Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

Khai thác và sử dụng các lễ hội lịch sử địa phương trong dạy học phần lịch sử việt nam lớp 7 ở trường THCS tỉnh thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (428.49 KB, 96 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐẢO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

LÊ VĂN CẢNH
KHAI THÁC VÀ SỬ DỤNG CÁC LỄ HỘI
LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG TRONG DẠY HỌC PHẦN
LỊCH SỬ VIỆT NAM LỚP 7 Ở TRƯỜNG THCS
TỈNH THANH HOÁ
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
NGHỆ AN - 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐẢO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
LÊ VĂN CẢNH
KHAI THÁC VÀ SỬ DỤNG CÁC LỄ HỘI
LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG TRONG DẠY HỌC PHẦN
LỊCH SỬ VIỆT NAM LỚP 7 Ở TRƯỜNG THCS
TỈNH THANH HOÁ
Chuyên ngành: Lý luận và phương pháp dạy học bộ môn Lịch sử
Mã số: 60.14.01.11
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
PGS. TS. HOÀNG THANH HẢI
NGHỆ AN - 2014
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này tôi xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành
nhất đến:
- PGS.TS. Hoàng Thanh Hải, người trực tiếp hướng dẫn khoa học
đã tận tình chỉ bảo và động viên tôi trong suốt qúa trình học tập và thực
hiện luận văn.
- Các thầy cô trong tổ Bộ môn PPDH Lịch sử, khoa Lịch sử trường
Đại học Vinh, khoa Lịch sử trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã tạo điều


kiện thuận lợi và đóng góp nhiều ý kiến quý báu trong qúa trình tôi thực
hiện luận văn.
- Phòng Quản lý sau đại học, Thư viện trường Đại học Vinh, Thư viện
khoa Lịch sử trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Thư viện tỉnh Thanh Hóa, Sở
Giáo dục và Đào tạo tỉnh Thanh Hóa, Ban Nghiên cứu và Biên soạnlịch sử
Thanh Hóa, các trường THCS Thị Trấn, trường THCS Tây Hồ (huyện Thọ
Xuân), Trường THCS Dân Lực (huyện Triệu Sơn), cùng gia đình, bạn bè,
đồng nghiệp đã nhiệt tình giúp đỡ, động viên và tạo điều kiện giúp tôi hoàn
thành luận văn.
Luận văn không tránh khỏi những thiếu sót, kính mong sự chỉ dẫn và
đóng góp ý kiến của thầy cô, bạn bè, đồng nghiệp để công trình nghiên cứu
của tôi được hoàn thiện.
Nghệ An, tháng 10 năm 2014
Người thực hiện
Lê Văn Cảnh
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ 3
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 10
4. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI 10
5. CƠ SỞ PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 10
6. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC 11
7. Ý NGHĨA CỦA LUẬN VĂN 12
8. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN 12
NỘI DUNG
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC SỬ
DỤNG CÁC LỄ HỘI LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG TRONG
DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở TRƯÒNG THCS

1.1. Cơ sở lí luận 13
1.1.1. Khái quát chung về lễ hội và lễ hội lịch sử 13
1.1.2. Cách phân loại lễ hội 18
1.1.3. Ý nghĩa việc sử dụng lễ hội lịch sử trong dạy học lịch sử ở trường THCS
20
1.2. Cơ sở thực tiễn 24
1.2.1. Mục đích điều tra 24
1.2.2. Đối tượng điều tra 25
1.2.3. Nội dung điều tra 25
1.2.4. Phương pháp điều tra 25
1. 2.6. Một số nhận xét 29
Tiểu kết chương 31
Chương 2 MỘT SỐ HÌNH THỨC, BIỆN PHÁP SỬ DỤNG CÁC
LỄ HỘI LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG TRONG DẠY HỌC
PHẦN LỊCH SỬ VIỆT NAM LỚP 7 TỈNH THANH HOÁ

2.1. Cơ sở khoa học của việc sử dụng các lễ hội lịch sử địa phương trong dạy học
học lịch sử Việt Nam ở THCS 33
2.1.1. Mục tiêu, nội dung kiến thức cơ bản chương trình phần lịch sử lớp 7
hiện nay 33
2.2. Một số hình thức, biện pháp sử dụng các lễ hội lịch sử địa phương trong dạy
học phần lịch sử Việt Nam lớp 7 ở Tỉnh Thanh Hóa 38
2.2.1. Nguyên tắc khai thác và sử dụng các lễ hội lịch sử trong dạy học lịch sử
Việt nam lớp 7 ở tỉnh Thanh Hóa 38
2.2.3. Các hình thức, phương pháp sử dụng LHLS địa phương trong dạy học
lịch sử ở trường THCS ở Tỉnh Thanh Hóa 48
2.3. Thực nghiệm sư phạm 62
2.3.1. Mục đích thực nghiệm sư phạm 62
2.3.2. Đối tượng và địa bàn thực nghiệm sư phạm 63
2.3.3. Nội dung và phương pháp tiến hành thực nghiệm 63

2.4. Kết quả thực nghiệm sư phạm: 65
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
PHỤ LỤC
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1. Trong những năm gần đây, chất lượng dạy học môn Lịch Sử ở
trường phổ thông nói chung, trường trung học cơ sở nói riêng giảm sút,
được dư luận xã hội cảnh báo nhiều, như điểm thi tuyển sinh đại học môn
Lịch sử rất thấp, nhiều học sinh ít hiểu biết về tri thức lịch sử dân tộc,
không thích học môn Lịch sử… GS. Phan Huy Lê, Chủ tịch Hội Khoa học
Lịch sử Việt Nam cảnh báo: Chúng ta hình dung thế nào nếu HS lớn lên trở
thành công dân mà hiểu hiểu biết về lịch sử, không mù sử, nhưng mờ mịt,
thiếu hệ thống và thiếu căn bản, từ đó không chỉ thiếu kiến thức mà còn
liên quan đến vấn đề tính cách, ý thức công dân, dân tộc. Có nhiều nguyên
nhân khách quan và chủ quan dẫn đến tình trạng trên, như nội dung chương
trình, sách giáo khoa môn Lịch Sử còn nặng nề, khô khan, phương pháp
dạy học chưa được cải tiến, điều kiện, phương tiện dạy học còn thiếu và lạc
hậu… Một trong những nguyên nhân quan trọng là HS ít được tiếp xúc, tìm
hiểu, “làm việc” với các nguồn sử liệu, hiện vật, nhất là các hiện vật gốc,
như các di tích lịch sử- văn hoá lễ hội truyền thống, nhất là lễ hội lịch sử,
bài học lịch sử chủ yếu được tiến hành trên lớp, kiến thức lịch sử chủ yếu
trong SGK, từ bài giảng của GV
1.2. LHLS là một lễ hội truyền thống của địa phương, là một trong
những những di sản phi vật thể quý báu của nhân loại nói chung, đối với đất
nước ta có ý nghĩa nhiều mặt đối với đời sống của con người. Trong dạy học
lịch sử ở trường THCS, LHLS vừa là nguồn sử liệu gốc, quý hiếm, lại vừa là
một loại phương tiện dạy học có hiệu quả. Với chiều dài lịch sử, văn hoá hàng
ngàn năm của dân tộc hiện nay hàng năm cả nước có hơn 7000 lễ hội được tổ
chức, trong đó gần 400 (hơn 4%) lễ hội lịch sử. Đây là một lợi thế lớn đối với
1

