Tải bản đầy đủ (.doc) (104 trang)

Hoạt động cách mạng của tôn trung sơn ở nhật bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (539.35 KB, 104 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

HOÀNG THỊ NGUYÊN



HOẠT ĐỘNG CÁCH MẠNG
CỦA TÔN TRUNG SƠN Ở NHẬT BẢN
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ
NGHỆ AN - 2014
2
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
HOÀNG THỊ NGUYÊN
HOẠT ĐỘNG CÁCH MẠNG
CỦA TÔN TRUNG SƠN Ở NHẬT BẢN
Chuyên ngành: Lịch sử Thế giới
Mã số: 60.22.03.11
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ
Người hướng dẫn khoa học:
TS. NGUYỄN THỊ HƯƠNG
NGHỆ AN - 2014
4
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn những người thân trong gia đình, bạn bè đã
giúp đỡ, động viên, tạo điều kiện cho tôi cả về mọi mặt trong quá trình học
tập và làm luận văn.
Xin cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Lịch sử Trường Đại học Vinh
đã cho tôi những kiến thức quý báu trong suốt thời gian học tập tại trường.
Cảm ơn các cán bộ nhân viên Thư viện Thông tin khoa học xã hội đã nhiệt


tình giúp đỡ, cung cấp tư liệu để tôi hoàn thành luận văn của của mình.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành tới TS. Nguyễn Thị
Hương, người đã tận tình hướng dẫn chỉ bảo, giúp đỡ để tôi hoàn thành bản
luận văn của mình.
Nghệ An, tháng 10 năm 2014
Tác giả
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 7
1. Lý do chọn đề tài 8
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX các cuộc đấu tranh, các cuộc thử nghiệm nhằm giữ
vững độc lập dân tộc của Trung Quốc đã lâm vào bế tắc, đất nước Trung Hoa bị các
nước đế quốc tranh nhau xâu xé. Bài toán cứu nước vẫn được đặt ra, chính trong hoàn
cảnh đó trên vũ đài chính trị của Trung Quốc xuất hiện một nhà cách mạng dân tộc dân
chủ lớn đó là Tôn Trung Sơn. Bằng trí tuệ, tài năng, những kinh nghiệm cách mạng quý
báu đúc rút trong cuộc đời hoạt động của mình cùng với hoài bão cứu nước Tôn Trung
Sơn đã xây dựng học thuyết cách mạng: Chủ nghĩa tam dân. Trong đó ông đặt vấn đề
dân tộc lên hàng đầu, bởi vì theo ông chỉ khi "dân tộc độc lập" mới có "dân quyền tự do"
và "dân sinh hạnh phúc". Tư tưởng ấy trở thành đường lối lý luận cơ bản, làm nền tảng
định hướng cho cuộc cách mạng Tân Hợi (1911) 8
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 10
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 14
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 15
5. Nguồn tài liệu 16
6. Đóng góp luận văn 16
7. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 16
8. Bố cục luận văn 17
Chương 1
BỐI CẢNH LỊCH SỬ TRƯỚC KHI TÔN TRUNG SƠN
ĐẾN NHẬT BẢN HOẠT ĐỘNG CÁCH MẠNG 18

1.1. Vài nét về cuộc đời hoạt động cách mạng của Tôn Trung Sơn 18
1.2. Tư tưởng cách mạng dân tộc của Tôn Trung Sơn 24
1.2.1. Tiền đề lịch sử dẫn đến việc hình thành tư tưởng cách mạng dân tộc của
Tôn Trung Sơn 24
1.2.2. Tư tưởng chủ nghĩa dân tộc của Tôn Trung Sơn 26
1.3. Những điều kiện thuận lợi để Tôn Trung Sơn sang hoạt động ở Nhật Bản 31
1.3.1. Vị trí địa lý, văn hóa và chủng tộc 31
1.3.2. Ảnh hưởng Minh Trị Duy Tân đối với Trung Quốc 33
1.3.3. Tình hình Hoa kiều và lưu học sinh Trung Quốc ở Nhật Bản 34
Tiểu kết chương 1 38
Chương 2
NHỮNG HOẠT ĐỘNG CỦA TÔN TRUNG SƠN Ở
NHẬT BẢN 40
2.1. Khái quát những hoạt động cách mạng của Tôn Trung Sơn ở hải ngoại 40
2.2. Hoạt động tuyên truyền cách mạng của Tôn Trung Sơn trong cộng đồng Hoa kiều
và lưu học sinh ở Nhật Bản 44
2.3. Tôn Trung Sơn xây dựng các tổ chức cách mạng ở Nhật Bản 50
2.3.1. Thành lập phân hội Hưng Trung Hội 50
2.3.2. Thành lập tổ chức Trung Quốc cách mạng Đồng Minh Hội 52
2.3.3. Cải tổ Quốc Dân Đảng thành Đảng Cách mạng Trung Hoa 59
2.4. Tôn Trung Sơn hội kiến với các nhà cách mạng ở Nhật Bản 62
2.4.1. Hội kiến với Phan Bội Châu 62
2.4.2. Hai lần mật đàm với Katsura Taro 66
2.4.3. Đàm phán với Lương Khải Siêu để liên hợp phái cải lương và phái cách
mạng 67
Tiểu kết chương 2 69
Chương 3
KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG CÁCH MẠNG CỦA TÔN
TRUNG SƠN
Ở NHẬT BẢN 71

