Tải bản đầy đủ (.doc) (95 trang)

Cảm quan hậu hiện đại trong tiểu thuyết của Milan Kundera (Qua tác phẩm tiêu biểu)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (459.69 KB, 95 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

ĐẶNG LAN QUỲNH

CẢM QUAN HẬU HIỆN ĐẠI
TRONG TIỂU THUYẾT CỦA MILAN KUNDERA
(QUA CÁC TÁC PHẨM TIÊU BIỂU)
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
NGHỆ AN - 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
ĐẶNG LAN QUỲNH

CẢM QUAN HẬU HIỆN ĐẠI
TRONG TIỂU THUYẾT CỦA MILAN KUNDERA
(QUA CÁC TÁC PHẨM TIÊU BIỂU)
Chuyên ngành: Lí luận Văn học
Mã số: 60.22.01.20
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học:
TS. LÊ THANH NGA
NGHỆ AN - 2014
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 6
1. Lí do chọn đề tài 6
2. Lịch sử vấn đề 7
3. Nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu 13
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi khảo sát 14
5. Phương pháp nghiên cứu 14


6. Đóng góp của đề tài 14
Chương 1 CƠ SỞ ĐỂ NGHIÊN CỨU CẢM QUAN HẬU HIỆN ĐẠI TRONG
TIỂU THUYẾT CỦA MILAN KUNDERA 16
1.1. Hậu hiện đại và chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn học 16
1.1.1. Khái niệm chủ nghĩa hậu hiện đại
1.1.2. Hướng tiếp cận chủ nghĩa hậu hiện đại trong sáng tác và nghiên cứu
văn học
1.1.3. Một số thành tựu cơ bản của chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn học
thế kỉ XX
1.2. Vài nét về tiểu sử và sự nghiệp sáng tác của Milan Kundera 22
1.2.1. Tiểu sử
1.2.2. Văn nghiệp của Milan Kundera
1.2.3. Quan điểm tiếp cận cảm quan hậu hiện đại trong tiểu thuyết của
Milan Kundera
1.3. Nhìn chung về cảm quan hậu hiện đại trong tiểu thuyết của Milan Kundera27
1.3.1. Tư tưởng - văn hóa Tiệp Khắc thời đại Milan Kundera
1.3.2. Điều kiện gia đình và bản thân Milan Kundera
1.3.3. Nhìn chung về thế giới nghệ thuật tiểu thuyết Milan Kundera
Chương 2 CẢM QUAN HẬU HIỆN ĐẠI VỀ HIỆN THỰC VÀ CON NGƯỜI
TRONG TIỂU THUYẾT CỦA MILAN KUNDERA 34
4
2.1. Cảm quan hậu hiện đại về thế giới hiện thực 34
2.1.1. Một hiện thực xô lệch, mất trọng tâm và phi trung tâm
2.1.2. Sự phá giải các quan niệm truyền thống về thực tại - cảm hứng giải
cấu trúc về thế giới
2.1.3. Tính ngụy tạo của thế giới
2.2. Cảm quan hậu hiện đại về kiếp nhân sinh 42
2.2.1. Một cõi nhân sinh bị xóa sổ
2.2.2. Sự vô nghĩa, nhỏ bé của kiếp người
2.2.3. Con người như là trò chơi vô tăm tích

2.3. Sự hoài nghi 49
2.3.1. Sự hoài nghi các bảng giá trị văn hóa
2.3.2. Hoài nghi về sự tồn tại của kiếp người
2.3.3. Sự hoài nghi về các lí giải thế giới và con người
Chương 3 CẢM QUAN HẬU HIỆN ĐẠI TRONG TIỂU THUYẾT CỦA MILAN
KUNDERA TRÊN MỘT SỐ BÌNH DIỆN HÌNH THỨC 58
3.1. Tính chất trò chơi và sắc thái giễu nhại 58
3.1.1. Tính chất trò chơi và sắc thái giễu nhại nhìn từ cốt truyện
3.1.2. Tính chất trò chơi và sắc thái giễu nhại của tình huống
3.1.3. Tính chất trò chơi và sắc thái giễu nhại trong chi tiết
3.2. Liên văn bản với thủ pháp liên tưởng, ám gợi 71
3.2.1. Ám gợi về một bản nhạc (con số 7)
3.2.2. Các văn bản triết học
3.2.3. Các văn bản sử học, chân dung, tiểu luận văn học
3.3. Sự dịch chuyển liên tục các điểm nhìn và ngôi kể 81
3.3.1. Sự dịch chuyển liên tục các điểm nhìn - một kiểu quan niệm về cấu
trúc thế giới và vấn đề bản ngã cá nhân
3.3.2. Trò chơi hoán đổi vị trí ngôi kể
3.3.3. Sự cộng sinh của những huyền thoại
KẾT LUẬN 89
5
TÀI LIỆU THAM KHẢO
6
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Milan Kundera là một trong những hiện tượng độc đáo đáng được chú
ý trong văn học Châu Âu hiện đại. Kudera được Russell Banks đánh giá là “nhà
văn uyên bác nhất hành tinh”. Nhiều lần ông là ứng cử viên sáng giá cho giải
Nobel văn chương và được trao tặng các giải thưởng vào các năm 1985, 1987,
2000 và 2007. Tác phẩm của Milan được rất nhiều độc giả trên thế giới hâm mộ

bởi nó là kết tinh của những vấn đề nóng bỏng của thời đại. Ông được ví như
một người cuối thế kỉ nhìn lại hành trình dài mà loài người đã trải qua. Những
đóng góp và sự sáng tạo của ông ngày càng thu hút sự quan tâm của các nhà
nghiên cứu đối với nền văn học Czech và nền văn học Pháp thế kỉ XX. Nghiên
cứu về Milan Kundera là góp phần cho việc nhận thức một tác giả cụ thể nói
riêng, về văn học Czech và văn học Pháp nói chung, trong tình hình những thành
tựu của việc nghiên cứu nó ở Việt Nam còn có phần khiêm tốn.
1.2. Chủ nghĩa hậu hiện đại (postmodernism) là một thuật ngữ được dùng
trong nhiều lĩnh vực tư tưởng, từ triết học, mĩ học, các ngành phê bình, nghiên
cứu nghệ thuật, trong đó có phê bình văn học… Chủ nghĩa hậu hiện đại là một
luồng gió mới thổi bùng lên ngọn lửa tự do sáng tạo của người nghệ sĩ, làm nên
những cách tân nghệ thuật hết sức mới lạ. Nghiên cứu yếu tố hậu hiện đại trong tác
phẩm văn học một mặt tạo cơ hội khám phá chiều sâu trong tư tưởng cảm nhận của
tác giả, mặt khác còn mở ra những chiều kích ảnh hưởng và sức lan tỏa của chủ nghĩa
hậu hiện đại trong văn học nói chung, thể loại tiểu thuyết nói riêng.
1.3. Nghiên cứu về yếu tố hậu hiện đại đang trở thành một trào lưu hết
sức sôi động và được xem như một hướng tiếp cận mới ở địa hạt văn học. Tuy
nhiên, ở Việt Nam không có nhiều công trình viết về vấn đề này. Và, hiện cũng
chưa có công trình nào nghiên cứu yếu tố hậu hiện đại trong các tiểu thuyết của
Milan Kundera với tư cách là đối tượng chuyên biệt. Tìm hiểu cảm quan hậu
7
hiện đại trong tiểu thuyết của Milan Kundera qua các tác phẩm tiêu biểu của nhà
văn là góp phần làm sáng rõ thêm thế giới nghệ thuật của các tiểu thuyết trên,
cũng là góp phần nào đó cho vấn đề cách viết tiểu thuyết.
2. Lịch sử vấn đề
Milan Kundera là một hiện tượng độc đáo của văn chương thế giới nói
chung, nước Czech và nước Pháp nói riêng. Cho đến nay, sự nghiệp văn học của
ông luôn tạo luồng dư luận trái chiều, ngay cả trong giới nghiên cứu, phê bình
văn học. Để đánh giá một cách đầy đủ về cây bút tài hoa này đòi hỏi các nhà
nghiên cứu phải tìm tòi, khám phá, khơi dòng bí ẩn… thế giới nghệ thuật của

