Tải bản đầy đủ (.doc) (82 trang)

Điều tra nguồn tài nguyên thực vật họ long não (lauraceae) tại hai xã môn sơn và châu khê thuộc huyện con cuông, tỉnh nghệ an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.88 MB, 82 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

LÂM THỊ NGỌC NGA
ĐIỀU TRA NGUỒN TÀI NGUYÊN THỰC VẬT
HỌ LONG NÃO (LAURACEAE) TẠI HAI XÃ MÔN SƠN
VÀ CHÂU KHÊ THUỘC HUYỆN CON CUÔNG , TỈNH NGHỆ AN
LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC
NGHỆ AN - 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

LÂM THỊ NGỌC NGA
ĐIỀU TRA NGUỒN TÀI NGUYÊN THỰC VẬT
HỌ LONG NÃO (LAURACEAE) TẠI HAI XÃ MÔN SƠN
VÀ CHÂU KHÊ THUỘC HUYỆN CON CUÔNG , TỈNH NGHỆ AN
Chuyên ngành: Thực vật học
Mã số: 60.42.01.11
LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN ANH DŨNG
NGHỆ AN - 2014
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận này, tôi đã nhận được sự hướng dẫn tận tình, giúp
đỡ chu đáo của TS. Nguyễn Anh Dũng, xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy.
Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình, quý báu của TS. Đỗ
Ngọc Đài, Kỹ sư Lê Vũ Thảo (Nguyên cán bộ Phân viện điều tra rừng Bắc
Trung Bộ).
Qua đây tôi cũng xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, Phòng Sau đại
học, Ban chủ nhiệm khoa Sinh học cùng quý thầy, cô giáo Bộ môn Thực vật
trường Đại học Vinh; Trạm kiểm lâm, Đồn Biên phòng cũng như chính quyền
và nhân dân hai xã Môn Sơn và Châu Khê huyện Con Cuông Tỉnh Nghệ An


đã giúp đỡ, tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới tất cả những người thân trong gia đình, bạn
bè đã động viên, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
Nghệ An, tháng 10 năm 2014
Tác giả
Lâm Thị Ngọc Nga
CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT
1. Dạng sống
Ph Phanerophytes: Cây có chồi trên đất
Mg Mega-phanerophytes: Cây có chồi trên đất lớn
Me Meso-phanerophytes: Cây có chồi trên đất vừa
Mi Micro-phanerophytes: Cây có chồi nhỏ trên đất
Na Nano-phanerophytes: Cây có chồi lùn trên đất
Lp Liano-phanerphytes: Cây leo có chồi trên đất
Ep Epiphytes-phanerophytes: Cây sống bám có chồi trên đất
Pp Parasit-hemiparasit-phanerophytes: Cây sống ký sinh, bán ký sinh
Hp Herbo-phanerophytes: Cây có chồi trên, thân thảo
Ch Chamaephytes: Cây có chồi sát đất
Hm Hemicriptophytes: Cây có chồi nửa ẩn, chồi ngang mặt đất.
Cr Criptophytes: Cây có chồi ẩn chồi nằm dưới mặt đất.
Th Theophytes: Cây một năm.
2. Phân bố
1. Yếu tố toàn thế giới
2. Yếu tố liên nhiệt đới
2.1. Yếu tố nhiệt đới châu Á – châu Úc – châu Mỹ
2.2. Yếu tố nhiệt đới châu Á – châu Phi – châu Mỹ
2.3. Yếu tố nhiệt đới châu Á –Châu Úc – châu Mỹ và các đảo Thái Bình Dương
3. Yếu tố cổ nhiệt đới
3.1. Yếu tố nhiệt đới châu Á – châuÚc

3.2. Yếu tố nhiệt đới châu Á – châu Phi
4. Yếu tố châu Á nhiệt đới
4.1. Yếu tố lục địa Đông Nam Á – Malaixia
4.2. Lục địa Đông Nam Á
4.3. Yếu tố lục địa Đông Nam Á – Hymalaya
4.4. Đông Dương – Nam Trung Quốc
4.5. Đặc hữu Đông Dương
5. Yếu tố ôn đới
5.1. Ôn đới châu Á – BắcMỹ
5.2. Ôn đới cổ thế giới
5.3. Ôn đới ĐịaTrung Hải
5.4. Đông Á
6 . Đặc hữu Việt Nam
6.1. Gần đặc hữu Việt Nam
7. Yếu tố cây trồng và nhập nội.
3. Công dụng
M Cây làm thuốc
T Cây lấy gỗ
F Cây làm thức ăn, lương thực, nuôi gia súc
E Cây lấy tinh dầu
Oil Cây lấy dầu béo
4. Các ký hiệu khác
YTĐL Yếu tố địa lý
DS Dạng sống
CD
VQG
Công dụng
Vườn Quốc gia
CS Cộng sự
MỤC LỤC

1.5.1. Trên thế giới 19
1.5.2. Ở Việt Nam 20
Bảng 3.6. Các loài bổ sung cho danh lục họ Lauraceae ở VQG Pù Mát 45
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
1.5.1. Trên thế giới 19
1.5.2. Ở Việt Nam 20
Bảng 3.6. Các loài bổ sung cho danh lục họ Lauraceae ở VQG Pù Mát 45
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
1.5.1. Trên thế giới 19
1.5.2. Ở Việt Nam 20
Bảng 3.6. Các loài bổ sung cho danh lục họ Lauraceae ở VQG Pù Mát 45
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Họ Long não là một họ tương đối lớn gồm khoảng 55 chi và trên 2.500
loài, phân bố chủ yếu ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, đặc biệt là vùng
Đông Nam Á và Braxin [54].
Hầu hết các cây thuộc họ Long não đều chứa tinh dầu, trong đó phải kể
đến một số cây có hàm lượng tinh dầu cao như: Quế, Long não, Màng tang
ngoài ra một số cây còn dùng làm thuốc, làm cảnh, cây ăn quả [31].
Ở Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến họ Long
não như Lê Khả Kế (1969 - 1976) [22]; Võ Văn Chi, Dương Đức Tiến
(1978) [13]; Nguyễn Tiến Bân và cộng sự (1984) [4], Phạm Hoàng Hộ
(1999 - 2000) đã vẽ hình và mô tả các loài thuộc họ Long não với 243 loài
thuộc 18 chi [18].
Nghiên cứu đầy đủ nhất về họ Long não là công trình của Nguyễn Kim
Đào (2003). Tác giả đã nghiên cứu về đa dạng và phân bố của các loài trong
họ Lauraceae ở các khu vực khác nhau trên cả nước. Kết quả được tổng hợp
và giới thiệu trong "Danh lục các loài thực vật Việt Nam" với 265 loài thuộc
21 chi. [16].
Vườn Quốc Gia Pù Mát nằm ở 18