việc dạy học lịch sử ở trường THCS. Rất tiếc, vì nhiều lý do khác nhau, lợi
thế này chưa được phát huy.
1.3. Thanh Hóa là một tỉnh lớn có truyền thống lịch sử lâu đời, mảnh
đất của “tam vương, nhị chúa”, nơi phát tích của các vương triều như Tiền Lê,
Hồ, Hậu Lê, Trịnh, Nguyễn, nơi sản sinh ra nhiều anh hùng dân tộc, tiêu biểu
như: Bà Triệu, Dương Đình Nghệ, Lê Hoàn, Lê Lợi, nơi gắn với những sự
kiện lịch sử lớn của dân tộc như 3 lần kháng chiến chống quân Nguyên-
Mông, kháng chiến của nhà Hồ, khởi nghĩa Lam Sơn, khởi nghĩa Tây Sơn,
kháng chiến chống Pháp, kháng chiến chống Mỹ… Vì vậy, hiện nay Thanh
Hóa vẫn còn lưu giữ nhiều LHLS về các nhân vật đó, các sự kiện đó. Gắn với
các di tích lịch sử là nhiều lễ hội lịch sử được tổ chức hàng năm, tiêu biểu như
lễ hội đền Bà Triệu, lễ hội đền thờ Lê Phụng Hiểu, lễ hội trao ấn tại đền thờ
Lý Thường Kiệt (Hà Ngọc, Hà Trung) lễ hội đền thờ Lê Hoàn, lễ hội Lê Lai.
Lễ hội Lam Kinh, Lễ hội Cửa Đặt, lễ hội Đền Hàn Sơn, lễ hội Phủ Na….
Tuy nhiên, cũng như các tỉnh, thành khác, do nhận thức của các cấp
quản lý, của GV, HS, do thiếu các tài liệu hướng dẫn, do biện pháp khai thác,
sử dụng chưa hiệu quả, chưa khoa học, hình thức dạy học còn nghèo nàn…
nên hệ thống các LHLS vẫn còn ít được được khai thác, sử dụng trong dạy
học lịch sử các cấp học.
1.4. Trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
mở rộng giao lưu quốc tế hiện nay, việc bảo tồn, phát huy các di sản văn hoá
nói chung, LHLS nói riêng, cũng được đặt ra một cách cấp thiết. Nghiên cứu
khai thác, sử dụng hiệu quả các LHLS trong dạy học lịch sử ở trường THCS sẽ
góp phần quan trọng trong việc giáo dục cho HS ý thức tôn trọng, gìn giữ các
di sản văn hoá của dân tộc, niềm tự hào về truyền thống quê hương, đất nước
1.5. Cho đến nay, đã có một số công trình khoa học đề cập đến những
khía cạnh khác nhau liên quan đến đề tài, nhưng chưa có một công trình
2
nghiên cứu đầy đủ, hệ thống về lý luận PPDH lịch sử, về việc sử dụng, khai
thác LHLS nhằm nâng cao chất lượng dạy học lịch sử ở trường THCS.

1.6. Phần lịch sử Việt Nam lớp 7 có mục tiêu cung cấp cho HS kiến
thức cơ bản của tiến trình lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam từ thế kỷ X đến
thế kỷ XIX, trải qua các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần Hồ, Hậu Lê,
Trịnh, Nguyễn. Nhiều sự kiện lịch sử, nhiều nhân vật lịch sử tiêu biểu trong
chương trình lịch sử Việt Nam lớp 7 hiện vẫn còn được phản ánh trong các
DTLS, lễ hội lịch sử ở Thanh Hóa.
Vì vậy, các lễ hội vừa là một nguồn sử liệu sống động, vừa là một
phương tiện có ý nghĩa đặc biệt, cung cấp cho HS những biểu tượng lịch sử
sinh động, cụ thể về các nhân vật lịch sử, sự kiện lịch sử, giáo dục các em về
niềm tự hào dân tộc, quê hương, biết ơn đối với những người có công với đất
nước, rèn luyện cho các em các năng lực tư duy, thực hành môn học…
1.7. Rất tiếc lợi thế trên chưa được phát huy vì nhiều lý do, như điều
kiện khách quan, quan niệm chưa đúng về sử dụng các lễ hội lịch sử, nhất là
phương pháp sử dụng chưa khoa học để phục vụ nhiệm vụ dạy học nên hiệu
quả chưa cao.
Vì vậy việc thực hiện đề tài “Khai thác và sử dụng các lễ hội lịch sử
địa phương trong dạy học phần lịch sử Việt Nam lớp 7 ở trường THCS tỉnh
Thanh Hoá”, có ý nghĩa về khoa học và thực tiễn, góp phần nâng cao chất
lượng dạy học lịch sử hiện nay. Đồng thời, việc sử dụng các lễ hội lịch sử có
ý nghĩa sâu sắc giúp cho học sinh nhận thức được những giá trị văn hóa của
các lễ hội lịch sử, góp phần tích cực trong việc bảo tồn, phát huy giá trị của
loại hình di sản quý báu này.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Liên quan đến lĩnh vực nghiên cứu của đề tài, ở những góc độ khác
nhau, đã có những công trình nghiên cứu trong và ngoài nước được thực hiện.
3
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng tôi tập trung tìm hiểu 2 vấn đề
chủ yếu:
- Thứ nhất, lý luận dạy học nói chung, lý luận dạy học lịch sử nói riêng,
nhất là về ý nghĩa, vai trò, hình thức, phương pháp sử dụng phương tiện dạy