Milan Kundera. Hiện nay, nghiên cứu về Milan đã bắt đầu thu hút được nhiều
đóng góp trong nước và quốc tế.
2.1. Những nghiên cứu về Milan Kundera ở nước ngoài
Đồng bào của Milan Kundera, nhà văn Tiệp Khắc nổi tiếng Bomihur
Herabar bình luận: “Ông là một thân sĩ giỏi giang, một nhà tiểu thuyết xuất sắc,
một nhà nghệ thuật sáng suốt sâu xa, thăm dò tầng sâu của thế giới đạo đức”.
Những năm gần đây, Kundera nhiều lần được đề cử giải Nobel văn học. Người
ta tin rằng Kundera hoàn toàn có tố chất và năng lực để đứng vào hàng ngũ các
nhà văn ưu tú nhất thế giới.
Trong tiểu luận Sứ mệnh của tiểu thuyết (1997 - Ngân Xuyên dịch),
Svetlana Zherlaimova (Nga) cho rằng, “Một trong những hiện tượng độc đáo
đáng được chú ý một cách nghiêm túc trong văn học châu Âu hiện đại, có thể nói
một cách chắc chắn, đó là các tiểu thuyết và tiểu luận về tiểu thuyết của Milan
Kundera. Thực tế là tất cả những gì ông viết ra, kể từ những tập thơ đầu tiên xuất
bản vào những năm 50, đều thu hút sự chú ý của độc giả và làm dấy lên những
cuộc tranh cãi phê bình, mặc dù nhìn chung thơ của ông, cũng như vở kịch
Người giữ nguồn nước (1962) từng gây tiếng vang, vẫn nằm trong khuôn khổ
những quan niệm vốn có hồi ấy về văn học xã hội chủ nghĩa, còn những xung
đột tình yêu từng được coi là mạnh bạo trong tập thơ Độc thoại (1957) đến hôm
8
nay cảm thấy là thường. Nhưng tận trong tính cách và tài năng của Kundera ngay
từ đầu đã có tính phi chuẩn mực, tính luận chiến, chúng sẽ được bộc lộ đầy đủ
trong văn xuôi và các bài luận lí thuyết của ông.” [74]. Svetlana Zherlaimova
xem nhà văn Pháp gốc Tiệp Khắc này là một “hiện tượng” văn học-“hiện tượng
Kundera”- và nhấn mạnh: “Thực chất là ở chỗ các cuốn tiểu thuyết cô đọng của
Kundera, mỗi cuốn đều đáng được phân tích cặn kẽ, mang lại cho độc giả một
cái nhìn độc đáo về thế giới hiện đại và vị trí của con người trong đó, một thứ
triết học riêng về cuộc sống và các quan hệ liên cá nhân. Trong chúng, chủ đề
sắc sảo và các tính cách con người sinh động được kết hợp với những suy tư về
các đề tài triết học và hiện sinh mang tính toàn cầu, còn những bài tiểu luận lí

thuyết của ông được viết bằng một văn phong không kém phần hấp dẫn và đặc
sắc so với các tác phẩm nghệ thuật”. Theo Svetlana Zherlaimova, cũng trong tiểu
luận “Sứ mệnh của tiểu thuyết” thì “tiểu thuyết đối với Kundera - đó là tiểu
thuyết châu Âu” và “Kundera dành một vai trò hết sức quan trọng cho sự mỉa
mai khi ông đối lập cái cười “ác quỷ” mang tính tra vấn, khiêu khích và do đó
đưa tới nhận thức, với cái cười “thiên thần” mang tính phụ họa, tán dương, dẫn
đến sự cảm nhận sai lệch về thế giới” [74]. Rõ ràng, Svetlana Zherlaimova đã có
những đánh giá rất khái quát về Milan trên cơ sở tìm hiểu tiểu thuyết và tiểu luận
lí thuyết của ông.
Trên Tạp chí Da màu (số ra ngày 27.4.2010), Đặng Đình Túy đã tóm tắt
khá chi tiết và bình luận về cuốn Trò đùa (La Plaisanterie): “sự sắp xếp câu
chuyện của Kundera có kĩ thuật của sân khấu, ngay màn đầu người ta đã thấy
xuất hiện tuần tự những nhân vật chính trong truyện và dần dần mọi giải quyết
ló dạng. Quá khứ đan chéo với hiện tại và từng bước mọi gút mắc sẽ tự nhiên
được tháo gỡ” [69]. Bài viết của người xem chế độ Cộng sản là “không còn chịu
đựng nổi” nên muốn “bứt phá” không đem lại hiểu biết gì nhiều cho độc giả về
văn chương của Milan Kundera mà chỉ chú ý kể những bi kịch mà nhân vật
Ludvik phải trải qua vì lỡ có một “trò đùa”.
9
Nguyễn Văn Trung cũng có đánh giá khá tinh tế về Milan Kundera: “Tiểu
thuyết của Kundera không nhằm mô tả một biến cố thời sự, phản ánh một hoàn
cảnh lịch sử hay trình bày một chủ đề triết học, vì tiểu thuyết là một tác phẩm
văn học tự lập gần gũi với những thể loại văn nghệ khác như âm nhạc. Cấu trúc
của âm nhạc là đa âm (polyphonie) đa tấu, thực ra là hòa âm hòa tấu, hay khi cấu
trúc của tiểu thuyết theo Kundera cũng đa âm, đa tấu nhưng không phải hòa âm,
hợp tấu là vì tiếng nói của các nhân vật là “ông nói gà bà nói vịt” trong một thế
giới bị “tàn phá, đổ vỡ’ theo lời kể của nhân vật chính trong La Plaisanterie”
[70]. Tuy nhiên, bài viết của Nguyễn Văn Trung chủ yếu thắc mắc: “người Việt
ở trong nước và ngoài nước có nên đọc Kudera không, vì các truyện của ông nói
tới tâm trạng của người sống trong một chế độ toàn trị hay tị nạn định cư ở nước

