Tải bản đầy đủ (.doc) (149 trang)

Dạy học phần văn học lãng mạn việt nam 1930 - 1945 ở trường trung học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (680.79 KB, 149 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
******
LÊ THỊ NGỌC ANH
DẠY HỌC PHẦN VĂN HỌC LÃNG MẠN VIỆT NAM
1930- 1945
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
NGHỆ AN, 5/2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
******
LÊ THỊ NGỌC ANH

DẠY HỌC PHẦN VĂN HỌC LÃNG MẠN VIỆT NAM
1930-1945
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Chuyên ngành : Lý luận và phương pháp dạy học bộ môn Ngữ
văn
Mã số : 60 14 01 11
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS ĐINH TRÍ DŨNG
NGHỆ AN, 5/2014
LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm trân trọng và chân thành, tôi xin được bày tỏ lòng cảm ơn
sâu sắc tới Trường Đại học Vinh, khoa Ngữ văn đã tạo điều kiện cho chúng
tôi được tham gia học tập, nghiên cứu khoa học để nâng cao trình độ.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các giảng viên, các nhà khoa học
đã tận tình giảng dạy và giúp đỡ chúng tôi trong quá trình học tập cũng như
trong nghiên cứu khoa học. Đặc biệt tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Đinh
Trí Dũng, người thầy đã tận tâm giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên


cứu và hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu và giáo viên tổ Văn trường
THPT Trần Hưng Đạo, Quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh; các bạn bè
đồng nghiệp, người thân đã tận tình giúp đỡ tôi trong quá trình học tập,
nghiên cứu hoàn thành khoá học và luận văn.
Trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn tốt nghiệp, bản thân tôi
đã nỗ lực và cố gắng, song chắc chắn không thể tránh khỏi thiếu sót. Vì vậy,
rất mong nhận được ý kiến đóng góp quý báu của các nhà khoa học, các nhà
giáo, bạn bè và đồng nghiệp để luận văn được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Nghệ An, tháng 5 năm 2014
Tác giả


Lê Thị Ngọc Anh
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN 4
MỤC LỤC 5
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 9
DANH MỤC CÁC BẢNG 10
MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 2
2.1. Các công trình nghiên cứu về đổi mới phương pháp dạy học văn 2
2.2. Các công trình nghiên cứu về văn học lãng mạn 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4
3.1. Đối tượng nghiên cứu 4
3.2 Phạm vi nghiên cứu 4
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 4
4.1. Mục đích 4

4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 4
5. Phương pháp nghiên cứu 4
5.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết 5
5.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn 5
6. Cấu trúc luận văn 5
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 6
1.1. Cơ sở lý luận 6
1.1.1. Một số khái niệm liên quan 6
1.1.2. Những định hướng cơ bản của việc dạy học Ngữ văn hiện nay 10
1.1.3. Đặc trưng của môn Ngữ văn trong nhà trường phổ thông 16
1.1.4. Đặc trưng thẩm mỹ của các trào lưu, khuynh hướng văn học 18
1.2. Cơ sở thực tiễn 22
1.2.1. Chương trình phần VHLM Việt Nam 1930-1945 ở trường THPT 22
Bảng 1.1. Thống kê phần VHLM trong chương trình lớp 11 năm 2000 26
Bảng 1.2. Thống kê phần VHLM trong chương trình lớp 11hiện nay 27
1.2.2. Thuận lợi và khó khăn trong dạy học phần VHLM 1930-1945 30
1.2.3. Tình hình dạy học phần văn học lãng mạn Việt Nam 1930-1945
trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh 32
b.Về hạn chế: 35
Tiểu kết chương 1 36
Trong chương trình Ngữ vănTHPT, phần VHLM Việt Nam 1930-1945 có
một vị trí và ý nghĩa rất quan trọng. Vì thế làm thế nào để dạy học phần
VHLM có hiệu quả là niềm trăn trở đối với nhiều giáo viên dạy Ngữ văn
có tâm huyết và yêu nghề. Để chất lượng dạy học phần VHLM được
nâng cao, trước hết phải nắm vững các khái niệm về chủ nghĩa lãng mạn,
về đặc điểm các khuynh hướng và trào lưu trong văn học Việt Nam 1930-
1945 như trào lưu lãng mạn, trào lưu hiện thực, trào lưu cách mạng
Dạy học VHLM cũng phải gắn với đặc trưng môn Ngữ văn trong nhà
trường phổ thông; với những phương pháp, biện pháp phù hợp cho từng

thể loại, từng tác giả, tác phẩm. Trong bối cảnh giáo dục đang tiến hành
một cuộc đổi mới căn bản và toàn diện như hiện nay, chất lượng dạy học
VHLM còn gắn liền với việc đổi mới phương pháp dạy học văn.Vì thế
giáo viên phải hiểu rõ bản chất của việc đổi mới phương pháp dạy học
văn, tiếp nhận những tri thức mới về dạy học hiện đại và đặt nó trong
những hoàn cảnh cụ thể. 36
Chương 2
ĐỊNH HƯỚNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC PHẦN
VĂN HỌC LÃNG MẠN VIỆT NAM 1930-1945 Ở TRƯỜNG THPT 37
2.1.1. Bám sát đặc trưng thẩm mỹ, thi pháp của trào lưu VHLM 37
2.1.2. Nhận thức được tính đa dạng, phong phú trong phong cách các nhà
văn lãng mạn 38
2.1.3. Tôn trọng đặc trưng thể loại của từng tác phẩm VHLM 39
Bảng 2.1. Thống kê các thể loại VHLM được giảng dạy trong chương
trình THPT 42
2.2. Những nội dung cần dạy học ở phần VHLM 43
2.2.1. Tri thức chung về trào lưu văn học lãng mạn 43
2.2.2. Tri thức về tác giả văn học lãng mạn 48
2.2.3. Tri thức về thể loại 53
2.2.4. Tri thức về tác phẩm 57
2.3. Phương pháp dạy học phần văn học lãng mạn 60
2.3.1. Phương pháp đọc diễn cảm 60
2.3.2. Phương pháp giảng bình 63
2.3.3. Phương pháp nêu vấn đề 66
2.3.4. Phương pháp gợi mở 69
2.3.5.Phương pháp thảo luận nhóm 72
Chương 3
THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM 77
3.1. Mục đích, yêu cầu, nội dung và cách thức thực nghiệm 77
3.1.1. Mục đích thực nghiệm 77