o
46’ vĩ độ Bắc và 104
o
24’ độ kinh
Đông thuộc tỉnh Nghệ An. Vườn Quốc Gia Pù Mát nằm trên địa giới hành
chính của 3 huyện: Anh Sơn, Con Cuông, và Tương Dương, đường ranh giới
phía Nam của Vườn Quốc Gia chạy dọc theo đường biên giới Việt Lào. Vườn
Quốc Gia Pù Mát nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa. Lượng mưa
trung bình hàng năm ở đây là 1.800mm và nhiệt độ trung bình 23,5
o
C. Với
diện tích vùng lõi rộng 94.804 ha và vùng đệm rộng 86.000 ha.
Vườn quốc gia Pù Mát là một kho tàng về các nguồn gen hoang dã, quý
hiếm, là một trong số ít khu bảo tồn đa dạng sinh học lớn nhất nước ta. Vườn
quốc gia này có thảm thực vật phong phú với 2.494 loài thực vật, thuộc 931
chi, 202 họ, trong đó có 37 loài trong sách đỏ Việt Nam và 20 loài trong sách
7
đỏ quốc tế. Cho đến nay đã có 1.144 loài thực vật có mạch được ghi nhận là
phân bố ở Pù Mát.
Ở đây đã có nhiều công trình nghiên cứu thực vật theo hướng đa dạng
thực vật của các taxon bậc cao như lớp, ngành. Điển hình có các công trình
nghiên cứu của Phạm Hồng Ban (2000) [1], Nguyễn Anh Dũng (2002) [14],
Nguyễn Nghĩa Thìn và cộng sự (2004) [39]…
Để tiếp tục góp phần vào việc nghiên cứu tính đa dạng và giá trị trị về hệ
thực vật ở vùng đệm Vườn Quốc Gia Pù Mát, chúng tôi chọn đề tài: “Điều
tra nguồn tài nguyên thực vật họ Long não (Lauraceae) tại hai xã Môn
Sơn và Châu Khê thuộc huyện Con Cuông , tỉnh Nghệ An ”.
2. Mục tiêu của đề tài
Xác định thành phần loài thực vật, đánh giá tính đa dạng và phân tích
thành phần hóa học tinh dầu một số loài có giá trị của họ Long não

(Lauraceae) ở hai xã Môn Sơn, Châu Khê thuộc huyện Con Cuông, tỉnh
Nghệ An.
8
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Vài nét về tình hình nghiên cứu thực vật trên thế giới
Việc nghiên cứu thực vật trên thế giới diễn ra từ rất sớm, những công
trình mô tả đầu tiên về thực vật xuất hiện ở Ai Cập cổ đại cách đây hơn
(3.000 năm TCN) [41] và Trung Quốc cổ đại (2.200 năm TCN) tiếp sau đó là
ở Hy Lạp cổ và La Mã cổ cũng xuất hiện hàng loạt các tác phẩm về thực vật.
Théophraste (371 - 286 TCN) là người đầu tiên đề xướng ra phương
pháp phân loại thực vật [theo 13]. Trong hai tác phẩm “Lịch sử thực vật” và
“Cơ sở thực vật” dựa trên nghiên cứu đặc điểm hình thái ngoài và sinh cảnh
sống của thực vật, ông đã mô tả được khoảng 500 loài cây trồng và cây hoang
dại. Nguyên tắc phân loại hình thái và sinh thái được coi là cơ sở trong cách
phân loại của ông. Tiếp đến là nhà bác học La Mã Plinus (79 - 24 TCN) viết
bộ “Lịch sử tự nhiên” đã mô tả gần 1.000 loài cây làm thuốc và cây ăn quả.
Sau đó Dioseoride (20 - 60 sau CN) một thầy thuốc của Tiểu Á đã viết cuốn
sách “Dược liệu học”, trong đó ông nêu được hơn 500 loài cây và đã xếp
chúng vào các họ khác nhau [theo 13].
Trong suốt thời kỳ Trung cổ, phân loại học thực vật cũng như các ngành
khoa học khác không phát triển được do sự thống trị của giáo hội.
Sau một thời gian dài, đến thời kỳ Phục Hưng thế kỷ (XV - XVI) với sự
phát triển của các ngành khoa học kỹ thuật kéo theo phát triển mạnh phân loại
học thực vật, đánh dấu bởi 3 sự kiện quan trọng đó là: Sự phát sinh tập bách
thảo (Herbier) thế kỷ XVI; việc thành lập các vườn bách thảo (TKXV - XVI)
và biên soạn cuốn “Bách khoa toàn thư về thực vật”. Các sự kiện đó là những
cơ sở cho các nhà nghiên cứu thực vật.
Nhà tự nhiên học người Anh, Jonh Ray (1628 - 1705) đã mô tả 18.000
loài thực vật trong cuốn “Lịch sử thực vật”. Ông đã chia thực vật thành 2

nhóm lớn: nhóm bất toàn (gồm nấm, rêu, dương xỉ, các loài thực vật thủy
9
sinh) và nhóm hiển hoa (có hoa, gồm các thực vật 1 lá mầm và 2 lá mầm).
Cũng trong thời gian đó, Journefort (1656 - 1708) dùng tính chất của tràng
hoa làm cơ sở phân loại, ông chia thực vật có hoa thành nhóm không cánh và
nhóm có cánh hoa.
Tiếp sau đó Linnee (1707 - 1778) là người được mệnh danh là “Ông tổ”
của phân loại học, nhà tự nhiên học Thụy Điển. Công trình nghiên cứu của
ông đã đạt đến đỉnh cao của hệ thống phân loại thực vật. Trong tác phẩm “Hệ
thống tự nhiên” của mình ông đã mô tả khoảng 10.000 loài cây và sắp xếp
vào một hệ thống nhất định. Ông đã đề xướng cách đặt tên sinh vật rất chặt
chẽ và thuận tiện, mỗi tên cây được gọi bằng tiếng La tinh gồm 2 từ ghép lại
mà ngày nay chúng ta còn sử dụng. Ông cũng là người xây dựng nên hệ thống
phân loại gồm 7 đơn vị: giới, ngành, lớp, bộ, họ, chi, loài [theo 41].
Cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX phân loại thực vật được dựa trên cơ
sở các mối quan hệ tự nhiên của thực vật, dựa vào toàn bộ (hay số lớn) tính
chất chung của chúng. Có rất nhiều hệ thống phân loại ra đời: hệ thống phân
loại của Bernard Jussieu (1699 - 1777) và Decandol (1778 - 1836) đã mô tả
được 161 họ và đưa phân loại trở thành một môn khoa học. Robert Brown
(1773 - 1858) là người đầu tiên nghiên cứu tỉ mỉ về tùng và bách tuế từ đó
dẫn đến chia thực vật thành 2 nhóm đó là hạt trần và hạt kín [theo 41].
Cho đến thế kỷ XIX việc nghiên cứu các hệ thực vật đã thực sự phát
triển mạnh mẽ ở tất cả các quốc gia. Phân loại học ngày càng đi sâu nghiên
cứu bản chất của sinh vật. Nhiều công trình nghiên cứu có giá trị các cuốn
thực vật chí lần lượt ra đời: Thực vật chí Anh (1869), Thực vật chí Ấn Độ 7
tập (1872 - 1897), Thực vật chí Vân Nam (1977), Thực vật chí Malayxia
(1922 - 1925)
Đến năm 1993, Watters và Hamilton đã thống kê được trong các tác
phẩm nghiên cứu thì trong suốt 2 thế kỷ qua đã có 1,4 triệu loài thực vật đã
được mô tả và đặt tên. Cho đến nay vùng nhiệt đới đã xác định được khoảng