học, tư liệu lễ hội lịch sử trong dạy học lịch sử ở trường THCS.
- Thứ hai, tổng quan về tình hình bảo tồn, phát huy các giá trị của lễ hội
trên thế giới, ở nước ta hiện nay nói chung và ở Thanh Hoá nói riêng.
2.1. Lý luận dạy học nói chung, lý luận dạy học lịch sử nói riêng,
nhất là về ý nghĩa, vai trò, hình thức, phương pháp sử dụng phương tiện
dạy học, tư liệu lịch sử trong dạy học lịch sử ở trường THCS
- Các công trình nghiên cứu về giáo dục học, tâm lý học của Liên Xô
(cũ) như “Phát triển tư duy của học sinh” của M. Alêxeep [55]; “Tư duy học
sinh” của M.N. Sacđacốp” [56] … đã khẳng định cơ sở tâm lý của việc trực
quan sinh động trong học tập lịch sử khi “ tạo biểu tượng trong sáng và muôn
màu muôn vẻ về các sự vật, hiện tượng đang học. Có thể thực hiện nhiệm vụ
này cho học sinh tri giác các LHLS và các di sản văn hoá” [34;58 ]. N.K.
Crupxcaia coi công tác tham quan, học tập tại LHLS là một công tác quan
trọng trong nhà trường. “Đây là một phương thức dạy cho học sinh đọc cuốn
sách của cuộc sống” [2;59].
Các công trình trên cũng đã dành một số chương đề cập đến những
nguyên tắc, phương pháp tiến hành học tập tại LHLS. Chương XI trong bộ
“Những cơ sở của lý luận dạy học”, tập III [44; 63] đã trình bày ý nghĩa về các
mặt trí, đức, dục của việc tham quan, vị trí của nó trong quá trình dạy học cũng
như hình thức tổ chức các hoạt động của học sinh trong thời gian tham quan.
Tiến sĩ N.G Đai-ri với công trình “Chuẩn bị giờ học lịch sử như thế
nào [57] đã trình bày một vấn đề quan trọng của việc dạy học lịch sử, đó là
“Vấn đề giờp học lịch sử trong những phương thức nhằm nâng cao chất lượng
4
giờ học bộ môn theo hướng mới của lý luận dạy học Xô Viết”. Tác giả nhấn
mạnh “Tính cụ thể, tính hình ảnh của sự kiện có một giá trị lớn lao, bởi vì nó
cho phép hình dung lại quá khứ”[ 20;25] và quan niệm “việc tổ chức công tác
nghiên cứu thực tế, nghiên cứu tại những nơi xảy ra các sự kiện lịch sử là một
“trong những điều kiện hiện có của hoạt động dạy và học để hình thành tư
duy tự lập và tính tự lập của học sinh” [20;26]. Ông cũng đã chỉ ra rằng, thầy

giáo bắt buộc phải biết rõ những thành tựu của khoa học lịch sử và các khoa
học giáo dục, những vấn đề mà khoa học đang giải quyết, phải biết tất cả
những hiện tượng quan trọng nhất của đời sống chính trị xã hội và văn hóa
Muốn vậy “phải sử dụng không ngừng và có hệ thống tất cả mọi nguồn tư liệu
muôn hình muôn vẻ: tác phẩm kinh điển, văn kiện của Đảng và Nhà nước,
sách chuyên khảo, sách giáo khoa, sách báo tạp chí, tác phẩm hội họa, những
cuộc tham quan ” và khẳng định “toàn bộ công tác dạy học sẽ vô cùng có lợi,
nếu thầy giáo hiểu môn học trên cơ sở tất cả những nguồn tư liệu có liên quan
đến sự kiện ” [20; 101]. Từ việc nhấn mạnh đến vai trò của việc sử dụng tài
liệu trong dạy học lịch sử, ông đã đề xuất phương pháp sử dụng sách giáo
khoa, tài liệu tham khảo, chỉ rõ mối quan hệ giữa sách giáo khoa, tài liệu tham
khảo, tài liệu tham quan thực địa với bài giảng giáo viên trên lớp
Nghiên cứu những vấn đề lý luận sư phạm, thực tiễn dạy học lịch sử
hiện nay trên thế giới, Hội quốc tế nghiên cứu lý luận dạy học lịch sử
(Internationnal Society for History Didactic) đã xuất bản tờ “Thông báo khoa
học” (Communication) thường kỳ 3 tháng một lần, trong đó có số dành cho
vấn đề “Văn hoá lịch sử-Tài liệu thông tin lịch sử quốc tế” (Historical
Culture- Historical Communication Internationnal Bibligraphy). [ 44]. Các số
tạp chí này đăng tải các công trình nghiên cứu về lý luận và kinh nghiệm ở
các nước có nền giáo dục tiên tiến như Anh, Mỹ, Pháp Đức, Tây Ban Nha,
Nhật Bản, Trung Quốc… trong đó có việc khai thác, sử dụng các, bảo tàng,
LHLS, di vật lịch sử… vào dạy học lịch sử ở trường THCS.
5
Trong Khuyến nghị của Nghị viện Châu Âu, số 1283, liên quan đến lịch sử
và việc học tập lịch sử ở Châu Âu, ngày 22/1/1996, nhấn mạnh “Nội dung của
các chương trình lịch sử phải rất mở rộng; phải bao gồm tất cả những bộ mặt
của xã hội (lịch sử xã hội và văn hóa cũng như lịch sử chính trị) Lịch sử địa
phương cũng như lịch sử dân tộc (nhưng không phải là lịch sử theo quan điểm
dân tộc chủ nghĩa) phải được giảng dạy, cũng như lịch sử các tộc người thiểu
số ” (44; 66)

Các nhà nghiên cứu lý luận về dạy học lịch sử Việt Nam với công trình
“Phương pháp dạy học lịch sử” [29, 30], do GS.TS. Phan Ngọc Liên chủ
biên, xuất bản các năm 1992, 2005… đã đề cập đến việc khai thác, sử dụng
LHLS trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông nói chung cà trường THCS
nói riêng. Trong các phần “Hệ thống các phương pháp dạy học”, “Bài học
lịch sử”, “Công tác ngoại khoá lịch sử” của công trình này đã nêu ý nghĩa
nhiều mặt của LHLS trong dạy học lịch sử. Các tác giả đã coi đó là những tài
liệu hiện vật, đồ dùng trực quan hàng đầu trong các tài liệu và đồ dùng dạy
học bộ môn. Nó có ý nghĩa bổ sung, cụ thể hoá, minh hoạ sinh động cho các
sự kiện lịch sử mà học sinh được cung cấp. Các tác giả cũng nêu những hình
thức và biện pháp sử dụng LHLS có tính khả thi và hiệu quả như tổ chức bài
học tại thực địa, tham quan ngoại khoá, công tác công ích tại các địa điểm
LHLS… Trong một số công trình nghiên cứu khác, như: ”Rèn luyện kỹ năng
nghiệp vụ sư phạm” [19], ”Các con đường, biện pháp nâng cao hiệu quả dạy
học lịch sử ở trường THCS ” [17], ”Bảo tàng lịch sử, cách mạng trong dạy
học lịch sử ở trường THCS ” [65:68]
Các tác giả khác, như Hoàng Thanh Hải trong ”Lịch sử Thanh Hóa dùng
trong trường phổ thông, CĐSP” [27], Nguyễn Cảnh Minh (chủ biên) trong
”Giáo trình phương pháp nghiên cứu và giảng dạy lịch sử địa phương”
[62] đã đề cập một số hình thức, phương pháp giảng dạy các bài lịch sử địa
phương tại LHLS ở Thanh Hóa, Việt Bắc
6
Trên các Tạp chí khoa học chuyên ngành trong nước, như Tạp chí Giáo
dục, Tạp chí Nghiên cứu giáo dục, Tạp chí khoa học trường ĐHSP Hà Nội
đăng tải một số bài nghiên cứu như: ”LHLS và việc tích cực hóa hoạt động
nhận thức của HS” [24:47]; ”Tổ chức hướng dẫn cho học sinh THCS tham
gia lễ hội xuân tại LHLS” [37; 59] đã khái quát một số vấn đề lý luận về sử
dụng LHLS trong dạy học lịch sử ở trường THCS.
Tóm lại, các công trình nghiên cứu về lý luận dạy học và lý luận dạy học
bộ môn nêu trên đã nêu lên những cơ sở khoa học cho việc đổi mới PPDH