3.1. Tác động đến tư tưởng cách mạng của lực lượng Hoa kiều và lưu học sinh Trung
Quốc ở Nhật Bản 71
3.2. Hoa kiều và lưu học sinh Trung Quốc ở Nhật Bản trở về nước tham gia các phong
trào đấu tranh cách mạng do Tôn Trung Sơn phát động 75
3.3. Sự giúp đỡ của các tầng lớp nhân dân Nhật Bản đối với Tôn Trung Sơn 80
3.4. Một số nhận xét về quá trình hoạt động cách mạng của Tôn Trung Sơn 84
Tiểu kết chương 3 90
KẾT LUẬN 92
TÀI LIỆU THAM KHẢO 96
PHỤ LỤC 101
MỞ ĐẦU
7
1. Lý do chọn đề tài
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX các cuộc đấu tranh, các cuộc thử
nghiệm nhằm giữ vững độc lập dân tộc của Trung Quốc đã lâm vào bế tắc, đất
nước Trung Hoa bị các nước đế quốc tranh nhau xâu xé. Bài toán cứu nước
vẫn được đặt ra, chính trong hoàn cảnh đó trên vũ đài chính trị của Trung
Quốc xuất hiện một nhà cách mạng dân tộc dân chủ lớn đó là Tôn Trung Sơn.
Bằng trí tuệ, tài năng, những kinh nghiệm cách mạng quý báu đúc rút trong
cuộc đời hoạt động của mình cùng với hoài bão cứu nước Tôn Trung Sơn đã
xây dựng học thuyết cách mạng: Chủ nghĩa tam dân. Trong đó ông đặt vấn đề
dân tộc lên hàng đầu, bởi vì theo ông chỉ khi "dân tộc độc lập" mới có "dân
quyền tự do" và "dân sinh hạnh phúc". Tư tưởng ấy trở thành đường lối lý
luận cơ bản, làm nền tảng định hướng cho cuộc cách mạng Tân Hợi (1911).
Trong cuộc đấu tranh cách mạng nhằm lật đổ chế độ phong kiến
chuyên chế, thành lập nền cộng hòa ở Trung Quốc do Tôn Trung Sơn lãnh
đạo, Nhật Bản có một vị trí hết sức quan trọng.
1.1. Nhật Bản sau cuộc cải cách Minh Trị (1868 - 1912) đã làm say mê
các nước xung quanh, trong đó có Trung Quốc. Đồng thời, Nhật Bản - Trung
Quốc là hai nước gần nhau về mặt địa lý, xét trên bình diện văn hóa thì Trung

Quốc và Nhật Bản có những phong tục tập quán gần giống nhau, có nhiều
điểm tương đồng đặc biệt là vấn đề Nho giáo. Cho nên, người Trung Quốc đã
hướng sang Nhật để học tập. Vì vậy, ở Nhật Bản có số lượng lưu học sinh
Trung Quốc khá đông. Đây là lực lượng có vai trò quan trọng trong quá trình
hoạt động cách mạng của Tôn Trung Sơn. Đó là lý do giải thích vì sao trong
hoạt động cách mạng Tôn Trung Sơn có tới mười một lần đến Nhật Bản với
thời gian lưu lại là 7 năm 10 tháng [14; tr.106]. Ông đã sớm tiếp xúc với Hoa
kiều ở đây và thành lập phân hội Hưng Trung Hội vào năm 1895. Tháng
8/1905 tại đây tổ chức Đồng Minh Hội - chính Đảng của giai cấp tư sản
8
Trung Quốc được thành lập, đánh dấu sự thống nhất các đoàn thể cách mạng
trong ngoài nước, và cũng tại nơi đây trên cơ sơ tổ chức Quốc Dân Đảng cải
tổ thành Đảng cách mạng Trung Hoa.
Vì vậy, nếu như nói Đàn Hương Sơn là nơi Tôn Trung Sơn phát động
và tổ chức công tác cách mạng ở hải ngoại thì Nhật Bản là đại bản doanh của
Đảng cách mạng do Tôn Trung Sơn thành lập. Từ đó, có thể thấy những hoạt
động cách mạng của Tôn Trung Sơn ở Nhật Bản là điều kiện không thể thiếu
cho những thành công sau này.
Thế nhưng cho đến nay, với những tài liệu chúng tôi tiếp cận được, ở
nước ta mới chỉ tập trung nghiên cứu về Chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung
Sơn, về thành quả Cách mạng Tân Hợi và ảnh hưởng của nó đối với phong
trào giải phóng dân tộc Việt Nam đầu thế kỷ XX. Gần đây, đã có những công
trình chuyên khảo nghiên cứu về những hoạt động của Tôn Trung Sơn ở Việt
Nam. Vì vậy, việc bước đầu nghiên cứu về những hoạt động của Tôn Trung
Sơn ở Nhật Bản và kết quả của những hoạt động ấy trên cơ sở kế thừa những
tư liệu nghiên cứu của các nhà khoa học trong nước thiết nghĩ là một việc làm
có ý nghĩa khoa học.
1.2. Trong suốt quá trình hoạt động tuyền truyền cách mạng của Tôn
Trung Sơn ở Nhật Bản luôn nhận được sự giúp đỡ của bộ phận Hoa kiều và
lưu học sinh Trung Quốc ở Nhật Bản. Đặc biệt, sau khi được giác ngộ về tư

tưởng cách mạng, đại bộ phận Hoa kiều và lưu học sinh Trung Quốc ở Nhật
Bản đã tiên phong về nước, tiếp tục tích cực ủng hộ và tham gia vào các
phong trào đấu tranh do Tôn Trung Sơn phát động. Vì vậy, nghiên cứu vấn đề
này bước đầu cho chúng ta thấy được bức tranh toàn cảnh về những hoạt động
cách mạng của Tôn Trung Sơn ở Nhật Bản. Đồng thời, cho chúng ta thấy
được qua quá trình hoạt động tuyên truyền cách mạng của Tôn Trung Sơn đã
9
tác động đến tư tưởng và hành động cách mạng của cộng đồng Hoa kiều và
lưu học sinh ở Nhật Bản.
1.3. Với một thời gian dài Tôn Trung Sơn hoạt động cách mạng ở Nhật
Bản, luôn nhận được sự quan tâm, ủng hộ của các tầng lớp nhân dân Nhật
Bản đối với chủ trương và hoạt động cách mạng của ông. Cho nên đi sâu tìm
hiểu vấn đề này một mặt nhìn nhận rõ sự ủng hộ giúp đỡ phong trào cách
mạng Trung Quốc của người dân Nhật Bản trong thời kỳ Tôn Trung Sơn hoạt
động ở đây. Mặt khác, thấy được mối quan hệ giữa hai nước Trung - Nhật
trong thời cận đại.
1.4. Bên cạnh đó, với với tấm lòng kính trọng và khâm phục tài năng đối
với một nhà yêu nước dân chủ vĩ đại, một nhân vật hàng đầu trong lịch sử cận
hiện đại Trung Quốc, nên từ lâu tôi đã tìm hiểu các tài liệu viết về ông. Mặt
khác là một học viên chuyên nghành Lịch sử Thế giới, tìm hiểu về vấn đề này
sẽ phục vụ tốt hơn cho việc học tập hiện tại cũng như trang bị cho tôi những
tư liệu để phục vụ cho công tác giảng dạy ở trường phổ thông sau này.
Vì những ý nghĩa khoa học và thực tiễn nêu trên chúng tôi chọn đề tài:
''Hoạt động cách mạng của Tôn Trung Sơn ở Nhật Bản" để làm đề tài luận
văn tốt nghiệp.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Tôn Trung Sơn là người quyết chí lật đổ triều đình Mãn Thanh, sáng
lập ra Cộng Hòa Trung Hoa để nhằm làm cho Trung Quốc mãi mãi tồn tại
trên Thế giới. Để thực hiện ý nguyện đó, ông đã giương cao ngọn cờ cứu
nước, tích cực tuyên truyền tư tưởng dân tộc kêu gọi người Trung Hoa trong