3.1.2. Yêu cầu thực nghiệm 77
3.1.3. Nội dung thực nghiệm 77
3.1.4. Cách thức thực nghiệm 77
3.2.Tổ chức thực nghiệm 78
3.2.1. Chọn lớp thực nghiệm và lớp đối chứng 78
3.2.2. Giáo án thực nghiệm 78
3.2.3. Dạy thực nghiệm và dạy đối chứng 109
3.3. Đánh giá thực nghiệm 110
3.3.1. Nhận xét quá trình học tập của lớp thực nghiệm 110
3.3.2.Kết quả học tập của lớp thực nghiệm 112
Bảng 3.1. Kết quả trả lời trắc nghiệm – Hai đứa trẻ 112
3.3.3.Đề xuất, kiến nghị 116
KẾT LUẬN 119
TÀI LIỆU THAM KHẢO 122
PHỤ LỤC 1
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG
LỜI CẢM ƠN 4
MỤC LỤC 5
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 9
DANH MỤC CÁC BẢNG 10
MỞ ĐẦU 1
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 6
Bảng 1.1. Thống kê phần VHLM trong chương trình lớp 11 năm 2000 26
Bảng 1.2. Thống kê phần VHLM trong chương trình lớp 11hiện nay 27
Chương 2
ĐỊNH HƯỚNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC PHẦN
VĂN HỌC LÃNG MẠN VIỆT NAM 1930-1945 Ở TRƯỜNG THPT 37
Bảng 2.1. Thống kê các thể loại VHLM được giảng dạy trong chương

trình THPT 42
Chữ viết tắt Viết đầy đủ
CNLM Chủ nghĩa lãng mạn
GV Giáo viên
HS Học sinh
PPDH Phương pháp dạy học
SGK Sách giáo khoa
THPT Trung học phổ thông
VHCM Văn học cách mạng
VHHT Văn học hiện thực
VHLM Văn học lãng mạn
Chương 3
THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM 77
KẾT LUẬN 119
TÀI LIỆU THAM KHẢO 122
PHỤ LỤC 1
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Để đáp ứng đòi hỏi của cuộc sống, giáo dục nước ta phải đổi mới căn
bản và toàn diện từ trường phổ thông đến các trường Đại học nhằm đáp ứng
tốt nhất nhu cầu chiếm lĩnh tri thức và rèn luyện của người học trong thời đại
mới. Đổi mới phương pháp dạy học Văn cũng không nằm ngoài mục đích
trên. Ngữ văn là một môn học có thế mạnh khơi gợi những rung cảm, những
cảm xúc thẩm mỹ ở các em học sinh. Vì thế môn Ngữ văn còn góp phần hoàn
thiện nhân cách và hình thành đời sống tâm hồn phong phú cho các em học
sinh.
Các tác phẩm văn học theo khuynh hướng lãng mạn giai đoạn 1930-1945
được đưa vào giảng dạy trong nhà trường đều là những tác phẩm xuất sắc của
nền văn học nước nhà. Nhưng chính cái hay của tác phẩm cũng tạo nên những

khó khăn cho người dạy. Nếu không có cách tổ chức học tập tốt, người giáo
viên sẽ làm mất đi vẻ đẹp vốn có của tác phẩm nghệ thuật mà nhà văn công
phu sáng tạo.
Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy ở trường phổ thông 13 năm, tôi đã
trải qua giai đoạn giao thời giữa những phương pháp giảng dạy truyền thống
và đổi mới phương pháp dạy học. Tôi đã có nhiều cố gắng, nỗ lực trong quá
trình đổi mới phương pháp giảng dạy Văn nói chung và giảng dạy văn học
lãng mạn nói riêng song chưa thật hài lòng và thoả mãn. Tôi mong muốn các
tiết dạy văn học lãng mạn của mình phải tốt hơn nữa, xứng đáng với giá trị
của mỗi tác phẩm. Niềm mong mỏi tưởng chừng như đơn giản nhưng thực sự
là bài toán khó đối với tôi.
Vì vậy, chúng tôi quyết định chọn đề tài Dạy học phần văn học lãng
mạn Việt Nam 1930-1945 ở trường THPT làm đề tài cho luận văn thạc sĩ của
mình. Chúng tôi hy vọng công trình nghiên cứu này sẽ phần nào giúp giáo
viên dạy ngữ văn trong trường THPT nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ
văn nói chung và phần văn học lãng mạn nói riêng.
2
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Các công trình nghiên cứu về đổi mới phương pháp dạy học văn
Có nhiều bài viết nghiên cứu bản chất các phạm trù lý luận tiếp nhận văn
học, lý luận dạy học, đổi mới phương pháp dạy học. Các công trình nghiên
cứu này đã đưa ra nhiều vấn đề có ý nghĩa quan trọng giúp giáo viên dạy Ngữ
văn trang bị đầy đủ, vững vàng nhiều vấn đề về lý luận và đổi mới phương
pháp dạy học để có thể bắt kịp với xu thế dạy học hiện đại. Trong cuốn Văn
học giáo dục thế kỷ XXI, Phan Trọng Luận đã thể hiện cái nhìn bao quát về
yêu cầu bức thiết của việc đổi mới phương pháp giảng dạy của giáo dục Việt
Nam: “Bước vào thế kỷ XXI, bài toán về phương pháp đào tạo và phương
pháp dạy học cần được tiến hành như một cuộc cách mạng trong giáo dục”.
Cũng trên tinh thần ấy, trong bài viết Đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn,
Trần Đình Sử đã có cái nhìn khách quan, sâu sắc về thực trạng của dạy học

