Tải bản đầy đủ (.doc) (108 trang)

Kết hợp phương pháp thuyết trình với phương pháp nêu vấn đề trong dạy học phần công dân với đạo đức môn giáo dục công dân lơp 10 ở trường trung học phổ thông hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (434.48 KB, 108 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN THỊ THANH THỦY

KẾT HỢP PHƯƠNG PHÁP THUYẾT TRÌNH VỚI PHƯƠNG PHÁP
NÊU VẤN ĐỀ TRONG DẠY HỌC PHẦN “CÔNG DÂN VỚI
ĐẠO ĐỨC” MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN LỚP 10 Ở
TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG HIỆN NAY
(Qua khảo sát tại trường THPT Dân tộc nội trú
huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An)

Chuyên ngành: Lý luận và PPDH bộ mơn Giáo du ̣c Chính trị
Mã số:
60.14.10

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thái Sơn

Nghê ̣ An - 2012


2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN THỊ THANH THỦY



KẾT HỢP PHƯƠNG PHÁP THUYẾT TRÌNH VỚI PHƯƠNG PHÁP
NÊU VẤN ĐỀ TRONG DẠY HỌC PHẦN “CÔNG DÂN VỚI
ĐẠO ĐỨC” MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN LỚP 10 Ở
TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG HIỆN NAY
(Qua khảo sát tại trường THPT Dân tộc nội trú
huyện Quỳ châu, tỉnh Nghệ An)

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Nghê ̣ An - 2012


3

LỜI CẢM ƠN
Trong q trình thực hiện đề tài, tơi đã nhận được sự quan tâm của nhiều đơn
vị, thầy cô và đồng nghiệp. Tôi xin chân thành cảm ơn:
Ban Giám Hiệu trường Đại Học Vinh, Phòng Sau Đại Học, Ban Chủ nhiệm
Khoa Giáo dục Chính trị trường Đại Học Vinh cùng quý Thầy, Cô tham gia giảng
dạy lớp Cao học ngành Lý luận và Phương pháp dạy học bộ mơn Giáo dục Chính
trị khóa 18
Ban Giám Hiệu và Thầy, Cô giáo Trường Trung học phổ thông Dân tộc nội
trú Quỳ Châu đã giúp đỡ, tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình học tập và
thực hiện đề tài.
Đặc biệt, tơi xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc đến GVC - TS Nguyễn Thái Sơn,
người đã tận tình giúp đỡ và hướng dẫn tôi trong suốt thời gian học tập, nghiên
cứu và thực hiện đề tài.
Tôi chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè và đồng nghiệp cùng các bạn học
viên lớp Cao học Giáo dục Chính trị khóa 18 đã giành nhiều tình cảm, giúp đỡ,

động viên tơi hồn thành khóa học.
Nghệ An, tháng 9 năm 2012

Tác giả
Nguyễn Thị Thanh Thủy


4

MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU
B. NỘI DUNG
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc kết hợp phương pháp

Trang
1
8

thuyết trình với phương pháp nêu vấn đề trong dạy học phần “Cơng
dân với đạo đức”
1.1. Những vấn đề lí luận chung về phương pháp thuyết trình và 8
phương pháp nêu vấn đề
1.2. Sự cần thiết phải kết hợp phương pháp thuyết trình với phương 16
pháp nêu vấn đề trong dạy học môn giáo dục công dân
1.3. Thực trạng của việc kết hợp phương pháp thuyết trình với 28
phương pháp nêu vấn đề trong dạy học phần “Công dân với đạo đức”
Chương 2: Thực nghiệm sư phạm kết hợp phương pháp thuyết
trình với phương pháp nêu vấn đề trong dạy học phần “Công dân
với đạo đức” môn GDCD lớp 10 ở trường THPT DTNT Quỳ Châu,
Nghệ An

40
2.1. Chuẩn bị thực nghiệm
40
2.2. Kế hoạch thực nghiệm
41
2.3. Nội dung thực nghiệm
Chương 3: Quy trình và một số giải pháp kết hợp phương pháp
thuyết trình với phương pháp nêu vấn đề trong dạy học phần “Cơng
dân với đạo đức”
3.1. Quy trình thiết kế bài giảng kết hợp phương pháp thuyết trình 71
với phương pháp nêu vấn đề trong dạy học phần “Công dân với đạo
đức”
3.2. Một số giải pháp kết hợp phương pháp thuyết trình với phương 82
pháp nêu vấn đề trong dạy học phần “Công dân với đạo đức”
C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

93


5
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
E. PHỤ LỤC

KÍ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
1. GDCD: Giáo dục công dân

96
100



6
2. GD & ĐT: Giáo dục và Đào tạo
3. PPDH: Phương pháp dạy học
4. PPTT: Phương pháp thuyết trình
5. PPNVĐ: Phương pháp nêu vấn đề
6. QTDH: Quá trình dạy học
7. THPT: Trung học phổ thông
8. DTNT: Dân tộc nội trú
9. CNH, HĐH: Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
10. SGK: Sách giáo khoa
11. SGV: Sách giáo viên

A. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp những nguyên tắc,
chuẩn mực xã hội, nhờ đó con người tự điều chỉnh hành vi của mình cho phù
hợp với lợi ích, hạnh phúc của con người và sự tiến bộ của xã hội trong mối
quan hệ giữa con người với con người, giữa cá nhân với xã hội. Đặc biệt là trong


