Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

Kết hợp phương pháp tuyết trình với phương pháp nêu vấn đề trong dạy học phần công dân với đạo đức môn giáo dục công dân lớp 10 tại các trường trung học phổ thông trên địa bàn thị xã cửa lò, tỉnh nghệ an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (740.85 KB, 107 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

PHẠM THỊ HỊA

KẾT HỢP PHƯƠNG PHÁP THUYẾT TRÌNH VỚI PHƯƠNG PHÁP
NÊU VẤN ĐỀ TRONG DẠY HỌC PHẦN “CÔNG DÂN VỚI ĐẠO
ĐỨC”
MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN LỚP 10 TẠI CÁC TRƯỜNG
TRUNG HỌC
PHỔ THÔNG TRÊN ĐỊA BÀN THỊ XÃ CỬA LÒ, TỈNH NGHỆ AN

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC


2

NGHỆ AN - 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

PHẠM THỊ HỊA

KẾT HỢP PHƯƠNG PHÁP THUYẾT TRÌNH VỚI PHƯƠNG PHÁP
NÊU VẤN ĐỀ TRONG DẠY HỌC PHẦN “CÔNG DÂN VỚI ĐẠO
ĐỨC”
MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN LỚP 10 TẠI CÁC TRƯỜNG
TRUNG HỌC
PHỔ THƠNG TRÊN ĐỊA BÀN THỊ XÃ CỬA LỊ, TỈNH NGHỆ AN

Chuyên ngành: Lý luận và Phương pháp dạy học bộ mơn Chính trị


Mã số: 60.14.01.11

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học:


3

TS. TRẦN VIẾT QUANG

NGHỆ AN - 2014


4

LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện đề tài, bản thân tôi đã nhận được sự quan tâm
giúp đỡ của nhiều tổ chức, nhiều thầy cô giáo cũng như các đồng nghiệp. Với
tình cảm chân thành nhất, tơi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến:
Ban Giám hiệu trường Đại học Vinh, Phòng sau đại học, Ban chủ nhiệm
Khoa Giáo dục Chính trị, cùng tất cả các thầy cơ giáo tham gia giảng dạy lớp
Cao học khóa 20 chuyên ngành Lý luận và Phương pháp giảng dạy bộ mơn
Chính trị trường Đại học Vinh; Ban Giám hiệu các trường THPT Cửa Lò, thị xã
Cửa Lò, cũng như tổ chuyên mơn, đồng nghiệp trong nhà trường, gia đình và
các bạn cùng lớp Cao học đã tạo điều kiện giúp đỡ, động viên tơi trong suốt q
trình học tập và thực hiện đề tài.
Đặc biệt tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất, sâu sắc nhất đến
TS. Trần Viết Quang - Thầy giáo đã tận tình giúp đỡ và hướng dẫn tôi trong
thời gian học tập, nghiên cứu và thực hiện đề tài.

Tôi xin chân thành cảm ơn!
Nghệ An, tháng 10 năm 2014
Tác giả
Phạm Thị Hòa


5

MỤC LỤC
Trang


6

BẢNG DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT VẮT
BGH

:

Ban Giám hiệu

CNTT

:

Công nghệ thơng tin

CNH, HĐH :

Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa


ĐH - CĐ

:

Đại học - cao đẳng

GDCD

:

Giáo dục công dân

GV

:

Giáo viên

HS

:

Học sinh

KH - CN

:

Khoa học - Công nghệ


PPDH

:

Phương pháp dạy học

PPNVĐ

:

Phương pháp nêu vấn đề

PPTT

:

Phương pháp thuyết trình

SGK

:

Sách giáo khoa

SGV

:

Sách giáo viên


THPT

:

Trung học phổ thông

UBND

:

Ủy ban Nhân dân


7

DANH MỤC BẢNG, ĐỒ THỊ
Trang

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH, phát triển kinh tế thị trường định hướng
XHCN và hội nhập quốc tế địi hỏi phải đổi mới căn bản, tồn diện giáo dục và
đào tạo. Mục đích của giáo dục là "Đào tạo con người Việt Nam phát triển tồn
diện, có đạo đức, có tri thức, có sức khoẻ thẩm mỹ và nghề nghiệp. Trung thành
với lý tưởng độc lập dân tộc CNXH. Hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm
chất năng lực công dân đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ tổ quốc" (Luật
giáo dục).



8
Để nâng cao hiệu quả giáo dục, nhằm chuyển tải nội dung tri thức đến
người học một cách hiệu quả nhất, ngồi trình độ chun mơn, lịng u nghề,
người dạy còn cần phải biết sử dụng linh hoạt các PPDH để phát huy được tính
tích cực, chủ động, sáng tạo của người học, bồi dưỡng phương pháp tự học. Rèn
luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn tác động đến tình cảm đem lại
niềm vui, hứng thú học tập cho HS. Thực tế cho thấy, khơng có bất kỳ một
PPDH nào được xem là tối ưu, hoàn hảo nhất. Mỗi một phương pháp đều có
những ưu điểm, hạn chế riêng của nó và có thể hạn chế của phương pháp này sẽ
được khắc phục bởi phương pháp khác. Bởi vậy, sự kết hợp giữa các phương
pháp trong dạy học nói chung, kết hợp PPTT với PPNVĐ nói riêng là địi hỏi
tất yếu trong q trình dạy học.
Mơn GDCD trong nhà trường PTTH nói chung và phần "Cơng dân với đạo
đức" mơn GDCD lớp 10 nói riêng có vị trí, vai trị rất quan trọng trong việc hình
thành và phát triển nhân cách HS, giáo dục cho HS ý thức và hành vi của người
cơng dân, góp phần hình thành và phát triển ở các em những phẩm chất năng lực
cần thiết của công dân trong tương lai. Do đó, việc kết hợp PPTT với PPNVĐ
khi giảng dạy phần này nhằm làm cho HS phải tích cực, chủ động trong học tập
là hết sức cần thiết. Tuy nhiên, qua thực tiễn cách dạy và học môn học này ở các
trường THPT trên địa bàn thị xã Cửa Lò chúng tôi nhận thấy rằng: PPNVĐ vẫn
chưa được GV sử dụng phổ biến, hiệu quả, HS vẫn quen với cách dạy thuyết
trình truyền thống nên có tư tưởng trì trệ, ngại suy nghĩ và thụ động trong cách
tiếp cận tri thức. Trước yêu cầu cấp thiết của cuộc sống, việc kết hợp PPDH tích
cực, đặc biệt là PPNVĐ với PPTT trong giảng dạy môn GDCD tại các trường
THPT trên địa bàn thị xã Cửa Lị nói riêng và các trường THPT nói chung sẽ
giữ vai trị quan trọng, nâng cao hiệu quả dạy và học, góp phần tạo bước nhảy
vọt cho cuộc cải cách nền giáo dục Việt Nam.
Từ những lý do trên tác giả chọn vấn đề “Kết hợp phương pháp thuyết
trình với phương pháp nêu vấn đề trong dạy học phần “Công dân với đạo