lịch sử nói chung, cho việc xác định những nguyên tắc, phương pháp, hình
thức tổ chức cho HS học tập tại các LHLS nói riêng.
2.2. Tổng quan về tình hình bảo tồn, phát huy các LHLS trên thế
giới, ở nước ta hiện nay nói chung và ở Thanh Hoá nói riêng
LHLS là những di sản văn hóa quý báu. Vì vậy, việc bảo tồn và phát
huy các di sản này là nhiệm vụ của cả nhân loại. Một loạt các hiến chương
của UNESCO đã ra đời: Hiến chương Athens về trùng tu DTLS (1931). Hiến
chương Veice về bảo tồn và trùng tu di tích và di chỉ (1964), Công ước về
bảo vệ di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới (1972) Cho đến nay,
UNESCO đã xếp hạng hơn 500 di tích và danh thắng là di sản thế giới cần
được bảo vệ, tôn tạo.
Việt Nam tuy gia nhập Liên hiệp quốc muộn, nhưng cũng là một trong những
nước chú trọng đến việc bảo tồn các di sản văn hóa. Ngay sau Cách mạng
tháng Tám thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 65, ngày
23/11/1945, giao nhiệm vụ cho Đông Dương bác cổ học viện (Vietnam
Oriental Institut) bảo tồn tất cả cổ tích trên toàn cõi Việt Nam. Từ đó đến nay,
nhiều văn bản, pháp lệnh, nghị quyết của Đảng, Nhà nước đã ban hành, đặc
biệt, tháng 7/1998, Hội nghị BCHTW Đảng lần thứ Năm (khóa VIII) đã ra
Nghị quyết rất quan trọng về ”Xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến,
7
đậm đà bản sắc dân tộc”, định hướng cho việc bảo tồn, phát huy các di sản
văn hóa, trong đó có LHLS trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước và hội nhập khu vực, quốc tế. Tại kỳ họp lần thứ 9, Quốc hội
nước CHXHCN Việt Nam khóa X, ngày 29/1/2002, đã thông qua Luật di sản.
Như vậy, cho đến nay, chúng ta có đầy đủ cơ sở pháp lý quốc tế và trong
nước cho công tác bảo tồn, tôn tạo và phát huy các LHLS.
Về tổng quan các LHLS, đã có những công trình nghiên cứu đề cập ở những
mức độ khác nhau. Cuốn ”Bảo tàng-Di tích- Lễ hội” của Phan Khanh [49] đã
phân tích những vấn đề cơ bản về lý luận của khoa học bảo tàng, di tích, lễ
hội truyền thống ở các LHLS. Tác giả nhấn mạnh ý nghĩa giáo dục truyền

thống về lòng yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc cho thế hệ trẻ HS, SV thông
qua các LHLS. Tác giả cũng nêu rõ mối quan hệ giữa di tích, bảo tàng, lễ hội,
trong đó lễ hội đóng vai trò trung tâm. Cuốn ”60 lễ hội truyền thống” của Lê
Trung Vũ và Thạch Phương [82] đã mô tả khái quát 60 lễ hội truyền thống
tiêu biểu ở các LHLS nước ta, như các lễ hội Đền Hùng, Đền Hai Bà Trưng,
Trường Yên, Lam Kinh Cuốn sách cũng đã giới thiệu các LHLS tiêu biểu
của đất nước trên các mặt, như: vị trí cảnh quan, ý nghĩa, nội dung sự kiện mà
di tích phản ánh
Trên các tạp chí khoa học chuyên ngành như ”Tạp chí khảo cổ”, ”Nghiên
cứu Đông Nam Á”, ”Nghiên cứu văn hóa nghệ thuật”, ”Nghiên cứu lịch
sử” đã có những số chuyên đề về công tác bảo tồn, phát huy các LHLS, như
” Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á” dành hẳn số 24, tháng 3 năm 1996 cho
chuyên đề ”Sử dụng và khai thác các lễ hội” với các bài viết về tổng quan các
LHLS ở Việt Nam, về thực trạng công tác bảo tồn, phát huy các lễ hội ở
nước ta hiện nay ”Diễn đàn sử học 3003” đã công bố một số công trình
nghiên cứu về LHLS ở nước ta cả về lý luận và thực tiễn của các nhà nghiên
cứu văn hóa hàng đầu, như Nguyễn Quốc Hùng, Phạm Mai Hùng, Trần Lâm
Bền, Lưu Trần Tiêu
8
Thanh Hóa là một tỉnh lớn, có bề dày lịch sử dựng nước và giữ nước oanh liệt
hàng nghìn năm của dân tộc. Vì vậy, Thanh Hóa là một trong số tỉnh có số
lượng lớn về LHLS trong cả nước. Cho đến nay, nghiên cứu về các LHLS ở
các góc độ khác nhau, như giới thiệu lễ hội, đánh giá giá trị lịch sử, văn hóa
của lễ hội, trình bày nội dung sự kiện, nhân vật lịch sử mà lễ hội phản ánh,
thực trạng công tác bảo tồn, phát huy tính tích cực của các lễ hội đã có
nhiều thành tựu đáng kể. Các công trình tiêu biểu như ”Địa chí Thanh Hóa,
tập 1: Địa lý và lịch sử, tập 2: Văn hóa” [38, 39], ”Lịch sử Thanh Hóa, tập 1,
tập 2” [7,8]. Đặc biệt 5 tập :" Thanh Hóa di tích và danh thắng” của Ban
Quản lý di tích danh thắng Thanh Hóa [ 2,3,4,5,6,7 ] đã giới thiệu bức tranh
chung về tổng quan hệ thống LHLS ở Thanh Hóa như: lịch sử hình thành,