7
xu thế phát triển của thế giới hiện nay, cả dân tộc ta đang nỗ lực thực hiện một
nhiệm vụ hết sức quan trọng: “Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành
một nước công nghiệp theo hướng hiện đại” [14; 103]. Để thực hiện được nhiệm
vụ lớn lao này, một trong những vấn đề vừa mang tính cấp bách vừa mang tính
chiến lược hiện nay là cần phải xây dựng một nền giáo dục có chất lượng ngày
càng cao, góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho
q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.
Vì vậy, yêu cầu đặt ra là phải nghiên cứu, vận dụng các phương pháp dạy
học phù hợp với đặc trưng môn GDCD, phù hợp với nội dung từng phần, từng

bài dạy, tiết dạy nhằm phát huy được tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo
của học sinh, bồi dưỡng cho học sinh có khả năng hợp tác làm việc trong tập
thể, rèn luyện kĩ năng biết vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn cuộc sống,
đem lại cho học sinh niềm vui, hứng thú sau mỗi tiết học.
Để thực hiện được điều đó, trong q trình dạy học mơn GDCD nói chung
và dạy mơn GDCD lớp 10 nói riêng, đặc biệt là dạy học phần “Cơng dân với đạo
đức” thì việc kết hợp phương pháp thuyết trình và phương pháp nêu vấn đề là
sự kết hợp giữa phương pháp dạy học truyền thống và phương pháp dạy học
hiện đại, đáp ứng được yêu cầu của đổi mới phương pháp dạy học hiện nay. Đổi
mới phương pháp dạy học khơng có nghĩa là xóa bỏ hồn tồn các phương pháp
dạy học truyền thống, phương pháp dạy học cũ mà ngược lại cần biết kế thừa cái
cũ kết hợp với cái mới một cách linh hoạt nhằm phát huy tối ưu của đổi mới
phương pháp dạy học. Việc kết hợp phương pháp thuyết trình và phương pháp
nêu vấn đề có tác dụng phát huy tư duy sáng tạo, nghiên cứu, tìm tịi giải quyết
những vấn đề đặt ra trong học tập đồng thời biết rèn luyện kĩ năng vận dụng
kiến thức áp dụng vào đời sống thực tiễn.
Một trong những nội dung chủ yếu của môn GDCD lớp 10 phần “Công
dân với đạo đức” là giúp HS nắm được những kiến thức cơ bản: một số phạm
trù cơ bản của đạo đức học, các yêu cầu cơ bản của người công dân Việt Nam


8
trong thời kì Cơng nghiệp hóa, Hiện đại hóa như: cơng dân với tình u, hơn
nhân, gia đình; cơng dân với cộng đồng; công dân với sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc... Góp phần hình thành cho HS có khả năng đánh giá được các
hành vi hiện tượng đạo đức trong đời sống xã hội, biết tự điều chỉnh bản thân
phù hợp các chuẩn mực đạo đức tiến bộ.
Với mục tiêu, nội dung dạy học môn GDCD lớp 10, chúng tơi thấy rằng,
phương pháp thuyết trình và phương pháp nêu vấn đề là hai phương pháp quan
trọng, hoàn tồn phù hợp trong dạy học mơn GDCD lớp 10. Tuy nhiên, trong

thực tế thì mới sử dụng từng phương pháp chứ chưa thể hiện rõ sự kết hợp nên
dẫn đến tình trạng giờ học nặng nề, buồn tẻ, kém hiệu quả. Vì vậy, việc nghiên
cứu sử dụng phương pháp thuyết trình kết hợp với phương pháp nêu vấn đề
khơng chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà cịn có ý nghĩa trong thực tiễn, góp phần
vào việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay theo hướng giáo viên là người
tổ chức, điều hành, cố vấn cho học sinh thực hiện. Chính vì lí do trên đây, đã
khiến tác giả chọn vấn đề: “Kết hợp phương pháp thuyết trình với phương
pháp nêu vấn đề trong dạy học phần “Công dân với đạo đức” môn GDCD lớp
10 ở trường Trung học phổ thông hiện nay” (Qua khảo sát tại trường THPT
Dân tộc nội trú Quỳ Châu, Nghệ An).
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong lịch sử, đã từng xuất hiện tư tưởng coi trọng vai trò của người học,
xem người học là chủ thể trong quá trình học, tiêu biểu là tư tưởng giáo dục của
nhà giáo dục vĩ đại Khổng Tử. Vấn đề đổi mới PPDH lấy người học làm trung
tâm nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học cũng đã và
đang được các nhà nghiên cứu, các nhà quản lí giáo dục trên thế giới và Việt
Nam bàn đến, đặc biệt là trong những năm gần đây.
Từ những năm cuối của thế kỉ XX, thế giới đã có rất nhiều nhà giáo dục
quan tâm nghiên cứu về vấn đề này. Có thể kể ra một số tên tuổi tiêu biểu như:
L.V.Reebroa, P.M. Erdonier hay I.F. Khalarmov… Trong đó, I.F. Khalarmov –


9
nhà giáo dục Xô Viết vĩ đại đã để lại cho chúng ta một cơng trình khoa học có
giá trị là “Phát huy tính tích cực của học sinh như thế nào” (gồm 2 tập). Trong
tác phẩm này ông đã chỉ ra rằng: “Tri thức trở thành kiến thức thực sự khi HS
chiếm lĩnh nó bằng sức lao động, sáng tạo của mình” [23; 13].
Những năm gần đây ở nước ta đã có rất nhiều cơng trình khoa học của
nhiều nhà nghiên cứu, nhiều nhà giáo dục đề cập đến vấn đề này dưới nhiều góc
độ và khía cạnh khác nhau. Cụ thể:

- Nhóm sách, tài liệu tham khảo viết về việc vận dụng các PPDH trong quá
trình giảng dạy GDCD nhằm đạt hiệu quả cao trong QTDH như: “Phương pháp
giảng dạy giáo dục công dân” của Vương Tất Đạt (Nxb Đại học sư phạm Hà
Nội I, 1994), “Đổi mới phương pháp dạy học môn đạo đức và giáo dục công
dân” của tác giả Nguyễn Nghĩa Dân (Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1998), “Góp phần
dạy tốt, học tốt mơn giáo dục công dân ở trường trung học phổ thông” do tác giả
Nguyễn Đăng Bằng làm chủ biên (Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2001). Ở nhóm tài
liệu này, các tác giả chỉ chú trọng đến các PPDH truyền thống mà ít đề cập đến
việc vận dụng các PPDH tích cực vào trong q trình dạy học bộ mơn nhằm
nâng cao hơn nữa chất lượng dạy - học mơn GDCD nói chung.
- Nhóm luận văn nghiên cứu việc vận dụng các PPDH tích cực vào giảng
dạy một phần cụ thể của chương trình GDCD lớp 10: Luận văn thạc sĩ của Trần
Thị Hồng: “Vận dụng phương pháp dạy học tích cực trong dạy học giáo dục
công dân lớp 10 ở trường Trung học phổ thơng Đơng Sơn I, tỉnh Thanh Hóa”
(2006); Luận văn thạc sĩ của Trần Thị Minh: “Kết hợp phương pháp dạy học
truyền thống với phương pháp dạy học tích cực để nâng cao hiệu quả dạy học
môn giáo dục công dân lớp 10 – phần thứ nhất” (Qua thực tế các trường THPT
Hải Phòng) (2007); Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Kim Ngân: “Vận dụng các
phương pháp dạy học tích cực trong phần “Cơng dân với việc hình thành thế giới
quan, phương pháp luận khoa học” ở trường THPT hiện nay” (Qua thực tế một
số trường THPT tỉnh Nghệ An) (2008); Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Văn Vinh:


10
“Vận dụng các phương pháp dạy học tích cực trong dạy học phần “Cơng dân với
đạo đức” chương trình GDCD lớp 10 nhằm nâng cao nhận thức của học sinh
THPT về các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc” (2010); Luận văn của
thạc sĩ của Phạm Thị Nga : “Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy
tính tích cực của học sinh trong phần “Cơng dân với đạo đức” ở trường THPT
hiện nay (2010).