9
đức” môn Giáo dục công dân lớp 10 tại các trường Trung học phổ thông
trên địa bàn thị xã Cửa Lò, tỉnh Nghệ An” làm đề tài Luận văn Thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Xuất phát tầm quan trọng của môn học GDCD cho học sinh THPT, đã có
nhiều nhà khoa học, nhà giáo dục rất quan tâm nghiên cứu đến PPDH nói chung
và PPDH mơn GDCD nói riêng. Vấn đề PPTT và PPDH nêu vấn đề cũng được
đề cập trong nhiều sách, tạp chí, luận văn với các cơng trình tiêu biểu như:
Trần Thị Minh, Kết hợp phương pháp dạy học truyền thống và phương
pháp tích cực để nâng cao hiệu quả dạy học mơn GDCD, 2006; Nguyễn Cảnh
Tồn - Lê Khánh Bằng, Thái Duy Tuyên, Phương pháp dạy học truyền thống và
đổi mới, Nxb Giáo dục, 2008; PGS. Vương Tất Đạt, Phương pháp dạy học môn
GDCD, Nxb Hà Nội, năm 1994; Nguyễn Cảnh Toàn, Học và cách dạy học, Nxb
Đại học Sư phạm, Hà Nội, 2004; Vũ Văn Tạo, Dạy - học giải quyết vấn đề, một
hướng đổi mới phương pháp giáo dục, đào tạo, huấn luyện, Trường Quản lý
giáo dục và đào tạo, Hà Nội, 1996; Đinh Văn Đức - Dương Thị Thuý Nga
(Đồng chủ biên), Phương pháp dạy học môn GDCD ở trường THPT, Nxb Đại
học sư phạm Hà nội 2009... Các cơng trình trên đã đề cập đến những khía cạnh
khác nhau của vấn đề PPDH. Cụ thể, trong cuốn “Lý luận dạy học môn Giáo dục
công dân ở trường THPT” của Phùng Văn Bộ, tác giả viết: “Trong hệ thống này thì
phương pháp thuyết trình gần như giữ vị trí then chốt. Bởi vì một bài giảng lý luận
triết học, kinh tế chính trị, chủ nghĩa xã hội, đạo đức, pháp luật, đều phải sử dụng lời
giảng, thuyết minh, diễn giảng của giáo viên, cái đó là chủ đạo” [9; 36]. Còn đối với
tác giả Vương Tấn Đạt trong cuốn “Phương pháp giảng dạy Giáo dục công dân”
viết: “Trong giảng dạy bộ môn GDCD nếu giáo viên sử dụng tốt phương pháp
thuyết trình để truyền thụ các khái niệm, phạm trù quy luật mang tính trừu và khái
quát cao sẽ giúp cho học sinh nắm vững chúng. Do đó tránh được sự đơn điệu, gây
hứng thú học tập, phát huy tư duy độc lập, sáng tạo của họ” [17;108].



10
Xung quanh vấn đề vận dụng PPNVĐ trong dạy học mơn GDCD cũng có
rất nhiều cơng trình nghiên cứu như: Vũ Văn Tạp và Trần Văn Hà, Dạy học giải
quyết vấn đề: Một hướng đổi mới trong công tác giáo dục và đào tạo, đã nghiên
cứu, lý giải việc dạy học giải quyết vấn đề là một hướng trong đổi mới mục tiêu,
phương pháp đào tạo cũng như đề xuất phương pháp xử lý tình huống, hành
động và việc vận dụng phương pháp đó vào cơng tác giáo dục, đào tạo. Trong
cuốn: phương pháp dạy học môn Giáo dục công dân ở trường trung học phổ
thông, do Đinh Văn Đức và Dương Thị Thúy Nga chủ biên đã đề cập đến
nguyên tắc đảm bảo tính thực tiễn trong dạy học môn GDCD và việc vận dụng
PPDH nêu vấn đề trong giảng dạy mơn GDCD. Trong cuốn giáo trình: Phương
pháp dạy - học Chủ nghĩa xã hội khoa học, do PGS. TS. Nguyễn Văn Cư (chủ
biên) đã nêu rõ: “Để bài thuyết trình có hiệu quả, cần có sự đổi mới lấy người
học làm trung tâm; hạn chế bớt phương pháp thuyết trình thơng báo, tái hiện,
tăng cường phương pháp thuyết trình theo hứng giải quyết vấn đề, thuyết trình
xen kẽ vấn đáp, thảo luận hợp lý; thuyết trình có minh họa đặc biệt thuyết trình
gắn với cơng nghệ thơng tin hiện đại để bài giảng sinh động hơn” [12; 65].
Từ các cơng trình nghiên cứu đã giúp GV định hướng PPDH phù hợp đối với
nội dung từng bài nhằm giúp người dạy vận dụng linh hoạt các phương pháp trong
quá trình dạy học. Những phương pháp cụ thể góp phần làm cho người GV chủ động
hơn về kiến thức, say mê chuyên môn, tổ chức những bài học, tiết học lôi cuốn,
hấp dẫn, sinh động. HS chủ động lĩnh hội được nhiều kiến thức và biết vận dụng
kiến thức đó vào cuộc sống của mình.
Tuy nhiên, để khai thác được tối đa tính sáng tạo, năng động tích cực của
mỗi HS với vấn đề kết hợp PPTT với PPNVĐ trong dạy học phần “Công dân
với đạo đức” môn GDCD lớp 10 tại các trường THPT trên địa bàn thị xã Cửa
Lị, tỉnh Nghệ An, thì chưa cơng trình nào nghiên cứu một các có hệ thống.
Thành quả các cơng trình nghiên cứu của các nhà khoa học là cơ sở lý luận để
tác giả tiếp tục tìm hiểu, nghiên cứu, thực hiện đề tài của mình.