ngoài và sau cùng là tâm trạng nhớ cố hương, quay về thăm lại quê nhà” [70] và
đi tìm câu trả lời cho câu hỏi “Tại sao Kudera được dịch giới thiệu ở Việt Nam
mà ít được dịch giới thiệu ở hải ngoại?” [70].
Ở Trung Quốc, theo nhà xuất bản dịch thuật Thượng Hải, chỉ trong năm
2002, 9 cuốn sách của Milan Kundera đã bán được hơn 1 triệu bản. Zhao
Wuping, phụ trách biên tập sách tâm sự: “…Kundera được coi là nhà văn viết
truyện nghiêm túc, các tác phẩm của ông cần cho sinh viên nghiên cứu văn học
tại các trường đại học. Nhưng khi 4 cuốn sách đầu tiên được xuất bản và được
độc giả đón nhận nồng nhiệt, chúng tôi mới biết chúng tôi đánh giá quá thấp sức
cuốn hút của Kundera”. Jin Yijun, đã tốt nghiệp Cao đẳng thời trang London và
là độc giả trung thành của Kundera, bộc lộ: “Tôi đọc hầu hết các tác phẩm của
ông. Milan Kundera kể về nhân loại bằng một văn phong giản dị và trực diện”.
Zhou Kexi, nhà văn kiêm dịch giả tiếng Pháp cho biết, tác phẩm của Kundera,
đặc biệt là The Unbearable Lightness of Being (Đời nhẹ khôn kham) đánh mạnh
vào trí tưởng tượng của độc giả. Sách của Kundera đã xuất hiện ở Trung Quốc từ
20 năm trước và nay lịch sử lại lặp lại.
Dịch giả Pháp, Francois Kérel, lại chú ý đến Milan Kundera với tập truyện
ngắn Những mối tình nực cười: “Các nhà nghiên cứu văn chương Kundera
10
thường chỉ tập trung vào các tiểu thuyết mà bỏ qua tập truyện ngắn có thể nói là
mở đầu văn nghiệp của ông: Những mối tình nực cười . Là tác phẩm đầu tay,
song bảy truyện ngắn trong Những mối tình nực cười không phải là những thử
bút non nớt, nhiều khi tệ hại và ngớ ngẩn như ở trường hợp nhiều nhà văn, ngay
cả các nhà văn lớn nhất. Kundera của Những mối tình nực cười (được viết tại
Bohême từ 1959 đến 1968) đã ngay lập tức khẳng định được “đường cày” cho
riêng mình trong cánh đồng văn xuôi rộng lớn. Các tiểu thuyết sau này sẽ tiếp
tục triển khai các ý tưởng, khung cảnh, ngay cả cách hành văn và kết cấu của
những truyện ngắn này…”
Do hạn chế về ngoại ngữ và tư liệu, những gì mà chúng tôi có dịp tiếp xúc
chắc chắn còn rất ít ỏi so với những nghiên cứu về tác giả này. Tuy nhiên, các tài

liệu này đều sẽ là những gợi ý quý báu cho chúng tôi trong quá trình hoàn thành
luận văn này.
2.2. Tình hình nghiên cứu Milan Kundera ở Việt Nam
Đối với nền văn học Việt Nam, Milan Kundera vẫn là một cái tên khá mới mẻ.
Vì thế, số lượng các công trình nghiên cứu về Milan không nhiều. Chúng tôi xin điểm
lại những nghiên cứu về ông trên những tài liệu mà chúng tôi có dịp tham khảo.
Hạ Mi, trong bài viết "Tai họa của nhà văn" đăng trên báo Tiền Phong, số
ra ngày 12.9.2013, đánh giá Milan Kundera là “nhà văn vĩ đại nhất còn sống của
Czech”. Ông “quan tâm đến tác phẩm hơn là con người nghệ sĩ, hoặc ít nhất ông
viết về nghệ sĩ từ tác phẩm trước hết […] Cảm nhận của Kundera rất độc đáo,
đôi chỗ cực khác thường. Ông nhìn ra sự thô bạo trong tranh của Bacon - gợi
cảm tưởng bàn tay họa sĩ như muốn “hiếp” nhân vật” [50].
Nguyễn Danh Lam khi “Hóng chuyện Milan Kundera” thì “choáng, sợ,
kính và cả… bực, bởi Milan Kundera đầy lí tính. Song bắt buộc phải đọc ông.
Không phải để xưng… đã đọc ông, mà thật sự thấy ở ông cái cần phải đọc” [44].
Ấy là thái độ của một người cảm giác được rằng đã “bước vào tiểu luận của
Milan Kundera là bước vào một khu rừng lạ, trong ấy tác giả không cung cấp
11
bản đồ. Hoặc như một kẻ … hóng chuyện, ngồi cạnh cuộc trao đổi của ông với
… chính ông, với “cảnh giới” và đẳng cấp của ông” [44]. Cũng về tiểu luận Một
cuộc gặp gỡ, Văn Bảy trên báo Thể thao & Văn hóa, nhận xét: “Cuốn sách cho
thấy trí tuệ uyên bác của tiểu thuyết gia này, nớ trải rộng từ hội họa, âm nhạc,
văn chương cho đến triết lí, nghệ thuật, chính trị, huyền thoại, tình bạn… Vẫn
dùng phương pháp xâu chuỗi tất cả bằng các từ khóa có tính chất “mẫu gốc” của nền
văn minh Tây phương, sách là cuộc viễn du, tưởng nhẹ nhàng từ thời truyền thuyết
đến đương đại, nhưng lại sâu lắng nhờ các ý tưởng sát sườn của vấn đề” [11].
Tác giả Hoài Anh trong "Kundera, Nhà tiểu thuyết sáng suốt và cách tân"
(đăng trên Lí luận phê bình văn học, ngày 01.8.2009) nhận định: “…Kundera là
sáng suốt sâu xa, độ cao ông ở vào khiến ông nhìn thấy sự trầm trọng và bậy bạ
của số phận nhân loại, khiến ông có thể vượt khỏi thời gian ngắn ngủi và tầm nhìn

hẹp hòi để nhìn bản thân tồn tại. […] Độ sâu mà mũi khoan tư tưởng của Kundera
có thể đạt tới, của cải tinh thần dồi dào về tồn tại ông khai quật lên, đối với chúng
ta vĩnh viễn là được hưởng lợi ích vô cùng” [2]. Bài viết của Hoài Anh lược thuật
lại quá trình viết văn của Kundera với tư cách là một nhà tiểu thuyết, chưa có cái
nhìn tổng quát về sự “cách tân” của Milan trong lĩnh vực tiểu thuyết.
Đặng Thiều Quang viết Milan Kundera khiến tôi bật cười và hổ thẹn… lại
xem Kundera là “người quá tỉnh táo!”. Và dù “biết chắc chắn một điều, tôi sẽ mặc
nhiên xếp ông vào một trong số các bậc thầy”; dù “những thứ Kundera viết ra rất
hấp dẫn, khiến một người viết văn như tôi không tránh khỏi bị ảnh hưởng”, Đặng
Thiều Quang vẫn cho rằng: Milan “không phải là nhà văn mà tôi yêu thích nhất,
bởi ông tỏ ra quá tỉnh táo trong các tác phẩm của mình, trong những cấu trúc phức
tạp đầy tham vọng của nó. Hơn nữa, sự tiết chế và làm chủ kĩ thuật viết của ông
dường như khiến tác phẩm trở nên xơ cứng, tự giới hạn trong những luận đề của
nó” [56]. Nhà văn một mặt khen ngợi: “Có thể nói Kundera rất thời thượng, khi
ông dùng nhiều thủ pháp và kĩ xảo. Sự sum suê trong tác phầm của ông khiến tôi
kinh ngạc. Ngôi nhà tiểu thuyết (hay lâu đài?) của ông được xây dựng từ rất nhiều
12
chất liệu, nền móng là những quan điểm triết học và mĩ học của ông, quan điểm về
xây dựng tiểu thuyết của ông, đó là những viên đá tảng…” [56]. Mặt khác, Thiều
Quang cũng cho rằng: “lâu đài tiểu thuyết của Kundera dần trở nên chật chội và
bức bí, khó thở, …” và “thật kinh ngạc khi Kundera là một tác giả văn chương
hàng đầu thế giới, […] Văn phong của ông khá nghèo nàn, chủ yếu mô tả tình
huống và phân tích tâm lí. Ở khía cạnh này, ông giống một nhà phân tâm nửa
mùa” [56]. Tuy nhiên, Đặng Thiều Quang cũng khẳng định: “Điều lớn nhất mà
ông đem lại cho độc giả là những nhận thức về tư tưởng, sự thức tỉnh nào đó, qua
những điều nực cười, những tiếng cười chua chát, đầy cay đắng, và cũng cay độc
nữa” [56]. Bài viết khá tinh tế và thuyết phục khi thẳng thắn chỉ ra những ưu điểm
và hạn chế của văn chương Milan Kundera.
Lời tựa sách Điệu Valse giã từ (Tủ sách Đông Tây - Nhà xuất bản Hội nhà
văn): “Đây không phải là một tác phẩm dễ đọc, không phải vì nó dày hay các chi