Nhóm cơng trình này đã chỉ ra được quan niệm về phương pháp dạy học
tích cực, các phương pháp dạy học tích cực cụ thể, những đặc trưng của các
PPDH tích cực, đặc biệt đã đưa ra được một số quy trình và điều kiện vận dụng
các PPDH tích cực vào một số bài cụ thể trong chương trình GDCD lớp 10.
- Nhóm các bài viết trên báo và tạp chí có liên quan đến vấn đề này: “Một
vài suy nghĩ về đổi mới phương pháp dạy học trong trường THPT ở nước ta” của
tác giả Trần Kiều, Tạp chí Nghiên Cứu Giáo Dục, số 5 (1995); “Phương pháp
và tư liệu giảng dạy môn Giáo dục công dân” của tác giả Lê Đức Quảng và Phan
Trọng Luận, Tạp chí Khoa học Giáo Dục, số 65 (1998). Nhóm các bài viết này
mới chỉ ra được cách thức và hướng dẫn QTDH bộ môn GDCD để đạt hiệu quả
cao chứ chưa đề cập đến vấn đề kết hợp phương pháp thuyết trình với phương
pháp nêu vấn đề trong dạy học mơn GDCD.
Nhìn chung các cơng trình nghiên cứu, các bài viết trên đều có ý nghĩa to
lớn đối với việc kế thừa trong việc vận dụng các phương pháp dạy học môn
GDCD lớp 10. Tuy nhiên, cho đến thời điểm hiện nay, chưa có một cơng trình
nghiên cứu khoa học nào đi sâu nghiên cứu một cách có hệ thống và cụ thể về
việc kết hợp phương pháp thuyết trình với phương pháp nêu vấn đề nhằm nâng
cao chất lượng dạy học phần “Công dân với đạo đức” chương trình GDCD lớp
10 ở trường THPT. Vì vậy, bản thân tơi đã lựa chọn đề tài nghiên cứu của mình
là: “Kết hợp phương pháp thuyết trình với phương pháp nêu vấn đề trong dạy
học phần “Công dân với đạo đức” môn GDCD lớp 10 ở trường Trung học phổ
thông hiện nay” (Qua khảo sát tại trường THPT DTNT Quỳ Châu, Nghệ An).


11
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là tìm ra các giải pháp để kết hợp
phương pháp thuyết trình với phương pháp nêu vấn đề nhằm nâng cao chất
lượng dạy học phần “Cơng dân với đạo đức” chương trình GDCD lớp 10 ở

trường THPT.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên thì luận văn phải thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Làm rõ cơ sở lí luận và thực tiễn của việc kết hợp phương pháp thuyết trình
với phương pháp nêu vấn đề trong dạy học phần “Công dân với đạo đức”.
- Tiến hành thực nghiệm sư phạm dạy học một số bài trong phần “Công dân
với đạo đức” môn GDCD lớp 10 tại trường THPT DTNT Quỳ Châu.
- Xây dựng quy trình và đề ra một số giải pháp kết hợp phương pháp thuyết
trình với phương pháp nêu vấn đề trong dạy học phần “Công dân với đạo đức”.
Vì vậy, bản thân tơi đã lựa chọn đề tài nêu trên với mong muốn góp phần nhỏ bé
vào quá trình đổi mới PPDH hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu việc kết hợp phương pháp thuyết trình với
phương pháp nêu vấn đề trong dạy học phần “Công dân với đạo đức” môn
GDCD lớp 10 ở trường THPT hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu về việc sử dụng phương pháp thuyết trình
kết hợp với phương pháp nêu vấn đề trong một số bài cụ thể thuộc phần “Công
dân với đạo đức” – Phần II chương trình GDCD 10. (Qua khảo sát, điều tra,
thực nghiệm sư phạm tại trường THPT DTNT huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An)
5. Giả thuyết khoa học


12
Nếu triển khai đồng bộ các giải pháp kết hợp phương pháp thuyết trình
với phương pháp nêu vấn đề thì sẽ nâng cao được chất lượng dạy học phần
“Công dân với đạo đức” môn GDCD lớp 10 ở trường THPT.
6. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu
6.1. Cơ sở lí luận

Đề tài dựa trên quan điểm lập trường cách mạng của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về
giáo dục đạo đức.
Đề tài dựa trên cơ sở nội dung chương trình sách giáo khoa (SGK), sách
giáo viên (SGV), sách thiết kế bài dạy, sách phương pháp dạy học môn giáo dục
công dân ở trường trung học phổ thông, sách hướng dẫn bồi dưỡng giáo viên
giảng dạy môn GDCD và các văn bản chỉ đạo quá trình dạy học của Bộ Giáo
dục & Đào tạo.
Đề tài kế thừa kết quả của những cơng trình nghiên cứu khoa học giáo
dục ở trong và ngoài nước.
6.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài quán triệt nguyên tắc phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Ngồi ra, trong q trình thực hiện tác giả
cịn kết hợp với các phương pháp nghiên cứu khác như:
- Phương pháp lôgic.
- Phương pháp thu thập tài liệu.
- Phương pháp trao đổi, khảo sát thăm dò ý kiến giáo viên.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
7. Ý nghĩa của đề tài
Đề tài về việc kết hợp phương pháp thuyết trình với phương pháp nêu
vấn đề nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy học của bộ môn, phát huy tính
năng động, sáng tạo trong việc chiếm lĩnh tri thức, tạo niềm vui, hứng thú trong
học tập của học sinh.