văn hiện nay; đồng thời đưa ra những giải pháp khoa học nhằm khắc phục
những hạn chế trong phương pháp dạy học văn. Các tác phẩm về phương
pháp dạy học văn do Phan Trọng Luận chủ biên, các công trình nghiên cứu
của các nhà khoa học như Đổi mới phương pháp dạy học Văn – Tiếng Việt ở
trường phổ thông của Nguyễn Trí - Nguyễn Trọng Hoàn, phương pháp dạy
học tác phẩm văn chương trong nhà trường của Nguyễn Viết Chữ…đã cung
cấp cho giáo viên những kiến thức lý luận và phương pháp giảng dạy văn học
cơ bản. Bên cạnh đó, những năm gần đây cùng với việc đổi mới quan niệm,
cấu trúc chương trình, nội dung chương trình và sách giáo khoa, phương pháp
dạy học Ngữ văn trong nhà trường, khái niệm đọc hiểu được đưa vào giảng
dạy và nghiên cứu. Có nhiều công trình nghiên cứu về dạy học đọc hiểu văn
học trong nhà trường có ý nghĩa quan trọng đối với đổi mới phương pháp dạy
học văn. Điển hình là Trần Đình Sử, ông coi dạy đọc hiểu là một khâu đột phá
trong đổi mới phương pháp dạy học văn. Các cuốn sách Kĩ năng đọc hiểu văn
của Nguyễn Thanh Hùng, Đọc hiểu và chiến thuật đọc hiểu văn bản trong
nhà trường phổ thông của Phạm Thị Thu Hương, các bài viết của Đỗ Ngọc
Thống, Phan Huy Dũng, Phạm Thị Thu Hiền… ngày càng bàn sâu, bàn kỹ về
3
dạy đọc hiểu văn bản; giúp giáo viên không chỉ tiếp cận với khái niệm mà
hiểu rõ bản chất của đọc hiểu, từ đó có thể ứng dụng vào thực tiễn dạy học
văn.
2.2. Các công trình nghiên cứu về văn học lãng mạn
Trào lưu văn học lãng mạn nói chung và các tác phẩm văn học lãng mạn
trong nhà trường nói riêng là một khách thể nghiên cứu của nhiều nhà khoa
học, nhà giáo. Ngay từ khi mới ra đời văn học lãng mạn đã có nhiều công
trình nghiên cứu có giá trị như Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh - Hoài
Chân, Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan…Hơn 80 năm qua, công trình
nghiên cứu về trào lưu văn học này ngày càng nhiều. Nhắc đến tác giả những
công trình nghiên cứu ấy không thể không nói tới những tên tuổi như Phan
Cự Đệ, Nguyễn Đăng Mạnh, Văn Tâm, Hà Văn Đức…Trong đó phải kể đến

Văn học lãng mạn Việt Nam của Phan Cự Đệ, tác giả đã có cái nhìn bao quát
về văn học lãng mạn Việt Nam 1930-1945. Kể từ khi ra đời đến nay(1981) đã
hơn 30 năm nhưng nó vẫn còn nguyên vẹn ý nghĩa lý luận và thực tiễn đối với
giáo viên Ngữ văn.
Ngoài ra còn có các công trình nghiên cứu và tài liệu viết về việc dạy
văn học lãng mạn Việt Nam 1930-1945 ở trường phổ thông. Điển hình là
công trình Giảng văn văn học lãng mạn 1930-1945 của tác giả Văn Tâm.
Công trình khá đầy đặn, sâu sắc và toàn diện về văn học lãng mạn Việt Nam
1930-1945, góp phần to lớn cho giáo viên và học sinh dạy và học VHLM một
cách hiệu quả. Dạy học VHLM Việt Nam cũng được các nhà khoa học, nhà
giáo quan tâm sâu sắc thể hiện qua số lượng không nhỏ các bài viết trong
Sách giáo viên lớp 11, sách Thiết kế bài dạy lớp 11 hoặc các tài liệu Bồi
dưỡng giáo viên. Trong đó phải kể đến cuốn Giảng văn văn học Việt Nam của
nhóm tác giả Nguyễn Đăng Mạnh – Trần Đăng Suyền…Trên các Tạp chí văn
học , tạp chí Văn học & tuổi trẻ cũng xuất hiện không ít những bài viết về các
tác phẩm văn học lãng mạn trong nhà trường. Ngoài ra còn có các bài viết
xuất hiện gần đây của các tác giả Đinh Trí Dũng, Phan Huy Dũng, Chu Văn
Sơn, Lê Quang Hưng…
4
Từ những vấn đề đã nghiên cứu, công trình của chúng tôi mong muốn
tiếp tục mang tới đến một góc nhìn mới tiếp nối những công trình nghiên cứu
trước đây, góp phần vào việc nâng cao chất lượng giảng dạy môn văn nói
chung, phần văn học lãng mạn nói riêng trong trường phổ thông.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, luận văn hướng đối tượng chủ yếu là thực trạng,
nội dung và phương pháp nâng cao chất lượng việc dạy học văn học lãng mạn
Việt Nam 1930-1945 ở trường THPT.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Đề tài Dạy học phần văn học lãng mạn Việt Nam 1930-1945 ở trường