và ngoài nước đoàn kết, tổ chức ra các đoàn thể cách mạng.
Thực tiễn đã chứng minh, Tôn Trung Sơn không chỉ là một nhà tư
tưởng, mà là một nhà cách mạng lớn của lịch sử Trung Quốc. Là người sáng
lập ra nền cộng hòa sau khi lãnh đạo cuộc cách mạng Tân Hợi năm 1911, lật
10
đổ nền thống trị gần 300 năm của triều đình mãn Thanh, kết thúc chế độ
phong kiến chuyên chế kéo dài gần 3000 năm ở Trung Quốc. Qua đó, thúc
đẩy tinh thần dân chủ và là một bước chuẩn bị cho cuộc cách mạng dân chủ
mới ở Trung Quốc sau này. Vì lẽ đó, giờ đây nhân dân Trung Quốc xem Tôn
Trung Sơn là "một trong ba vĩ nhân" của Trung quốc hiện đại (bao gồm Tôn
Trung Sơn, Mao Trạch Đông, Đặng Tiểu Bình).
Tìm hiểu về lãnh tụ Tôn Trung Sơn và quá trình hoạt động cách mạng
của ông ở hải ngoại trong đó có Nhật Bản từ lâu đã trở thành đề tài thu hút sự
quan tâm chú ý của nhiều nhà nghiên cứu ở trong nước. Nhiều công trình
nghiên cứu có giá trị đã được công bố. Tuy nhiên hầu hết các công trình đó
chỉ đề cập đến góc độ tổng quát.
Trong cuốn "Cách mạng Tân Hợi 90 năm nhìn lại" của trung tâm
khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, trung tâm nghiên cứu Trung Quốc,
nhà xuất bản khoa học xã hội Hà Nội năm 2002, nội dung của nó xoay
quanh việc phân tích những vấn đề cụ thể trong Chủ nghĩa Tam Dân của
Tôn Trung Sơn.
Gần đây theo xu hướng chú ý, tập trung phát triển các đề tài nghiên cứu
khoa học về khu vực nhất là về các nước láng giềng trong cùng khu vực, lịch
sử Trung Quốc nói chung và các vấn đề liên quan đến Tôn Trung Sơn đã
được đề cập trong nhiều công trình. Tiêu biểu là những bài viết trong các kỷ
yếu khoa học: "Kỷ yếu lần thứ 80 cuộc cách mạng Tân Hợi (1911 - 1991)" (tư
liệu lưu tại Khoa Lịch Sử - Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học
Quốc gia, Hà Nội); Cũng nhân kỷ niệm 95 năm cách mạng Tân Hợi, vào năm
2006, Viện Nghiên cứu Trung Quốc đã tổ chức Hội thảo "Tôn Trung Sơn -
Cách mạng Tân Hợi và quan hệ Việt Nam - Trung Quốc". Nội dung của các

cuộc hội thảo này chủ yếu xoay quanh việc đánh giá vai trò của Tôn Trung
11
Sơn trong cách mạng dân tộc dân chủ, về cách mạng Tân Hợi, về Chủ nghĩa
Tam dân cùng những đóng góp của nó trong lịch sử Trung Quốc.
Trong các lĩnh vực chuyên sâu , những tài liệu chúng tôi tiếp cận được
là các tác phẩm được dịch ra tiếng việt, các bài báo đăng trên các tạp chí và
một số luận văn có đề cập một vài khía cạnh như:
Cuốn "Tôn Trung Sơn với Hoa kiều" của Nhâm Quý Tường, Nhà xuất
bản Nhân dân Hắc Long Giang năm 1998. Trong đó, nó đã đề cập đến tình
hình người Hoa và Hoa kiều trên thế giới cũng như sự phân bổ của họ khắp
năm châu. Đồng thời, đề cập đến những hoạt động cách mạng của Tôn Trung
Sơn và sự ủng hộ của lực lượng Hoa kiều đối với Tôn Trung Sơn ở hải ngoại.
Cuốn "Nghiên cứu quan hệ Tôn Trung Sơn với Nhật Bản" của Du Tân
Hợp, Nhà xuất bản Nhân dân Bắc Kinh năm 1996. Trong đó, nó đề cập đến
những phong trào cách mạng dưới sự lãnh đạo của Tôn Trung Sơn mà còn đề
cập đến thái độ của lưu học sinh Trung Quốc ở Nhật Bản đối với việc thành
lập tổ chức Đồng Minh Hội và tham gia các phong trào cách mạng do Tôn
Trung Sơn lãnh đạo. Đồng thời nói về chính sách của Nhật Bản đối với Tôn
Trung Sơn và các cuộc cách mạng Trung Quốc.
Cuốn "Tôn Trung Sơn cuộc đời và sự nghiệp cách mạng’’ của Tôn
Huệ Phương được Nguyễn Khắc Khoái biên dịch và Nhà xuất bản Công an
Nhân dân ấn hành năm 2003. Trong đó, nó đã đề cập hoạt động của Tôn
Trung Sơn từ thời niên thiếu đến khi tạ thế tại Bắc Kinh.
Trong công trình nghiên cứu công phu của giáo sư Shiraishi Masaya,
Đại học Waseda, Nhật Bản:"Phong trào dân tộc việt nam và quan hệ của nó
với Nhật Bản và Châu Á - Tư tưởng của Phan Bội Châu về cách mạng và
thế giới", tập 2 do nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội biên dịch và xuất
bản năm 2000. Ở tác phẩm này, khi nghiên cứu phong trào dân tộc Việt
Nam, tác giả đặt trọng tâm vào việc xem xét đường lối, chủ trương và hoạt
12

