẫn về tổ chức bảo lãnh phát hành

trái phiếu; (iv) văn bản hướng dẫn doanh nghiệp Việt Nam chào bán và
niêm yết chứng khoán ra nước ngoài.
- Một số quy định của Luật chứng khoán chưa phù hợp thực tế nên hiệu lực
thi hành không cao. Cụ thể như quy định về mức phạt tiền từ 1% đến 5% tổng
số tiền đã huy động trái pháp luật, phạt 1 đến 5 lần khoản thu trái pháp luật đối
với hành vi vi phạm quy định về chào bán chứng khoán ra công chúng.
3/ Một số vụ vi phạm luật chứng khoán
3.1 Vi phạm Luật Chứng khoán của
công ty Dược phẩm Vĩnh Phúc
Trụ sở Vinphaco và Trung tâm
phân phối thuốc tiêu chuẩn GMP-
WHO của Công ty cổ phần dược
phẩm Vĩnh phúc. Ảnh: Vinaphaco.
Tháng 5/2007, Dược phẩm Vĩnh
Phúc đã thực hiện chào bán cổ phần để tăng vốn điều lệ từ 5,944 tỷ đồng lên
17,832 tỷ đồng cho 418 cổ đông khi chưa đáp ứng đủ điều kiện theo quy định
tại Điều 12 Luật Chứng khoán (vốn điều lệ dưới 10 tỷ đồng).
Tháng 4/2008, Dược phẩm Vĩnh Phúc đã thực hiện chào bán cổ phần để
tăng vốn điều lệ từ 17,832 tỷ đồng lên 30,314 tỷ đồng cho 448 cổ đông nhưng
không đăng ký với Ủy ban Chứng khoán Nhà nước và phân phối chứng khoán
không đúng quy định là vi phạm quy định tại Khoản 1 Điều 13 và Điều 21 Luật
Chứng khoán.
Vào thời điểm ngày 8/6/2007, Dược phẩm Vĩnh Phúc đã có 418 cổ đông với
số vốn điều lệ đã góp là 17,832 tỷ đồng (theo báo cáo tài chính năm đã được
soát xét năm 2007). Việc Công ty đến ngày 17/8/2010 mới gửi hồ sơ đăng ký
công ty đại chúng cho Ủy ban Chứng khoán Nhà nước là vi phạm quy định tại
Khoản 2 Điều 25 Luật Chứng khoán.
Xét tính chất và mức độ vi phạm, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước phạt Dược
phẩm Vĩnh Phúc 70 triệu đồng, gồm: phạt tiền 50 triệu đồng theo quy định tại
Điểm c Khoản 2 Điều 9 Nghị định số 36/2007/NĐ-CP; phạt tiền 20 triệu đồng

theo quy định tại Điểm a Khoản 3 Điều 10 Nghị định số 36/2007/NĐ-CP.
3.2Công ty Bông Bạch Tuyết
Theo UBCKNN, Công ty cổ phần bông Bạch Tuyết đã công bố thông tin kết
quả kinh doanh trong nhiều năm có sự chênh lệch trước và sau khi thực hiện
kiểm toán, vi phạm quy định tại điểm 2.1 khoản 2 mục I thông tư số
38/2007/TT-BTC của Bộ Tài chính. Bên cạnh đó, BBT còn liên tục chậm công
bố thông tin báo cáo tài chính kiểm toán năm và báo cáo tài chính các quý trong
năm 2008, chưa thực hiện đầy đủ việc báo cáo và công bố thông tin bất
thường
UBCKNN cũng có văn bản cho rằng việc duy trì điều kiện niêm yết cổ phiếu
tại SGDCK TP.HCM của Bông Bạch Tuyết không đạt, hoạt động kinh doanh
của công ty luôn trong tình trạng thua lỗ (trừ năm 2005); đã niêm yết trên sàn
chứng khoán nhưng công ty công bố thông tin không nghiêm túc, vi phạm quy
chế công bố thông tin Ủy ban Chứng khoán Nhà nước kết luận hội đồng quản
trị, ban kiểm soát, ban điều hành công ty đã thiếu trách nhiệm, không trung thực
trong việc lập và công bố các báo cáo tài chính,.
Ngoài ra đoàn kiểm tra còn phát hiện công ty này đã thu tiền mua cổ phiếu
của một số cá nhân (số tiền hơn 7,2 tỷ đồng) nhưng không báo cáo UBCK, vi
phạm quy chế phát hành và sau đó không phát hành cổ phiếu được. Vì thế số
tiền này được “phù phép” biến thành khoản nợ phải trả của công ty.
Tuy nhiên “hình phạt” ngừng giao dịch cổ phiếu BBT và 90 triệu VN đồng
lại có vẻ như đang nhắm vào NĐT, cổ đông của BBT hơn là nghiêm trị và
phòng ngừa những gian dối tương tự. Những thông tin sai lệch mà chưa ai dám
chắc vô tình hay cố ý như BBT không phải là cá biệt nhưng hầu như chỉ đính
chính là xong. Và dường như hình phạt này còn quá nhẹ và chưa đủ sức răn đe
để lập lại trật tự trên TTCK.
3.3Bà Nguyễn Kim Phượng - cổ đông của Công ty Cổ phần Vật tư và Vận tải
Xi măng
Theo tin từ UBCK thì bà Nguyễn Kim Phượng (chủ TK số 020C009588, mở
tại Công ty Cổ phần Chứng khoán Quốc tế Việt Nam) đã có một số hành vi vi