THPT sẽ được triển khai và nghiên cứu trong phạm vi sau đây:
- Chương trình, sách giáo khoa THPT, thực trạng, chất lượng và cách
thức nâng cao chất lượng dạy học phần VHLM ở trường THPT.
- Địa bàn khảo sát chủ yếu là một số lớp 11 của các trường THPT trên
địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích
Thực hiện đề tài này luận văn hướng đến mục đích sau: Trên cơ sở
nghiên cứu lý luận và thực nghiệm sư phạm, Luận văn đề xuất một số nội
dung, phương pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học phần văn học lãng
mạn Việt Nam 1930-1945 ở trường THPT.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của việc nâng cao chất lượng việc
dạy học phần văn học lãng mạn 1930-1945 trong trường THPT.
Nghiên cứu, đề xuất những nội dung và phương pháp dạy học phần văn
học lãng mạn 1930-1945 trong trường THPT.
Thực nghiệm sư phạm.
5. Phương pháp nghiên cứu
5
Trong quá trình thực hiện luận văn, chúng tôi sử dụng chủ yếu các
phương pháp sau:
5.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
- Nghiên cứu lý thuyết dạy học văn, dạy đọc hiểu văn bản, tổ chức các
hoạt động dạy học… làm cơ sở lý luận cho đề tài nghiên cứu.
- Nghiên cứu tài liệu về dạy, học phần văn học lãng mạn.
5.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp quan sát, thu thập thông tin về thực tế dạy học phần văn
học lãng mạn hiện nay ở một số trường THPT tại thành phố Hồ Chí Minh.
- Phương pháp điều tra: Điều tra qua phiếu, phân tích, xử lý tư liệu,
phỏng vấn trực tiếp…

6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục và Tài liệu tham khảo, nội dung
chính của Luận văn được triển khai trong 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài
Chương 2. Định hướng, nội dung và phương pháp dạy học phần văn học
lãng mạn Việt Nam 1930-1945 ở trường THPT
Chương 3. Thực nghiệm sư phạm
6
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Một số khái niệm liên quan
1.1.1.1. Chủ nghĩa lãng mạn
Cuộc Đại cách mạng tư sản năm 1789 đánh đổ chế độ phong kiến,
thiết lập chế độ tư sản là một bước ngoặt vĩ đại không những đối với Pháp mà
còn đối với cả châu Âu. Chính Lê – Nin cũng nói: “Cả thế kỷ XIX diễn ra
dưới khẩu hiệu của cách mạng Pháp”. Sự sụp đổ của xã hội phong kiến và sự
kiến lập những quan hệ xã hội mới không thể không tác động sâu xa đến tư
tưởng, tình cảm của mọi tầng lớp xã hội, một mặt đưa lại sự bất mãn cho lớp
người này muốn bảo vệ hay còn luyến tiếc cái cũ, mặt khác không đáp ứng
được sự chờ đợi của lớp người kia. Chính trong bối cảnh lịch sử xã hội ấy,
chủ nghĩa lãng mạn đã ra đời. Các nhà văn lãng mạn tỏ thái độ bất hoà, bất
mãn với hiện thực xã hội bằng sự đắm chìm vào những tình cảm buồn đau
như là một “thứ bệnh thế kỷ”, đồng thời phát huy trí tưởng tượng, tìm đến
những thế giới đầy mộng mơ, hoặc thuộc quá khứ xa xưa, hoặc ở những miền
đất lạ, những xứ sở phương xa, trong đó thiên nhiên cũng như tâm hồn con
người chưa bị cuộc sống đô thị và đồng tiền làm vẩn đục. Đây là thời kỳ ý
thức cá nhân thức tỉnh sâu sắc ở người cầm bút. Tình hình phân hóa của các
giai cấp cũng diễn ra rất phức tạp. Vì thế chủ nghĩa lãng mạn cũng có nhiều
dạng thức và do đó có nhiều cách hiểu khác nhau. Nhiều chuyên gia tỏ ra bất