13
Đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho cơng tác nghiên cứu và
giảng dạy mơn GDCD.
Góp phần đổi mới phương pháp giảng dạy môn GDCD ngày càng đạt
hiệu quả cao hơn.
8. Kết cấu của đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
có 3 chương.
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc kết hợp phương pháp thuyết
trình với phương pháp nêu vấn đề trong dạy học phần “Công dân với đạo đức”.
Chương 2: Thực nghiệm sư phạm kết hợp phương pháp thuyết trình với
phương pháp nêu vấn đề trong dạy học phần “Công dân với đạo đức” môn
GDCD lớp 10 ở trường THPT DTNT Quỳ Châu, Nghệ An.
Chương 3: Quy trình và một số giải pháp kết hợp phương pháp thuyết trình
với phương pháp nêu vấn đề trong dạy học phần “Công dân với đạo đức”.

B. NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC KẾT HỢP PHƯƠNG
PHÁP THUYẾT TRÌNH VỚI PHƯƠNG PHÁP NÊU VẤN ĐỀ TRONG
DẠY HỌC PHẦN “CÔNG DÂN VỚI ĐẠO ĐỨC”

1.1. Những vấn đề lí luận chung về phương pháp thuyết trình và phương
pháp nêu vấn đề


14
1.1.1. Phương pháp thuyết trình
1.1.1.1. Khái niệm phương pháp thuyết trình
* Quan niệm về phương pháp thuyết trình
Phương pháp thuyết trình là phương pháp dạy học (PPDH) trong đó giáo
viên sử dụng ngôn ngữ và phi ngôn ngữ để cung cấp cho học sinh hệ thống
thông tin về nội dung học tập. Học sinh tiếp nhận hệ thống tri thức đó từ giáo
viên và xử lí tùy theo tính chủ thể của người học và yêu cầu của người dạy.
Thuyết trình là PPDH ra đời sớm nhất và hiện nay vẫn là một trong những
phương pháp được sử dụng khá phổ biến. Phương pháp này được sử dụng hầu

như ở tất cả các môn học trong trường THPT, nhất là các mơn khoa học xã hội.
Đối với mơn GDCD, nó giữ vai trò rất quan trọng. Trong dạy học, giáo viên chỉ
truyền thụ cho HS những kiến thức cơ bản và thiết thực, song để HS có thể lĩnh
hội được những tri thức trừu tượng của môn học này một cách có hệ thống, một
mặt giáo viên phải giảng dạy những nội dung cơ bản trong SGK, mặt khác còn
mở rộng có giới hạn tri thức sao cho HS tiếp thu tri thức liên tục. Tri thức trước
là tiền đề, cơ sở để tiếp thu tri thức sau. Tri thức sau bổ sung, củng cố tri thức
trước và cuối cùng HS lĩnh hội đầy đủ, có hệ thống tri thức của bộ môn. Như
vậy, chỉ trong một thời gian ngắn với PPDH thuyết trình giáo viên có thể cung
cấp cho HS một khối lượng tri thức lớn và HS có thể lĩnh hội khối lượng tri thức
đó một cách có hệ thống theo một logic chặt chẽ.
* Các loại thuyết trình: Phương pháp thuyết trình bao gồm thuyết trình kể
chuyện, thuyết trình giảng giải và thuyết trình diễn giảng.
- Thuyết trình kể chuyện: Kể chuyện là một hình thức của phương pháp
thuyết trình, trong đó giáo viên dùng lời nói biểu cảm và các thao tác dẫn dắt
học sinh tiếp cận và làm nổi bật nội dung của tri thức cần truyền thụ.
- Thuyết trình giảng giải: Giảng giải là một hình thức của phương pháp
thuyết trình, trong đó giáo viên dùng lời nói để giải thích HS hiểu các khái niệm,


15
phạm trù, quy luật và sự vận dụng chúng. Giảng giải thường được sử dụng khi
giảng tri thức mới.
- Thuyết trình diễn giảng: Diễn giảng là một hình thức của phương pháp
thuyết trình trong đó tri thức được truyền thụ theo một hệ thống logic chặt chẽ
bao gồm khối lượng tri thức lớn và thực hiện trong thời gian tương đối dài thông
qua lời giảng của giáo viên. Diễn giảng thường được áp dụng đối với những bài
có nội dung tri thức phức tạp, khó, trừu tượng và khái quát cao.
1.1.1.2. Ưu điểm của phương pháp thuyết trình
Đây là PPDH dễ thực hiện, khơng địi hỏi bất cứ phương tiện nào đối với

giáo viên. Với cách diễn đạt lưu loát, rõ ràng, dễ hiểu, phù hợp với lôgic nhận
thức và trình độ của HS, phương pháp thuyết trình trong khoảng thời gian ngắn
(1 tiết học) đã giúp giáo viên chuyển tải đến HS một khối lượng thông tin cần
thiết, cô đọng theo một cấu trúc lôgic chặt chẽ, phản ánh nội dung môn học mà
giáo viên đã chắt lọc được từ kho tàng tri thức của nhân loại. Đây là điểm mạnh
của phương pháp thuyết trình mà những PPDH khác khơng dễ gì có được.
Phương pháp thuyết trình giúp người dạy trình bày một lượng kiến thức
lớn mang tính khái quát hóa, trừu tượng hóa theo một hệ thống logic mà người
học khó có thể tự mình tìm hiểu được một cách nhanh chóng và sâu sắc. Thơng
tin trong SGK mà HS đọc thường lạc hậu hơn sự phát triển hiện tại của những tri
thức này trong thực tế. Do đó nếu sử dụng phương pháp thuyết trình tốt sẽ cung
cấp cho HS những thông tin cập nhật, chưa kịp trình bày trong SGK từ những
nguồn tài liệu khác nhau mà HS phải mất nhiều thời gian, công sức mới tìm hiểu
và tổng hợp được.
Thuyết trình là giao tiếp trực tiếp giữa giáo viên và HS, vì vậy khi thuyết
trình giáo viên có thể thường xuyên thay đổi các biện pháp, các thủ thuật thuyết
trình và điều chỉnh lại nội dung tri thức cho phù hợp với đối tượng HS. Thái độ
và lịng nhiệt tình của giáo viên khi thuyết trình có vai trị quan trọng trong việc
truyền cảm hứng và sự nhiệt tình, sáng tạo cho HS. Cho nên khơng ít HS sau khi