10
90.000 loài, trong đó vùng ôn đới Bắc Mĩ và Âu - Á có 50.000 loài được xác
định [theo 35].
1.2. Tình hình nghiên cứu thực vật ở Việt Nam
Quá trình nghiên cứu thực vật ở Việt Nam diễn ra chậm hơn các nước
khác, nhưng những giá trị để lại đã đánh giá được sự cố gắng, nổ lực của các
nhà khoa học thông qua các công trình nghiên cứu của họ.
Thời gian đầu chỉ có các nhà nho, thầy lang sưu tập các cây có giá trị làm
thuốc chữa bệnh như Tuệ Tĩnh (1623 - 1713) trong 11 quyển “Nam dược
thần hiệu” đã mô tả được 759 loài cây thuốc, Lê Quý Đôn (thế kỷ XVI) trong
“Vân Đài loại ngữ” 100 cuốn đã phân ra cây cho hoa, quả, ngũ cốc…Lê Hữu
Trác (1721 - 1792) dựa vào bộ “Nam dược thần hiệu” đã bổ sung thêm 329 vị
thuốc mới trong sách “Hải Thượng Y tôn tâm linh” gồm 66 quyển. Ngoài ra
trong tập “Lĩnh nam bản thảo” ông đã tổng hợp được 2.850 bài thuốc chữa
bệnh [theo 13].
Đến đời nhà Lê, tác giả Nguyễn Trữ trong tác phẩm “Việt Nam thực vật
học” cũng đã mô tả được nhiều loài cây trồng. Lý Thời Chân (1595) xuất bản
“Bản thảo cương mục” đề cập đến trên 1.000 vị thuốc thảo mộc.
Thời Pháp thuộc, ngoài những tác phẩm cổ điển của Loureiro (1790)
“Thực vật ở Nam Bộ” ông đã mô tả gần 700 loài cây [42]; của Pierre (1879-
1907), trong “Thực vật rừng Nam Bộ” đã mô tả khoảng 800 loài cây gỗ. Từ
những năm đầu thế kỷ đã xuất hiện một công trình nổi tiếng, là nền tảng cho
việc đánh giá tính đa dạng thực vật Việt Nam, đó là bộ “Thực vật chí Đông
Dương” do H.Lecomte chủ biên (1907-1951) gồm 7 tập. Trong công trình
này, tác giả người Pháp đã thu mẫu và định tên, lập khóa mô tả các loài thực
vật có mạch trên toàn bộ lãnh thổ Đông Dương.
Trên cơ sở các công trình đã có, Pocs Tamas (1965) đã thống kê ở miền
Bắc có 5.190 loài [theo 44] và năm 1969, Phan Kế Lộc thống kê và bổ sung
nâng số loài của miền Bắc lên 5.609 loài, 1.660 chi và 140 họ xếp theo hệ
thống của Engler, trong đó cơ 5.069 loài thực vật hạt kín và 540 loài thuộc

11
các ngành còn lại [27]. Song song với sự thống kê đó ở Miền Bắc từ 1969-
1976, Lê Khả Kế (chủ biên) đã xuất bản bộ sách “Cây cỏ thường thấy ở Việt
Nam” gồm 6 tập đã mô tả rất nhiều loài thực vật có mặt ở Việt Nam [22].
Thái Văn Trừng (1963 - 1978) trên cơ sở bộ “Thực vật chí Đông Dương”
đã thống kê được hệ thực vật Việt Nam có 7.004 loài thực vật bậc cao có
mạch thuộc 1.850 chi và 298 họ [44].
Để phục vụ cho công tác khai thác và bảo vệ tài nguyên rừng, Viện
Điều tra Quy hoạch rừng đã công bố 7 tập “Cây gỗ rừng Việt Nam” (1972
- 1986) giới thiệu khá chi tiết cùng với hình vẽ minh họa các loài thực vật
[45]. Trần Đình Lý và tập thể (1993) công bố 1900 cây có ích tại Việt
Nam [30], Võ Văn chi (1997) công bố từ điển cây thuốc Việt Nam và
được xuất bản năm 2012 [12].
Đáng chú ý nhất phải kể đến bộ “Cây cỏ Việt Nam” của Phạm Hoàng Hộ
(1991- 1993) xuất bản tại Canada với 3 tập, 6 quyển và tái bản năm 2000 đã
mô tả được khoảng 10.500 loài thực vật bậc cao có mạch ở Việt Nam [18]. Đây
được coi là bộ sách đầy đủ nhất về thành phần loài thực vật bậc cao ở Việt
Nam góp phần đáng kể cho khoa học thực vật ở Việt Nam, tuy nhiên theo tác
giả thì một số loài thực vật ở hệ thực vật Việt Nam có thể lên tới 12.000 loài.
Việc đánh giá đa dạng thực vật cho các VQG, các khu bảo tồn thiên
nhiên làm cơ sở cho việc hoạch định các chính sách bảo tồn được quan tâm
nghiên cứu. Trong đó đặc biệt là những công trình của Nguyễn Tiến Bân
(1984) cùng tập thể các giả khác cho ra đời tập “Danh lục thực vật Tây
Nguyên” công bố 3.754 loài thực vật bậc cao có mạch, bằng một nửa số loài
của hệ thực vật Việt Nam [4]. Năm1985, Phạm Hoàng Hộ trong cuốn “Danh
lục thực vật Phú Quốc” công bố 793 loài thực vật bậc cao có mạch trong một
diện tích là 592 km
2
[17]; Phùng Ngọc Lan (1996) và nnk với công trình:
“Tính đa dạng thực vật ở Cúc Phương” đã công bố 1.944 loài thực vật bậc

