TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
TRẦN VĂN THÁI
BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC
THEO CHUẨN KIẾN THỨC, KỸ NĂNG Ở CÁC TRƯỜNG
TRUNG HỌC CƠ SỞ HUYỆN QUẢNG XƯƠNG
TỈNH THANH HÓA
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC
NGHỆ AN - 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
TRẦN VĂN THÁI
BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC
THEO CHUẨN KIẾN THỨC, KỸ NĂNG Ở CÁC TRƯỜNG
TRUNG HỌC CƠ SỞ HUYỆN QUẢNG XƯƠNG
TỈNH THANH HÓA
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC
Chuyên ngành: Quản lý giáo dục
Mã số: 60.14.01.14
Người hướng dẫn khoa học: TS. PHAN QUỐC LÂM
NGHỆ AN - 2014
Lời cảm ơn
Với tình cảm chân thành nhất, tác giả xin bày tỏ lòng kính trọng và biết
ơn sâu sắc đến Tiến sỹ Phan Quốc Lâm - người Thầy đã hướng dẫn tận tình,
chu đáo và giúp đỡ tác giả trong suốt quá trình làm luận văn.
Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn đến tập thể lãnh đạo, các Thầy giáo, Cô
giáo trường Đại học Vinh, đã tận tình giảng dạy, tạo điều kiện giúp đỡ tác
giả hoàn thành chương trình học tập, nghiên cứu, cảm ơn các đồng chí lãnh
đạo, chuyên viên phòng giáo dục và đào tạo huyện Quảng Xương và các bạn
cùng học đã tạo điều kiện, động viên, giúp đỡ tác giả hoàn thành luận văn
này.
Mặc dù đã rất cố gắng, song do khả năng nghiên cứu của tác giả còn
hạn chế, chắc chắn luận văn có nhiều thiếu sót. Kính mong nhận được những
ý kiến đóng góp, chỉ dẫn của các Thầy giáo, Cô giáo, các bạn đồng nghiệp để
luận văn được hoàn thiện hơn.
Nghệ An, tháng 03 năm 2014
Tác giả
Trần Văn Thái
MỤC LỤC
Trang
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
MỞ ĐẦU 1
1.2.3.1. Khái niệm chuẩn 8
b/ Quản lý quy trình dạy học theo chuẩn KT-KN 62
3.2.3.1. Mục tiêu 77
3.2.3.2. Nội dung và cách thức thực hiện 77
1. Kết luận 93
2. Kiến nghị 94
2.1. Đối với Bộ Giáo dục và Đào tạo 94
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CBQL Cán bộ quản lý
CT Chương trình
CTGD Chương trình giáo dục
CTGDPT Chương trình giáo dục phổ thông
CTMH Chương trình môn học
ĐG Đánh giá
GD Giáo dục
GD&ĐT Giáo dục và đào tạo
GV Giáo viên
GVG Giáo viên giỏi
HĐDH Hoạt động dạy học
HS Học sinh
HSG Học sinh giỏi
KH Kế hoạch
KHDH Kế hoạch dạy học
KT Kiểm tra
KT- KN Kiến thức kỹ năng
MT Mục tiêu
KTĐG Kiểm tra đánh giá
NDDH Nội dung dạy học
PPCT Phân phối chương trình
PPDH Phương pháp dạy học
QL Quản lý
QLGD Quản lý giáo dục
QLDH Quản lý dạy học
SGK Sách giáo khoa
SGV Sách giáo viên
THPCS Trung học cơ sở
THPT Trung học phổ thông
TTr-KT Thanh tra, kiểm tra
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
Trang
Sơ đồ 1.1. Mối quan hệ MT-PP-GV-HS - Thiết bị dạy học
42
Bảng 2.1. Hệ thống trường THCS huyện Quảng Xương 50
Sơ đồ 2.1. Sơ đồ tổ chức Phòng GD&ĐT 51
Sơ đồ 2.2. Sơ đồ tổ chức dạy học tại các trường THCS 51
Sơ đồ 2.3. Sơ đồ tổ chức dạy học tại các trường THCS 52
Bảng 2.2, Bảng 2.3 Cơ cấu giáo viên theo môn học cấp THCS 53
Bảng 2.4. Giáo viên Tin cấp THCS 53
Bảng 3.1 Kết quả khảo sát tính cấp thiết 89
Bảng 3.2 Kết quả khảo sát tính khả thi 89
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trước xu thế hội nhập quốc tế và mục tiêu công nghiệp hóa - hiện đại
hóa đất nước thì chất lượng giáo dục, quản lý chất lượng và nâng cao chất