lực khi muốn tìm một định nghĩa đầy đủ, chính xác về hiện tượng văn học
này. Chẳng hạn Mécxiê viết: “ Người ta cảm được cái lãng mạn chứ không
định nghĩa được nó”. Đuyboa thì nói: “ Đó (chủ nghĩa lãng mạn) là một từ mà
mọi người đều gọi ở Pháp, nhưng không thể có hai người cùng hiểu chung
một nghĩa”. Giữa nhiều định nghĩa khác nhau vẫn có thể tìm được ít nhiều
điểm gặp gỡ. GS Nguyễn Đăng Mạnh quan niệm: “Văn học lãng mạn là một
khuynh hướng thẩm mỹ lấy việc khẳng định cái tôi cá nhân cá thể làm nguồn
cảm hứng chủ đạo. Một cái tôi không thỏa mãn với thực tại, tìm cách tự giải
7
thoát khỏi thực tại bằng mộng tưởng và bằng sự đắm mình vào đời sống nội
tâm tràn đầy tình cảm, cảm xúc” [23] Theo PGS.TS Đinh Trí Dũng: “ Có
một thời kỳ, người ta thường đối lập giả tạo giữa chủ nghĩa hiện thực và chủ
nghĩa lãng mạn. Chủ nghĩa hiện thực thường được hiểu là sự bám sát thực tế
(kể cả kiểu sao chép) do đó có giá trị, còn chủ nghĩa lãng mạn là sự chạy trốn
thực tại do đó bi quan, yếm thế, tiêu cực. Hiểu như thế là máy móc. Thực ra
chủ nghĩa lãng mạn là một trào lưu văn học lớn và hết sức phức tạp, phát triển
mạnh mẽ ở phương Tây vào thế kỷ XVIII, XIX. Nó vừa là một trào lưu, một
phương pháp sáng tác, vừa là một khuynh hướng thẩm mỹ không thể thiếu
của con người. Đó là khuynh hướng thẩm mỹ lấy việc khẳng định cái tôi cá
nhân cá thể làm nguồn cảm hứng chủ đạo. Một cái tôi không thỏa mãn với
thực tại, tìm cách tự giải thoát khỏi thực tại bằng mộng tưởng và bằng sự đắm
mình vào đời sông nội tâm tràn đầy tình cảm, cảm xúc. Chủ nghĩa lãng mạn
vì thế đề cao trái tim và tình cảm con người, giải phóng tình cảm khỏi sự ràng
buộc lí trí. Mỹ học của chủ nghĩa lãng mạn là mỹ học của cái độc đáo, phi
thường, của những tính cách đứng cao hơn hoàn cảnh” [7 ].
Chủ nghĩa lãng mạn dễ có cảm hứng trước ba đề tài: thiên nhiên, tình
yêu và tôn giáo. Ba đề tài ấy giúp nó khơi những nguồn tình cảm đắm say và
kích thích mạnh trí tưởng tượng. Đối với chủ nghĩa lãng mạn, đau buồn, sầu
não được coi là những tình cảm đẹp. Vì thế nó thích những cảnh dông dài,
trời rộng và hoang vắng, dễ gợi nỗi cô đơn, thích những đêm trăng lạnh,

những buổi chiều tà, những trái tim tan vỡ vì tình yêu tuyệt vọng. Chủ nghĩa
lãng mạn với nội dung ấy tất dẫn đến việc sử dụng rộng rãi các thể văn trữ
tình dù là tiểu thuyết, truyện ngắn hay bút ký, tùy bút, đặc biệt nó phát triển
mạnh mẽ ở thơ trữ tình. Cũng do nội dung ấy nên chủ nghĩa lãng mạn thiên
hướng sáng tạo những hình tượng khác thường, có tính biệt lệ, sử dụng rộng
rãi bút pháp đối lập để kích thích mạnh vào tình cảm, cảm xúc và trí tưởng
tượng của người đọc: đối lập giữa ánh sáng và bóng tối, cái đẹp và cái thô
kệch, cái cao cả và cái thấp hèn.
8
Trên thế giới, chủ nghĩa lãng mạn ra đời sớm nhất và phát triển rực
rỡ nhất là ở Pháp với hàng loạt những tên tuổi lớn như: Victor Hugo, Musset,
Vigny, Gautier, Rimbaud, Mallarmé Thành tựu rực rỡ của văn học lãng mạn
đã mang đến một diện mạo mới, một giá trị mới cho văn học nhân loại.
1.1.1.2. Chủ nghĩa lãng mạn trong văn học Việt Nam giai đoạn
1930-1945
Ở Việt Nam, chủ nghĩa lãng mạn đã có mầm mống từ cuối thế kỷ XIX
với thơ, văn, từ khúc của Chu Mạnh Trinh, Dương Khuê, Đào Tấn…Đến đầu
thế kỷ XX, chủ nghĩa lãng mạn thể hiện đầy đủ đặc trưng của nó trong thơ
Tản Đà và văn Hoàng Ngọc Phách. Trước đó, tuy có một số sáng tác nhỏ
mang tính lãng mạn nhưng còn tản mác, rời rạc, chưa tạo thành phong
trào. Từ năm 1931 đã có sự xuất hiện vài bài thơ lãng mạn của Lan Sơn, Lưu
Trọng Lư, Thế Lữ. Tác phẩm lãng mạn xuất bản trước 1932 có tập thơ Khối
tình con của Tản Đà , Linh Phượng ký của Đông Hồ và hai quyển gây được
ảnh hưởng một thời gian là Tố Tâm của Song An Hoàng Ngọc Phách và Giọt
lệ thu của Tương Phố. Nhưng phải chờ tới khi Nhất Linh xuất hiện cùng với
sự ra đời của nhóm Tự lực văn đoàn hô hào thay cũ đổi mới và dấy lên phong
trào thơ mới thì trào lưu văn chương lãng mạn mới thực sự có mặt trong dòng
văn học Việt Nam. Hai tờ báo Phong hóa và Phụ nữ tân văn đã góp công
không nhỏ vào việc giúp cho phong trào thơ mới nở rộ bằng những bài thơ
lãng mạn của các nhà thơ không cộng tác với nhóm Tự lực văn đoàn.