phát triển, các giá trị lịch sử- văn hóa của các di tích, danh thắng đã được xếp
hạng, các LHLS gắn liền với nhân vật lịch sử của dân tộc.
Tuy nhiên, các công trình trên rất ít đề cập đến ý nghĩa của các LHLS đối với
việc dạy học lịch sử ở trường phổ thông nói chung, THCS nói riêng trong cả
nước cũng như tỉnh Thanh Hóa. Điều đó cũng cho thấy thực trạng chung là sự
phối hợp giữa ngành Văn hóa- Thể thao- Du lịch với ngành Giáo dục trong
việc phát huy giá trị của các LHLS để giáo dục truyền thống, giáo dục tri thức
lịch sử cho thế hệ trẻ HS, SV chưa thật hiệu quả.
Kế thừa những kết quả nghiên cứu trên, đề tài tập trung nghiên cứu những nội
dung sau:
- Đánh giá đầy đủ ý nghĩa, vai trò của LHLH đối với việc dạy học lịch sử nói
chung, ở THCS nói riêng
- Phân tích, so sánh với nội dung chương trình, SGK lịch sử ở THCS để xác
định những LHLS tiêu biểu ở Thanh Hóa có thể và cần thiết sử dụng trong
dạy học lịch sử bậc THCS.
- Nghiên cứu xác định các nguyên tắc, hình thức, biện pháp sử dụng LHLS
trong dạy học lịch sử dân tộc ở trường THCS tỉnh Thanh Hóa.
9
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Việc khai thác và sử dụng lễ hội lịch sử địa phương trong dạy học lịch
sử ở trường THCS.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Các hình thức và biện pháp khai thác, sử dụng các LHLS trong dạy
học chương trình lịch sử Việt Nam lớp 7.
- Phạm vi điều tra, thực nghiệm sư phạm ở một số trường THCS tỉnh
Thanh Hóa.
4. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI
4.1. Mục đích
- Đánh giá đúng thực trạng việc khai thác, sử dụng các LHLS trong dạy

học lịch sử ở trường THCS tỉnh Thanh Hoá hiện nay
- Nghiên cứu đề xuất được các hình thức, phương pháp khai thác, sử
dụng một cách hiệu quả các LHLS, nhằm nâng cao chất lượng dạy học lịch sử
ở các trường THCS tỉnh Thanh Hoá hiện nay nói riêng, cả nước nói chung
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của việc sử dụng lễ hội lịch sử trong dạy
học lịch sử ở trường THCS.
- Đánh giá thực trạng việc sử dụng lễ hội lịch sử trong dạy học lịch sử ở
trường THCS ở tỉnh Thanh Hóa
- Nghiên cứu các nguyên tắc, biện pháp sư phạm sử dụng lễ hội lịch sử
trong dạy học lịch sử ở trường THCS
- Thực nghiệm sư phạm các lớp 7 ở trường THCS của tỉnh Thanh Hóa
nhằm kiểm chứng các vấn đề lý luận nêu trên
5. CƠ SỞ PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
5.1. Cơ sở phương pháp luận
Thực hiện đề tài này, chúng tôi quán triệt các quan điểm của chủ nghĩa
Mác Lê Nin và tư tưởng HCM, đường lối của Đảng CSVN về lịch sử và giáo
10
dục lịch sử, về khai thác và sử dụng lễ hội lịch sử địa phương trong dạy học
lịch sử ở trường THCS.
5. 2. Phương pháp nghiên cứu.
5.2.1. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
- Quan sát, điều tra thu thập thông tin về thực trạng sử dụng các lễ hội
lịch sử trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông tỉnh Thanh Hóa, từ đó rút ra
những bài học kinh nghiệm, đề xuất các biện pháp sư phạm khoa học.
- Sưu tầm các tài liệu liên quan đến đề tài
- Thực nghiệm sư phạm từng phần và toàn phần để kiểm chứng các
biện pháp sư phạm sử dụng lễ hội lịch sử địa phương trong các hoạt động nội
khóa và ngoại khóa lớp 7 ở một số trường THCS tỉnh Thanh Hóa.
5.2.2. Phương pháp thực nghiệm sư phạm

Tiến hành thực nghiệm sư phạm để kiểm tra giả thuyết của luận văn và
rút ra kết luận khái quát để khẳng định tính khả thi của đề tài.
6. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Trong quá trình dạy học việc giúp cho học sinh hiểu được những giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, vận dụng thực tiễn, sáng tạo các phương
pháp dạy học lịch sử, thì sẽ nâng cao được chất lượng bộ môn. Đồng thời,
thấy được vai trò và nhiệm vụ của mỗi giáo viên đối với giá trị truyền thống
dân tộc, ý nghĩa đó được truyền đạt qua các bài học đối với từng trang sử của
dân tộc.
Xác định những nguyên tắc, nội dung khi sử dụng lễ hội lịch sử vào dạy
học lịch sử Việt nam lớp 7 ở trường THCS, nhằm nâng cao hiệu quả bài học
lịch sử.
Đề xuất một số biện pháp sư phạm mang tính khả thi khi sử dụng lễ hội
một cách hợp lý, hiệu quả, khoa học phù hợp với yêu cầu đổi mới việc dạy
học lịch sử hiện nay.
11
7. Ý NGHĨA CỦA LUẬN VĂN
7.1. Ý nghĩa khoa học
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm phong phú thêm mặt lý
luận dạy học lịch sử ở trường phổ thông, khẳng định thêm các lễ hội lịch sử
vừa là một nguồn sử liệu quan trọng, vừa là phương tiện dạy học lịch sử có ý
nghĩa, có hiệu quả nhiều mặt.
Đề tài cũng khẳng định được những nét đẹp về giá trị lịch sử văn hóa của
các lễ hội lịch sử, một loại hình di sản văn hóa quan trọng của dân tộc.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ là tài liệu tham khảo tốt đối với giáo
viên dạy sử trường THCS ở tỉnh Thanh Hóa, góp phần nâng cao chất lượng
môn học.
Đề tài cũng đánh thức trách nhiệm của thầy trò trong việc bảo vệ, giữ gìn
lễ hội lịch sử của địa phương và của dân tộc, góp phần phát huy những giá trị

tinh hoa văn hóa của dân tộc cho các lớp thế hệ mai sau, giúp cho học sinh
thấy được trách nhiệm đối với những giá trị lịch sử dân tộc để lại, luôn phải
giữ gìn và ý thức trách nhiệm bảo vệ các giá trị lịch sử của dân tộc, quê
hương.
8. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, nội dung
chính của luận văn được trình bày trong 2 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc sử dụng các lễ hội lịch sử
địa phương trong dạy học lịch sử trường THCS.
Chương 2. Một số hình thức, biện pháp sử dụng các lễ hội lịch sử địa
phương trong dạy học phần lịch sử Việt Nam lớp 7 ở trường THCS tỉnh
Thanh Hóa