cao [24]. Phan Kế Lộc, Lê Trọng Cúc (1997) đã công bố 3.858 loài thuộc
1.394 chi, 254 họ trong cuốn “Thực vật Sông Đà” [28]; “Đa dạng thực vật có
12
mạch vùng núi cao Sa Pa Phansipan” (1998) đã giới thiệu 2.024 loài thực vật
bậc cao thuộc 771 chi và 200 họ thuộc 6 ngành của vùng núi cao Sa Pa - Phan
Si Pan [42]; “Đa dạng thực vật ở Vườn quốc gia Pù Mát” với 1.251 loài thuộc
604 chi và 159 họ [39]; “Đa dạng hệ thực vật ở Khu bảo tồn thiên nhiên Na
Hang” với 680 loài, 236 chi và 117 họ [37]. “Đa dạng sinh học khu hệ Nấm
và thực vật ở Vườn Quốc gia Bạch Mã” với 332 loài Nấm thuộc 123 chi và
1548 loài thực vật,703 chi thuộc 165 họ [40], Trần Minh Hợi (chủ biên) công
bố cuốn “ Đa dạng tài nguyên Vườn quốc gia Xuân Sơn, Phú Thọ” [19]. Đây
là những tài liệu nhằm phục vụ cho công tác bảo tồn các VQG và Khu BTTN
ở Việt Nam.
Dựa trên những công trình nghiên cứu trong nước và trên thế giới đã
công bố Nguyễn Nghĩa Thìn (1997) đã thống kê toàn bộ hệ thực vật Việt Nam
bao gồm 11.373 loài thực vật bậc cao trong đó có 10.580 thực vật bậc cao có
mạch [35]. Lê Trần Chấn (1999) với trong công trình “Một số đặc điểm cơ
bản của hệ thực vật Việt Nam” đã công bố 10.440 loài thực vật [8].
Hiện nay, các nhà khoa học đang đi theo hướng là nghiên cứu các họ
thực vật dưới dạng thực vật chí các công trình như: họ Na - Annonaceae của
Nguyễn Tiến Bân (2000) [3], họ Đơn nem - Myrsinaceae của Trần Thị Kim
Liên (2002) [26], họ Cói - Cyperaceae của Nguyễn Khắc Khôi (2002) [23], họ
Trúc đào - Apocynaceae của Trần Đình Lý (2005) [29]. Đây là những tài liệu
quan trọng nhất để làm cơ sở đánh giá thành phần loài của hệ thực vật Việt
Nam một cách đầy đủ.
Trên cơ sở các công trình nghiên cứu trên để phục vụ cho công tác
bảo tồn nguồn gen thực vật từ năm 1996 các nhà thực vật Việt Nam đã
cho xuất bản cuốn “Sách đỏ Việt Nam” phần thực vật đã mô tả 356 loài
thực vật quý hiếm ở Việt Nam có nguy cơ tuyệt chủng, được tái bản và bổ
sung năm 2007 tổng số lên 464 loài thực vật, tăng 108 loài đang bị đe dọa

ngoài thiên nhiên [6].
13
Ở Nghệ An đã có các công trình nghiên cứu ở vùng đệm VQG Pù Mát
như: Đặng Quang Châu (1999) và cs [9], Nguyễn Thị Quý (1999) [33], Phạm
Hồng Ban (2000) [1], Nguyễn Nghĩa Thìn (2001) [36], Nguyễn Nghĩa Thìn,
Ngô Trực Nhã, Nguyễn Thị Hạnh (2001) [43], Nguyễn Anh Dũng (2002)
[14], Nguyễn Nghĩa Thìn, Nguyễn Thanh Nhàn (2004) [39], Lê Thị Hương,
Đỗ Ngọc Đài (2012) [21]. Trong đó điển hình nhất là công trình nghiên cứu
của Nguyễn Nghĩa Thìn, Nguyễn Thanh Nhàn (2004) tác giả đã tổng kết được
hệ thực vật Pù Mát có 2.494 loài thuộc 931 chi, 202 họ của 5 ngành trong
“Đa dạng thực vật vườn Quốc gia Pù Mát”.
Như vậy các công trình nghiên cứu ở vùng đệm VQG Pù Mát ở Nghệ
An khá nhiều nhưng các công trình nghiên cứu chuyên sâu về từng họ thì
đang còn chưa phổ biến. Vì vậy, nghiên cứu thành phần loài của từng họ
riêng biệt tại vùng đệm VQG Pù Mát là hướng đi mà chúng tôi lựa chọn.
1.3. Tình hình nghiên cứu họ Long não – Lauraceae
Họ Long não (Lauraceae) đã được nhiều nhà khoa học trên thế giới quan
tâm bởi tính đa dạng, phong phú của nó. Người đầu tiên nghiên cứu về taxon
này là Jussieu (1789-1824). Tiếp theo đã có nhiều công trình nghiên cứu và
công bố về các loài họ Long não (Lauraceae) trong các bộ sách Thực vật chí
Ấn Độ với 16 chi và 250 loài, Trung Quốc có 18 chi và 500 loài, Malaixia 12
chi và 200 loài, Đông Dương có 12 chi và 50 loài, Họ Long não trên thế giới
có khoảng 55 chi và trên 2.500 loài, phân bố chủ yếu ở vùng nhiệt đới và cận
nhiệt đới, đặc biệt là vùng Đông Nam Á và Braxin [54].
Ở Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến họ Long
não như Lê Khả Kế (1969 - 1976) [22]; Võ Văn Chi, Dương Đức Tiến
(1978) [13]; Nguyễn Tiến Bân và cộng sự (1984) [4], Phạm Hoàng Hộ
(1999 - 2000) đã vẽ hình và mô tả các loài thuộc họ Long não với 243 loài
thuộc 18 chi [18].
Nghiên cứu đầy đủ nhất về họ Long não là công trình của Nguyễn