phạm pháp luật trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán, cụ thể
như sau:
Ngày 14/1/2010, UBCKNN nhận được bản đăng ký chào mua công khai 1,3
triệu cổ phiếu VTV của bà Nguyễn Kim Phượng. Ngày 22/1/2010, UBCKNN
đã có Công văn số 257/UBCK-QLPH yêu cầu bà Phượng giải trình, bổ sung và
làm rõ một số nội dung liên quan đến bản đăng ký chào mua công khai. Tuy
nhiên, bà Phượng không thực hiện bổ sung hồ sơ theo yêu cầu của UBCKNN.
Theo quy định tại Tiết b Điểm 9.1 Khoản 9 Mục II Thông tư 194/2009/TT-
BTC hướng dẫn chào mua công khai cổ phiếu của công ty đại chúng, chứng chỉ
quỹ của quỹ đầu tư chứng khoán đại chúng dạng đóng, kể từ thời điểm gửi đăng
ký chào mua công khai đến khi hoàn thành đợt chào mua, bà Phượng không
được bán cổ phiếu mà mình đang chào mua. Việc bà Phượng bán ra 557.800 cổ
phiếu VTV vào ngày 24/3/2010 là vi phạm quy định tại Điểm 9.1 Khoản 9 Mục
II Thông tư 194/2009/TT-BTC.
- Bà Phượng là cổ đông lớn (nắm giữ 8,58% số cổ phiếu có quyền biểu quyết)
của VTV. Do vậy, việc bà Nguyễn Kim Phượng bán 557.800 cổ phiếu VTV
nhưng không báo cáo UBCKNN, Sở GDCK Hà Nội trước khi thực hiện giao
dịch là vi phạm Điểm 4.2 Khoản 4 Mục IV Thông tư số 09/2010/TT-BTC
hướng dẫn về việc công bố thông tin trên thị trường chứng khoán.

Phần 3 : Một số giải pháp sửa đổi và hoàn thiện
Luật chứng khoán
1. Sự cần thiết phải sửa đổi Luật chứng khoán
Luật Chứng khoán được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam thông qua ngày 29/6/2006, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2007. Sau hơn
ba năm thực hiện, Luật Chứng khoán đã có những đóng góp quan trọng, làm cơ
sở pháp lý điều chỉnh các hoạt động phát hành, kinh doanh, đầu tư chứng
khoán, qua đó góp phần thúc đẩy phát triển thị trường chứng khoán và đưa hoạt
động chứng khoán từng bước vào khuôn khổ có tổ chức.
Tuy nhiên, thị trường chứng khoán phát triển khá nhanh chóng, phát sinh

thêm nhiều yếu tố mới chưa được đề cập trong Luật, đồng thời có một số nội
dung của Luật không còn phù hợp với tiến triển của thị trường và cũng có một
số nội dung không phù hợp với thực tiễn. Do vậy, Thường trực Ủy ban Kinh tế
nhất trí về sự cần thiết sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán

×