12
NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC SỬ DỤNG
CÁC LỄ HỘI LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ
Ở TRƯÒNG THCS
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Khái quát chung về lễ hội và lễ hội lịch sử
Việt Nam là một quốc gia dân tộc có hàng nghìn năm lịch sử. Cũng như
nhiều quốc gia trên thế giới khác, Việt Nam có một nền văn hóa mang bản sắc
riêng. Chính những nét đó làm nên cốt cách, hình hài và bản sắc của dân tộc
ta. Trong kho tàng văn hóa của dân tộc Việt Nam, sinh hoạt lễ hội là vùng văn
hóa rất đặc trưng có mặt khắp làng quê trong cả nước. Lễ hội là hình thức sinh
hoạt văn hóa tinh thần biểu hiện những giá trị tiêu biểu của cộng đồng, một
dân tộc. Ở nước ta, lễ hội được tổ chức bao gồm nhiều mặt của đời sống xã
hội như tôn giáo, tín ngưỡng, phong tục tập quán, sự tích về các vị anh hùng,
diễn xướng dân gian … Hằng năm, đất nước ta có hàng nghìn lễ hội được tổ

chức với nhiều hình thức, quy mô và mang ý nghĩa khác nhau. Lễ hội là loại
hình sinh hoạt văn hóa tinh thần đặc biệt, mang tính tập thể, có ý nghĩa to lớn
về mặt cấu kết cộng đồng, giáo dục tình cảm đạo đức con người hướng về cội
nguồn, đồng thời lễ hội có giá trị văn hóa tâm linh cân bằng đời sống tâm linh
hướng về sự thiêng liêng của sự kiện lịch sử liên quan đến nhân vật lịch sử
của dân tộc.
Lễ hội theo tác giả Đào Duy Anh, trong cuốn Việt Nam Văn Hóa Sử
Cương thì gọi là đại hội ( Vào đám hay vào hội ) [2;225]. Về sau nhiều học giả
đã thay đổi thuật ngữ này bằng các thuật ngữ tương đương.Tuy nhiên, trong
các công trình nghiên cứu qua các tên sách, tên bài viết, đã có nhiều cách gọi
13
khác nhau như tác giả Toan Ánh trong cuốn “ Nếp cũ hội hè đình đám”, thì
quan niệm rằng hội hè đình đám là những cuộc tổ chức hội họp tại các thôn, xã
nhân dịp vào đám, có nhiều trò mua vui cho dân thôn giải trí [5 ; 9].
Cách quan niệm trên đã nhấn mạnh, ý nghĩa tích cực của các hoạt động
vui chơi sinh hoạt tập thể có ý nghĩa mang nhiều tính giải trí, các yếu tố thuộc
về nghi thức mang tính tâm linh tín ngưỡng thì chưa được đề cập sâu.
Trong từ điển Tiếng Việt, do Viện khoa học xã hội Việt Nam - Viện
ngôn ngữ học xuất bản năm 1992 nói rõ: Lễ là những nghi thức tiến hành
nhằm đánh dấu một kỉ niệm, một sự việc, sự kiện có ý nghĩa nào đó. Hội là
cuộc vui tổ chức chung cho đông đảo người dự theo phong tục hoặc nhân dịp
đặc biệt [89]
Theo Hán Việt Từ Điển của tác giả Đào Duy Anh, bao gồm các nghĩa sau :
- Cách bày tỏ kính ý
- Đồ vật để bày tỏ kính ý
Chữ lễ thường đi với các cụm từ sau, nhưng không có từ lễ hội : Lễ bái,
tế thần, lễ bộ, lễ chế, lễ giáo, lễ ý, lễ mạo, lễ nghi, lễ nhạc, lễ phép, lễ phục, lễ
sinh, lễ tân, lễ tiết, lễ tiết, lễ tục, lễ văn, lễ vật [1;498]
Còn hội có nghĩa là : Họp nhau, cơ quan nhiều người họp để làm việc,
gặp, ý tứ và sự lý gặp nhau bản lĩnh và sự tình gặp nhau. Hội thường gắn với :

Hội ẩm, hội binh, hội diện, hội đồng, hội họp, hội ý, hội kiến, hội minh, hội
nghị, hội quán, hội tâm, hội thí, hội trường, hội trưởng, hội viên, hội xã.Trong
đó không có từ hội lễ [1;388]
Theo nhà văn hóa học, Đoàn Văn Chúc lại xây dựng khái niệm lễ hội từ
cụm từ Lễ - Tết - Hội, theo nghĩa gốc hán, và từ khái niệm lễ, khái niệm tết,
khái niệm hội, ông cho rằng đều chỉ một loại hình nghi thức, cũng là một loại
hình phong tục vào trong đời tại được thực hiện sống xã hội, xâm nhập vào
nhau, đan xen vào nhau. Theo ông, lễ là một sự bày tỏ kính ý đối với một sự
14
kiện hay tự nhiên, hư tưởng hay có thật, đã qua hay hiện phổ biến theo nghi
thức rộng lớn và theo phương thức thẩm mỹ nhằm biểu hiện giá trị của đối
tượng được cừ lễ và diễn đạt thái độ của công chúng hành lễ.
Hội là cuộc vui chơi bằng vô số các hoạt động giải trí công cộng diễn ra
tại một địa điểm nhất định vào dịp cuộc lễ kỉ niệm một sự kiện xã hội hay tự
nhiên, nhằm biểu đạt sự phấn khích, hoan hỷ của công chúng dự lễ ’’[2; 132].
Việc phân tích các quan niệm lễ hội trên dựa vào cấu trúc của lễ hội, theo đó
lễ hội bao gồm phần lễ và phần hội. Tuy nhiên, cách phân chia này chỉ mang
tính chất tương đối. Như chúng ta đã biết, lễ hội là một sự kiện văn hóa mang
tính cộng đồng. “ Lễ ”, có nghĩa là hệ thống những hành vi, động tác nhằm
biểu hiện sự tôn kính của con người với thần linh
Như vậy, lễ trong lễ hội cần được hiểu theo nghi thức, cách thức tiến
hành những qui tắc, luật tục nhất định mang tính biểu trưng để đánh dấu, kỷ
niệm một sự kiện, nhân vật nào đó nhằm mục đích cảm tạ, tôn vinh, ước
nguyện về sự kiện, nhân vật đó với mong muốn nhận được sự may mắm tốt
lành, nhận được sự giúp đỡ từ những đối tượng siêu hình mà người ta thờ
cúng. Đó là những sinh hoạt tinh thần của các cá nhân hay tập thể, là sinh
hoạt của cả cộng đồng trong đời sống tín ngưỡng tâm linh, hướng về đối
tượng siêu nhiên có phép màu gọi là thần, trong mối quan hệ “ Người - Thần
”,vốn luôn tồn tại trong tâm thức và hành động của con người.
Lễ và hội là một thể thống nhất không thể tách rời. Lễ là phần tín