động và Phan Bội Châu chủ yếu trong thời kỳ ở Nhật Bản. Đồng thời đặt nó
trong bối cảnh lịch sử và các quan hệ quốc tế ở châu Á lúc đó để có những
đánh giá chính xác, tác giả đã xem xét một cách khách quan mối quan hệ
giữa Phan Bội Châu với nhà hoạt động cách mạng tỉnh Vân Nam Trung
Quốc và Tôn Trung Sơn tại Nhật Bản. Trong đó đề cập chi tiết đến hai lần
Phan Bội Châu gặp Tôn Văn ở Yokohama, Nhật Bản và một lần gặp ở Nam
kinh Trung Quốc.
Trong cuốn "Tôn Dật Tiên người giải phóng Trung Hoa" của Henri
Bond Restarick, do Nguyễn Sinh Huy dịch, Nhà xuất bản Đà Nẵng năm 2000.
Restarich đã trình bày những nét mới trong tiểu sử, sự nghiệp của Tôn Trung
Sơn dưới dạng lời kể, đặc biệt ở các chương VII, XII, XV đã phần nào đề cập
đến hoạt động cách mạng của Tôn Trung Sơn ở Nhật Bản. Mặt khác, cuốn
sách cũng là một tư liệu tham khảo về cuộc đời của Tôn Trung Sơn; "Hoa
kiều ở các nước Đông Nam Á và trên Thế Giới" Thư viện quân đội sao học
(1978) đã đề cập đến tình hình người Hoa ở các nước trên thế giới trong đó có
Nhật Bản.
Ngoài ra còn có các Luận văn Tiến sĩ, cao học và Đại học: Luận án
Tiến sĩ của Nguyễn Thị Hương; ''Hoạt động của Tôn Trung Sơn và tác động
của nó đối với phong trào cách mạng trong cộng đồng người Hoa và Hoa
kiều ở Việt Nam"; Khóa luận tốt nghiệp của Nguyễn Thị Ánh Linh (2005)
"Vai trò của Tôn Trung Sơn đối với cách mạng Trung Quốc trong những năm
1894 - 1925"… Nội dung của các luận văn nghiên cứu về các khía cạnh có
liên quan như: tư tưởng cách mạng dân tộc của Tôn Trung Sơn, hoạt động
tuyên truyền cách mạng, nhận thức về vai trò người Hoa và Hoa kiều ở hải
ngoại, xây dựng các tổ chức cách mạng của Tôn Trung Sơn ở Việt Nam…
Ở những góc độ nêu trên còn có nhiều bài viết của các nhà nghiên cứu
Việt Nam công bố trên các Tạp chí khoa học có uy tín đáng kể như: "Các giai
13
đoạn phát triển trong hệ tư tưởng chính trị dân tộc của Tôn Trung Sơn" của
Nguyễn Thị Hương và Tăng Thanh Sang đăng trên tạp chí nghiên cứu Đông

Nam Á số 1/2010, "Trung Quốc Cách mạng Đồng Minh Hội và các nhóm
cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á" của Châu Hải đăng trên tạp chí Nghiên
Cứu Lịch sử số 5, tr. 82 - 88; "Phan Bội Châu và các nhà cách mạng Trung
Quốc ở Nhật Bản" của Nguyễn Tiến Lực đăng trên Tạp chí nghiên cứu Trung
Quốc số 6 (22), tr. 36 - 42…
Mặc dù trong các công trình kể trên có đề cập đến một số vấn đề liên
quan đến luận văn như việc ông thành lập các tổ chức cách mạng, tình hình
Hoa kiều và lưu học sinh ở Nhật Bản… Nhưng chưa lý giải vì sao Tôn Trung
Sơn lại nhiều lần đến Nhật Bản, đồng thời quá trình Tôn Trung Sơn hoạt động
cách mạng cũng như kết quả của quá trình hoạt động ấy chưa được đề cập
đến. Tuy nhiên, những tài liệu chuyên khảo trên vẫn là nguồn tư liệu quý giá
cho chúng tôi thực hiện đề tài. Trên cơ sở kế thừa những thành tựu của các
nhà nghiên cứu trước, tác giả luận văn sẽ nghiên cứu và giải thích vì sao Tôn
Trung Sơn đến Nhật Bản để hoạt động cách mạng, cũng như quá trình và kết
quả hoạt động cách mạng của Tôn Trung Sơn ở Nhật Bản.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Trong luận văn này, chúng tôi muốn đi sâu nghiên cứu những điều kiện
lịch sử dẫn đến việc Tôn Trung Sơn sang Nhật Bản hoạt động. Để từ đó tìm
hiểu những hoạt động cách mạng của Tôn Trung Sơn ở Nhật Bản và kết quả
của những hoạt động ấy. Qua đó góp thêm một mảng chứng cứ, tư liệu lịch sử
để làm rõ hơn về cuộc đời sự nghiệp cách mạng của Tôn Trung Sơn.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ tư tưởng cách mạng dân tộc của Tôn Trung Sơn cũng như
những điều kiện thuận lợi để Tôn Trung Sơn sang Nhật Bản và tình hình Hoa
kiều và lưu học sinh ở Nhật Bản.
14
- Khái quát những về những hoạt động cách mạng của Tôn Trung
Sơn trong cộng đồng người Hoa và Hoa kiều ở thế giới. Qua đó đi sâu vào
những hoạt động cụ thể của ông trong cộng đồng Hoa kiều và lưu học sinh