Kim Đào (2003). Tác giả đã nghiên cứu về đa dạng và phân bố của các loài
14
trong họ Lauraceae ở các khu vực khác nhau trên cả nước. Kết quả được
tổng hợp và giới thiệu trong "Danh lục các loài thực vật Việt Nam" với 265
loài thuộc 21 chi.
Theo các tài liệu tập “Cây cỏ Việt nam” của Phạm Hoàng Hộ, 1999-2000
và "Tài nguyên cây gỗ Việt Nam" của Trần Hợp, 2002, họ Long não có
những đặc điểm như sau:
- Dạng sống: Các chi thuộc họ này thường gặp là những cây gỗ lớn (C.
parthenoxylon), gỗ trung bình hay gỗ nhỏ (Lindera aggregata), có khi cây bụi
(L. viridis), ít khi là dây leo ký sinh (chi Cassytha). Cây thường sống lâu năm.
- Dạng thân: Thân gỗ, hiếm khi thân bò (chỉ có 2 loài Cassytha
capillaris, C. filiformis), thường có thân tròn, rất hiếm khi gặp thân vuông hay
có cạnh. Cây có thể phân cành nhiều hay ít. Nhánh và cành non thường tròn,
không có lông, một số có lông (L. glutinosa), hay có cạnh (Endiandra firma).
Lông bao phủ thường là màu nâu xám, sôcôla, hoặc lông mịn lúc non. Cành
non màu xanh, thường có chồi ngủ đông. Trong thân có tế bào tiết dầu thơm,
vì thế vỏ thường có mùi thơm.
- Lá: Thường gặp là lá đơn nguyên, mọc cách, ít khi mọc đối, kích thước
lớn nhỏ khác nhau, có nhiều hình dạng như hình bầu dục tròn dài (C.
magnificum), bầu dục dài (Persea mollis) hay thon hẹp (Beilschmiedia
poilanei, L. elongata); gốc lá chót buồm hay hình tròn hoặc nhọn; chóp lá có
thể nhọn hay tù hay dạng kéo dài; lá thường chụm ở chót nhánh, mép lá
nguyên; gân lá hình lông chim (L.umbellata) hay có 3 gân chính từ gốc giống
như gân hình cung (C. sericans) hay hệ gân đơn giản; lá nhẵn hay chỉ có lông
ở một mặt hoặc có lông ở cả 2 mặt, thường có màu nâu; không có lá kèm; lá
có tế bào tiết dầu thơm.
- Cụm hoa: Hoa nhỏ mọc thành cụm, hình chùy hay hình xiêm tán giả ở
đầu cành hay ở nách lá (C. camphora, L.glutinosa). Hoa thường hướng lên ngọn.
- Hoa: Thường gặp là hoa đều, mẫu 3, lưỡng tính, có khi đơn tính. Bao

hoa 6 mảnh, xếp 2 vòng. Nhị 9 xếp 3 vòng, đôi khi có thêm 1 vòng nhị lép ở
15
gốc chỉ nhị, nhị thường mang 2 túi mật. Bao phấn 2-4 ô, mở bằng lỗ nắp đậy.
Bộ nhụy thường có một lá noãn (đôi khi 3 dính lại) tạo thành bầu 1 ô.
- Quả: Thuộc loại quả hạch hay quả mọng, thường có đài dính liền phát
triển thành dạng đấu dưới quả, hay đế hoa lớn bao quanh lấy quả trông như
bầu dưới; quả thường không lông, xoan hoặc tròn.
Nhiều loài trong họ Long não được khai thác và sử dụng vào các mục
đích khác nhau như:
- Nhóm cây làm thuốc: Quế thanh (Cinnamomum cassia), Quế rừng (C. iners),
Bộp lá xoan ngược (Actinodaphne obovata), Bời lời chanh (Litsea cubeba),…
- Nhóm cây cho gỗ: Quế bời lời (C. polydelphum), Bời lời trung bộ (L.
griffithi var. annamensis), Quế thanh (C. cassia), Re hương (C. balansae)
- Nhóm cây cho tinh dầu: khá phong phú với một số đại diện như: Re
cuống dài (C. longepetiolatum), Quế thanh (C. cassia), Long não (C.
camphora), Bời lời nhớt (L. glutinosa), Bời lời đắng (L. umbellata), Re trắng
mũi mác (Phoebe lanceolata), Re hương (C. balansae)…
1.4. Nghiên cứu về yếu tố địa lý thực vật
1.4.1. Trên thế giới
Mỗi hệ thực vật bao gồm nhiều yếu tố thực vật khác nhau và các yếu tố
địa lý đó thể hiện ở 2 nhóm chính đó là yếu tố đặc hữu và yếu tố di cư. Trong
các loài thuộc yếu tố đặc hữu thể hiện sự khác biệt giữa các hệ thực vật với
nhau, còn các loài thuộc yếu tố di cư lại chỉ ra sự liên hệ giữa các hệ thực vật
với nhau. Nói cách khác yếu tố di cư là yếu tố đã du nhập vào lãnh thổ của
khu hệ thực vật bằng những con đường khác nhau.
Phân tích các yếu tố địa lý thực vật là một trong những nội dung quan
trọng khi nghiên cứu một hệ thực vật hay bất kỳ một khu hệ sinh vật nào để
hiểu bản chất cấu thành nó làm cơ sở cho việc định hướng bảo tồn và phát
huy giống cây trồng.
Phân tích và đánh giá các yếu tố cấu thành hệ thực vật Việt Nam về mặt

địa lý phải kể đến hai công trình “Góp phần nghiên cứu hệ thực vật Đông
16
Dương” (1926) và “Giới thiệu hệ thực vật Đông Dương” của Gagnepain
(1944) trong đó tác giả đã sắp xếp các loài của hệ thực vật Đông Dương bao
gồm các yếu tố:
- Yếu tố đặc hữu bản địa:11.9%
- Yếu tố Trung Quốc: 33.8%
- Yếu tố Xích Kim - Hymalaya: 18.5%
- Yếu tố Malaysia và các nhiệt đới: 15.0%
- Yếu tố phân bố rộng và nhập nội: 20.8%
Mỗi hệ thực vật có sự khác biệt về số lượng, tỉ lệ % các yếu tố địa lý.
Trong các yếu tố địa lý thì yếu tố đặc hữu được đánh giá là quan trọng nhất vì
nó thể hiện tính độc đáo, riêng biệt bản chất của mỗi hệ thực vật.
1.4.2. Ở Việt Nam
Trên cơ sở những loài thực vật được ghi trong bộ "Thực vật chí đại
cương Đông Dương", T. Pocs (1965), đã phân tích về địa lý thực vật miền
Bắc Việt Nam [56] và đưa ra bảng thống kê các yếu tố sau:
- Yếu tố bản địa đặc hữu: 39.90%
+ Việt Nam: 32.55%
+ Đông Dương: 7.35%
- Yếu tố di cư từ các vùng nhiệt đới: 55.27%
+ Trung Quốc: 12.89%
+ Malaysia – Indonesia: 25.69%
+ Ấn Độ - Hymalaya: 9.33%
+ Các vùng nhiệt đới khác: 7.36%
- Yếu tố khác: 4.83%
+ Ôn đới: 3.27%
+ Thế giới: 1,56%
Năm 1978, Thái Văn Trừng căn cứ vào bảng thống kê các loài thực vật
Bắc - Việt Nam cho rằng ở Việt Nam có 3% số chi và 27.5% số loài đặc hữu.