tiết quá cầu kì mà chính là bởi một chi tiết đơn giản song Milan Kundera đã mở
ra bao nhiêu là cách hiểu, kèm theo vô số hàm ý khiến càng đọc càng bị hút sâu
hơn vào nội tâm con người”. Tác giả lời tựa cũng đánh giá rất cao: “Milan
Kundera có một ngòi bút rất sắc và cách viết cực kì chặt chẽ, tác phẩm hầu như
không có chi tiết thừa” [47].
Nhà nghiên cứu Trần Thanh Hà trong “Sự bất tử của Milan Kundera –
một sắc diện mới cho tiểu thuyết” (Tạp chí Sông Hương) đã khẳng định: “Sự bất
tử đã tập trung một cách toàn vẹn quan niệm về nghệ thuật tiểu thuyết” trên các
phương diện: Tiểu thuyết trò chơi, Tiểu thuyết và triết học, Tiểu thuyết luận bàn
về tiểu thuyết, Tiểu thuyết bách khoa, Tiểu thuyết giao hưởng. Từ đó, tác giả
khẳng định: “Tiểu thuyết Sự bất tử của Kundera đã tạo một phong cách, một dấu
ấn riêng của tác giả và cũng là điểm khởi đầu cho một tương lai phát triển của
tiểu thuyết. […] Sự bất tử là một bản giao hưởng ngôn từ, là một trò chơi kì vĩ,
là nơi hội tụ của nhiều thể loại, nhiều quan niệm thẩm mĩ” [26].
Blog của Congchuacaoly có bài viết Tính trò chơi trong Những mối tình
nực cười của Milan Kundera. Trong đó, tác giả chỉ ra: Tính trò chơi chi phối
13
cấu trúc tự sự, Tính trò chơi chọn thủ pháp giễu nhại làm thủ pháp chính và ý
nghĩa của tính trò chơi là “đã đưa Milan Kundera đến sự khám phá mới về tính
hỗn loạn và bi đát của cuộc sống và khám phá bản ngã con người” [16].
Trong bài viết Đọc “Một cuộc gặp gỡ” - Những ghi chú về nghệ thuật của
Kundera", Đoàn Ánh Dương nhận định: “Một cuộc gặp gỡ là một câu chuyện
mạch lạc thường xuyên bị ngừng lại bởi sự đan xen của những ngoại đề, mà
nhiều khi, Kundera thực sự đắm chìm vào, để theo đó người đọc được hân hưởng
đón nhận những luồng gió mới, xoa dịu cái ngột ngạt truy bức của cuộc “thăm
dò hiện sinh” khôn cùng mà Kundera theo đuổi” [21]. Tác giả cho rằng Một
cuộc gặp gỡ như những ghi chú về nghệ thuật là bởi lẽ: Những vấn đề của tiểu
thuyết được toát lên không chỉ từ những phân tích từ tiểu thuyết, mà mở sang cả
hội họa, điện ảnh, trong một nhìn nhận chung về nghệ thuật không phân biệt
không-thời gian nữa; những vấn đề thuộc phạm vi văn học , câu chuyện cũng

khác đi ít nhiều khi ở đây Milan có những đánh giá sâu sắc về vai trò của thơ và
kịch; Tinh thần dân chủ hậu hiện đại cũng làm cho không gian nghệ thuật được
mở rộng.
Dịch giả Cao Việt Dũng cho rằng “chắc chắn Kundera có ảnh hưởng
không nhỏ ở Việt Nam, theo tôi là ngang với Garcia Márquez”.
Trên đây chưa phải là tất cả thành tựu nghiên cứu M.Kundera, nhưng do
điều kiện tư liệu, khuôn khổ và đối tượng, mục đích của đề tài nên chúng tôi
chưa thống kê hết. Dẫu chưa thực sự có công trình quy mô nghiên cứu một cách
hệ thống yếu tố hậu hiện đại trong tiểu thuyết của Milan Kundera với tư cách là
đối tượng chuyên biệt, nhưng trong tất cả những gì đã viết về ông, chúng ta thấy
thấp thoáng nhận định về yếu tố hậu hiện đại. Đó sẽ là những gợi ý quý báu cho
chúng tôi trong quá trình thực hiện luận văn.
3. Nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu
3.1. Đưa ra một cái nhìn khái quát về cuộc đời, sự nghiệp và phong cách
nghệ thuật của Milan Kundera trong bối cảnh lịch sử xã hội - thẩm mĩ của nýớc
CHDCND Tiệp Khắc và nýớc Pháp mà nhà vãn từng sống và viết.
14
3.2. Chỉ ra những biểu hiện cụ thể của cảm quan hậu hiện đại trong tiểu thuyết
của Milan Kundera trên sự khảo sát nhận thức của nhà văn về con người và thế giới.
3.3. Chỉ ra những biểu hiện của cảm quan hậu hiện đại trong tiểu thuyết
của Milan Kundera trên một số bình diện thi pháp.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi khảo sát
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Như tên đề tài đã xác định, đối tượng nghiên cứu trong đề tài của chúng
tôi là cảm quan hậu hiện đại trong tiểu thuyết của Milan Kundera.
4.2. Phạm vi khảo sát
Thực hiện đề tài này, chúng tôi chủ yếu tập trung khảo sát 3 tiểu thuyết
của Milan Kundera: Sự bất tử, Bản nguyên, Chậm rãi. Ngoài ra, chúng tôi còn
khảo sát hai tiểu thuyết nữa là Vô tri và Điệu Valse giã từ.
5. Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện đề tài này chúng tôi đã sử dụng một số phương pháp cụ thể:
phương pháp khảo sát-thống kê, phương pháp phân tích-tổng hợp, phương pháp
loại hình, phương pháp hệ thống, phương pháp so sánh.
6. Đóng góp của đề tài
Với những kiến thức mà đề tài đạt được chúng tôi hi vọng sẽ góp thêm
một cái nhìn toàn diện hơn về yếu tố hậu hiện đại trong sáng tác văn học nói
chung, trong tiểu thuyết nói riêng. Đồng thời trong phạm vi giới hạn mà đề tài
đạt được sẽ đưa Milan Kundera đến gần hơn với công chúng văn học Việt Nam.
7. Cấu trúc luận văn
Tương ứng với nhiệm vụ, mục đích đã đặt ra, ngoài phần mở đầu, kết luận
và tài liệu tham khảo, luận văn của chúng tôi được cấu trúc thành 3 chương.
Chương 1. Cơ sở để nghiên cứu cảm quan hậu hiện đại trong tiểu thuyết
của Milan Kundera.
Chương 2. Cảm quan hậu hiện đại về hiện thực và con người trong tiểu
thuyết của Milan Kundera.
15
Chương 3. Cảm quan hậu hiện đại trong tiểu thuyết Milan Kundera trên
một số phương diện hình thức.
16
Chương 1
CƠ SỞ ĐỂ NGHIÊN CỨU CẢM QUAN HẬU HIỆN ĐẠI
TRONG TIỂU THUYẾT CỦA MILAN KUNDERA
1.1. Hậu hiện đại và chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn học
1.1.1. Khái niệm chủ nghĩa hậu hiện đại
Chủ nghĩa hậu hiện đại (potsmodernism) là một thuật ngữ được dùng
trong nhiều lĩnh vực tư tưởng, từ triết học, mĩ học, các ngành phê bình, nghiên
cứu nghệ thuật, trong đó có phê bình, nghiên cứu văn học… Đây là một vấn đề
phức tạp và rất khó định nghĩa. Các ý kiến bàn luận về bản chất của chủ nghĩa
hậu hiện đại là rất khác nhau. Theo Từ điển bách khoa nhân chủng học văn hóa
thì : “Chủ nghĩa hậu hiện đại được định nghĩa như một trào lưu chiết trung, khởi