ở Nhật Bản.
- Làm rõ sự tác động đến tư tưởng cách mạng của bộ phận Hoa kiều và
lưu học sinh cũng như sự giúp đỡ của tầng lớp nhân dân Nhật Bản đối với sự
nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ của Tôn Trung Sơn.
- Đánh giá, nhận xét về quá trình hoạt động cách mạng của Tôn Trung Sơn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những điều kiện lịch sử, những
hoạt động cách mạng của Tôn Trung Sơn ở Nhật Bản và kết quả của những
hoạt động ấy.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
* Về phạm vi nội dung:
Về phạm vi nội dung của đề tài, có nhiều cách tiếp cận khác nhau, tuy
nhiên trong phạm vi luận văn này chúng tôi nghiên cứu những điều kiện trước
khi Tôn Trung Sơn sang Nhật Bản như về quê hương, gia đình, tư tưởng cách
mạng dân tộc và nguyên nhân Tôn Trung Sơn sang Nhật Bản. Từ đó tập trung
đi sâu phân tích hoạt động cách mạng của ông ở Nhật Bản và kết quả của quá
trình hoạt động cách mạng của Tôn Trung Sơn ở Nhật Bản.
* Về phạm vi không gian: Đề tài đề tập trung nghiên cứu những sự kiện
xảy ra ở Trung Quốc và những hoạt động cách mạng của Tôn Trung Sơn ở
Nhật Bản.
* Về phạm vi thời gian: Đề tài tập trung trong khoảng thời gian từ năm
1895 đến năm 1924.
15
5. Nguồn tài liệu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở nguồn tài liệu tiếng Việt tương
đối đa dạng như: các ấn phẩm chuyên sâu, các bài viết trên tạp chí nghiên cứu
khoa học. Internet, các tập kỷ yếu hội thảo và một số luận văn nghiên cứu
khoa học, các tài liệu tiếng Trung …
6. Đóng góp luận văn

- Khái quát lại những tư liệu liên quan đến Tôn Trung Sơn về quê
hương, gia đình, tư tưởng cách mạng và nguyên nhân Tôn Trung Sơn sang
Nhật Bản.
- Hệ thống lại nguồn tài liệu nghiên cứu về quá trình hoạt động cách
mạng của Tôn Trung Sơn ở Nhật Bản. Cũng như khái quát vai trò của bộ
phận Hoa kiều và lưu học sinh Trung Quốc ở Nhật Bản đối với hoạt động
cách mạng của Tôn Trung Sơn.
Đồng thời cũng góp phần làm phong phú thêm những công trình khoa
học nghiên cứu về lịch sử Trung Quốc của ngành Trung Quốc học ở Việt Nam.
- Luận văn có thể sử dụng như một tài liệu tham khảo có giá trị trong
việc nghiên cứu, giảng dạy.
7. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết các nhiệm vụ khoa học đặt ra, chúng tôi dựa vào chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, những quan điểm của
chủ nghĩa Mác- Lênin làm cơ sở phương pháp luận cho việc nghiên cứu.
Là một đề tài lịch sử nên phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic
được đặc biệt coi trọng. Luận văn dựa trên cơ sở những tư liệu lịch sử, những
sự kiện lịch sử để phân tích, xử lý, hệ thống hóa, khái quát hóa vấn đề.
Ngoài ra chúng tôi còn sử dụng các phương pháp khác như: Tổng hợp,
đối chiếu, so sánh, biên niên, thống kê.
16
8. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1: Bối cảnh lịch sử trước khi Tôn Trung Sơn đến Nhật Bản
hoạt động cách mạng.
Chương 2: Những hoạt động cách mạng của Tôn Trung Sơn ở Nhật Bản.
Chương 3: Kết quả hoạt động cách mạng của Tôn Trung Sơn ở
Nhật Bản.
17

Chương 1
BỐI CẢNH LỊCH SỬ TRƯỚC KHI TÔN TRUNG SƠN
ĐẾN NHẬT BẢN HOẠT ĐỘNG CÁCH MẠNG
1.1. Vài nét về cuộc đời hoạt động cách mạng của Tôn Trung Sơn
Tôn Trung Sơn (1866 - 1925), quê ở thôn Thúy Hạnh, huyện Hương
Sơn, tỉnh Quảng Đông. Lúc còn nhỏ gọi là Đế Tượng, tự là Đức Minh, khi lớn
lên tên hiệu là Nhật Tân sau đổi thành Dật Tiên. Năm 1897 khi hoạt động
cách mạng ở Nhật Bản lấy tên là Trung Sơn Tiều còn gọi là Tôn Trung Sơn
(Tôn Dật Tiên).
Ngay từ thủa nhỏ, Tôn Trung Sơn đã lao động gần gũi với nông dân
nên ông sớm hiểu được nỗi thống khổ của quần chúng nhân dân. Đến khi
trưởng thành, chịu ảnh hưởng truyền thống đấu tranh cách mạng của quê
hương, ông quyết tâm hướng đến sự nghiệp cách mạng của phong trào nông
dân Thái Bình Thiên Quốc.
Tháng 5 năm 1879 Tôn Trung Sơn theo mẹ sang Honolulu thuộc
quần đảo Haoai (Đàn Hương Sơn) nương nhờ người anh trai Tôn Mi (còn
gọi là Tôn Đức Chương) - một tư sản Hoa kiều. Chính nhờ sự giúp đỡ đó
mà Tôn Trung Sơn đã được học tập và tiếp thu tương đối có hệ thống nền
giáo dục phương Tây lúc bấy giờ. Những gì mà Tôn Trung Sơn học tập
được ở nước ngoài, những kiến thức, những tư tưởng mới tiến bộ cùng với
việc tiếp cận một cuộc sống tốt hơn khiến ông có sự đối sánh với thực trạng
Trung Hoa và nảy sinh quyết tâm nâng cao địa vị dân tộc, hướng đến chế
độ dân chủ. Cũng tại đây ông đã có điều kiện tốt nhằm trang bị cho mình
một công cụ đắc lực đó là vốn tiếng Anh giúp thuận lợi cho việc nghiên
cứu các học thuyết chính trị, kinh tế phương Tây trong quá trình hoạt động
cách mạng sau này.
18
Sau cuộc chiến tranh Trung - Pháp (1884) Trung Quốc thất bại, hành vi
chuyên chế, mục nát của nhà Thanh ngày càng biểu hiện rõ nét. Nhận thức
sâu sắc điều đó, Tôn Trung Sơn quyết tâm đấu tranh chống lại chính quyền