Trên thế giới cũng như ở Việt Nam, có lẽ văn học lãng mạn là hiện
tượng phức tạp nhất trong các trào lưu văn học. Văn học lãng mạn Việt Nam
1930-1945 ra đời mà không hề biết đến một cuộc cách mạng tư sản hay chủ
nghĩa xã hội không tưởng. VHLM Việt Nam ra đời sau chủ nghĩa lãng mạn
thế giới một thế kỷ đã thu nạp tất cả những vấn đề tích cực và tiêu cực của các
trào lưu, cơ sở xã hội khác nhau: Sau ngày17 tháng 6 năm 1930, Nguyễn Thái
Học và 12 yếu nhân của Việt Nam Quốc dân đảng lên đoạn đầu đài ở Yên
Bái, Pháp đẩy mạnh việc đàn áp, khủng bố, bắt bớ, tù đày các nhà ái quốc
nhằm dập tắt các cuộc khởi nghĩa từ trong trứng nước để củng cố nền đô hộ.
9
Các phong trào tạm thời lắng xuống, các tổ chức ái quốc bị dao động mạnh
buộc phải tạm ngưng các hoạt động rút vào bóng tối nhằm bảo toàn tổ chức
và nhân sự. Cuộc khủng bố qui mô toàn quốc những năm 30 đã gây một
không khí hoang mang, lo sợ trong tầng lớp thanh niên và trí thức. Đây là thời
kỳ thoái trào của các hoạt động cách mạng chống Pháp dành độc lập. Cuộc
khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933 từ Pháp tràn về Đông Dương thuộc
địa như một thiên tai khiến cuộc sống xã hội trở nên khó khăn. Hàng hoá rẻ
mạt nhưng lại không kiếm ra tiền, các xí nghiệp kinh doanh thi nhau phá sản,
sa thải nhân công. Ngân quĩ nhà nước bảo hộ thất thu không đủ khả năng
tuyển dụng thêm công chức, nạn trí thức thất nghiệp là mối lo âu chung của
những người được Pháp đào tạo.Trộm cướp, thuốc phiện, bài bạc, đĩ điếm trở
thành những vấn đề nan giải. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới càng tăng
thêm bi quan cho không khí u ám, buồn thảm vốn đang căng thẳng, ngột
ngạt. Trong khung cảnh đó những người trí thức ấp ủ tinh thần dân tộc mang
tâm trạng tiêu cực muốn thoát ly khỏi những vấn đề bức xúc của cuộc tranh
đấu dành độc lập. Họ có thái độ chán nản, xa lánh chính trị. Thái độ này được
củng cố trên cơ sở mối bất hòa tuyệt vọng giữa họ và hoàn cảnh xã hội đương
thời. Sự ra đời của trào lưu văn chương lãng mạn giải quyết được bế tắc, đáp
ứng được nhu cầu cho giới trí thức trong bối cảnh xã hội bi quan đó. Chủ
nghĩa lãng mạn đề cao tự do cá nhân đã đáp ứng được khát vọng giải phóng

bản ngã, khát vọng tự do yêu đương cho hạnh phúc và quyền sống cá nhân.
Điều này giải thích được quan điểm mỹ học nghệ thuật vị nghệ thuật của
những người trong trào lưu văn chương lãng mạn thuộc giai đoạn 1932-1945
của văn học Việt Nam.
Trong văn học 1930-1945, so với trào lưu hiện thực, trào lưu lãng mạn
chịu đựng sóng gió dư luận nhiều hơn và nhiều lúc bị đánh giá khá bất công.
Tuy vậy, VHLM Việt Nam 1930-1945 đã phát triển rất mạnh mẽ, đạt
nhiều thành tựu. Từ năm 1932 đến năm 1935 đã nổ ra hàng loạt các cuộc
tranh luận văn học sôi nổi được tham gia của nhiều tờ báo và các nhà văn, nhà
thơ như: tranh luận về thơ mới thơ cũ, bỏ cũ theo mới, hôn nhân và gia đình,
10
tranh luận về nghệ thuật phục vụ cái gì…Các cuộc tranh luận này phản ảnh
cuộc đấu tranh giữa lễ giáo phong kiến với tự do cá nhân, giữa khuôn sáo và
tư tưởng gò bó với cảm xúc cá nhân được tự do bày tỏ. Hai tờ Phong hóa và
Ngày nay do Nhất Linh và nhóm Tự lực văn đoàn chủ trương là cơ quan ngôn
luận cổ vũ mạnh mẽ cho sự thay cũ đổi mới. Đây cũng là nơi qui tụ văn
chương của các nhà văn, nhà thơ trong trào lưu VHLM như Nhất Linh, Khái
Hưng, Thế Lữ, Huy Cận, Thạch Lam…Sự thành công của trào lưu văn
chương lãng mạn cũng phải kể đến các tờ Hà Nội báo, Tiểu thuyết thứ bảy,
Phổ thông Bán nguyệt san, Tao đàn, Thanh Nghị với sự tham gia của các tác
giả như Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Phạm Huy Thông, Bích
Khê, Nguyễn Tuân, Vũ Hoàng Chương, Nguyễn Xuân Sanh… Sự toàn thắng
của phong trào thơ mới cũng là tiếng trống khải hoàn cho trào lưu văn học
lãng mạn, chấm dứt hoàn toàn lối thơ văn cũ từ thời Đông Dương tạp chí và
Nam Phong trở về trước.
1.1.2. Những định hướng cơ bản của việc dạy học Ngữ văn hiện nay
1.1.2.1. Dạy học Ngữ văn là một khoa học
a. Phương pháp dạy học
Thuật ngữ phương pháp trong tiếng Hy Lạp là “Méthodos” có nghĩa là
con đường, cách thức hoạt động nhằm đạt được mục đích nhất định. Vì vậy,