16
tốt nghiệp THPT có nguyện vọng, hứng thú với nghề dạy học hoặc say mê
nghiên cứu các lĩnh vực khoa học của bộ mơn.
Trong thực tế học sinh rất khó định hướng khi tìm hiểu và nghiên cứu
SGK, tài liệu mơn học, vì vậy bài thuyết trình của giáo viên có thể giúp HS định
hướng và nhận thức khi đọc tài liệu. Với phương pháp thuyết trình, người dạy sử
dụng ngôn ngữ, hành động, cử chỉ cùng các thao tác sư phạm có tác dụng lơi
cuốn, kích thích người học tập trung chú ý, phát triển tư duy, lĩnh hội tri thức
một cách có hệ thống và có ý thức. Phương pháp thuyết trình giúp người dạy

khơng chỉ sử dụng ngơn ngữ nói của mình tác động trực tiếp đến học sinh mà
với tư cách mẫu mực, với những hành vi, cử chỉ, thể hiện thái độ, niềm tin,
phẩm chất nhân cách của người thuyết trình sẽ có tác động mạnh mẽ đến tâm tư,
tình cảm, đến suy nghĩ và hành động đúng đắn của người học.
Phương pháp thuyết trình còn cho phép người dạy truyền đạt được một
khối lượng thông tin khá lớn cho nhiều người học trong cùng một thời điểm nên
tính hiệu quả kinh tế cao, đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực rộng lớn cho
xã hội. Đồng thời PPTT cũng phù hợp với điều kiện có số đơng người học
nhưng nghèo nàn, thiếu thốn về cơ sở vật chất phục vụ cho dạy học. Ngồi ra,
các bài thuyết trình cũng cung cấp cho người học khuôn mẫu về phương pháp
nhận thức, phương pháp tổng hợp, phân tích, cấu trúc tài liệu học tập, giúp
người học có được phương pháp tự học.
Hiện nay, chúng ta đang tiến hành đổi mới PPDH theo hướng hiện đại
nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS; mặc dù PPTT là
phương pháp tiêu biểu cho hệ thống PPDH truyền thống nhưng với những ưu
điểm nổi bật vừa trình bày ở trên thì PPTT vẫn phát huy hiệu quả của nó nhất là
ở các mơn khoa học xã hội.
1.1.1.3. Hạn chế của phương pháp thuyết trình
Bên cạnh những ưu điểm nổi bật, PPTT cũng có những hạn chế nhất định.
Hạn chế cơ bản của PPTT là làm cho người học ít có cơ hội phát huy tính tích


17
cực, chủ động, sáng tạo của HS. Vì khi thực hiện PPTT, người học thường chỉ
thực hiện nhiệm vụ lắng nghe, ghi chép và tiếp thu một cách thụ động các kiến
thức mà người dạy cung cấp, từ đó người học mau chóng mệt mỏi, chán nản,
buồn ngủ. Hơn nữa, sử dụng PPTT làm hạn chế khả năng tư duy độc lập của HS.
Kiến thức truyền thụ một chiều từ giáo viên, giáo viên là người chịu trách nhiệm
duy nhất về sự thành công và chất lượng của bài giảng, điều này làm cho học
sinh dễ ỷ lại vào giáo viên như khơng tích cực suy nghĩ, đưa ra các quan điểm

của mình về những vấn đề được học.
Nếu lạm dụng phương pháp thuyết trình, coi đó là phương pháp duy nhất
và sử dụng lâu dài thì: Giáo viên sẽ thu được ít thơng tin phản hồi từ HS do
thuyết trình là PPDH chủ yếu truyền thụ một chiều. Vì là độc thoại (thầy giảng,
trò nghe) nên HS dễ bị rơi vào trạng thái thụ động, phải cố gắng tập trung lắng
nghe để hiểu, ghi chép bài nên thần kinh bị ức chế dễ gây mệt mỏi. Tạo thói
quen thụ động, chờ đợi thầy giảng, thích nghe hơn là thích đọc, ngại tìm tịi,
nghiên cứu và tất yếu khơng thể có chất lượng học tập tốt được. Ngược lại, có
những vấn đề giáo viên khơng giảng giải rõ ràng vì cho rằng điều đó quá dễ
hiểu, các em đã hiểu rõ. Trong lúc các em rất cần sự giảng giải càng chi tiết càng
tốt về đơn vị kiến thức ấy. Học sinh ít có cơ hội trình bày quan điểm của mình
cũng là nguyên nhân làm hạn chế sự phát triển kĩ năng giao tiếp của các em. Sử
dụng phương pháp thuyết trình cịn hạn chế ở chỗ người học có thể lưu trữ được
ít thơng tin. Vì học sinh khơng thể nhớ hết những gì mà giáo viên trình bày. Các
nghiên cứu khoa học hiện đại đã chứng minh rằng tỉ lệ lưu giữ thơng tin trong trí
nhớ học sinh sau 03 ngày là 10% nếu sử dụng phương pháp bằng lời, 20% nếu
sử dụng hình ảnh trực quan, 70% nếu kết hợp cả lời nói và hình ảnh, 80% nếu
kết hợp cả lời nói, hình ảnh và hành động. Cịn nếu để học sinh tự phát hiện thì
tỉ lệ lưu giữ thơng tin là 90%.
Chính vì những nhược điểm này nên hiện nay có nhiều quan điểm phủ
nhận phương pháp thuyết trình, thậm chí cịn muốn loại trừ nó ra khỏi hệ thống


18
PPDH trong nhà trường. Đây là những quan điểm cực đoan, bởi vì dạy học vẫn
rất cần sử dụng phương pháp thuyết trình đặc biệt với những nội dung tri thức
mang tính lí luận, địi hỏi phải có sự phân tích, so sánh, phê phán các quan điểm
để bày tỏ chính kiến hoặc cảm xúc cá nhân. “Trong thực tế nhiều bài thuyết trình
của giáo viên đã để lại những ấn tượng lớn, ảnh hưởng lâu dài đến HS không
những về giá trị học thuật, phương pháp nhận thức mà cịn cả về tình cảm đạo