ngưỡng, là phần thế giới tâm linh sâu lắng nhất của con người, là phần thế
giới tâm linh sâu lắng nhất của con người, là phần đạo. Còn hội là phần tập
hợp vui chơi, giải trí, là đời sống văn hóa thường nhật, phần đời cuả mỗi con
người, của cộng đồng. Hội gắn liền và chịu sự qui định nhất định của lễ, có lễ
mới có hội.
Như vậy, điểm chung nhất trong lễ hội là hoạt động tập thể và thường
liên quan đến tôn giáo, tín ngưỡng.Con người xưa rất tin tưởng vào đất trời,
15
thần linh. Các lễ hội thường phản ánh hiện tượng đó. Tôn giáo có ảnh hưởng
tới lễ hội, tôn giáo thông qua lễ hội để phô trương thanh thế, lễ hội nhờ có tôn
giáo để thần linh hóa những thứ trần tục. Nhưng trải qua thời gian, trong
nhiều lễ hội, tính tôn giáo dần giảm bớt và chỉ còn mang nặng tính văn hóa.
Lễ hội với tư cách là di sản văn hóa, là kho tàng văn hóa dân tộc, có giá
trị to lớn trong đời sống xã hội hiện đại.Mặc dù, trong thời đại công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, quá trình toàn cầu hóa
là một xu thế tất yếu, đã tác động ít nhiều đến nếp nghĩ và lối sống của đa
phần học sinh lệch lạc về lịch sử. Nếu học sinh từng bước được trang bị kiến
thức về cội nguồn lịch sử dân tộc, truyền thống đánh giặc, giữ nước, tinh thần
lao động cần cù, sáng tạo, truyền thống về những giá trị văn hóa tinh thần,
văn hóa của ông cha mình, cũng như các nhà khai sáng đã dựng nên chắt lọc
tinh hoa giá trị văn cuả nhân loại.Vì vậy, khi còn ngồi trên ghế nhà trường,
một thế giới đầy tin nhân văn sẽ được hình thành trong tâm hồn trẻ thơ, qua
môn học lịch sử và thấy được những giá trị về mặt ý nghĩa của các lễ hội của
lịch sử dân tộc.
Lễ hội là môi trường thuận lợi mà ở đó các yếu tố văn hóa truyền thống
được lưu dữ và phát triển. Những yếu tố truyền thống văn hóa đó, không
ngừng được bổ sung hoàn thiện, vận hành cùng dòng chảy của lịch sử dân tộc.
Nó chính là kết quả của cả quá trình lịch sử không chỉ riêng một cộng đồng,
mà là kết quả két tinh những tinh hoa của giá trị lịch sử, chứng kiến và hoàn
thiện trong chiều dài của lịch sử dân tộc.Lễ hội có sức cuốn hấp dẫn và trở

thành nhu cầu khát vọng của người dân cần được đáp ứng và thỏa nguyện qua
mọi thời đại. Bản chất của lễ hội là sự tổng hợp và khái quát cao đời sống vật
chất, tinh thần của người dân trong xã hội của từng giai đoạn lịch sử.
Thanh Hóa là tỉnh có nhiều lễ hội lịch sử, như lễ hội Lê Hoàn, Lễ hội
Lam Kinh ở huyện Thọ Xuân, Lễ hội đền Nưa ở huyện Triệu Sơn, Lễ hội Phủ
16
Na ở huyện Như Thanh, lễ hội Cửa Đặt, lễ hội Đền Hàn Sơn xã Hà Sơn,
huyện Hà Trung
Thông qua các lễ hội này, có ý nghĩa vô cùng quan trọng giúp cho việc
hình thành nhân cách cho học sinh hiểu được ý nghĩa lịch sử. Đây là phương
pháp học quan trọng, là phương tiện trực quan có sức thuyết phục và sinh
động nhất, giúp cho học sinh cái nhìn chân thực nhất về quá khứ lịch sử của
dân tộc. Vì vậy, lễ hội có vai trò và có ý nghĩa quan trọng trong giáo dục và
phát huy tinh thần và sức mạnh của dân tộc.
Do đặc điểm của việc học lịch sử, không trực tiếp quan sát được các sự
kiện, nên sử dụng phương pháp trực quan là rất quan trọng. Trực quan là một
trong những nguyên tắc cơ bản của lí luận dạy học, nhằm tạo cho học sinh
những biểu tượng, hình ảnh, khái niệm.
Trong việc giảng dạy lịch sử, chúng ta nên nghĩ đến làm thế nào để HS
của ta học sử ta, sao cho có hiệu quả hơn để khỏi phải nằm trong tình trạng
chữ thầy trả lại cho thầy. Dĩ nhiên, trong cuộc sống không có sử, chẳng văn
chương cũng chẳng chết ai, nhưng điều đó rất nguy hại cho sự tồn vong của
cả một dân tộc. Vì vậy, chúng ta nên hạn chế việc một chiều, tổ chức học lịch
sử gắn liền với thực tế cuộc sống thông qua các phương pháp dạy học sau :
+ Sử dụng đồ dùng dạy học lịch sử trực quan các bài tập nhận thức, thảo
luận trong giờ học
+ Tổ chức bài học tại thực địa ( Nơi diễn ra sự kiện lịch sử ), hay ở bảo
tàng hoặc nhà truyền thống.
+ Tiến hành các hoạt động ngoại khóa,thăm quan khu di tích, diễn lại các
tích xưa của sự kiện lịch sử.