11
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn của việc kết hợp PPTT với PPNVĐ trong
dạy học phần “Công dân với đạo đức” môn GDCD lớp 10 tại các trường THPT
trên địa bàn thị xã Cửa Lò, luận văn đề xuất quy trình và giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả kết hợp hai phương pháp trong dạy học môn GDCD.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, luận văn cần thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Làm rõ lý luận sự kết hợp PPTT với PPNVĐ trong dạy học phần “Công
dân với đạo đức” môn GDCD lớp 10.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng dạy học phần “Công dân với đạo đức”
môn GDCD lớp 10 theo phương thức kết hợp PPTT với PPNVĐ tại các trường
THPT, trên địa bàn thị xã Cửa Lò, tỉnh Nghệ An.
- Thực nghiệm sư phạm kết hợp PPTT với PPNVĐ trong dạy học phần
“Công dân với đạo đức” môn GDCD lớp 10 tại các trường THPT trên địa bàn
thị xã Cửa Lò, tỉnh Nghệ An.
- Đề xuất quy trình và giải pháp kết hợp PPTT với PPNVĐ trong dạy học
phần “Công dân với đạo đức” môn GDCD lớp 10 tại các trường THPT trên địa
bàn thị xã Cửa Lò, tỉnh Nghệ An.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đề tài nghiên cứu kết hợp PPTT với PPNVĐ trong dạy học phần “Công
dân với đạo đức” môn GDCD lớp 10.
- Đề tài tập trung khảo sát, thực nghiệm sư phạm tại một số trường THPT
trên địa bàn thị xã Cửa Lò, tỉnh Nghệ An.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện

chứng, duy vật lịch sử; các quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về giáo


12
dục và đổi mới giáo dục; nội dung, chương trình môn học GDCD; lý luận dạy
học và phương pháp giảng dạy môn GDCD.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp chủ yếu như: phương pháp phân tích và
tổng hợp; phương pháp quy nạp - diễn dịch, phương pháp lịch sử và lơgíc, phương
pháp thống kê và điều tra xã hội học; phương pháp thực nghiệm sư phạm, v.v…
6. Giả thuyết khoa học
Việc kết hợp các phương pháp nói chung và kết hợp PPTT với PPNVĐ
nói riêng trong dạy học môn GDCD lớp 10 ở các trường THPT hiện nay có
những hạn chế nhất định. Nếu kết hợp hai phương pháp này một cách khoa học,
thì sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy và học môn học này trong điều kiện
hiện nay.
7. Ý nghĩa của luận văn
- Luận văn góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc kết hợp
PPTT với PPNVĐ trong dạy học mơn GDCD nói chung và dạy học chương trình
GDCD lớp 10 phần “Cơng dân với đạo đức” nói riêng.
- Luận văn góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn GDCD ở trường
THPT; sử dụng làm tài liệu tham khảo cho cán bộ quản lý giáo dục, giáo viên
GDCD ở trường THPT.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, đề
tài gồm có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc kết hợp phương pháp
thuyết trình với phương pháp nêu vấn đề trong dạy học phần “Công dân với đạo
đức” môn Giáo dục công dân lớp 10 tại các trường Trung học phổ thơng, trên
địa bàn thị xã Cửa Lị, tỉnh Nghệ An.

Chương 2: Thực nghiệm sư phạm kết hợp phương pháp thuyết trình với
phương pháp nêu vấn đề trong dạy học phần “Công dân với đạo đức” môn Giáo


13
dục công dân lớp 10 tại các trường Trung học phổ thơng, trên địa bàn thị xã Cửa
Lị, tỉnh Nghệ An.
Chương 3: Quy trình và giải pháp kết hợp phương pháp thuyết trình với
phương pháp nêu vấn đề trong dạy học phần “Công dân với đạo đức” môn Giáo
dục công dân lớp 10 tại các trường Trung học phổ thông, trên địa bàn thị xã Cửa
Lò, tỉnh Nghệ An.


14

B. NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC KẾT HỢP
PHƯƠNG PHÁP THUYẾT TRÌNH VỚI PHƯƠNG PHÁP NÊU VẤN ĐỀ
TRONG DẠY HỌC PHẦN “CÔNG DÂN VỚI ĐẠO ĐỨC”
MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN LỚP 10
1.1. Cơ sở lý luận của việc kết hợp phương pháp thuyết trình và
phương pháp nêu vấn đề trong dạy học phần “Công dân với đạo đức” môn
Giáo dục công dân lớp 10
1.1.1. Phương pháp thuyết trình và phương pháp nêu vấn đề
1.1.1.1. Phương pháp thuyết trình
* Khái niệm phương pháp thuyết trình:
Thuyết trình là một trong những PPDH lâu đời nhất là một trong những
phương pháp được sử dụng khá phổ biến hiện nay. Phương pháp này được sử dụng
hầu như trong tất cả các bộ môn khoa học ở trường THPT, nhất là các bộ mơn khoa

học xã hội. Có lẽ, dù các phương tiện dạy học ngày càng hiện đại đến đâu, dù
người học có thể thu nhận thơng tin từ nhiều nguồn khác nhau với sự giúp đỡ của
các phương tiện truyền thơng, thì cũng khơng thể nào thay thế hồn tồn PPTT.
Ngược lại, nó càng đặt ra những u cầu cao hơn đối với phương pháp này.
Trong cuốn “Dạy học và phương pháp dạy học trong nhà trường” tác giả
Phan Trọng Ngọ đã cho rằng: “Phương pháp thuyết trình là phương pháp giáo
viên sử dụng ngôn ngữ và phi ngôn ngữ để cung cấp cho người học hệ thống
thông tin về nội dung học tập. Người học tiếp nhận hệ thống thơng tin đó từ
người dạy và xử lý chúng tùy theo tính chủ thể của người học và yêu cầu của
người dạy học” [29; 187].
Đối với tác giả Phạm Viết Vượng lại cho rằng: “Phương pháp thuyết trình
là phương pháp giáo viên dùng lời nói để mơ tả, phân tích, giải thích nội dung