Nhưng khi thảo luận ông gộp loài đặc hữu và loài bản địa làm một, căn cứ
17
vào khu phân bố hiện tại, nguồn gốc phát sinh của loài đó đã nâng loài đặc
hữu bản địa lên 50% (tương tự 45.7% theo Gagnepain và 52.79% theo Pocs
Tamas), còn yếu tố di cư chiếm 39% (trong đó từ Malaysia là 15%, từ
Himalaya, Vân Nam, Quý Châu là 10% và từ Ấn Độ- Myanma là 14%) [44].
Nguyễn Nghĩa Thìn (1997) [35] căn cứ vào các khung phân loại của
Pocs Tamas (1965), Ngô Chinh Giật (1993), tác giả đã xây dựng thang phân
loại các yếu tố địa lý thực vật cho hệ thực vật Việt Nam và áp dụng cho việc
sắp xếp các chi thực vật Việt Nam vào các yếu tố địa lý như sau:
1. Yếu tố thế giới 5. Yếu tố Liên nhiệt đới
2. Yếu tố Cổ nhiệt đới 6. Yếu tố nhiệt đới Châu Á
3. Yếu tố Ôn đới 7. Yếu tố đặc hữu Việt Nam
4. Yếu tố các loài cây trồng
Từ khung phân loại các yếu tố địa lý đó Nguyễn Nghĩa Thìn và cộng sự đã
lần lượt xác định các yếu tố địa lý thực vật của hệ thực vật các VQG và khu
BTTN trong cả nước. Tài liệu mới nhất về các yếu tố địa lý thực vật của hệ
thực vật chính ở VQG Bạch Mã (2003) [40] được chỉ ra như sau:
- Yếu tố toàn cầu: 0.61%
- Yếu tố nhiệt đới: 62.93%
- Yếu tố ôn đới: 3.76%
- Yếu tố đặc hữu Việt Nam: 25.12%
- Yếu tố cây trồng: 1.64%
Đối với VQG Pù Mát, Nguyễn Nghĩa Thìn và cộng sự (2004) [39] đã chỉ
ra các yếu tố địa lý thực vật chính như sau:
- Yếu tố toàn cầu: 2.40%
- Yếu tố nhiệt đới: 65.05%
- Yếu tố ôn đới: 5.35%
- Yếu tố đặc hữu Việt Nam: 14.19%
- Yếu tố cây trồng: 5.56%

18
Năm 2006, khi nghiên cứu hệ thực vật Na Hang [37], Nguyễn Nghĩa
Thìn đã đưa ra các yếu tố địa lý như sau:
- Yếu tố toàn cầu: 2.58%
- Yếu tố nhiệt đới: 80.21%
- Yếu tố ôn đới: 5.25%
- Yếu tố đặc hữu Việt Nam: 8.87%
- Yếu tố cây trồng: 0.34%
1.5. Các nghiên cứu về phổ dạng sống
Phân tích dạng sống là một trong những nội dung quan trọng của việc
nghiên cứu bất kỳ một hệ thực vật nào. Bởi vì, dạng sống là một đặc tính biểu
hiện sự thích nghi của thực vật với điều kiện môi trường, nó liên quan chặt
chẽ với khí hậu và điều kiện tự nhiên của từng vùng, cũng như mức độ tác
động của các nhân tố sinh thái. Tuy nhiên việc nghiên cứu phổ dạng sống của
thực vật cũng chỉ mới được nghiên cứu gần đây.
1.5.1. Trên thế giới
Mặc dù cho đến nay đã có rất nhiều cách phân loại dạng sống khác nhau,
nhưng khi xây dựng phổ dạng sống của một hệ thực vật nào đó người ta vẫn
thường sử dụng cách phân loại của Raunkiaer (1934) vì nó khoa học, đơn
giản dễ sử dụng [57]. Cơ sở để phân chia dạng sống của Raunkiaer là sự khác
nhau về tính thích nghi của thực vật trong thời gian bất lợi của năm. Từ tổ
hợp các dấu hiệu thích nghi, Raunkiaer chỉ chọn một dấu hiệu làm biểu thị để
phân loại, đó là vị trí của chồi so với mặt đất trong thời gian bất lợi của năm.
Theo ông có 5 dạng sống cơ bản:
(1). Cây chồi trên đất (Phanerophytes)-Ph
(2). Cây chồi sát đất (Chamaephytes)-Ch
(3). Cây chồi nửa ẩn (Hemicryptophytes)-Hm
(4). Cây chồi ẩn (Crytophytes)-Cr
(5). Cây một năm (Therophytes)-Th
19

Ngoài ra khi phân tích dạng sống của các cây chồi trên đất (Ph) được
chia thành 9 nhóm phụ để dễ sử dụng hơn trong các rừng nhiệt đới ẩm, đó là:
(1). Cây gỗ lớn cao trên 25m (Mg)
(2). Cây lớn có chồi trên đất cao 8-25m (Me)
(3). Cây nhỏ có chồi trên đất 2-8m (Mi)
(4). Cây có chồi trên đất lùn dưới 2m (Na)
(5). Cây bì sinh (Ep)
(6). Cây chồi trên đất ký sinh và bán ký sinh (Pp)
(7). Cây chồi trên đất mọng nước (Suc)
(8). Cây có chồi trên đất leo cuốn (Lp)
(9). Cây chồi trên đất thân thảo (Hp)
Để thuận tiện trong việc so sánh phổ dạng sống giữa các hệ thực vật với
nhau, Raunkiaer [57] (1934) đưa ra một phổ dạng sống chuẩn dựa trên việc
tính toán cho hơn 1.000 cây ở các vùng khác nhau trên thế giới:
SN = 46 Ph + 9Ch + 26 He + 8 Cr + 15 Th
1.5.2. Ở Việt Nam
Việc nghiên cứu về phổ dạng sống ở Việt Nam chưa nhiều, tuy nhiên
cũng có một số công trình lớn đã đề cập đến vấn đề này. Điển hình là công
trình nghiên cứu của Pocs Tamas (1965) khi nghiên cứu hệ thực vật Bắc -
Việt Nam, ông đã phân tích, lập phổ dạng sống cho hệ thực vật này và thu
được kết quả như sau [56]:
Cây gỗ lớn cao trên 30m (Mg) 4,85%
Cây lớn có chồi trên đất cao 8-30m (Me) 3,80%
Cây có chồi trên đất lùn dưới 2m (Na) 8,02%
Cây có chồi trên đất leo cuốn (Lp) 9,08%
Cây có chồi trên đất sống nhờ và sống bám (Ep) 6,45%
Cây chồi sát đất (Ch)
Cây chồi nửa ẩn (Hm) 40,68%
Cây chồi ẩn (Cr)
20