lượng giáo dục đang là vấn đề nhà nước, xã hội hết sức quan tâm. Nâng cao
chất lượng giáo dục các cấp học, bậc học là một đòi hỏi khách quan trước xu
thế hội nhập với thế giới và cũng là đáp ứng những nhu cầu về nguồn nhân
lực cho công cuộc Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa đất nước. Nghị quyết hội
nghị lần thứ 2 khoá VIII của Ban chấp hành TW Đảng đã ghi rõ: “Giáo dục
và đào tạo hiện nay phải có một bước chuyển nhanh về chất lượng và hiệu
quả đào tạo, về số lượng và quy mô đào tạo, nhất là chất lượng dạy học trong
các nhà trường nhằm nhanh chóng đưa giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu
mới của đất nước”.
Trong nhiều năm qua, ngành giáo dục đã có những giải pháp nhằm nâng
cao chất lượng giáo dục như thay đổi chương trình và sách giáo khoa, đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lí, giáo viên; phát động các phong trào, hoạt
động của ngành phục vụ nâng cao chất lượng giáo dục và thực hiện giảm tải
chương trình. Trình độ hiểu biết, năng lực tiếp cận tri thức mới của học sinh,
sinh viên và giáo viên được nâng cao, chất lượng giáo dục Đại học từng
bước được nâng lên, đào tạo được đội ngũ đông đảo cán bộ khoa học kỹ
thuật, đã có những cống hiến quan trọng trong hầu hết các lĩnh vực kinh tế,
xã hội.
Mặc dù đã đạt được những thành tựu trên, tuy nhiên hệ thống giáo dục
và đào tạo nước ta vẫn còn nhiều yếu kém, bất cập so với yêu cầu phát triển
của đất nước trong thời kỳ CNH-HĐH. Nghị quyết TW Đảng khoá VIII
khẳng định: “Giáo dục nước ta vẫn còn nhiều yếu kém bất cập cả về quy mô
lẫn cơ cấu và nhất là chất lượng ít hiệu quả, chưa đáp ứng được đòi hỏi ngày
càng cao về nhân lực vào công cuộc đổi mới kinh tế xã hội, xây dựng bảo vệ
1
Tổ quốc, thực hiện CNH-HĐH đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Để giải quyết mâu thuẫn trên đòi hỏi chúng ta phải thay đổi quan niệm, nhận
thức về giáo dục, phải hướng tới chất lượng giáo dục, điều đó đồng nghĩa với
việc phải chú trọng nâng cao trách nhiệm quản lý chất lượng và tăng cường
các biện pháp quản lý hoạt động dạy học, hoạt động dạy học theo chuẩn kiến
thức, kỹ năng. Ngày 5/5/2006, Bộ GD&ĐT đã ban hành quyết định số
16/2006/QĐ - BGDĐT về chương trình giáo dục phổ thông. Chương trình
giáo dục phổ thông được ban hành đã bao gồm chuẩn kiến thức kỹ năng. Để
thực hiện chương trình theo chuẩn KT-KN, từ năm học 2009-2010, Bộ
GD&ĐT đã tổ chức biên soạn tài liệu Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức,
kỹ năng với tất cả các môn học. Trong chương trình giáo dục phổ thông, kiến
thức, kỹ năng được thể hiện, cụ thể hoá ở các chủ đề của chương trình môn
học, theo từng lớp học. Tài liệu hướng dẫn đã giới thiệu các yêu cầu cơ bản,
tối thiểu về kiến thức, kỹ năng của chuẩn kiến thức, kỹ năng trong đó có chú
ý tham khảo các nội dung được trình bày trong SGK hiện hành, tạo điều kiện
thuận lợi hơn nữa cho giáo viên và học sinh trong quá trình giảng dạy, học
tập và kiểm tra, đánh giá. Nhiều giáo viên xem chuẩn kiến thức, kỹ năng như
một "cẩm nang" giúp thầy và trò thoát khỏi cảnh "đọc - chép". Bên cạnh đó,
qui trình dạy học phải thay đổi để phù hợp với yêu cầu của chuẩn kiến thức,
kỹ năng. Chính vì vậy, công tác quản lý hoạt động dạy học cần phải có
những điều chỉnh phù hợp để đáp ứng với yêu cầu mới.