15
bài học một cách chi tiết và đầy đủ; qua đó thu hút sự chú ý của học sinh vào bài
giảng, giúp cho học sinh nghe, hiểu và ghi chép được đủ nội dung của bài học”.
Trong cuốn: “Phương pháp dạy học Chủ nghĩa xã hội khoa học” do PGS.
TS Nguyễn Văn Cư chủ biên có viết “Thuyết trình là phương pháp giáo viên
dùng lời nói trình bày, giải thích nội dung bài học một cách có ý thức” [12; 58].
Qua nghiên cứu, chúng tơi thấy có nhiều cách định nghĩa khác nhau về
PPTT nhưng đều có chung cách hiểu: PPTT là PPDH trong đó GV sử dụng ngơn
ngữ và hành động để truyền đạt, thuyết minh, trình bày và làm sáng tỏ một nội
dung khoa học cụ thể nhằm hồn được nhiệm vụ dạy học.
* Các hình thức thuyết trình
Phương pháp thuyết trình trong dạy học thường được thể hiện ở nhiều
hình thức khác nhau như kể chuyện, giảng giải, diễn giải, v.v..
- Kể chuyện là một hình thức của PPTT, trong đó GV dùng lời nói biểu
cảm và các thao tác dẫn dắt HS tiếp cận và làm nổi bật nội dung của tri thức cần
truyền thụ. Thông qua câu chuyện, GV nêu lên những sự kiện, hiện tượng hay

nguồn gốc phát sinh, phát triển của những tri thức mà HS cần tiếp thu. Nội dung
câu chuyện phù hợp với nội dung của bài giảng kết hợp với lối kể chuyện sinh
động của GV sẽ giúp cho HS tiếp thu một cách nhẹ nhàng, thấm sâu, thu hút
được sự chú ý của HS trên lớp.
* Thuyết trình giảng giải:
Giảng giải là một hình thức của PPTT, trong đó GV dùng lời nói để giải
thích HS hiểu các khái niệm, phạm trù quy luật và sự vận dụng của chúng.
Giảng giải thường được sử dụng khi giảng các tri thức mới. Bởi vì, tri thức mới
bao giờ cũng được xây dựng trên cơ sở của các khái niệm, phạm trù, quy luật.
* Thuyết trình diễn giảng:
Diễn giảng là một hình thức của PPTT, trong đó tri thức được truyền thụ
theo một hệ thống lôgic chặt chẽ, bao gồm khối lượng tri thức lớn và thực hiện
trong thời gian tương đối dài thông qua lời giảng của GV. Diễn giảng thường


16
được áp dụng với những bài có nội dung tri thức phức tạp, khó, trừu tượng và
khái qt cao.
* Trình tự của một bài thuyết trình
Thơng thường trong bài giảng mơn GDCD, PPTT được tiến hành theo các
trình tự sau:
Mở đầu: GV nêu tri thức của bài cũ có liên quan để dẫn dắt HS chuyển
sang bài mới, nêu lên tầm quan trọng và các khía cạnh của đời sống thực tiễn để
tạo tâm thế tốt cho HS nhập cuộc với bài học mới.
Trình bày nội dung chính: đây là phần trọng tâm của PPTT, GV cần nắm
chắc nội dung tri thức, tổ chức chúng theo một lôgic chặt chẽ, tìm ra hình thức,
cách thức trình bày để truyền đạt cho HS.
Kết thúc: GV khái quát, nhấn mạnh nội dung cơ bản mà HS cần hiểu và
nắm vững.
* Những kỹ năng thuyết trình mà giáo viên cần có.

Ngơn ngữ của người thuyết trình cần đơn giản, dễ hiểu, khơng được sử
dụng những từ ngữ mập mờ, không rõ nghĩa.
Kỹ thuật nói: phát âm phải rõ ràng, chính xác, khơng nói ngọng, nói lắp.
Tốc độ và cường độ của lời giảng phải phù hợp với trình độ nhận thức của đối
tượng. Biết sử dụng ngữ điệu linh hoạt để tăng hiệu quả truyền đạt tri thức. Cách
lôi cuốn người nghe, ngôn ngữ có sức thuyết phục cao, được thực hiện bằng sự
giải thích mơ tả, so sánh chứng minh bằng các ví dụ, các luận cứ khoa học, phát
huy được tính chủ động của người học.
* Những ưu điểm và hạn chế của phương pháp thuyết trình:
+ Ưu đểm của PPDH thuyết trình trong dạy học ở bậc THPT: Thuyết trình
là một trong những PPDH cơ bản, phổ biến và trong tương lai nó vẫn tồn tại và
tiếp tục phát huy vai trị của mình trong q trình dạy học. Thế mạnh của PPTT
được thể hiện ở một số nội dung sau:
Đây là phương pháp dễ thực hiện, khơng địi hỏi nhiều các phương tiện
dạy học, thiết bị hiện đại nào đối với GV mà vẫn cung cấp được lượng kiến thức


17
lớn tới HS. Từ đó, HS nắm một cách cơ bản nội dung mà GV truyền đạt trên
lớp. Với cách diễn đạt lưu loát, rõ ràng, dễ hiểu phù hợp với lơgic nhận thức và
trình độ của HS. Sử dụng phương pháp này cho phép GV truyền đạt những nội
dung lý thuyết tương đối khó, phức tạp, chứa đựng nhiều thơng tin mà HS tự
mình khơng dễ dàng tìm hiểu được một cách sâu sắc. Trong một khoảng thời
gian ngắn (1tiết học) GV có thể chuyển tải đến HS một khối lượng thông tin cần
thiết, cô đọng theo một cấu trúc lôgic chặt chẽ, phản ánh nội dung môn học mà
GV đã chắt lọc được từ kho tàng tri thức của nhân loại. Đây là điểm mạnh của
PPTT mà những phương pháp khác khơng dễ gì có được. Do đó, nếu sử dụng
PPTT tốt GV sẽ cung cấp cho HS những thơng tin cập nhật, chưa kịp trình bày
trong SGK từ những nguồn tài liệu khác nhau mà HS phải mất nhiều thời gian,
cơng sức mới tìm hiểu và tổng hợp được.