Cây chồi một năm (Ch) 7,11%
Và phổ dạng sống như sau:
SB = 52,2% Ph + 40,68% (Ch, Hm, Cr) + 7,11% Th
Đối với VQG Cúc Phương, Phùng Ngọc Lan và các tác giả (1996) [24]
đưa ra phổ dạng sống như sau:
SB = 57,78% Ph + 10,64% Ch + 12,38% Hm + 8,37% Cr + 11,01% Th
Đối với VQG Bạch Mã, Nguyễn Nghĩa Thìn, Mai Văn Phô (2003) [40]
đã công bố dạng sống như sau:
SB= 75,71% Ph + 5,78% Ch + 4,83% Hm + 10,23% Cr + 3,45% Th
Còn ở VQG Pù Mát, Nguyễn Nghĩa Thìn và Nguyễn Thanh Nhàn (2004)
[39] đã lập được phổ dạng sống:
SB = 78,88% Ph + 4,14% Ch + 5,76% Hm + 5,97% Cr + 5,25% Th
Năm 2006, Nguyễn Nghĩa Thìn đưa ra phổ dạng sống ở Khu BTTN Na
Hang [37]:
SB = 70,14% Ph + 4,33% Ch + 3,50% Hm + 11,98% Cr + 10,05% Th
Đối với khu BTTN Xuân Liên, Đỗ Ngọc Đài (2010) [15] đưa ra phổ
dạng sống như sau:
SB = 84,77% Ph + 4,94% Ch + 2,41% Hm + 3,05% Cr + 4,83% Th.
Từ những dẫn liệu trên cho thấy: Vùng nhiệt đới ẩm đặc trưng bởi sự ưu
thế của nhóm dạng sống cây chồi trên (Ph), điều này cũng phù hợp với những
kết quả nghiên cứu và nhận xét của các tác giả như Raunkiaer (1934), Nguyễn
Nghĩa Thìn (1996), Lê Trần Chấn (1999)…
Riêng phổ dạng sống của họ Long não ở VQG Bạch Mã, theo Nguyễn
Nghĩa Thìn, Mai Văn Phô (2003) [40], đã lập phổ dạng sống:
SB = 73,33% MM + 22,22% Mi + 2,22% Ep + 2,22%Na
Còn ở VQG Pù Mát, Nguyễn Nghĩa Thìn và Nguyễn Thanh Nhàn
(2004) [39] đã lập được phổ dạng sống cho họ Long não như sau:
SB = 60,50% MM + 34,57% Mi + 1,23% Na + 3,70% Na.
21
1.6. Nghiên cứu về tinh dầu họ Long Não trên thế giới và ở Việt Nam

Tinh dầu là hỗn hợp các hợp chất hữu cơ có cấu tạo phức tạp và khác
nhau về tính chất lý học và hóa học, nhưng có một số đặc tính chung như có
mùi thơm, có khả năng bay hơi, dễ tan trong dung môi hữu cơ .
Tinh dầu có thể có ở các bộ phận khác nhau như lá, hoa, quả, vỏ và
thân, rễ. Trong đời sống thực vật, tinh dầu có vai trò bảo vệ cây khỏi các tác
dụng của sâu bệnh, che phủ các vết thương ở cây gỗ, ngăn chặn các bệnh do
nấm và biến đổi sức căng bề mặt của nước trong cây thúc đẩy sự vận chuyển
nước và tăng cường hiệu quả của các phản ứng enzim. Trong đời sống con
người, ngay từ xa xưa, tinh dầu đã được khai thác và sử dụng vào các mục
đích khác nhau. Đến nay, cùng với sự phát triển của khoa học, tinh dầu ngày
càng được ứng dụng rộng rãi trong công nghệ thực phẩm, trong hóa mỹ
phẩm, trong công nghiệp và y dược học.
Các nghiên cứu về tinh dầu trên thế giới và ở Việt Nam chủ yếu tập
trung vào các chi lớn như chi Cinnamomum (chi Long não), chi Litsea (chi
Màng tang)
Long não (Cinamomum) là một chi lớn trong họ Long não (Lauraceae),
gồm tới 250 loài, phân bố từ vùng đại lục châu Á đến khắp vùng Đông Nam Á,
Australia và khu vực Tây Thái Bình Dương.
Ở nước ta, số loài thuộc chi Long não rất phong phú và đa dạng. Năm
1991, Phạm Hoàng Hộ đã mô tả tóm tắt 40 loài và gần đây Nguyễn Kim Đào
(2003) đã thống kê được 45 loài (chiếm 16,8% tổng số loài của chi
Cinnamomum trên thế giới và bằng 46,6% số loài ở khu vực Malesian).
Hầu hết các loài thuộc chi Long não (Cinamomum) đều có chứa tinh dầu
hoặc hương thơm, song hàm lượng và thành phần hóa học của tinh dầu ở mỗi
loài thường khác nhau. Một số loài thì thành phần chủ yếu của tinh dầu là
cinnamaldehyd, ở những loài khác thì các thành phần ưu thế lại là eugenol,
comphor hoặc safrol.
22
Tinh dầu cất từ vỏ và từ lá của loài Quế đơn (C. cassia) đều chứa tinh
dầu với thành phần tương tự nhau, nhưng hàm lượng tinh dầu trong vỏ cao

hơn nhiều so với ở lá (1,0 - 4,0% trong vỏ; 0,3 - 0,8% trong lá và chồi non).
Tinh dầu từ vỏ có màu nâu nhạt, sánh, vị cay, thơm, ngọt, nóng, nặng hơn
nước với thành phần chính là (E)-cinnamaldehyd (70-95%), ngoài ra còn
nhiều hợp chất khác [31]. Theo Vernin và cộng sự (1990) thì thành phần hóa
học của tinh dầu cất từ vỏ Quế đơn (C. cassia) ở Trung Quốc khá phức tạp, có
tới gần 100 hợp chất và hiện đã xác định được 93 hợp chất, trong đó nhiều
nhất là (E)-cinnamic aldehyd (65,5%), các chất khác có hàm lượng đáng kể
lần lượt là coumarin (8,7%), cinnamyl acetat (3,6%), methoxycinnamaldehyd
(2,7%), benzaldehyd (0,9%), 2-methoxybenzaldehyd (0,7%), benzyl benzoat,
cinnamyl alcohol (0,2%), 2-phenyllethyl acetat (0,2%), eugenul acetat (0,2%),
(Z)-cinnamic aldehyd (0,1%), 2-phenylethyl benzoat (0,1%) và 3-
phenylpropanal (0,1%). Các hợp chất còn lại chỉ ở dạng vết [31].
Nhưng tinh dầu vỏ Quế đơn (C. cassia) được sản xuất từ Australia thì
thành phần hóa học lại chỉ gồm khoảng 40 hợp chất, trong đó chủ yếu là
cinnamic aldehyd (87,0%), tiếp đến là benzaldehyd (4,7%), 2-phenylethanol
(2,5%), 3- phenylpropanal (2,0%), 1,8-cineol (0,7%), 4-ethylguaiacol (0,5%),
ethyl cinnamat (0,4%), cuminaldehyd (0,4%), chavicol (0,3%) và counarin
(0,3%); các thành phần còn lại chỉ có hàm lượng không đáng kể hoặc vết
(Senanayake, 1997) [31].
Tinh dầu từ lá Quế đơn thường có màu nâu đậm và thành phần hóa học
chủ yếu cũng là (E)-cinnamaldehyd (70-90%), ngoài ra còn có coumarin,
cinnamyl acetat, 2-methoxycinnamaldehyd, benzaldehyd,
Cũng với tinh dầu lá Quế đơn, nhưng sinh trưởng tại Australia, theo
Senanayake (1997), ngoài thành phần chính là cinnamic aldehyd (77,2%) còn
có tới trên 30 hợp chất khác, trong đó đáng chú ý là coumarin (15,3%),
cinnamyl aldehyd (3,6%), benzaldehyd (1,2%), 4-ethylguaiacol (0,8%), ethyl
cinnamic (0,4%). Các thành phần còn lại thường không đáng kể.
23
Như vậy hàm lượng của (E)-cinnamic aldehyd cũng như các thành phần
khác trong tinh dầu vỏ và tinh dầu lá Quế đơn cũng luôn biến đổi dưới tác