có thể định nghĩa : phương pháp là hệ thống những hành động tự giác, tuần tự
nhằm đạt được những kết quả phù hợp với mục đích đã định. Nếu hiểu như
vậy thì khái niệm phương pháp có cấu trúc phức tạp, bao gồm mục đích được
đề ra, hệ thống những hành động, phương tiện cần thiết, quá trình làm biến
đổi đối tượng, mục đích đạt được. Khi sử dụng đúng phương pháp sẽ dẫn đến
kết quả theo dự định. Nếu mục đích không đạt được thì nghĩa là phương pháp
không phù hợp với mục đích hoặc nó đã không được sử dụng đúng. Bất kì
phương pháp nào, dù là phương pháp nhận thức hay thực hành sản xuất để
thực hiện có kết quả vào đối tượng nào đó thì cũng phải biết được tính chất
của đối tượng, tiến trình biến đổi của nó dưới tác động của phương pháp đó.
11
Phương pháp dạy học là cách thức hành động có trình tự, phối hợp tương
tác với nhau của giáo viên và của học sinh nhằm đạt được mục đích dạy học.
Nói cách khác, phương pháp dạy học là hệ thống những hành động có chủ
đích theo một trình tự nhất định của giáo viên nhằm tổ chức hoạt động nhận
thức và thực hành của học sinh, đảm bảo cho họ lĩnh hội nội dung dạy học và
chính vì vậy mà đạt được mục đích dạy học. Phương pháp dạy học bao gồm
cả phương pháp dạy và phương pháp học, trong đó phương pháp dạy đóng vai
trò chủ đạo, còn phương pháp học có tính chất độc lập tương đối, chịu sự chi
phối của phương pháp dạy song nó cũng ảnh hưởng trở lại phương pháp dạy.
Trong phương pháp dạy học, chủ thể tác động - người thầy và đối tượng tác
động của học chính là học sinh; còn học sinh lại là chủ thể tác động vào nội
dung dạy học. Vì vậy, người thầy phải nắm vững những quy luật khách quan
chi phối tác động của mình vào học sinh và nội dung dạy học thì mới đề ra
những phương pháp tác động phù hợp.Từ đó có thể thấy đặc trưng của
phương pháp dạy học: người học là đối tượng tác động của giáo viên, đồng
thời là chủ thể, là nhân cách mà hoạt động của họ phụ thuộc vào hứng thú,
nhu cầu của họ. Cấu trúc của phương pháp dạy học trước tiên là mục đích của
người giáo viên đề ra và tiến hành một hệ thống hành động với những phương
tiện mà họ có. Dưới tác động đó của người giáo viên, người học đề ra mục

đích của mình và thực hiện hệ thống hành động với phương tiện mà họ có
nhằm lĩnh hội nội dung dạy học.
b. Phương pháp dạy học Văn
Với tư cách là một khoa học ở Việt Nam, phương pháp dạy học Văn mới
chỉ xuất hiện và phát triển khoảng năm mươi năm trở lại đây. Phương pháp
dạy học Văn là một khoa học nghiên cứu những đặc điểm và quy luật của quá
trình dạy học văn trong nhà trường. Quá trình này bao gồm quá trình dạy của
giáo viên và học của học sinh. Đây cũng là quá trình phức tạp bao gồm quá
trình ngôn ngữ, văn học, tâm lí sư phạm. Ba yếu tố tạo thành hoạt động dạy
học văn là giáo viên, học sinh và bài văn. Có thể nói một cách đơn giản
phương pháp dạy học văn phải giải đáp ba câu hỏi cơ bản: Môn văn là gì?
12
Dạy học văn để làm gì?( nhiệm vụ môn văn)Dạy học văn như thế nào?
(nguyên tắc, phương pháp dạy học văn). Như vậy, phương pháp dạy học văn
không chỉ quan tâm nghiên cứu các tác phẩm văn chương mà quan trọng hơn
phải tìm hiểu dạy học văn để làm gì? Khoa học về phương pháp dạy học văn
vừa phải đi sâu tìm hiểu bản chất của văn học, vừa phải khám phá sức mạnh
tác động xã hội thẩm mỹ đến nhân cách học sinh. Phương pháp dạy học văn
phải dựa trên những nguyên tắc chung của lý luận dạy học:
Trước hết phải dạy học theo đặc trưng bộ môn. Nói đến môn văn điều
đầu tiên người ta quan tâm đến là tính chất văn, nghệ thuật ngôn từ, hình
tượng nghệ thuật, cảm xúc thẩm mĩ…mà các môn khoa học khác không có
được. Bởi thế người thầy phải là những kỹ sư tâm hồn, là nghệ sĩ, là nhà
khoa học. Dạy học văn không thể theo công thức máy móc mà phải bám sát
với đặc trưng của bộ môn. Chỉ khi ấy mục đích của việc dạy học văn mới đạt
mức cao nhất.
Bên cạnh đó phải phát huy chủ thể trong quá trình dạy học văn. Không
có sự vận động của chủ thể thì mọi hoạt động của giáo viên sẽ trở thành áp
đặt. Những năng lực chủ quan của học sinh có được phát huy thực sự thì việc
chiếm lĩnh tri thức, việc thưởng thức tác phẩm, hứng thú học tập thực sự mới