Phương pháp này giúp cho HS nắm được hình mẫu về tư duy lôgic, cách
đặt vấn đề và giải quyết vấn đề khoa học, cách sử dụng ngôn ngữ để diễn đạt
những vấn đề khoa học một cách chính xác, rõ ràng, súc tích thơng qua cách
trình bày của GV. Ngồi ra, các bài thuyết trình cịn cung cấp cho người học
khuôn mẫu về phương pháp nhận thức, phương pháp tổng hợp, phân tích, cấu
trúc tài liệu học tập, giúp HS có được phương pháp tự học. Bên cạnh đó, thuyết
trình là hình thức giao tiếp trực tiếp giữa GV và HS. Vì vậy, khi thuyết trình GV
có thể thường xuyên thay đổi các biện pháp, thủ thuật thuyết trình và điều chỉnh
nội dung tri thức cho phù hợp với nội dung bài học và đặc biệt là phù hợp với
đối tượng HS.
Thông qua các giờ học bằng PPTT, GV sẽ tác động mạnh mẽ đến tư duy,
tình cảm của HS bằng giọng nói, cử chỉ, điệu bộ thích hợp và diễn cảm. Trong
thực tế môn GDCD HS rất khó định hướng khi tìm hiểu và nghiên cứu SGK, tài
liệu. Vì vậy, bài thuyết trình của GV giúp cho HS định hướng và nhận thức khi
đọc tài liệu. Với PPTT giáo viên sử dụng ngôn ngữ, hành động, cử chỉ cùng các
thao tác sư phạm có tác dụng lơi cuốn, kích thích người học tập trung chú ý,


18
phát triển tư duy, lĩnh hội tri thức một cách có hệ thống và có ý thức. PPTT giúp
người dạy khơng chỉ sử dụng ngơn ngữ nói của mình tác động trực tiếp đến HS
mà với tư cách mẫu mực cùng với những cử chỉ thể hiện thái độ, niềm tin, phẩm
chất, nhân cách của người dạy. Từ đó, sẽ có tác động mạnh mẽ đến tâm tư, tình
cảm, suy nghĩ và giúp người học hành động đúng đắn hơn.
Khi GV sử dụng PPTT sẽ tạo điều kiện phát triển năng lực chú ý và kích
thích được tính tích cực, tư duy của HS. Vì có như vậy, HS mới hiểu được lời
giảng của GV và mới ghi nhớ được bài học. Với việc sử dụng PPTT, GV có thể
truyền đạt một khối lượng kiến thức khá lớn cho nhiều HS trong cùng một thời
gian, vì vậy, đảm bảo tính kinh tế cao, phù hợp với điều kiện có số đơng người
học nhưng cơ sở vật chất cịn thiếu, GV dễ dàng bao quát toàn bộ lớp học.

Tuy nhiên, trong q trình giảng dạy, khơng có PPDH nào là tối ưu và
duy nhất cả, PPTT cũng không thể tránh mắc phải những hạn chế nhất định. Bởi
vậy, GV cần phải nhận thấy rõ những hạn chế của phương pháp này để dần khắc
phục trong quá trình giảng dạy của mình.
+ Hạn chế của phương pháp thuyết trình trong dạy học ở bậc THPT.
Khi dùng phương pháp này quá nhiều, GV thu được ít thơng tin phản hồi
từ phía người học; ít chú ý đến việc kiểm tra đánh giá kết quả lĩnh hội tri thức
của từng HS. Nếu GV sử dụng PPTT một cách thường xuyên sẽ làm cho HS tiếp
thu kiến thức một cách thụ động. Thuyết trình là phương pháp thông tin một
chiều, HS chỉ thực hiện nhiệm vụ lắng nghe, ghi chép, chủ yếu sử dụng thính
giác cùng với tư duy tái hiện. Do đó, làm cho HS nhanh mệt mỏi, nhàm chán. Vì
vậy, sử dụng phương pháp này sẽ hạn chế khả năng tư duy độc lập, sáng tạo của
HS, dẫn đến HS lười suy nghĩ, ỷ lại, không đưa ra các quan điểm về nội dung
bài học của bản thân. Khi sử dụng phương pháp này, GV sẽ thu được ít thơng tin
phản hồi từ phía HS, khó có thể nắm bắt được HS hiểu bài hay không. Sử dụng
PPTT thường xuyên sẽ làm cho HS thiếu tính tích cực trong việc phát triển ngơn
ngữ nói. Vì độc thoại thầy giảng trị nghe nên HS dễ bị rơi vào trạng thái thụ