đầu từ mĩ học về kiến trúc và triết học. Chủ nghĩa hậu hiện đại tán thành thái độ
hoài nghi có hệ thống cái viễn cảnh lấy lí thuyết làm nền tảng. Áp dụng vào nhân
chủng học, thái độ hoài nghi ấy đổi trọng tâm từ sự quan sát một xã hội khác biệt
sang quan sát người quan sát”. Charles Jencks trong bài viết Chủ nghĩa hậu hiện
đại là gì? đã định nghĩa: chủ nghĩa hậu hiện đại “trên căn bản là một thứ hỗn
hợp mang tính chiết trung của bất cứ truyền thống nào với những gì vừa mới
qua: nó vừa là sự kế tục vừa là sự siêu việt hóa của chủ nghĩa hiện đại” [5;65].
Lyotart lại khẳng định: chủ nghĩa hậu hiện đại là thân phận của tri thức trong
những xã hội phát triển nhất và hậu hiện đại là sự hoài nghi về các siêu văn bản.
Ihab Hassan cho rằng: chủ nghĩa hậu hiện đại là một thứ chủ nghĩa hiện đại
muộn (hay chủ nghĩa hiện đại hậu kì), mang tính phi lí tính, phi xác định nhưng
cũng mang tính nhập cuộc. Cùng chung quan niệm với Ihab Hasan, Hoàng Ngọc
Tuấn trong cuộc phỏng vấn của báo Thể thao và Văn hóa đã tuyên bố: “chủ
nghĩa hậu hiện đại không phải là một thứ lí thuyết được đặt ra để điều hướng văn
hóa, văn nghệ, mà nó là cảm thức của con người, nẩy sinh trong một giai đoạn
nhất định của lịch sử nhân loại”. Nguyễn Văn Tùng thì tóm gọn: “Hiểu đơn giản,
17
Chủ nghĩa hậu hiện đại là một cách nhìn nhận thế giới và con người , là hệ quả
tất yếu của thời đại khoa học kĩ thuật phát triển như vũ bão” [68].
Như vậy, chủ nghĩa hậu hiện đại là một khái niệm chưa hoàn tất và còn
tồn tại nhiều vấn đề tranh luận. Tuy nhiên, các ý kiến đều có điểm tương đồng là
định nghĩa chủ nghĩa hậu hiện đại trên cơ sở xác định mối quan hệ giữa chủ
nghĩa hiện đại và chủ nghĩa hậu hiện đại. Mối quan hệ này cũng có nhiều ý kiến
đánh giá khác nhau. Nhiều học giả như Hassan, Michel Foucault… coi chủ nghĩa
hậu hiện đại như là đỉnh cao của chủ nghĩa hiện đại, là sự phát triển logic của
chủ nghĩa hiện đại. Họ cho rằng chủ nghĩa hiện đại và những đặc trưng của nó
chính là những tiền đề tạo điều kiện cho chủ nghĩa hậu hiện đại ra đời. Jean
Francois Lyotart với công trình Điều kiện hậu hiện đại: Bản tường trình về tri
thức lại có quan điểm cực đoan về chủ nghĩa hậu hiện đại. Ông khẳng định
những đột phá không thể ngờ tới do chủ nghĩa này mang lại và khuyến khích con

người tiếp cận với những cái mới bằng cách vượt qua những rào cản, trói buộc.
Không đồng tình với Lyotart, Thụy Khuê () cho rằng điều
này sẽ gây nên những bất đồng do sự ngộ nhận hậu hiện đại: “niềm tin ngây thơ
là văn hóa có thể mọc lên từ một khoảng trống, người ta có thể sáng tác từ chỗ
không cần biết những gì đã có trước, tức là, có thể Polpot - hóa văn chương, xóa
sạch, để đi lại từ đầu, mà không sợ bị rơi vào tình trạng diệt chủng”. Riêng
Barry Lewis, Nguyễn Hưng Quốc là những người có chung quan điểm khi nhận
thấy chủ nghĩa hậu hiện đại chỉ là một trong những trào lưu đương đại, không
phải là một thứ học thuyết thống soái thế giới. Còn Nguyễn Văn Dân trước sau
vẫn không tán thành khái niệm “hậu hiện đại”. Trong bài viết "Chủ nghĩa hậu
hiện đại - tồn tại hay không tồn tại", ông nhấn mạnh: “Tóm lại, trong lĩnh vực
nghệ thuật, ngoại trừ lĩnh vực kiến trúc, khái niệm “chủ nghĩa hậu hiện đại” chỉ
nên hiểu là chỉ cái đỉnh cao hay “giai đoạn kịch phát” của chủ nghĩa hiện đại.
Với nghĩa “kịch phát”, thuật ngữ “hậu hiện đại” hoàn toàn có thể được thay bằng
thuật ngữ “hiện đại”, hoặc chính xác hơn là thay bằng thuật ngữ “siêu hiện đại”
18
hay “tối hiện đại” [18]. Theo tinh thần này, những hiện tượng “mới lạ” trong văn
học đương đại mà hiện đang được nhiều người cho là “hậu hiện đại”, thực chất
vẫn là một sự “ nối dài” của chủ nghĩa hiện đại”.
Rõ ràng, chủ nghĩa hiện đại và chủ nghĩa hậu hiện đại có mối quan hệ hết
sức phức tạp. Để chỉ sự giao thoa, khó tách biệt của hai khuynh hướng này,
Nguyễn Hưng Quốc dùng cách viết “H(ậu h)iện đại”. Chủ nghĩa hiện đại và chủ
nghĩa hậu hiện đại có mối quan hệ mật thiết, có thể tồn tại cùng lúc, xen kẽ và
chồng chéo lên nhau. Chúng không phủ định lẫn nhau, không phải chủ nghĩa hậu
hiện đại ra đời là chủ nghĩa hiện đại rơi vào thời điểm cáo chung.
1.1.2. Hướng tiếp cận chủ nghĩa hậu hiện đại trong sáng tác và nghiên
cứu văn học
Ngày nay, vấn đề nghiên cứu yếu tố hậu hiện đại trong tác phẩm văn học
đã trở thành một hiện tượng khá phổ biến. Thậm chí, sáng tác và nghiên cứu văn
học theo xu hướng hậu hiện đại đã trở thành một phương thức quen thuộc và