có được và hiệu quả giảng dạy mới bền vững. Nguyên tắc này đòi hỏi sự đổi
mới hàng loạt vấn đề cơ bản từ cơ chế đến phương pháp, là đầu mối quyết
định phương hướng giảng dạy của giáo viên và là con đường có triển vọng để
nâng cao hiệu quả trong giảng dạy.
Ngoài ra, dạy học văn phải gắn với đời sống bởi đối tượng phản ánh của
văn chương là cuộc sống con người. Văn chương dù có viết về vấn đề gì thì
cũng là để phản ánh hiện thực đời sống, ước mơ, hoài bão, niềm vui, nỗi buồn
của con người. Trong mấy năm trở lại đây, nguyên tắc này ngày càng được
quan tâm hơn. Trong các đề kiểm tra đánh giá môn văn, người ra đề chú trọng
nhiều hơn vào những kiểu đề , kiểu câu hỏi có tính chất gắn văn học với đời
sống. Để HS hoàn thành tốt các kiểu đề và câu hỏi trên đòi hỏi phải tuân thủ
nguyên tắc dạy văn gắn với đời sống.
13
Một nguyên tắc nữa mà giáo viên phải tuân thủ khi dạy học văn là phải
liên kết bộ môn. Ngày nay người ta thường gọi bằng khái niệm: dạy học tích
hợp, dạy học liên môn. Mỗi môn học có một ưu thế riêng, song không có một
môn học nào có thể đảm đương được mọi nhiệm vụ và thỏa mãn đầy đủ các
yêu cầu, nhiệm vụ đào tạo con người mới. Do đó phải liên kết môn văn với
các bộ môn khoa học xã hội khác để đạt được mục đích giáo dục và đào tạo.
Đề án Đổi mới chương trình và Sách giáo khoa năm 2015 đặc biệt quan tâm
đến nguyên tắc liên kết bộ môn.
Việc phát hiện các nguyên tắc, các quy luật của quá trình dạy học văn đã
làm cho phương pháp dạy học văn thực sự trở thành một khoa học. Vì vậy
người giáo viên dạy văn không phải chỉ là người thực sự hiểu rõ mà còn phải
là người thực hiện một cách có hiệu quả những nguyên tắc ấy. Có như thế thì
mới đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của quá trình đổi mới phương pháp
dạy học nói chung và phương pháp dạy học văn nói riêng.
1.1.2.2. Vấn đề đổi mới phương pháp dạy học văn
Ở Việt Nam, phương pháp dạy học môn văn trong nhà trường luôn được
xã hội quan tâm. Nhiều ý kiến bàn bạc về về dạy học văn đã được đăng tải

trên báo chí, trong các công trình nghiên cứu của cả những người trong và
ngoài nghề từ những năm 70 thế kỷ trước. Nhưng có thể khẳng định rằng, cho
đến nay vẫn chưa có sự đồng thuận cao của những người đứng đầu về phương
pháp dạy học văn.
Từ năm 1973, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã đặt ra vấn đề đổi mới dạy
học văn trong trường phổ thông: “Hiện nay trong nhà trường phổ thông chúng
ta có hiện tượng dạy văn theo điệu “sáo”…nghĩa là cho học sinh học nhiều,
yêu cầu học sinh nhớ nhiều để bắt chước và như vậy gọi là “làm văn”. Học
sinh học nhiều, nhớ nhiều là điều đáng khuyến khích nhưng không phải là
điều chủ yếu. Điều chủ yếu là dạy suy nghĩ, dạy sáng tạo…Dứt khoát chúng
ta đã có cách dạy khác, phải dạy cho học sinh biết suy nghĩ, suy nghĩ bằng trí
óc của mình và diễn tả suy nghĩ ấy của mình như thế nào cho tốt nhất…”( Tạp
chí Nghiên cứu giáo dục số 28, 1973). Kể từ đó, trong trường phổ thông bắt
14
đầu có dấu hiệu thay đổi phương pháp dạy học văn theo hướng nói trên.
Nhưng quá trình đổi mới diễn ra chậm chạp, không có những bước đột phá.
Đầu thế kỷ XX, trong cuốn Chương trình giáo dục phổ thông – môn Ngữ văn
ban hành tháng 5/2006 có ghi rõ: “ …để thực hiện tư tưởng dạy học tập trung
vào người học, phát huy tính tích cực chủ động của học sinh trong học tập,
chương trình coi trọng phương pháp tổ chức học tập phù hợp với đặc trưng bộ
môn với độ tuổi học sinh…Ở THPT…hoạt động học tập mang tính nghiên
cứu bước đầu được vận dụng nhằm phát triển năng lực tự học và tư duy sáng
tạo của học sinh…”[49] Như vậy đổi mới phương pháp dạy học văn thực sự
đã trở thành một yêu cầu tất yếu gắn với đổi mới về giáo dục.
Tuy nhiên đổi mới phương pháp dạy dạy học văn như thế nào chưa bao
giờ là một câu hỏi dễ dàng. Thậm chí nó còn gây ra nhiều cuộc tranh cãi về
quan điểm. Nhà giáo Phạm Toàn – một nhà giáo có nhiều tâm huyết với việc
đổi mới dạy học văn đã cho rằng: “Môn Ngữ văn đang bị dạy sai vì người
chủ biên bộ sách Ngữ văn THPT nâng cao đã có sự nhầm lẫn, “đọc hiểu” là
một khái niệm dùng cho học ngôn ngữ. Còn học văn chính là một môn nghệ

thuật thì phải là “đọc cảm” mới đúng chứ ”(Báo Văn nghệ số 35 và 36, ngày
05/9/2009). Trái ngược với quan điểm trên, GS Trần Đình Sử lại cho rằng:
“Đọc hiểu văn bản - một khâu đột phá trong nội dung và phương pháp dạy
học văn hiện nay”. Quan điểm của ông đã mở ra một bước đột phá cho việc
đổi mới phương pháp dạy học văn hiện nay. Đọc hiểu trở thành bản chất của
nội dung và phương pháp dạy học văn trong nhà trường phổ thông. Dạy văn
là dạy cho học sinh năng lực đọc, kỹ năng đọc để học sinh có thể đọc hiểu bất
cứ văn bản nào cùng loại. Từ đọc hiểu mà trực tiếp nhận các giá trị văn học,
trực tiếp thể nghiệm các tư tưởng và cảm xúc được truyền đạt bằng nghệ thuật
ngôn từ, hình thành cách đọc riêng có cá tính. Đó là con đường duy nhất để
bồi dưỡng cho học sinh năng lực của chủ thể tiếp nhận thẩm mỹ. Do đó hiểu
bản chất của môn văn là dạy đọc văn vừa thể hiện cách hiểu thực sự bản chất
của văn học, vừa hiểu đúng thực chất việc dạy văn là dạy năng lực, phát triển
năng lực là chủ thể của học sinh. Gần đây đã diễn ra nhiều cuộc Hội thảo

×