19
động. Phải cố gắng tập trung lắng nghe để hiểu, ghi chép bài nên thần kinh dễ bị
ức chế, dễ gây mệt mỏi.
PPPTT ít phù hợp với mục đích đào tạo kỹ năng sáng tạo của người học.
Khi sử dụng PPTT người học khơng có cơ hội thể hiện năng lực và kỹ năng
thuyết trình của mình. Bởi vậy, quá trình rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo, gặp nhiều khó
khăn, hạn chế. Chính vì những nhược điểm trên, hiện nay có nhiều quan điểm phủ
nhận PPDH thuyết trình, thậm chí cịn muốn loại trừ nó ra khỏi hệ thống PPDH
trong nhà trường. Đây là quan điểm tiêu cực, bởi vì dạy học vẫn rất cần sử dụng
PPTT. Với những tri thức mang tính lý luận, khái qt cao địi hỏi có sự phân
tích, so sánh, sử dụng PPTT sẽ đem lại hiệu quả cao. Sử dụng PPTT trong dạy

học là cần thiết. Tuy nhiên, người GV cần phát huy những mặt tích cực và khắc
phục được hạn chế của phương pháp này. Việc kết hợp PPTT với một số PPDH
tích cực, đặc biệt với PPNVĐ sẽ góp phần làm cho giờ dạy đạt kết quả cao hơn.
1.1.1.2. Phương pháp nêu vấn đề
Thuật ngữ “Vấn đề” thường được tiếp cận ở nhiều góc độ khác nhau. Một
sự thỉnh cầu nghiên cứu tìm tịi, một cái gì đó chứa đựng sự thách thức con
người phải tìm kiếm, phải chinh phục, phải vượt qua để đạt tới một kết quả
chuyên biệt dưới những điều kiện xác định. “Vấn đề” vừa là phạm trù của triết
học vừa là phạm trù của tâm lý học. “Vấn đề” là hình thức chủ quan của sự biểu
thị tất yếu của sự phát triển nhận thức khoa học; là sự phản ánh mâu thuẫn trong
quá trình nhận thức khách thể của chủ thể, nghĩa là mâu thuẫn tư duy của chính
chủ thể trong q trình nhận thức.
Trong mỗi “Vấn đề” phải chứa đựng điều mà mình tìm hiểu chưa biết,
nhưng đồng thời phải chứa đựng điều đã biết, nếu không sẽ gây ức chế cho
người giải đáp và thậm chí là khơng giải đáp được vấn đề. Vì vậy, vấn đề
thường có những dấu hiệu là vấn đề có tình huống; chủ thể đã được chuẩn bị ở
chừng mực nào đó về nhận thức để tìm lời giải. Để tìm lời giải cho vấn đề có
nhiều cách khác nhau nhưng để giải quyết vấn đề cần chọn một phương án hoặc
cũng có thể chọn phương án khác để rồi đi đến đáp số cuối cùng.


20
* Quan điểm về tình huống có vấn đề
Tình huống có vấn đề là một trong những khái niệm cơ bản, trọng tâm
của PPNVĐ, nó có vai trị quan trọng trong quá trình lĩnh hội tri thức và điều
khiển quá trình tư duy của HS. Bàn về tình huống có vấn đề đã có nhiều ý kiến
khác nhau:
Theo tác giả A.M.Machiuskin: “Một tình huống có vấn đề khi xuất hiện
sự không tương xứng, sự xung khắc giữa cái đã biết và cái đòi hỏi, cách thức và
những yếu tố thực hiện hành động đang đòi hỏi, hoặc khi con người gặp phải

một vấn đề mới mà không thể thực hiện được” [43; 33].
Nhà giáo dục học Ba Lan V.Ơkơn cho rằng: “Dạy học nêu vấn đề là toàn
bộ các hoạt động như tính chất tình huống có vấn đề, biểu đạt các vấn đề, chú ý
giúp đỡ cho học sinh những điều cần thiết để giải quyết vấn đề, kiểm tra cách
giải quyết đó và cuối cùng là q trình hệ thống hóa và củng cố các kiến thức
tiếp thu được” [47; 103].
“Dạy - học nêu vấn đề là một kiểu dạy học trong đó giáo viên đưa sinh
viên vào các tình huống có vấn đề giúp học tự lực và sáng tạo giải quyết các vấn
đề đặt ra, qua đó mà nắm được tri thức mới; đồng thời phát huy được tính tích
cực sáng tạo. Như vậy, trong dạy học nêu vấn đề giáo viên không cung cấp cho
sinh viên những tri thức có sẵn như trong dạy học thuyết trình mà nêu cho sinh
viên một vấn đề cần phải giải quyết và tạo ra những điều kiện giúp cho sinh viên
tự lực giải quyết trên cơ sở những mối liện hệ giữa cái đã cho và cái cần biết,
giữa điều đã biết và điều chưa biết” [30; 189].
Dạy học nêu vấn đề được các nhà giáo dục nước ta quan tâm nghiên cứu
vào những năm 60,70 của thế kỷ trước. Theo PGS, TS Nguyễn Ngọc Bảo, “Dạy
học nêu vấn đề là hình thức dạy học dựa trên những quy luật của sự lĩnh hội tri
thức và cách thức hoạt động một cách sáng tạo, bao gồm sự kết hợp các phương
pháp dạy và học có những nét cơ bản của sự tìm tịi khoa học, phát triển tính tích
cực, tính tự giác và năng lực sáng tạo và hình thành cơ sở thế giới quan khoa
học cho họ” [6; 41].


21
Có nhiều quan niệm khác nhau song đều thống nhất ở quan điểm cho
rằng: Tình huống có vấn đề là trạng thái tâm lý độc đáo nảy sinh khi con người
gặp phải chướng ngại nhận thức, xuất hiện mâu thuẫn trong bản thân, mâu thuẫn
giữa điều đã biết và điều chưa biết, địi hỏi phải giải quyết mâu thuẫn đó bằng
tìm tịi sáng tạo chứ khơng phải bằng tái hiện hay bắt chước. Tình huống có vấn
đề nảy sinh khi người học suy nghĩ về điều gì đó đã biết nhưng khơng đủ tri thức