Mãn Thanh. Trong thời gian học tại trường y Bác Tế Quảng Châu, tiếp đó là
trường y Anh Văn (Học Viện Tây Y) ở Hồng Kông (Hương Cảng), ông
thường lấy học đường làm nơi cổ động. Sau khi tốt nghiệp Tôn Trung Sơn tới
Ma Cao, Quảng Đông để một mặt hành nghề y, mặt khác bắt đầu tổ chức hoạt
động cách mạng. Mục đích trước mắt là chữa bệnh cứu người, sâu xa là chữa
bệnh cứu nước thông qua việc tuyên truyền tư tưởng chống chính quyền Mãn
Thanh đến các tầng lớp nhân dân.
Trong khi cuộc chiến tranh Giáp Ngọ (1894) giữa Trung Quốc và Nhật
Bản đang tiếp diễn với kết quả bất lợi cho Trung Quốc, triều đình vẫn tiến
hành đại lễ chúc thọ Từ Hi Thái Hậu, tiêu tốn 2 triệu 19 vạn lạng bạc. Chính
quyền thối nát, lòng người căm phẫn, do đó Tôn Trung Sơn liền tới Honolulu
sáng lập ra tổ chức cách mạng Hưng Trung Hội. Tháng 10/1895, Tôn Trung
Sơn phát động cuộc khởi nghĩa đầu tiên ở Quảng Châu nhưng do kế hoạch bị
bại lộ, Tôn Trung Sơn buộc phải bôn ba hải ngoại. Đây chính là thời gian ông
có điều kiện lưu lại châu Âu để nghiên cứu khảo sát tình hình chính trị, kinh
tế, xã hội và kết giao với các bậc hiền tài. Trên cơ sở đó, Chủ nghĩa Tam dân
của ông từng bước được hình thành và hoàn chỉnh.
Sau khi Biến pháp Mậu Tuất (1898) thất bại thì Tôn Trung Sơn đã có ý
định hợp tác với phái Cải lương của Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu
nhưng không thành công. Phái Cải lương ra sức phản đối cách mạng, kiên trì
với đường lối Bảo hoàng, nên Tôn Trung Sơn đã ra sức hoạt động nhằm gạt
bỏ ảnh hưởng của phái này trong xã hội.
Năm 1900, phong trào nông dân Nghĩa Hòa Đoàn bùng nổ, Chính phủ
Mãn Thanh lợi dụng nó nhằm thực hiện hành vi bài ngoại, dẫn đến tai họa
19
liên quân tám nước tấn công Bắc Kinh. Nhà vua phải chạy trốn, triều đình
phải bồi thường chiến phí, uy tín của nhà Thanh không còn, cuộc sống của
nguời dân càng khó khăn. Chớp lấy thời cơ, Tôn Trung Sơn cử Trịnh Sỹ
Lương phát động khởi nghĩa Huệ Châu. Nghĩa quân đã giành được những
thắng lợi bước đầu, nhưng do quân lương cạn kiệt, tiếp tế không đủ nên phải

chịu thất bại. Mặc dù khởi nghĩa lần này thất bại, nhưng Tôn Trung Sơn cũng
vẫn phấn khởi vui mừng vì người dân phần nào đã thức tỉnh khỏi cơn mê.
Nhận thấy mối nguy hại ấy, từ sau khởi nghĩa Huệ Châu, Tôn Trung Sơn đã
triển khai luận chiến đấu tranh nhằm từng bước loại bỏ ảnh hưởng của phái
Cải lương. Trong quá trình ấy, ông tiến hành thành lập các đoàn thể cách
mạng ở một số nước thuộc châu Mỹ, châu Âu, châu Á.
Do ảnh hưởng hoạt động cách mạng của Tôn Trung Sơn, vào những
năm 1901 - 1904 các đoàn thể chống nhà Thanh liên tiếp được thành lập ở
nhiều nơi. Tôn Trung Sơn liền trở về Nhật Bản quyết định hợp nhất các tổ
chức trong và ngoài nước thành một chính đảng thống nhất đủ sức lãnh đạo
nhân dân toàn quốc làm cách mạng. Trên cơ sở đó, Đồng Minh Hội - chính
đảng của giai cấp tư sản Trung Quốc đã được thành lập tại Nhật Bản vào
tháng 8/ 1905. Tháng 11 năm ấy, trong lời nói đầu của tờ Dân báo - cơ quan
ngôn luận của Đồng Minh Hội, lần đầu tiên Tôn Trung Sơn chính thức đưa ra
ba chủ nghĩa lớn: dân tộc, dân quyền, dân sinh. Và đúng như Tôn Trung Sơn
đã viết trong tự truyện của mình rằng phong trào cách mạng từ đó đã phát
triển nhảy vọt, tiến bộ nhanh chóng không thể ngờ [35; tr. 30].
Sau khi Đồng Minh Hội thành lập, Tôn Trung Sơn tích cực vạch kế
hoạch, cử các đồng chí đi tuyên truyền và thành lập phân hội ở khắp nơi trong
và ngoài nước. Ông cũng đích thân đi đến nhiều nước, đặc biệt là các nước
Đông Nam Á nhằm tuyên truyền, phát triển tổ chức và quyên góp kinh phí
cho cách mạng trong các tầng lớp người Hoa và Hoa kiều. Đồng thời, ông tiếp
20
tục lãnh đạo cuộc đấu tranh phê phán tư tưởng của phái Cải lương. Bên cạnh
đó, đẩy mạnh thực thi hành động cách mạng cụ thể thông qua việc phát động
hàng loạt các cuộc khởi nghĩa vũ trang chống chính quyền Mãn Thanh. Tất cả
nhằm chuẩn bị có hiệu quả về mặt tư tưởng và sự tập dượt cho việc bùng nổ
một cuộc cách mạng trong toàn quốc.
Ngày 10 tháng 10 năm 1911, dưới ảnh hưởng của Tôn Trung Sơn và
Đồng Minh Hội, khởi nghĩa Vũ Xương bùng nổ, các tỉnh thành trong cả nước