đức và tâm huyết nghề nghiệp. Đây là điều mà khơng ai có thể phủ nhận”
[15; 128-131].
Như vậy, với PPTT nội dung của bài dạy sẽ có tính hệ thống, tính logic
cao, người dạy chủ động được thời gian. Song nếu quá đề cao người dạy thì khi
sử dụng PPTT, người học thụ động tiếp thu kiến thức, giờ dạy dễ đơn điệu, buồn
tẻ, kiến thức thiên về lí luận, ít chú ý đến kĩ năng thực hành của người học, do
đó kĩ năng vận dụng kiến thức đã học vào đời sống thực tế, cũng như vận dụng
kinh nghiệm sống của bản thân để làm rõ thêm những nội dung của bài học sẽ bị
hạn chế.
1.1.2. Phương pháp nêu vấn đề
1.1.2.1. Khái niệm phương pháp nêu vấn đề
* Quan niệm về phương pháp nêu vấn đề trong dạy học môn GDCD
Theo các nhà nghiên cứu tâm lí, con người chỉ tích cực tư duy khi họ rơi
vào hồn cảnh có vấn đề, khi phải tìm cách thốt khỏi tình huống đang làm cản
bước trong nhận thức hoặc trong thực tế của họ. Hoàn cảnh có vấn đề nảy sinh
khi con người phát hiện các mâu thuẫn trong lí thuyết hay thực tế, với phương
pháp tư duy cũ, với kinh nghiệm và những tri thức đã có họ khơng thể giải quyết
được, làm cho họ rơi vào trạng thái tâm lí đặc biệt, thơi thúc họ đi tìm cách giải
quyết. Đây chính là cơ sở nảy sinh lí thuyết dạy học nêu vấn đề.
PPDH nêu vấn đề là PPDH, trong đó giáo viên tạo ra các tình huống mâu
thuẫn, đưa HS vào trạng thái tâm lí phải tìm tịi, khám phá, từ đó hướng dẫn,


19
khích lệ HS tìm cách giải quyết để nắm được kiến thức, phát triển trí tuệ và thái
độ học tập.
Trong một xã hội đang phát triển nhanh theo cơ chế thị trường, cạnh tranh
gay gắt thì phát hiện sớm và giải quyết hợp lí những vấn đề nảy sinh trong thực
tiễn là một năng lực đảm bảo sự thành công trong cuộc sống, đặc biệt trong kinh
doanh. Vì vậy, tập dượt cho HS biết phát hiện, đặt ra và giải quyết những vấn đề

gặp phải trong học tập, trong cuộc sống của cá nhân, gia đình và cộng đồng
khơng chỉ có ý nghĩa ở tầm PPDH mà phải được đặt ra như một mục tiêu giáo
dục và đào tạo.
Phương pháp nêu vấn đề trong dạy học môn GDCD ở trường THPT xuất
phát từ bản thân chính bộ mơn. Là một bộ môn trang bị cho HS những tri thức
cơ bản và thiết thực về thế giới quan khoa học, nhân sinh quan, phương pháp
luận, phương pháp tư duy khoa học, với những tri thức trừu tượng và khái quát
cao, môn GDCD địi hỏi phải có phương pháp truyền thụ và lĩnh hội có hiệu quả
nhất. Một trong những PPDH đó là phương pháp dạy và học nêu vấn đề. HS sẽ
nắm vững, hiểu sâu và rộng tri thức khi biết tự mình đặt ra và giải quyết vấn đề
cùng với giáo viên và dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Đồng thời đây cũng là
bước HS cần chuẩn bị cho mình những tri thức trước khi bước vào cuộc sống sơi
động, ln ln biến đổi, buộc họ phải tư mình tìm hiểu, đặt ra và giải quyết vấn
đề.
* Các hình thức của PPDH nêu vấn đề
Tùy theo nội dung kiến thức cụ thể của từng bài giảng và trình độ, năng
lực tiếp thu tri thức của HS, giáo viên vận dụng phương pháp nêu vấn đề ở
những hình thức như sau: trình bày nêu vấn đề, tìm tịi bộ phận (từng phần), nêu
vấn đề tồn bộ (tồn phần).
- Trình bày nêu vấn đề
Đây là mức độ thấp nhất trong dạy học nêu vấn đề. Hình thức này được
sử dụng khi cần phải truyền thụ kiến thức trừu tượng và khái quát cao, hoàn toàn


20
mới đối với HS, những thuật ngữ khoa học HS nghe thấy, nhưng chưa có một
chút hiểu biết nào về chúng.
- Tìm tịi bộ phận
Trong mỗi bài giảng bao gồm nhiều đề mục, mỗi đề mục lại bao gồm
nhiều mục nhỏ. Các đề mục và các mục nhỏ có liên quan chặt chẽ với nhau, tạo

thành một bài giảng trọn vẹn với kết cấu logic xác định.
- Nêu vấn đề tồn bộ
Đây là hình thức có mức độ cao nhất trong PPDH nêu vấn đề. Ở hình thức
này, dưới sự hướng dẫn, dẫn dắt khéo léo của giáo viên HS tự mình giải quyết
tồn bộ một vấn đề nêu ra trong bài giảng.
1.1.2.2. Ưu điểm của phương pháp nêu vấn đề
Cung cấp mơi trường sư phạm lí tưởng cho HS tổ chức các hoạt động học
tập của mình. Trong mơi trường đó, dưới sự hướng dẫn của giáo viên HS được
trực tiếp làm việc với đối tượng học tập (tri thức khoa học), tự mình nghiên cứu,
bóc tách nội dung học tập thơng qua các tình huống.
HS tiếp nhận nội dung bài học gắn với những tình huống cụ thể, điển hình
theo ngun tắc: tơi nghe thì tơi nhanh qun, tơi nhìn thì tơi nhớ và tơi làm thì
tơi nhanh hiểu.
Tăng cường khả năng độc lập suy nghĩ, phát triển tư duy sáng tạo, kĩ năng
vận dụng kinh nghiệm của mình và của người khác vào việc giải quyết các vấn
đề trong học tập và trong các lĩnh vực khác cho HS. Phát triển cho HS kĩ năng
thích ứng trong các tình huống khác nhau (đây chính là mục tiêu của dạy học
hiện đại). Nâng cao lòng tin vào khả năng của bản thân trong việc giải quyết các
tình huống học tập cũng như đời sống hiện thực. Tăng cường hiểu biết và sự hợp
tác giữa các thành viên trong nhóm thơng qua việc hợp tác để giải quyết tình
huống.
Trong dạy học nêu vấn đề cần lưu ý nêu được vấn đề cần nghiên cứu: có
thể là một câu hỏi, một tình huống, một trạng thái, một nghịch lí mà ở đó cần có