để giải thích. Khi đó là lúc xảy ra mâu thuẫn giữa điều đã biết với điều chưa biết
và người học ý thức được vấn đề đó.
Như vậy, PPDH nêu vấn đề là phương pháp trong đó GV đặt trước HS
một hay hệ thống vấn đề nhận thức, dẫn HS vào tình huống có vấn đề, sau đó
GV phối hợp cùng HS giải quyết vấn đề đã nêu và đi đến những kết luận cần
thiết cho nội dung học.
Trong những năm qua, PPDH nêu vấn đề là phương pháp được nhiều
người đánh giá là có hiệu quả cao nhất trong quá trình dạy học đặc biệt là ở các
bậc THPT, Cao đẳng, Đại học. Sử dụng phương pháp này góp phần kích thích
tính chủ động, tích cực, sáng tạo và tăng cường độ làm việc của GV và của HS
trong suốt giờ học. Đây là hình thức dạy học mà GV tìm mọi biện pháp để đưa
HS vào các tình huống có vấn đề. Từ đó, hướng dẫn, giúp đỡ HS phát huy tính
sáng tạo, tích cực để giải quyết các vấn đề do GV đặt ra. Nhằm đạt mục đích
cuối cùng là giúp HS nắm được các tri thức mới hoặc cách thức hành động khi
họ tích cực tham gia vào q trình dạy học nêu vấn đề. Thực tế cho thấy, trong
công cuộc đổi mới cách dạy và học, PPDH nêu vấn đề là một trong những
phương pháp tích cực, chủ đạo được sử dụng trong các nhà trường nói chung.
* Những ưu điểm và hạn chế của phương pháp nêu vấn:
+ Ưu điểm của phương pháp dạy học nêu vấn đề:
Một là, PPDH nêu vấn đề là một trong những PPDH tích cực, khi được áp
dụng trong giảng giải giúp cho HS hứng thú học tập bởi nó ln đặt người học vào vị
trí khám phá, nghiên cứu khoa học, phát huy được trí tuệ, tư duy thơng minh của


22
mình, địi hỏi cố gắng đến mức cao nhất suy nghĩ tìm tịi, sáng tạo để giải quyết vấn
đề đặt ra một cách tốt nhất.
Sử dụng phương pháp này không hạn chế việc đặt ra các nhiệm vụ, ràng
buộc, gắn kết HS vào một cấu trúc với vấn đề bỏ ngỏ mà ở đó chưa có cách tiếp cận
hoặc giải pháp. HS học một cách có chủ định, đóng vai trò như là người đặt ra các

câu hỏi, kế hoạch, mục đích cho chính mình. Tức là GV có vai trò hướng dẫn, gợi
mở còn HS là người chủ động tìm tịi, giải quyết vấn đề. Qua đó lĩnh hội được kiến
thức do chính mình phát hiện ra. Sử dụng phương pháp này sẽ đảm bảo giúp HS
nắm được tri thức một cách vững vàng hơn, sáng tạo, linh hoạt trong cả phương
pháp tự học. Tạo sự nhiệt tình, hứng thú cho HS trong q trình học tập có tác dụng
ghi nhớ kiến thức lâu hơn.
Hai là: PPDH nêu vấn đề tổ chức cho HS học trong một tình huống nhất định.
Tạo một môi trường giúp HS làm việc với các loại vấn đề có liên quan và sử dụng
trong tương lai. Các kiến thức và kỹ năng giúp HS giải quyết các vấn đề đó dưới sự
hướng dẫn của GV; HS được trực tiếp làm việc với các tri thức khoa học, tự mình
nghiên cứu, tách các nội dung học tập thơng qua các tình huống. Khi GV sử dụng
PPNVĐ khuyến khích HS làm việc cùng nhau trong giải quyết vấn đề và phát triển
sản phẩm của họ. HS cộng tác với các thành viên trong nhóm, trao đổi kiến thức, học
tập lẫn nhau, điều chỉnh hành vi của mình trên cơ sở đó để hình thành và phát triển
các kỹ năng của bản thân họ.
Ba là: sử dụng PPNVĐ góp phần xây dựng và hình thành ở HS những tác
phong nghiên cứu khoa học. Mặt khác, còn giúp tăng cường khả năng độc lập suy
nghĩ, phát triển tư duy sáng tạo, kĩ năng vận dụng kinh nghiệm của mình và của
người khác vào việc giải quyết các vấn đề học tập và trong nhiều lĩnh vực. Phát triển
cho HS kĩ năng thích ứng trong các tình huống khác nhau chính là mục tiêu của dạy
học hiện đại. HS tin tưởng vào khả năng của bản thân mình trong việc giải quyết các
tình huống học tập cũng như trong cuộc sống hàng ngày. Ngồi ra, cịn tăng cường
sự hiểu biết và hợp tác giữa các thành viên trong nhóm qua việc cùng nhau nghiên


23
cứu và giải quyết tình huống. Khi sử dụng phương pháp này giúp cho HS thu được
những kiến thức tốt nhất, cập nhật nhất. Có thể, bao phủ tồn bộ các trường hợp và
bối cảnh thường gặp trong cuộc sống, giúp HS tự giác, chủ động cũng như có động
cơ học tập và tinh thần trách nhiệm cao trong học tập.

Bốn là: sử dụng PPNVĐ trong dạy học làm cho GV như là một huấn luyện
viên. Thơng qua q trình giải quyết vấn đề, GV mô tả, huấn luyện, cung cấp những
chỉ dẫn cần thiết, khuyến khích HS độc lập đặt ra mục tiêu và ra quyết định.
Năm là: sử dụng PPDH nêu vấn đề còn giúp GV kiểm tra, đánh giá năng lực
nhận thức, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực sáng tạo của người học thông qua
việc trình bày, lý giải bài tốn nhận thức của HS. Qua đó, GV có thể phân loại được
HS và có phương pháp giáo dục thích hợp đối với từng đối tượng. Trong một xã hội
đang phát triển nhanh chóng theo cơ chế thị trường, cạnh tranh gay gắt thì việc phát
hiện sớm và giải quyết hợp lý những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn là một năng lực
bảo đảm sự thành đạt trong cuộc sống ở bất kể lĩnh vực nào.
Như vậy, PPDH nêu vấn đề không chỉ phát huy được tính tích cực hoạt
động của người học mà còn làm cho hoạt động của người dạy trở nên tích cực
hơn. Trong dạy học nêu vấn đề, GV trở thành người tổ chức, điều khiển hoạt
động nhận thức của HS.
+ Hạn chế của phương pháp dạy học nêu vấn đề: Trong quá trình dạy học,
GV sử dụng PPDH nêu vấn đề đã mang lại nhiều ưu điểm, song cũng không tránh
khỏi những hạn chế nhất định:
Thứ nhất: PPNVĐ không thể áp dụng trong tất cả các nội dung dạy học đặc
biệt là những mơn có tính trừu tượng và khái quát cao. Phương pháp này chỉ phù hợp
cho những HS có khả năng làm việc độc lập, sáng tạo. Nếu trong quá trình giảng
dạy, GV lạm dụng PPDH nêu vấn đề sẽ dẫn đến tình trạng khơng đảm bảo chất
lượng đồng đều trong HS, sự phân hóa trình độ ở HS khơng có sự cá biệt hóa, nhiều
HS yếu kém có tâm lý sợ học hoặc chán học.
Thứ hai: để có thể tìm kiếm từng loại vấn đề phù hợp với nội dung từng
phần, từng bài đòi hỏi GV phải có thời gian, có kinh nghiệm giảng dạy, trình độ