quan trọng của nền văn học hiện đại. Tuy nhiên, trong những thập niên vừa qua,
những cuộc tranh luận hậu hiện đại khống chế hiện trường trí thức và văn hóa
trong nhiều lĩnh vực và trên khắp thế giới. Lí thuyết văn hóa và thẩm mĩ đã xuất
hiện những cuộc bút chiến về vấn đề chủ nghĩa hiện đại trong các nghệ thuật là
gì, nó chết chưa, và kế tục nó là loại nghệ thuật hậu hiện đại nào. Những kẻ cổ
vũ cho hậu hiện đại thì hướng sự phê phán đầy gây hấn vào văn hóa cổ truyền, lí
thuyết và chính trị. Những kẻ bảo vệ cho truyền thống hiện đại thì không thèm
đếm xỉa tới kẻ thách đấu mới mẻ ấy, hay bằng nỗ lực tiến tới một thỏa thuận và
chiếm đoạt những luận thuyết cùng những quan điểm mới mẻ ấy. Các nhà phê
bình chủ nghĩa hậu hiện đại quay sang tranh luận rằng chủ nghĩa hậu hiện đại chỉ
là một mốt thời thượng và đang qua (Fo 1986; Guatti-1986) một khám phá đẹp
mã của các nhà trí thức trong cuộc tìm kiếm ngôn từ và nguồn cội mới để làm
vốn liếng văn hóa (Brittion-1988) hoặc, dù gì đi nữa nó cũng chỉ là một hệ tư
tưởng bảo thủ đang ra sức phá hoại những lí thuyết và những giá trị mang tính
19
giải phóng của thời hiện đại (Habermas). Thế nhưng, theo thời gian, người ta
phải công nhận chủ nghĩa hậu hiện đại không chỉ là câu chuyện của các nước tư
bản phát triển mà là vấn đề chung của toàn nhân loại. Không ai có thể phủ nhận
sự tồn tại và những thành tựu của phương cách sáng tác này đem lại.
Quá trình tổng hợp những đánh giá của một số công trình nghiên cứu về
chủ nghĩa hậu hiện đại cho thấy đó là một xu hướng nổi bật và chiếm ưu thế
trong sáng tác văn học nửa sau thế kỉ XX với các tác giả tiêu biểu như Franz
Kafka, J.M.Coetzee, M.Kundera… Chủ nghĩa hậu hiện đại in dấu ấn từ trong
thơ, kịch, đặc biệt là văn xuôi và trở thành phương thức sáng tạo nghệ thuật đặc
sắc, nổi bật trong văn chương hiện đại. Chính vì vậy, sáng tác văn học theo
khuynh hướng hậu hiện đại đã và đang trở thành một trào lưu phổ biến và mang
lại không ít thành công cho các nhà văn thế giới nói chung, Việt Nam nói riêng.
Điều này được minh chứng một cách cụ thể qua các sáng tác văn chương ở các
nước Mĩ la tinh, Đức, Tiệp Khắc, Nhật Bản, Trung Quốc…
Ở Việt Nam, cho đến thời điểm này, vẫn còn nhiều người nghi ngờ về chủ

nghĩa hậu hiện đại tại bản địa. Không ít người cho rằng chủ nghĩa hậu hiện đại
có thể gây ảnh hưởng xấu tới nền văn hóa nên có thái độ ngờ vực, chối bỏ. Lê
Chí Dũng trong bài viết “Phải chăng “Chẳng bao lâu nữa lối viết hậu hiện đại sẽ
phổ biến ở Việt Nam” khẳng định mạnh mẽ: chủ nghĩa hậu hiện đại, với tư cách
là một trào lưu văn học, không có tiền đồ ở Việt Nam. Đông La thì cho rằng “…
Về mặt tư tưởng, sự cực đoan theo tinh thần hậu hiện đại sẽ dấn đến sự hỗn loạn
vô chính phủ” [43]. Lại Nguyên Ân cũng rất thận trọng “còn chưa có lời đáp”.
Song dù muốn hay không thì chủ nghĩa hậu hiện đại đã tồn tại, đã và đang có
mức độ ảnh hưởng không nhỏ đến sáng tác văn học của các nhà văn đương đại.
Nhiều nhà văn, nhà thơ đã thể hiện sự nỗ lực không ngừng, khát khao bứt phá,
làm mới mình nên tìm đến thử nghiệm kĩ thuật viết hậu hiện đại và có những tín
hiệu khả quan như Nguyễn Đăng Thường, Mai Văn Phấn, Phan Huyền Thư,
Nguyễn Hữu Hồng Minh, Bùi Chát, Tạ Duy Anh, Nguyễn Thế Hoàng Linh,
20
Phạm Thị Hoài, Nguyễn Bình Phương, Hồ Anh Thái… Nhiều Khóa luận tốt
nghiệp, Luận văn Thạc sĩ cũng đi sâu nghiên cứu chủ nghĩa hậu hiện đại.
Tuy nhiên do điều kiện đặc thù, Việt Nam có thể còn rất lâu nữa mới có
một kỉ nguyên hậu hiện đại, tức là chúng ta chưa thể có chủ nghĩa hậu hiện đại
với tư cách một trào lưu, một khuynh hướng tư tưởng, hay một hiện tượng văn
hóa thấm sâu vào tiềm thức con người như ở các nước tư bản phát triền. Nhưng
dẫu chưa có một chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn chương theo ý nghĩa đầy đủ
của thuật ngữ này, ta vẫn có cơ sở để khẳng định: có những dấu ấn, dấu hiệu của
nó thấp thoáng đây đó trong những tác phẩm văn chương đương đại.
1.1.3. Một số thành tựu cơ bản của chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn
học thế kỉ XX
Chủ nghĩa hậu hiện đại đã trở thành một hiện tượng văn hóa của thế giới
trong thế kỉ XX. Nó đã tạo ra một sân chơi mà ở đó các nghệ sĩ được thỏa sức
thể nghiệm những ý tưởng của mình. Đồng thời, chủ nghĩa hậu hiện đại cũng
làm cho bức tranh nghệ thuật đa dạng và đầy ắp những thử nghiệm, cách tân táo
bạo. Trong đó, văn học là một địa hạt ghi nhận những thử nghiệm và đánh dấu