21
lời giải đáp. Có phương hướng giải quyết một cách đơn giản, dễ hiểu để học
sinh dễ dàng tiếp thu. Tình huống có vấn đề khơng phải là vấn đề mà đó là một
trạng thái tâm lí xuất hiện đối với người học, tình huống đó tạo ra được sự tị
mị, hứng thú, lơi cuốn đối với người đang tiếp thu nó (người nghe). Tình huống

đó phải đặt ra được câu hỏi, có hướng giải quyết của chủ thể và có nhiều cách
như thuyết trình vấn đề, mơ tả vấn đề, đặt câu hỏi cho học sinh trả lời. Giúp
người học biết vận dụng phương pháp để giải quyết, sắp xếp vấn đề phù hợp.
Tình huống có vấn đề phải tạo ra niềm tin và kích thích tính tích cực,
hứng thú giải quyết vấn đề của học sinh. Khi nêu ra những tình huống thực tế,
giáo viên cần diễn đạt một cách có logic dưới dạng mâu thuẫn chưa được giải
quyết. Tình hống đưa ra phải gần gủi, quen thuộc với học sinh, mặt khác cách
đặt vấn đề phải mới (theo phương châm vấn đề mới của những sự kiện không
mới; suy nghĩ mới về những điều không mới) và nhất thiết phải chú ý tới nguyên
lí về sự thống nhất giữa lí luận và thực tiễn. Giáo viên có thể nêu ra những luận
điểm, những nhận định đối lập nhau.
1.1.2.3. Hạn chế của phương pháp nêu vấn đề
Xây dựng tình huống có vấn đề trong dạy học là việc khó, khơng phải
giáo viên nào cũng làm được. Vì vậy địi hỏi giáo viên phải có kinh nghiệm
chun mơn, có trình độ sâu rộng và am hiểu những vấn đề thực tế liên quan đến
bộ môn.
Nếu giáo viên tổ chức lớp học không tốt sẽ mất rất nhiều thời gian, lãng
phí thời gian học tập vì HS tốn nhiều thời gian để giải quyết tình huống và rút ra
các tri thức cần thiết.
Học sinh dễ bị lạc hướng trong quá trình giải quyết tình huống, dễ nản chí
khi gặp tình huống khó hoặc khơng nhiệt tình khi gặp tình huống thiếu đi tính
hấp dẫn. Chưa kể đến những tình huống khó thực hiện do tốn kém kinh phí.
1.2. Sự cần thiết phải kết hợp phương pháp thuyết trình với phương pháp
nêu vấn đề trong dạy học môn giáo dục công dân


22
1.2.1. Một số vấn đề lí luận chung về việc kết hợp các phương pháp dạy học
Mỗi PPDH đều có những ưu điểm và hạn chế nhất định, do vậy trong quá
trình dạy học cần phải lựa chọn các phương pháp sao cho phù hợp với nội dung

của từng phần, từng bài; đồng thời các phương pháp đó phải hỗ trợ cho nhau
trong quá trình dạy học. Muốn làm được điều đó, giáo viên cần hiểu rõ mối quan
hệ giữa mục đích dạy học và phương pháp dạy học; giữa nội dung và PPDH
cũng như mối quan hệ giữa các phương pháp dạy học với nhau.
1.2.1.1. Mối quan hệ giữa mục đích dạy học và phương pháp dạy học
Đất nước ta đang trong thời kì Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, địi hỏi phải
có những con người lao động có chất lượng cao, năng động, sáng tạo, có đủ sức
giải quyết những vấn đề đặt ra trong thực tiễn phát triển của đất nước và đó cũng
là nhiệm vụ đặt ra đối với giáo dục và đào tạo ở nước ta. Chính vì vậy, mục đích
của dạy học ngày nay là phải: tổ chức, điều khiển học sinh nắm vững hệ thống
tri thức khoa học và hệ thống kĩ năng, kĩ xảo tương ứng; tổ chức, điều khiển
người học hình thành và phát triển năng lực hoạt động trí tuệ, đặc biệt là năng
lực tư duy sáng tạo về các phẩm chất, thói quen và hành vi đạo đức. Để đạt được
mục đích đó, tất yếu trong q trình giảng dạy, giáo viên phải tiến hành đổi mới
PPDH.
Xuất phát từ yêu cầu về lí luận và thực tiễn, Đảng và nhà nước ta xác định
đổi mới PPDH là một trong những chủ trương lớn nhằm thực hiện mục tiêu đổi
mới giáo dục, nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục thế hệ trẻ. Chủ trương
này đã được thể hiện rõ trong nhiều văn bản quan trọng như: Nghị quyết 4 của
TƯ Đảng khóa VII đã xác định phải khuyến khích tự học, áp dụng PPDH hiện
đại để bồi dưỡng cho HS năng lực tư duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề.
Nghị quyết TƯ 2 khóa VIII tiếp tục khẳng định phải đổi mới phương pháp giáo
dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện nếp tư duy sáng tạo
của người học. Nghị quyết số 40 năm 2000 của Quốc hội khóa X về đổi mới


23
chương trình giáo dục phổ thơng đã khẳng định phải đổi mới chương trình SGK
và PPDH nhằm nâng cao chất lượng giáo dục tồn diện thế hệ trẻ.
Định hướng đó đã được pháp chế hóa trong Điều 28, khoản 2 – Luật Giáo