24
chuyên môn cũng như am hiểu các vấn đề thực tế sâu rộng, những vấn đề liên
quan đến bộ môn. Ở những lớp có nhiều HS khơng thể áp dụng hiệu quả phương

pháp này vì PPDH nêu vấn đề cần nhiều thời gian, GV phải trang bị nhiều cơ sở
vật chất cho phịng học. GV khó chủ động về mặt chương trình, kế hoạch và thời
gian. Nếu GV khơng có sự chuẩn bị kỹ lưỡng trước và khả năng trong quản lý
lớp khơng tốt thì dễ rơi vào trường hợp thiếu thời gian, khơng đúng chủ đề. Từ
đó, đưa ra kết luận về vấn đề cần nghiên cứu khơng chính xác, khơng có tiêu chí
để phân nhóm giải quyết vấn đề.
Thứ ba: mặc dù trong quá trình dạy học GV đã sử dụng các thủ pháp sư phạm
như nêu vấn đề, yêu cầu người học đọc tài liệu, nhắc lại kiến thức, phân tích, bình
luận. Tất cả các thủ pháp đó, với mục đích tăng khả năng hoạt động của HS trong
giờ học. Tuy nhiên, PPDH nêu vấn đề đòi hỏi có nhiều thời gian, nhiều tài liệu tham
khảo, mới đạt kết quả tốt.
Bốn là: khi sử dụng PPNVĐ đôi khi HS dễ bị lạc hướng trong quá trình giải
quyết tình huống, dễ nản chí khi gặp tình huống khó, khơng nhiệt tình khi gặp các
tình huống ít hấp dẫn. Khi GV giảng giải một vấn đề sâu rộng trong thời gian dài sẽ
dẫn đến sự đơn điệu và học sinh dễ rơi vào trạng thái thụ động, mệt mỏi. GV phải
biết đặt ra tình huống, có phương pháp kích thích say mê, hứng thú của người học
nếu khơng hiệu quả của bài học sẽ không cao.
1.1.2. Sự cần thiết và phương thức kết hợp phương pháp thuyết trình với
phương pháp nêu vấn đề trong dạy học phần “Công dân với đạo đức” môn
Giáo dục công dân lớp 10
1.1.2.1. Sự cần thiết kết hợp phương pháp thuyết trình với phương pháp
nêu vấn đề trong dạy học phần “Công dân với đạo đức” môn giáo dục công
dân lớp 10
* Yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học trong nhà trường:
Với sự phát triển của cách mạng KH - CN, với những bước nhảy vọt đưa
thế giới chuyển từ kỷ nguyên công nghệ sang kỷ ngun thơng tin và tri thức thì


25
giáo dục và đào tạo đóng một vai trị hết sức quan trọng. Đổi mới giáo dục đang

diễn ra trên quy mơ tồn cầu. Từ những nước đang phát triển, đến những nước
đã phát triển đều nhận thức được vai trị và vị trí hàng đầu của giáo dục. Vì vậy,
trong giai đoạn hiện nay việc đổi mới giáo dục trước hết là đổi mới PPDH. Đây
là một trong những yêu cầu cấp thiết đối với ngành giáo dục, nhằm nâng cao
chất lượng giáo dục và đào tạo, là sự sống còn của mỗi cơ sở đào tạo. Vấn đề
đổi mới PPDH được nhiều người quan tâm và có nhiều hội thảo xoay quanh vấn
đề này. Một trong những nhiệm vụ được đặt ra trong văn kiện Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ XI về phát triển giáo dục và đào tạo, đó là “Đổi mới căn bản
và tồn diện giáo dục, đào tạo trên cơ sở thực hiện đồng bộ các giải pháp phát
triển và nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo. Đổi mới chương trình, nội dung,
phương pháp dạy và học, phương pháp thi, kiểm tra theo hướng hiện đại, nâng
cao chất lượng giáo dục toàn diện”. Do đó, nâng cao chất lượng giáo dục và đào
tạo nói chung, chất lượng dạy học nói riêng là vấn đề mang tính cấp thiết. Là
giải pháp quan trọng nhất để nền giáo dục nước ta có thể tiến kịp với sự phát
triển của khoa học trên thế giới, đồng thời đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế
quốc tế trong giai đoạn hiện nay.
Đổi mới PPDH là nhu cầu tất yếu của GV, Đổi mới phương pháp chính là
sự cải tiến, nâng cao chất lượng PPDH đang sử dụng để góp phần nâng cao hiệu
quả của việc dạy học; là sự bổ sung, phối hợp nhiều PPDH để phát huy tối đa
những ưu điểm và khắc phục hạn chế của mỗi phương pháp đem lại kết quả cao
trong dạy và học. Thực chất của đổi mới PPDH là “Dạy học hướng vào người
học” hay “lấy người học làm trung tâm”. Đây là những cụm từ được dùng để
xác định sự đổi mới của PPDH hiện nay trong nhà trường. Đó là tư tưởng, là sự
định hướng cho dạy và học. Phương pháp mới này khuyến khích HS tự học, tự
phát huy sáng kiến, GV đóng vai trị hướng dẫn, cung cấp thông tin, định hướng
mục tiêu học tập, tổ chức, hướng dẫn HS chủ động nhận thức, tư duy, thực hành,
sáng tạo trong quá trình tiếp nhận tri thức.



×