không ít thành công của chủ nghĩa hậu hiện đại.
Thành công đầu tiên của chủ nghĩa hậu hiện đại phải kể đến là sự tự do
trong cách viết, trong quan niệm về hiện thực, trong quan hệ giữa nhà văn với tác
phẩm và nhà văn với tác giả… Chủ nghĩa hậu hiện đại đã giúp văn học thoát
khỏi những ràng buộc, công thức, những lối mòn định sẵn. Các nhà văn có ý
thức tự giải phóng, tự thoát mình khỏi những thách đố của dư luận. Chủ nghĩa
hậu hiện đại chính là sự sụp đổ của những cái toàn trị, là sự xóa bỏ những cái lớn
lao, là sự nở rộ của những cái ngoại biên, phân mảnh. Nguyễn Hưng Quốc cho
rằng, đó là “cái chết của niềm tin đối với chân lí” [60].
Thành công thứ hai của chủ nghĩa hậu hiện đại là sự lên ngôi của những
tiểu tự sự, những câu chuyện nhỏ mang tính địa phương, nhất thời, không hướng
tới những hiện thực vĩ đại, lớn lao, loại bỏ tính ổn định, trật tự. Đây chính là “cái
21
chết của các đại tự sự” như ý kiến của Nguyễn Hưng Quốc [60]. Còn Hoàng
Ngọc Tuấn có sự so sánh: “Văn chương hậu hiện đại, do đó, giống văn chương
hiện đại ở chỗ nó là một tập hợp của những mảnh vụn; nhưng nhà văn hiện đại
cố gắng đặt những mảnh vụn vào cấu trúc chặt chẽ nào đó, nghĩa là ban cho
những mảnh vụn ấy một tâm điểm (và tâm điểm này là chiếc chìa khóa mở cửa ý
tưởng chủ đạo của tác phẩm), còn nhà văn hậu hiện đại lại để cho mỗi mảnh vụn
nằm ở một chỗ riêng của nó, mỗi mảnh vụn tự nó là một tâm điểm. Có thể nói đa
tâm điểm là một trong những đặc điểm nổi bật của nghệ thuật hậu hiện đại …”
[5;229]. Đây là biểu hiện của lối sáng tác phi trung tâm hóa.
Thành công nữa của chủ nghĩa hậu hiện đại là đem lại cho độc giả một trò
chơi ngôn ngữ mang tính dân chủ tối đa bởi các nhà hậu hiện đại xem việc sáng
tác như một trò chơi. Với quan niệm không thể làm chủ được ngôn từ, “nhà văn
hoạt động như một kẻ tôi tớ đã để cho văn bản hoạt động một cách tự do vượt ra
ngoài ý định của chính mình” [5; 409], nhiều cây bút hậu hiện đại tiến hành trò
chơi ngôn từ, đảo lộn ngôn ngữ của mình, đoạn tuyệt với ngữ pháp, cố gắng tạo
ra ngôn ngữ của riêng mình. Họ đưa vào tác phẩm rất nhiều chất liệu từ hội họa,
kiến trúc, điêu khắc tới âm nhạc,… Họ muốn làm mờ ranh giới giữa hư cấu và

phi hư cấu, văn học và triết học, văn học và các lĩnh vực khác…
Về phương diện thể loại, chủ nghĩa hậu hiện đại có xu hướng sáng tác
theo lối phản thể loại. Người ta có thể dung nạp các hình thức nghệ thuật khác
nhau, các thể loại khác nhau vào trong tác phẩm của mình nên nảy sinh hiện
tượng “tha hóa” tiểu thuyết và “văn xuôi hóa” thơ. Điều này giúp các nhà hậu
hiện đại mở rộng đường biên để dung nạp “hiện thực thậm phồn” đang diễn ra;
đồng thời tạo ra khoảng lặng để độc giả đồng sáng tạo.
Phương diện xây dựng nhân vật cũng ghi nhận thành công lớn của chủ
nghĩa hậu hiện đại. Tác phẩm văn chương hậu hiện đại không xây dựng nhân vật
với tính cách phức tạp, xóa bỏ những điển hình, chỉ còn là tôi với “những ảo
tưởng, mộng mơ, ác mộng của chính tôi” [5;76].
22
Trong tác phẩm hậu hiện đại, vị trí tác giả không còn giữ vị trí độc tôn,
quan trọng mà đã tuyên bố “cái chết của tác giả”. Các nhà văn để nhân vật tự chọn
con đường đi của mình, giải thoát cho người đọc khỏi những dự tính chủ quan của
nhà văn, để người đọc tự do giải mã tác phẩm. Vì thế, các tác phẩm hậu hiện đại
nhiều khi kết thúc mở, không có sơ đồ giải thịch để độc giả tự tìm lời giải đáp.
Một thành công nữa mà chủ nghĩa hậu hiện đại đem lại là tính liên văn
bản. Văn bản hậu hiện đại, vì thế, là những văn bản khổng lồ, là những “camera
ghi tiếng vọng độc đáo” [5;35], là nơi mà mỗi tác phẩm không thể tồn tại độc lập
tự nó mà luôn móc xích, quan hệ với một hệ thống liên văn bản rộng lớn vượt ra
ngoài tầm kiểm soát của tác giả.
Giọng điệu giễu nhại cũng là một đóng góp nổi bật mà chủ nghĩa hậu hiện
đại đưa đến cho văn chương đương đại. Tất cả những vấn đề dù nghiêm túc tới
đâu, dù kì vĩ ra sao đều là tâm điểm của giọng điệu giễu nhại, “đó là sự phản ánh
vào văn học loại khôi hài tuyệt vọng, nó cố gây tiếng cười cho con người, xem như
sự phản ứng lớn nhất của loài người đối với những cái vô nghĩa hoang đường mà lại
thường thấy trong cuộc sống” [5;81]. Giọng điệu này thích ứng với thời đại đánh mất
hoàn toàn sự ngây thơ và phù hợp với một thế giới đầy hoài nghi.
Mỗi tác phẩm văn chương hậu hiện đại là một quá trình tìm tòi, thể

nghiệm không chỉ của nhà văn mà còn của người đọc. Những thành tựu mà văn
học hậu hiện đại đem lại thật đáng ghi nhận. Nó đã chứng tỏ sức sống mạnh mẽ
của mình sau bao hoài nghi, tranh đấu, thậm chí phủ nhận. Và nó cũng chờ đợi
những sáng tạo mới, thành công mới.
1.2. Vài nét về tiểu sử và sự nghiệp sáng tác của Milan Kundera
1.2.1. Tiểu sử
Milan Kundera sinh ngày 01 tháng 4 năm 1929 ở Moravia, Brno - thành
phố lớn thứ nhì nước cộng hòa Tiệp Khắc (cũ) - trong một gia đình trí thức trung
lưu. Cha là một nhạc sĩ dương cầm, nhà nghiên cứu âm nhạc nổi tiếng, đồng thời
là người thầy dạy đàn piano đầu tiên của ông. Sau này Kundera cũng theo học
23
nhạc lí. Tham khảo và ảnh hưởng âm nhạc có thể tìm thấy trong các tác phẩm
của ông, thậm chí ông còn đưa các nốt nhạc vào giữa các trang viết của mình.
Kundera tốt nghiệp trung học tại Brno năm 1948, sau đó theo học văn học và mĩ
học tại Khoa Nghệ thuật, Đại học Karlova ở Praha, nhưng chỉ sau hai học kì, ông
chuyển sang Khoa Điện ảnh tại Học viện Nghệ thuật biểu diễn Praha. Năm 1950
ông bị buộc dừng học vì lí do chính trị. Sau khi tốt nghiệp vào năm 1952, ông
được bổ nhiệm làm giảng viên văn học thế giới tại Khoa Điện ảnh. Milan thuộc
về thế hệ những người Séc mà tuổi trẻ không được trải qua nền cộng hòa trước
thế chiến. Ý thức hệ của họ bị ảnh hưởng nặng bởi Thế chiến thứ hai và tình
trạng quân Đức chiếm đóng. Vì vậy, năm 1948, khi còn rất trẻ, ông tham gia
thành lập Đảng Cộng sản Tiệp Khắc. Năm 1950, ông bị khai trừ khỏi đảng vì lí
do “chống đảng”. Ông được tái kết nạp vào đảng năm 1956 và lại bị khai trừ
năm 1970. Cũng như phần lớn giới cầm bút và trí thức Tiệp lúc bấy giờ, ông
tham gia vào cuộc nổi dậy mùa xuân năm 1968, lên tiếng đòi tự do và dân chủ.
Phong trào ấy bị Nga dẹp tan. Sau đó, Kundera bị đuổi ra khỏi trường đại học;
tất cả sách của ông đều bị loại trừ ra khỏi các thư viện; và ông không còn được
phép xuất bản bất cứ thứ gì trong nước nữa. Năm 1975, Kundera bị bức rời khỏi
tổ quốc ông, lưu vong sang Pháp và được trường Đại học Rennes ở Pháp mời
dạy. Năm 1979, chính quyền Tiệp tước quyền công dân của ông. Hai năm sau,