hưởng ứng rầm rộ. Được tin cách mạng thắng lợi, Tôn Trung Sơn đang ở
nước ngoài lập tức tiến hành các hoạt động ngoại giao nhằm cô lập Chính phủ
Mãn Thanh về mặt kinh tế, tạo môi trường quốc tế hòa bình, trung lập cho sự
thành công của Cách mạng Tân Hợi.
Cuối tháng 12 năm 1911, Tôn Trung Sơn trở về nước. Ngày 2 tháng 1
năm 1912, ông chính thức nhận chức Tổng thống lâm thời nước Trung Hoa
dân quốc tại Nam Kinh. Ngày 12 tháng 2 năm 1912, vua Tuyên Thống (tức
vua Phổ Nghi) tuyên bố thoái vị kết thúc chế độ quân chủ chuyên chế tồn tại
hàng ngàn năm ở Trung Quốc. Không lâu sau đó, Tôn Trung Sơn công bố
Ước pháp lâm thời của Trung Hoa dân quốc. Đó là hiến pháp đầu tiên trong
lịch sử nền chính trị dân chủ Trung Quốc. Tuy nhiên, do phải gánh chịu nhiều
áp lực nặng nề, Tôn Trung Sơn buộc phải từ chức tổng thống, giao lại toàn bộ
chính quyền cho Viên Thế Khải vào ngày 1 tháng 4 năm 1912.
Để tiếp tục sự nghiệp cách mạng, Tôn Trung Sơn đẩy mạnh các hoạt
động. Sau khi từ chức tổng thống, ông vẫn chú trọng làm những việc mang ý
nghĩa thiết thực: thực hiện kế hoạch công thương nghiệp, thúc đẩy làm đường
sắt chấn hưng kinh tế Trung Quốc. Đặc biệt, ông đi khắp các tỉnh thành trong
cả nước tuyên truyền về chủ nghĩa dân sinh. Vì ông cho rằng cách mạng
thành công, lật đổ được chính quyền Mãn Thanh là cơ bản đã hoàn thành chủ
nghĩa dân tộc và chủ nghĩa dân quyền.
21
Trước sự chuyên quyền thao túng của Viên Thế Khải, Đồng Minh Hội
đã liên hợp với các đảng nhỏ trong Hạ viện, cải tổ thành Quốc Dân Đảng vào
tháng 8 năm 1912. Ngay sau đó, Tôn Trung Sơn phát động cuộc cách mạng
lần thứ hai nhằm lật đổ Viên Thế Khải. Cách mạng thất bại, Quốc Dân Đảng
về cơ bản bị Viên Thế Khải giải tán, Tôn Trung Sơn phải lưu vong sang Nhật.
Khi đến Nhật Bản, ông quyết định tổ chức Đảng Cách mạng Trung Hoa vào
tháng 5 năm 1914, lập kế hoạch trở lại cầm quyền.
Khi âm mưu xưng đế của Viên Thế Khải lộ rõ, một lần nữa Tôn Trung
Sơn quyết đoán ra lệnh khởi nghĩa, bảo vệ thành quả Cách mạng Tân Hợi.

Cuối tháng 4 năm 1916, ông về nước thân chính chỉ huy các cuộc đấu tranh
bảo vệ nền cộng hòa. Tháng 6 năm 1917 quân phiệt phương Bắc do Đoàn Kỳ
Thụy đứng đầu đã giải tán quốc hội, xóa bỏ Uớc pháp lâm thời, Tôn Trung
Sơn lại tiếp tục lãnh đạo cuộc đấu tranh bảo vệ Ước pháp. Ngày 25 tháng 8,
ông triệu tập hội nghị tổ chức Chính phủ quân sự Trung Hoa dân quốc. Trung
Quốc chính thức chia làm hai chính phủ Nam và Bắc. Tiếp đó Tôn Trung Sơn
lãnh đạo cuộc chiến tranh Bắc phạt nhằm thống nhất đất nước.
Suốt một thời gian dài từ sau khi cách mạng Tân Hợi thất bại mặc dù
đã cố gắng phấn đấu, Tôn Trung Sơn vẫn chưa tìm được lối đi thích hợp.
Đang trong lúc bế tắc, Cách mạng Tháng Mười Nga bùng nổ khiến Tôn Trung
Sơn như tìm ra được con đường đi tiếp cho cách mạng Trung Quốc. Thêm
vào đó, sự trưởng thành và phát triển nhanh chóng của phong trào cách mạng
vô sản Trung Quốc thông qua cuộc vận động Ngũ Tứ diễn ra năm 1919, và
thành lập Đảng Cộng Sản Trung Quốc năm 1912 khiến ông có nhận thức đối
với lực lượng cách mạng. Từ đây, Tôn Trung Sơn bắt đầu có những thay đổi
lớn về tư duy và cách nhìn.
Năm 1917, cách mạng Nga thắng lợi đã có ảnh hưởng mạnh mẽ tới Tôn
Trung Sơn, khiến ông như tìm lại được con đường giải phóng cho dân tộc
22
mình. Mùa hè năm 1918, Tôn Trung Sơn gọi điện cho Lênin bày tỏ lòng
khâm phục cuộc cách mạng do ông lãnh đạo, Lênin cũng nhiều lần cử đại
biểu đến liên hệ với Tôn Trung Sơn. Tháng 10 năm 1919 ông chính thức cải
tổ Đảng cách mạng Trung Hoa thành Quốc Dân Đảng Trung Quốc, từ hoạt
động bí mật sang hoạt động công khai. Tháng 4 năm 1922, Tôn Trung Sơn
thủ tiêu chính phủ quân sự, tổ chức chính phủ chính thức. Đầu tháng 5 năm
đó ông nhận chức Tổng thống ở Quảng Châu. Từ cuối năm 1922 đến năm
1923, Tôn Trung Sơn tiến hành cải tổ Quốc dân Đảng Trung Quốc, đưa nội
dung mới vào cho phù hợp với sự chuyển biến của tình hình. Trong đó, đặc
biệt nhấn mạnh vai trò của quần chúng nhân dân trong việc hoàn thành sự
nghiệp cách mạng, yêu cầu thay đổi những điều ước bất bình đẳng mà các