động của các yếu tố di truyền, điều kiện môi trường và thời vụ thu hái.
Ở nước ta, khi phân tích các mẫu tinh dầu Quế đơn (C. cassia) khác nhau
đã cho thấy, chúng dao động trong những giới hạn nhất định. Tỷ trọng của
tinh dầu ở 20
0
C từ 1,045 - 1,072, chỉ số chiết quang 1,602 - 1,604, hàm lượng
(E)-cinnamaldehyd từ 80 - 95%, ngoài ra còn có các hợp chất khác như
cinnamyl acetat, cinnamyl alcohol, coumarin, benzyl benzoat,
Ở Quế thanh (C. loureirii), tinh dầu chứa trong vỏ với hàm lượng khá
cao và thay đổi trong khoảng từ 1,0% đến 7,0%. Tinh dầu chưng cất từ vỏ
Quế thanh thường có màu vàng nâu và thành phần chính của tinh dầu cũng là
(E)-cinnamaldehyd (80-92,5%); ngoài ra khoảng trên 10 hợp chất khác đã
được xác định, trong đó có các chất 3-phenypropanal, (Z)-cinnamic aldehyd,
coumarin, benzaldehyd, eugenol, β-caryophyllen, camphor, linalool [54].
Tinh dầu từ lá Quế thanh có màu nâu nhạt và thành phần hóa học có sai khác
rõ với tinh dầu từ vỏ.Ở nước ta, những nghiên cứu hóa học về loài này còn rất
ít, mặc dù đây là loài gần như đặc hữu.
Trong vỏ của loài Quế rành (C. burmanni) chứa 1,0-4,0% tinh dầu,
thường không màu hoặc có màu vàng nâu nhạt với thành phần chính cũng là
cinnamaldehyd (60-85%), các hợp chất khác có hàm lượng đáng kể gồm: 1,8-
cineol, α-terpineol, camphor, terpinen-4-ol, borneol, α-pinen, β-caryophyllen,
para-cymen, camphen…; không có eugenol. Tinh dầu từ lá Quế rành cũng
gồm chủ yếu là cinnamaldehyd, nhưng tinh dầu từ vỏ rễ lại có thành phần
chính là camphor [51].
Hàm lượng tinh dầu trong vỏ Quế rành (Cinnamomum burmanni) tương
đối cao (1-4%). Tinh dầu không màu hoặc vàng nâu nhạt, thành phần chủ yếu
của tinh dầu ngoài cinnamaldehyd còn có 1,8-cineol; α-terpineol và camphor,
không có eugenol [51]. Theo phân tích của Ji Xia-duo và cộng sự (1991) thì
thành phần hóa học trong tinh dầu vỏ quế rành sinh trưởng tại Inđônêxia gồm
24

các hợp chất chủ yếu sau: 1,8-cineol (51,4%), α-terpineol (12,5%), camphor
(9,0%), terpinen-4-ol (8,5%), borneol (1,8%), α-pinen (1,6%), β-caryophyllen
(1,6%), para-cymen (1,0%), β-eudesmol (0,5%), camphen (0,5%), elemon
(0,4%), myristicin (0,4%), β-pinen (0,4%), α-humulen (0,3%) và bornyl acetat
(0,1%); ngoài ra còn một số hợp chất khác chưa xác định được [51].
Cùng ở Quế rành tại Inđônêxia, tinh dầu cất từ lá lại có thành phần khác với
tinh dầu vỏ. Các thành phần đáng kể trong lá gồm: 1,8-cineol (28,5%); borneol
(16,5%); α-terpineol (6,4%); para-cymen (6,1%); spathulenol (5,8%); terpinen-
4-ol (4,1%); bornyl acetat (3,1%); β-caryophyllen (2,9%); α-pinen (1,9%);
cinnamyl acetat (1,5%); myristicin (1,2%); elemol (0,6%); α-humulen (0,4%);
linalool (0,4%); camphen (0,2%); β-eudesmol (0,1%) và các thành phần khác
chưa xác định được chiếm 8,6% (Ji Xiao-due và cộng sự, 1991) [51].
Tinh dầu vỏ Quế rành thương phẩm trên thị trường thế giới (Theo
Lawrence và đồng nghiệp, 1993) gồm các thành phần chủ yếu sau: (E)-
cinnamaldehyd (62,7-85,8%); α-terpineol (1,3-1,4%); (E)-cinnamal acetat (0,1-
0,2%); β-caryophyd (1,0-2,6%); Terpinen-4-ol (1,3-2,3%); phenylpropanal (vết-
1,4%); α-copaen (1,0-2,3%); benzaldehyd (0,5-1,2%); linalool (vết-1,6%);
coumarin (vết-0,4%) và một số hợp chất khác mà hàm lượng chỉ ở dạng vết
hoặc không đáng kể [52].
Hàm lượng tinh dầu trong vỏ Quế rành phân bố tại miền Nam Trung
Quốc thường thấp (0,4-0,6%) và thành phần chủ yếu của tinh dầu ngoài
cinnamic aldehyd còn có eugenol và safrol [53].
Những dẫn liệu trên đã cho thấy thành phần hóa học của tinh dầu Quế
rành khá đa dạng. Nó không chỉ phụ thuộc vào thời điểm thu hái, vào tính di
truyền của từng giống mà còn có quan hệ với khu vực phân bố.
Hàm lượng tinh dầu ở Quế xây lan (C. verum) thường thấp (0,5-2,0%
trong vỏ và 0,7-1,2% trong lá). Tinh dầu từ vỏ cũng chứa chủ yếu là (E)-
cinnamaldehyd (46,5-89%), các thành phần khác đáng chú ý là limonene, β-
caryophyllen, eugenol, linalool, α-pinen, para-cymen… Khác với tinh dầu từ
25

×