1981, ông xin vào quốc tịch Pháp.
Cuộc đời đầy biến động trở thành một yếu tố nội lực đi vào thế giới nghệ
thuật, khiến tác phẩm của Milan Kundera thu hút rất nhiều độc giả trên thế giới
bởi nó là kết tinh những vấn đề nóng bỏng của thời đại. Đọc Kundera, người đọc
như bước vào một thế giới kì lạ, đầy ám ảnh với những cảm xúc mới lạ, cách
khái quát hiện thực đặc sắc.
1.2.2. Văn nghiệp của Milan Kundera
Nhà văn Tiệp Khắc nổi tiếng Bomihur Herabar ca ngợi Milan Kundera là
một thân sĩ giỏi giang, một nhà tiểu thuyết xuất sắc, một nhà nghệ thuật sáng
24
suốt sâu xa, thăm dò tầng sâu của thế giới đạo đức. Kundera còn được đánh giá
là một trong những nhà văn hàng đầu của văn học Hậu hiện đại phương Tây, là
“nhà văn uyên bác nhất hành tinh” (Russell Banks) và “hoàn toàn có tố chất và
năng lực chen mình vào hàng ngũ nhà văn ưu tú nhất thế giới” [2]. Những năm
50 thế kỉ XX trở đi, ông bắt đầu sáng tác văn học, đầu tiên xuất hiện trên văn đàn
với tư cách nhà thơ trẻ. Năm 1953, Kundera xuất bản tập thơ đầu tay Con người,
một vườn hoa bao la. Năm 1955, ông sáng tác thơ tự sự Mùa xuân cuối cùng căn
cứ vào kí sự Viết dưới giá treo cổ của anh hùng dân tộc Julius Fucik viết trong
trại tập trung phát xít. Năm 1957, ông lại xuất bản tập thơ Độc bạch.
Những năm 60 của thế kỉ XX trở đi, Milan dạy ở trường điện ảnh cao cấp
Praha. Ông có đóng góp khá tích cực ở cả hai lĩnh vực văn học và điện ảnh. Ở
lĩnh vực điện ảnh, ông và học sinh của mình lập nên thành tích lớn để phục hưng
sự nghiệp điện ảnh dân tộc Tiệp Khắc. Ở lĩnh vực văn học, sáng tác của ông đã
từ thơ chuyển sang văn xuôi. Năm 1963, Milan xuất bản tập truyện ngắn Những
mối tình nực cười . Năm 1965, Kundera hoàn thành cuốn tiểu thuyết đầu tay
Chuyện đùa. Với tiểu thuyết này, Kundera mang đến một cái nhìn châm biếm về
tính chất toàn trị của chủ nghĩa cộng sản. Cũng bởi những phê phán của ông đối
với chế độ Xô Viết và sự xâm lăng đất nước ông của họ mà Kundera bị đưa vào
sổ đen và tiểu thuyết bị cấm lưu hành đến năm 1967, năm mà tình thế chính trị
biến động dữ dội, mới được xuất bản. Sau khi cuốn Chuyện đùa xuất bản, Kudera

bỗng thành nhà văn lớn trong nước, và bắt đầu được thế giới chú ý. Năm 1969,
Kundera hoàn thành trứ tác quan trọng Cuộc sống không ở nơi đây nhưng đến năm
1973 tác phẩm mới ra đời bằng bản Pháp văn. Tiểu thuyết này giúp Milan được giải
thưởng văn học ngoại quốc của Pháp năm 1973 - giải thưởng Médicis. Tác phẩm là
sự đan xen với nhau một cách quán xuyến trước sau giữa thanh xuân, tình yêu và
cách mạng, vừa có suy nghĩ về số phận con người dưới tình huống lịch sử đặc định,
vừa thể hiện ra sự thăm dò bản chất của số phận và lịch sử.
Năm 1975, Milan Kundera bị bức rời khỏi tổ quốc, sống lưu vong tại
Pháp. Tại đây, ông tiếp tục sự nghiệp sáng tác của mình. Năm 1975, ông xuất
25
bản tiểu thuyết Điệu Valse giã từ . Tiểu thuyết này được giải thưởng văn học
ngoại quốc của Italia - giải thưởng Mondro. Tác phẩm phản ánh chặng đường
sống và chặng đường tư tưởng của phần tử trí thức Tiệp Khắc trong giai đoạn
lịch sử đặc thù sau chiến tranh thông qua câu chuyện xảy ra ở một khu điều
dưỡng suối nước nóng gần Praha, “nơi tụ họp để giã từ”. Cuộc tụ họp hỗn loạn
này cuối cùng kết thúc bằng bi kịch, trong giọng văn thoải mái và trào phúng hí
hước mang nỗi buâng khuâng và buồn rầu sâu xa. Cùng năm, Kundera còn xuất
bản cuốn tiểu thuyết Sách cười và lãng quên. Bình luận chính trị đã dần biến mất
trong tác phẩm của ông. Tiểu thuyết này tiến hành phân tích và suy nghĩ sâu sắc
giữa hai mệnh đề “cười” và “quên”, chỉ ra “cuộc đấu tranh giữa con người với
cường quyền là cuộc đấu tranh của nhớ và quên”. Sách cười và lãng quên có một
phong cách riêng, tăng cường chủ đề suy nghĩ và chất vấn trong tác phẩm của
Kudera: cường quyền và nhân tính, lịch sử và tồn tại. Năm 1984, Kundera xuất
bản tác phẩm nổi tiếng nhất của mình, được coi là “một trong những tiểu thuyết
vĩ đại nhất thế kỉ XX”: Đời nhẹ khôn kham. Đây là cuốn sách thể hiện suy tư của
tác giả về sự mong manh của kiếp người, ai cũng chỉ sống cuộc đời mình một lần
duy nhất và cũng có thể là đã chẳng sống tí nào. Ở đây không có chỗ cho sự lặp
lại, kinh nghiệm, thử nghiệm và sai lầm. Năm 1986, Kundera dùng Pháp ngữ
xuất bản tiểu luận Nghệ thuật tiểu thuyết. Kundera chủ trương một quan niệm
mới mẻ và độc đáo về tiểu thuyết. Theo ông, tiểu thuyết không chỉ là một thể

loại văn học giữa các thể loại khác. Nó còn là một phương thức cốt yếu để tồn tại
của con người, để giữ cho con người còn là con người toàn vẹn, kiên trì bảo vệ
chất người cho con người trong Thời hiện đại, cái thời đại kì lạ vừa phát hiện ra
con người, tôn vinh con người là cơ sở của tất cả, vừa đẩy con người dấn sâu vào
sự tha hóa. Năm 1990, Kundera xuất bản Sự bất tử . Đây là tiểu thuyết cuối cùng
ông viết bằng tiếng Séc, mang tinh thần thế giới và suy tư triết học dày đặc.
Nhận xét về tác phẩm này, Kundera cho rằng Sự
bất tử là sự bùng nổ của thông thái. Ông mong muốn tạo nên phong cách riêng
từ tác phẩm này cho việc định hướng phong cách những tác phẩm sau này của

×