Từ khi chuẩn kiến thức kỹ năng là một thành phần của chương trình
giáo dục phổ thông, các nhà trường đã có những chuyển biến trong công tác
quản lý hoạt động dạy học. Tuy nhiên nhiều trường vẫn gặp nhiều khó khăn
khi quản lý hoạt động dạy học theo chuẩn kiến thức, kỹ năng từ nhận thức
của cán bộ quản lý, giáo viên; từ tập huấn; ra đề, kiểm tra đánh giá học sinh
cho đến việc chấm điểm giờ dạy của giáo viên. Trong xu thế cải tiến chung,
các trường THCS huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa cũng đã có những
2
thay đổi trong công tác quản lý hoạt động dạy học theo chuẩn kiến thức, kỹ
năng nhưng chưa thực sự hiệu quả, vẫn còn có nhiều bất cập.
Quảng Xương là một huyện đồng bằng vên biển của tỉnh Thanh Hóa, có
8 xã vùng bãi Ngang, kinh tế phát triển chậm, trình độ dân trí không đồng
đều, ngành giáo dục cũng còn gặp nhiều khó khăn. Chất lượng dạy học ở các
trường THCS từng bước được nâng lên và đi vào ổn định, song còn chậm,
thiếu vững chắc và chưa đồng đều ở các trường trong toàn huyện. Đặc biệt
trong lĩnh vực quản lý giáo dục, quản lý hoạt động dạy học theo chuẩn kiến
thức, kỹ năng trong các nhà trường THCS đang đặt ra nhiều vấn đề bức xúc
cần sớm được quan tâm nghiên cứu giải quyết. Thực tế đòi hỏi ngành giáo
dục huyện Quảng Xương phải có những biện pháp quản lý hoạt động dạy
học theo chuẩn kiến thức, kỹ năng một cách đồng bộ và mang tính khả thi.
Đó là lý do để tôi chọn đề tài "Biện pháp quản lý hoạt động dạy học
theo chuẩn kiến thức, kỹ năng ở các trường Trung học cơ sở huyện
Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa".
2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất một số biện pháp quản lý hoạt động dạy học theo chuẩn kiến
thức, kỹ năng nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy học ở các trường
THCS huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Công tác quản lý hoạt động dạy học ở các trường THCS
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp quản lý hoạt động dạy học theo chuẩn kiến thức, kỹ năng ở
các trường THCS huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa.
3
4. Giả thuyết khoa học
Đề xuất và thực thi được các biện pháp quản lý hoạt động dạy học theo
chuẩn kiến thức kỹ năng, có cơ sở khoa học và có tính khả thi thì sẽ góp
phần nâng cao chất lượng dạy học ở các nhà trường THCS huyện Quảng
Xương tỉnh Thanh Hóa.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu lý luận về quản lý hoạt động dạy học theo chuẩn kiến
thức, kỹ năng.
5.2. Nghiên cứu thực trạng quản lý hoạt động dạy theo chuẩn kiến thức,
kỹ năng ở các trường THCS huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa.
5.3 Đề xuất một số biện pháp quản lý hoạt động dạy học theo chuẩn
KT, KN ở các trường THCS huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa.
6. Phạm vi nghiên cứu
Khảo sát thực trạng quản lý hoạt động dạy học tại các trường THCS
huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa trong các năm học 2010 - 2011; 2011
- 2012; 2012- 2013.
7. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên các phương pháp sau:
7.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu lí thuyết
Sử dụng các phương pháp như: phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa lí
thuyết để xác định các khái niệm công cụ và xây dựng khung lí luận cho đề
tài.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp điều tra, phỏng vấn.
Sẽ tiến hành khảo sát cán bộ quản lí, giáo viên và học sinh để nghiên
cứu thực trạng và tính khả thi của các biện pháp của đề tài đưa ra.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
- Phương pháp thống kê (xử lý số liệu)
4
Số liệu sẽ được xử lí bằng phần mềm Microsoft Excel 2003, 2007 hoặc 2010
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, danh mục các tài liệu tham
khảo và phụ lục, luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý hoạt động dạy học theo chuẩn kiến
thức, kỹ năng ở trường Trung học cơ sở.
Chương 2: Thực trạng quản lý hoạt động dạy học theo chuẩn kiến thức, kỹ
năng ở các trường Trung học cơ sở huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa .
Chương 3: Biện pháp quản lý hoạt động dạy học theo chuẩn kiến thức, kỹ
năng ở các trường Trung học cơ sở huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa
5
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC THEO
CHUẨN KIẾN THỨC, KỸ NĂNG Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Ở các địa phương trong cả nước, đã có những công trình nghiên cứu
dạy học theo chuẩn kiến thức kỹ năng như:
- “Dạy học và kiểm tra đánh giá theo chuẩn” của tác giả Vũ Nho, Viện
Khoa học Giáo dục Việt Nam.
- “Tăng cường công tác quản lý dạy học tích cực theo chuẩn kiến thức – kỹ
năng” của tác giả Trương Công Huy.
Ở Việt Nam, nghiên cứu về QLGD, QL nhà trường, QL HĐDH đã
được nhiều tác giả quan tâm. Các công trình nghiên cứu đều khẳng định vai
trò quan trọng của công tác QL trong việc nâng cao chất lượng DH.
Về tài liệu hướng dẫn giảng dạy, năm 2010 Nhà xuất bản Giáo dục xuất
bản bộ sách Hướng dẫn thực hiện Chuẩn KT- KN và bộ sách Luyện tập và tự
kiểm tra, đánh giá theo Chuẩn kiến thức, kỹ năng; Nhà xuất bản Đại học sư
phạm xuất bản bộ sách DH theo Chuẩn KT- KN cho các môn học cấp THPT
nhằm giúp GV soạn giáo án, giảng dạy theo Chuẩn KT- KN. Tuy nhiên, các
bộ sách này cũng không đề cập đến việc QL HĐDH theo Chuẩn KT- KN.
Các đề tài trên bước đầu đã có những nghiên cứu cơ sở lí luận về DH,
KTĐG, QLDH theo chuẩn KT- KN; đánh giá khó khăn, gợi ý một số cách
thức quản lý nhưng chưa nghiên cứu đề xuất một cách hệ thống các biện
pháp quản lý hoạt động dạy học theo chuẩn KT-KN. Bên cạnh đó, vấn đề
quản lý dạy học tại trường THCS theo chuẩn KT- KN thì chưa thấy các đề tài
đề cập đến. Đặc biệt trên địa bàn hyện Quảng Xương - tỉnh Thanh Hóa thì
vấn đề này cũng chưa được quan tâm nghiên cứu.
6
1.2. Một số khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1. Kiếm thức kỹ năng
Có thể khẳng định rằng cuộc sống của chúng ta thường xuyên được
chi phối bởi những gì chúng ta biết, những gì chúng ta làm và những gì
chúng ta giỏi. Đó chính là kiến thức, kỹ năng.
1.2.1.1. Kiến thức
Theo Từ điển Tiếng Việt: "Kiến thức là những điều hiểu biết có được
do từng trải, hoăc do học tập” [ 34, tr. 524]
Kiến thức có hai dạng: dạng thứ nhất là những kiến thức thuộc về lý
thuyết tức là được nhân loại đúc kết lại và chúng ta cần học cho một chuyên
môn cụ thể nào đó. Đó là các nguyên tắc, công thức, định lý, tiên đề, quy
trình mà chúng ta cần tuân thủ để đi đến thành công trên con đường
của mình. Dạng thứ hai là kiến thức thuộc về kinh nghiệm mà bạn thu lượm
được từ quá trình trải nghiệm và chính bạn là người đúc kết nên và sau đó
bạn sử dụng để giải quyết các bài toán cuộc sống sau này.