Chúng ta hãy đặt người học vào bối cả lịch sử để họ cảm nhận những éo
le khúc khuỷu của lịch sử dân tộc. Đấy chính là cái hồn của lịch sử dân tộc, là
điều mà người học hiện nay khó cảm nhận được.Hãy để cái không khí đầy
17
biến cố trong giờ học lịch sử sôi động hơn nhằm lôi kéo người học đến với
lịch sử dân tộc [27;87]
Như vậy, đây là nguồn tài liệu có giá trị,thông qua việc tiếp xúc với thực
tế, hiểu được được tồn tại của di tích bằng những hình ảnh cụ thể, chân thực
giúp cho học sinh hình dung được quá khứ sử đã phản ánh, có hình ảnh cụ
thể và giai đoạn lịch sử, giúp cho học sinh nắm được ý nghĩa sâu sắc về các
sự kiện lịch sử.
1.1.2. Cách phân loại lễ hội
Đất nước ta từ xưa đến nay, có rất nhiều lễ hội, nhằm giữ gìn và phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc, giáo dục truyền thống và lối sống văn hóa, truyền
thống cách mạng, củng cố và mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân. Đây không
còn là vấn đề mới của lịch sử, dựa vào tiêu chí, nội dung người ta phân lễ hội
thành nhiều loại khác nhau :
Theo nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Đinh Gia Khánh, đã dành nhiều
thời gian và trí tuệ để nghiên cứu về lễ hội đưa ra cách phân loại đơn giản
nhất là chia lễ hội vốn có nguồn gốc tôn giáo và lễ hội không có nguồn gốc
tôn giáo.
Theo tác giả Tôn Thất Bình, chia lễ hội thành 4 nhóm : Lễ hội tưởng nhớ
vị khai canh, thành hoàng làng, lễ hội tưởng nhớ vị tổ sư ngành nghề, lễ hội
tín ngưỡng, tôn giáo, theo mùa vụ.
Tác giá Ngô Đức Thịnh đưa ra nhận định chung : “ Từ nhiều năm nay,
giới nghiên cứu về lễ hội nước ta, từ nhiều góc độ khác nhau, cố gắng đưa ra
cách phân loại lễ hội sao cho thỏa đáng nhất. Trước hết người ta căn cứ vào
nội dung phản ánh của lễ hội đây là lễ hội nông nghiệp kia là lễ hội anh hùng
lịch sử, còn kia nữa là lễ hội tôn giáo, tín ngưỡng … Căn cứ vào phạm vi to
nhỏ để phân đâu là hội làng, hội vùng và hội của cả nước …, rồi lại căn cứ

vào thời gian để chia lễ hội mùa xuân, lễ hội mùa thu, hay nơi tổ chức ở chùa
18
hay ở đình … Cách phân chia nào cũng có mặt hợp lý, nhưng cũng đều không
tránh khỏi những chồng chéo, bất hợp lý của nó ”.
Như vậy, việc phân loại lễ hội tùy thuộc vào cách tiếp cận và tiêu chí của
mỗi nhà nghiên cứu. Sự phân chia trên cũng chỉ mang tính tương đối. Một di
tích kiến trúc nghệ thuật thường được xây dựng tại một địa điểm lịch sử, gắn
với những sự kiện, nhân vật lịch sử. Các LHLS thường có vị trí, cảnh quan
thiên nhiên đẹp…
Xét dưới góc độ của những người làm công tác quản lý nhà nước về lễ
hội, năm 2001, Bộ trưởng Bộ VHTT, ban hành quyết định số 39 / 2001/QĐ-
BVHTT kèm theo qui chế tổ chức lễ hội. Quy chế này đã đưa ra 4 loại lễ hội
ở nước ta cần phải điều chỉnh là : Lễ hội dân gian, lễ hội lịch sử cách mạng, lễ
hội tôn giáo, lễ hội du nhập từ nước ngoài vào.
Lễ hội đã và đang trở thành nhu cầu văn hóa của các tầng lớp nhân dân,
góp phần giáo dục truyền thống yêu nước, nhân văn, giữ gìn bản sắc văn hóa
dân tộc, thiết thực xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, phát triển kinh tế - xã hội
ở địa phương và trên cả nước.
Như vậy, xét trên nhiều yếu tố của lễ hội, ta thấy lễ hội rất đa dạng
và phong phú, là bộ phận hữu cơ hết sức quan trọng của các di sản văn
hóa phi vật thể, là tài sản quí giá của dân tộc trong dòng chảy của lịch sử
nước nhà.
Ngày nay, bước vào thời kì CNH- HĐH, giao lưu và hợp tác với các
quốc gia trên thế giới nên việc giữ gìn các giá trị văn hoá - lịch sử dân tộc. Bộ
môn lịch sử nói chung, các lễ hội lịch sử địa phương nói riêng có ưu thế và
nhiệm vụ to lớn trong việc giữ gìn và phát huy được những giá trị truyền
thống dân tộc. Song để làm được điều này cần phải nhận thức đúng vị trí, ý
nghĩa cũng như tầm quan trọng của việc dạy học lịch sử dân tộc nói chung và
lễ hội lịch sử địa phương nói riêng.
19

1.1.3. Ý nghĩa việc sử dụng lễ hội lịch sử trong dạy học lịch sử ở trường
THCS
1.1.3.1. Lễ hội lịch sử với việc cung cấp kiến thức lịch sử cho học sinh
Lễ hội lịch sử là bằng chứng hùng hồn đanh thép nhất về quá khứ của
một thời kì lịch sử, nó gắn với tất cả những hoạt động phong phú của con
người từ lao động sản xuất, tinh thần đấu tranh, hoạt động vui chơi giải trí…
Do đó, khi học tập thăm quan các khu di tích lịch sử, nghiên cứu địa danh lịch
sử, nhân vật lịch sử …, sẽ làm cho học sinh hứng thú, nhanh chóng nắm được
nội dung kiến thức của bài học, điều này giúp các em hình dung được các sự
kiện hiện tượng, nhân vật lịch sử một cách thực tế, chân thực. Thực tế, giúp
cho học sinh thấy được bối cảnh lịch sử, khung cảnh lịch sử về sự kiện đã
diễn ra.Trên cơ sở biểu tượng cụ thể, phong phú giúp cho học sinh nhận thức
đúng đắn bản chất của sự kiện, tạo điều kiện hình thành kiến thức chung nhất
cho học sinh. Bằng hình thức thực nghiệm tại hiện trường lịch sử, giúp các
em nắm tận mắt biến cố lịch sử của dân tộc.
Lễ hội lịch sử, không chỉ là nguồn cung cấp kiến thức, mà các hoạt động
diễn ra của lễ hội còn là phương tiện trực tiếp giúp học sinh hiểu sâu, nhớ lâu
những kiến thức đã học, củng cố và làm phong phú thêm nguồn kiến thức mà
các em đã được tiếp cận trên lớp.
Trong quá trình diễn ra lễ hội, về mặt hình thức thì các lễ hội đều được
xây dựng mang tính tượng trưng, biểu tượng mang tính thiêng liêng và được
nghi thức, nghệ thuật hóa được qui định chặt chẽ và có tính nghệ thuật là yêu
cầu của các lễ hội, các yếu tố này “ Đẩy lễ hội lên đỉnh điểm của giá trị,giá trị
về mặt thẩm mỹ,về lý tưởng sống, thể hiện trong nội dung của lễ hội, muốn
được coi như mẫu hình cho cuộc sống ngày thường, mọi người phải nhớ và
noi theo’’[65;125].
Khu di tích lịch sử là nơi có các hoạt động của lễ hội, khi đến thăm khu di
tích lịch sử đền thờ Lê Hoàn tại xã Xuân Lập, huyện Thọ Xuân. Học sinh sẽ
20

×