nước đế quốc đã áp đặt cho Trung Quốc.
Tháng 1 năm 1924, Đại hội Đại biểu toàn quốc Quốc dân Đảng Trung
Quốc họp lần thứ nhất ở Quảng Châu. Tại đây, Tôn Trung Sơn đã chính thức
giải thích lại Chủ nghĩa Tam dân, bổ sung thêm nội dung chống đế quốc,
chống phong kiến, xác lập sách lược quan trọng mà lịch sử gọi là Tam đại
chính sách: "liên Nga, liên cộng, phù trợ công nông". Nội dung ấy đã trở
thành cương lĩnh chung cho hai Đảng Quốc - Cộng.
Sau thành tựu quan trọng này, được sự giúp đỡ của Đảng Cộng sản
Liên Xô và Đảng Cộng sản Trung Quốc, tháng 5 năm 1924 Tôn Trung Sơn
thành lập trường Quân sự Hoàng Phố ở Quảng Châu nhằm xây dựng lực
lượng quân đội nước nhà. Sự chuyển biến mạnh mẽ trong tư tưởng cách mạng
của Tôn Trung Sơn đến đây đã biểu hiện một cách rõ nét.
Trên đà tiến lên của sự nghiệp cách mạng, vào những năm cuối đời,
Tôn Trung Sơn tích cực đấu tranh nhằm xóa bỏ các hiệp ước bất bình đẳng
mà trước đó Trung Quốc đã ký với nước ngoài.
23
Ngày 12 tháng 3 năm 1925 người con ưu tú của mảnh đất Quảng Đông
đã từ trần tại Bắc Kinh sau một cơn đau bạo bệnh, để lại cho hậu thế một sự
nghiệp cách mạng tuy còn dang dở nhưng cũng rất đỗi hào hùng. Sự ra đi của
ông đã làm cho cách mạng Trung Quốc mất đi một vị lãnh tụ vĩ đại, cách
mạng thế giới mất đi một nguời chiến sỹ trung kiên. Vì thế, dù lịch sử đã trải
qua những thăng trầm, Tôn Trung Sơn vẫn luôn nhận được sự ngưỡng mộ của
nhân dân Trung Quốc và bạn bè quốc tế.
1.2. Tư tưởng cách mạng dân tộc của Tôn Trung Sơn
1.2.1. Tiền đề lịch sử dẫn đến việc hình thành tư tưởng cách mạng
dân tộc của Tôn Trung Sơn
Từ thế kỷ XV trở đi, ở phương Tây quan hệ kinh tế hàng hóa vốn có
mầm mống từ trước đã phát triển mạnh mẽ. Do đó, ở các quốc gia phong kiến
châu Âu, giai cấp Tư sản đã và đang bước lên vũ đài chính trị thông qua các
cuộc cách mạng tư sản và tiếp đó là cuộc cách mạng công nghiệp.

Bên cạnh sự phát triển vượt bậc của kinh tế và khoa học kỹ thuật còn
có sự xuất hiện của các trào lưu tư tưởng về quyền con người, các học thuyết
về thể chế chính trị và quyền tự do dân chủ… Tất cả các sự kiện đó không chỉ
có ý nghĩa to lớn đối với sự chuyển mình của phương Tây, mà còn đóng góp
tích cực vào sự phát triển của lịch sử nhân loại thời kỳ cận đại.
Cùng với sự lớn mạnh của giai cấp tư sản, giai cấp vô sản thế giới từng
bước trưởng thành. Năm 1848 Tuyên ngôn Đảng Cộng sản ra đời, báo hiệu
trước những thay đổi quan trọng về cán cân lực lượng giữa giai cấp tư sản và
giai cấp vô sản trên vũ đài chính trị thế giới. Việc thành lập Quốc Tế thứ nhất
và phong trào cộng sản phát triển mạnh mẽ đã tạo nên một luồng gió mới.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, ở châu Âu chủ nghĩa tư bản chuyển từ
tự do cạnh tranh sang chủ nghĩa đế quốc. Ở châu Á, cuộc cải cách Minh Trị
không những đã cứu Nhật Bản thoát khỏi hoàn cảnh bị nô dịch mà còn đưa
24
quốc gia này trở thành cường quốc hùng mạnh, mặc dù chủ nghĩa tư bản đã
bộc lộ bản chất, nhưng nó vẫn khẳng định ưu thế so với chế độ phong kiến.
Và cứu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản đã trở thành một xu thế, một
trào lưu đối với các nước bị lệ thuộc và thuộc địa đang mong muốn thoát khỏi
tình trạng này.
Trong bối cảnh quốc tế hóa đã diễn ra và những nước biết thức thời đã
hội nhập, thì Trung Quốc một trung tâm văn minh có ảnh hưởng sâu sắc đến
nhiều quốc gia Phương Đông thời kỳ cổ - trung đại vẫn bảo thủ, "đóng cửa".
Điều đó đã trở thành một nguyên nhân lịch sử cho sự lạc hậu và cuối cùng bị
nô dịch.
Từ năm 1840 trở đi, các nước đế quốc tích cực phát động chiến tranh
xâm lược Trung Quốc - một thị trường hấp dẫn với nhiều ưu điểm về diện
tích, dân số và tài nguyên. Cùng với những hoạt động về quân sự, chính trị,
kinh tế, các hoạt động xâm nhập về văn hóa, giáo dục, y tế cũng từng bước
được các nước thực dân thực hiện.
Trong khi đó, giai cấp thống trị Mãn Thanh vì mục đích bảo vệ vương

quyền đã thi hành những chính sách đối nội và đối ngoại hết sức phản động.
Đất nước Trung Quốc chìm đắm trong tăm tối một mặt chịu sự khống chế của
chủ nghĩa thực dân, mặt khác chịu sự thống trị của chủ nghĩa phong kiến.
Trước vận mệnh nguy nan của dân tộc nảy sinh từ hệ quả tất yếu của
chính sách nô dịch của chủ nghĩa đế quốc và sự mục nát của triều Thanh,
nhân dân Trung Quốc vô cùng căm phẫn, lòng yêu nước cả một dân tộc đã
bị kích động. Họ thấy rằng muốn cứu nước thì không còn con đường nào
khác mà trước hết cần phải tấn công vào chế độ quân chủ chuyên chế Mãn
Thanh từ lâu đã không còn đủ khả năng đảm nhận vai trò lịch sử. Do đó
hàng loạt các phong trào yêu nước của các giai tầng xã hội khác nhau đã
diễn ra. Tiêu biểu: Khởi nghĩa nông dân Thái Bình Thiên Quốc (1851 -
25

×