dục 2005: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác,
chủ động, sáng tạo của HS; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học;
bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm, rèn luyện kĩ năng
vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng
thú học tập cho học sinh” [18; 30].
Định hướng trên nhấn mạnh đến việc phát huy tính tích cực, khả năng tự
học, phương pháp tư duy sáng tạo, khả năng vận dụng kiến thức, hứng thú học
tập của học sinh. Do đó, vấn đề đặt ra là phải tìm những phương pháp, kết hợp
các phương pháp sao cho phù hợp với đặc điểm, yêu cầu của từng bộ mơn để đạt
được mục đích đó. Đây chính là trách nhiệm của những người làm công tác giáo
dục mà trực tiếp là giáo viên trực tiếp dạy học ở các bộ môn cụ thể.
1.2.1.2. Mối quan hệ giữa nội dung và phương pháp
Trong quá trình dạy học thì việc quan trọng nhất là làm thế nào để truyền
đạt kiến thức cho HS một cách có hiệu quả, đó là một trong những mục đích mà
q trình dạy học hướng tới. Do vậy, việc xác định phương pháp sao cho phù
hợp với nội dung giữ vai trò quyết định vì giữa nội dung và phương pháp có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau. Mối quan hệ giữa nội dung và phương pháp được
nghiên cứu từ rất sớm, chúng tôi xin trình bày một số hướng tiếp cận về mối
quan hệ đó làm cơ sở để thực hiện kết hợp nhiều phương pháp trong quá trình
dạy học nhằm truyền đạt những đơn vị kiến thức khác nhau trong cùng một bài.
Hướng tiếp cận thứ nhất là: Phương pháp là hình thức vận động của nội
dung sự vật. Theo quan điểm này, mỗi sự vật đều có bản chất của nó và được thể
hiện qua hình thức nhất định. Do đó, mỗi sự vật đều có phương pháp vận động
riêng. Vận dụng cách tiếp cận này vào quá trình dạy học cho thấy mỗi nội dung
dạy học có một phương pháp dạy học đặc thù, mang lại hiệu quả nhất định mà


24
khơng có PPDH nào thay thế được. Cho nên khơng thể nói rằng phương pháp
này tốt, phương pháp kia khơng tốt mà phải xác định với nội dung này thì

phương pháp nào là phù hợp nhất, mang lại hiệu quả cao nhất. Từ sự phân tích,
chúng tơi thấy rằng để có thể xác định và sử dụng phương pháp dạy học tốt
trước hết phải trả lời câu hỏi dạy cái gì sau đó mới đến câu hỏi dạy như thế nào.
Phương pháp dạy học phải phù hợp với nội dung dạy học, sự thay đổi nội dung
dẫn đến sự thay đổi phương pháp dạy học.
Hướng tiếp cận thứ hai là: Phương pháp là cách thức, là con đường, là
phương tiện để đạt tới mục đích nhất định. Với quan điểm này, phương pháp có
tính độc lập tương đối với nội dung sự vật. Hệ quả từ cách tiếp cận này là có
nhiều phương pháp triển khai một nội dung dạy học, trong đó có một phương
pháp tốt nhất. Vì thế, muốn đạt kết quả cao trong dạy học phải trả lời được câu
hỏi: dạy nội dung này có thể sử dụng các phương pháp, phương tiện nào?
Phương pháp, phương tiện nào là tối ưu nhất để chuyển tải nội dung đó đến cho
học sinh.
Như vậy, “Phương pháp dạy học cũng xuất phát từ tính khách quan của nó.
Nó khơng phải là hình thức bên ngồi của nội dung. Nó phải xuất phát từ nội
dung, từ những đặc trưng của tri thức mơn học mà có một phương pháp truyền
đạt phù hợp” [4; 8].
Mặc dù việc lựa chọn phương pháp phải xuất phát từ nội dung, tuy nhiên
không được quá cứng nhắc, cần linh động trong việc lựa chọn cũng như kết hợp
các phương pháp để truyền tải những nội dung cần thiết, bởi vì nội dung nào thì
phương pháp nấy, khơng có phương pháp nào là vạn năng ứng với mọi nội
dung. Trong q trình dạy học, người dạy khơng thể không chú ý đến mối quan
hệ giữa nội dung và phương pháp vì quan hệ giữa nội dung và phương pháp là
quan hệ cơ bản nhất, mỗi bài học có một nội dung khác nhau. Nếu nội dung dễ
thì phải tăng tốc khi dạy học và sử dụng nhiều dạng hoạt động khác nhau. Nếu


25
nội dung khó thì tốc độ dạy học phải chậm lại và dùng nhiều câu hỏi hoặc tổ
chức thảo luận...

1.2.1.3. Mối quan hệ giữa các phương pháp
Xuất phát từ mối quan hệ giữa mục đích dạy học và nội dung cần truyền
đạt cho người học với PPDH; xuất phát từ thực tế mỗi phương pháp dạy học đều
có những ưu điểm và hạn chế riêng; đồng thời, trong mỗi bài học có rất nhiều
đơn vị kiến thức khác nhau khơng thể sử dụng đơn nhất một phương pháp. Do
vậy, để đảm bảo kiến thức cần truyền đạt nhất thiết chúng ta phải kết hợp nhiều
phương pháp dạy học khác nhau và tất nhiên các phương pháp được chọn để kết
hợp phải phát huy tối đa ưu điểm trong những đơn vị kiến thức nhất định và
khắc phục những hạn chế của phương pháp còn lại.
Trong giai đoạn hiện nay, những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học
công nghệ đã và đang tác động mạnh mẽ đến mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội...trong đó có giáo dục. Một yêu cầu đặt ra cho giáo dục
là làm như thế nào để đào tạo ra nguồn nhân lực có chất lượng đáp ứng được
yêu cầu của tình hình mới, xuất phát từ thực tế đó những năm gần đây Bộ GD &
ĐT đã tiến hành đổi mới tồn diện nền giáo dục trong đó có đổi mới PPDH theo
hướng phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo của người học. Do vậy, bên
cạnh những phương pháp dạy học truyền thống tiêu biểu như phương pháp
thuyết trình, đã xuất hiện những phương pháp dạy học theo hướng hiện đại như
phương pháp nêu vấn đề, giải quyết vấn đề...
Với xu thế của thời đại, chúng ta có thể khẳng định rằng, hệ thống phương
pháp dạy học truyền thống không thể đáp ứng được những yêu cầu mới của sự
nghiệp giáo dục hiện đại tuy nhiên những PPDH hiện đại xuất hiện không phải
chỉ do điều kiện kinh tế, khoa học hiện đại quy định mà còn có nguồn gốc từ sự
kế thừa, chọn lọc, phát triển những yếu tố tiên tiến của PPDH truyền thống. Vì
vậy, “Để hiện đại hóa PPDH, chúng ta cần nghiên cứu lại hệ thống PPDH truyền
thống. Nghiên cứu phương pháp truyền thống để tìm ra ý tưởng tiên tiến của


×