1.1.1.2. Kỹ năng
Có nhiều cách nêu khái niệm khác nhau về kỹ năng. Những khái niệm
này thường bắt nguồn từ góc nhìn chuyên môn và quan niệm cá nhân của
từng người viết. Tuy nhiên hầu hết chúng ta đều thừa nhận rằng kỹ năng
được hình thành khi chúng ta áp dụng kiến thức vào thực tiễn. Kỹ năng học
được do quá trình lặp đi lặp lại một hoặc một nhóm hành động nhất định nào
đó. Kỹ năng luôn có chủ đích và định hướng rõ ràng.
Theo Từ điển Tiếng Việt: "Kỹ năng là khả năng vận dụng những kiến
thức thu nhận được trong một lĩnh vực nào đó hoặc thực tế" [ 34, tr .520].
Kỹ năng là năng lực hay khả năng chuyên biệt của một cá nhân về một
hoặc nhiều khía cạnh nào đó được sử dụng để giải quyết tình huống hay công
việc nào đó phát sinh trong cuộc sống.
7
Kỹ năng được chia thành 2 nhóm:
*Kỹ năng mềm: Là tổng hợp các kỹ năng giúp con người tư duy và
tương tác với con người phục vụ cho công việc nhưng không phải là kỹ năng
chuyên môn/kỹ thuật.
Kỹ năng mềm là thuật ngữ dùng để chỉ các kỹ năng quan trọng trong
cuộc sống con người như: kỹ năng sống, giao tiếp, lãnh đạo, làm việc theo
nhóm, kỹ năng quản lý thời gian, thư giãn, vượt qua khủng hoảng, sáng tạo
và đổi mới
*Kỹ năng cứng: Là dạng kỹ năng cụ thể, có thể truyền đạt, đáp ứng
yêu cầu trong một bối cảnh, công việc cụ thể hay áp dụng trong các phân
ngành ở các trường học.
Vậy, Kỹ năng là năng lực hay khả năng của chủ thể thực hiện thuần
thục một hay một chuỗi hành động trên cơ sở hiểu biết (kiến thức hoặc kinh
nghiệm) nhằm tạo ra kết quả mong đợi.
1.2.2. Chuẩn và chuẩn kiến thức kỷ năng
1.2.3.1. Khái niệm chuẩn
Chuẩn là cái được chọn làm căn cứ để đối chiếu, để hướng theo đó mà
làm cho đúng; cái được công nhận là đúng theo quy định hoặc theo thói quen
phổ biến trong xã hội [34, tr.181].
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành CTGDPT trong đó Chuẩn KT- KN
của CTGDPT được thể hiện cụ thể trong các CTMH, hoạt động GD (gọi chung
là môn học) và các CT cấp học. MT của môn học, cấp học được cụ thể hóa
thành Chuẩn KT- KN của CT cấp học, môn học và từng đơn vị kiến thức.
Chuẩn KT- KN của một đơn vị kiến thức là các yêu cầu cơ bản, tối thiểu
về KT- KN của đơn vị kiến thức mà HS cần phải và có thể đạt được.
Chuẩn KT- KN của CTMH là các yêu cầu cơ bản, tối thiểu về KT- KN
của môn học mà HS cần phải và có thể đạt được sau từng giai đoạn học tập.
8
Chuẩn KT- KN của CT cấp học là các yêu cầu cơ bản, tối thiểu về KT-
KN của các môn học mà HS cần phải và có thể đạt được sau từng giai đoạn
học tập trong cấp học.
Đây là cơ sở pháp lý thực hiện DH đảm bảo những yêu cầu cơ bản, tối
thiểu của CT, thực hiện DH và KTĐG phù hợp với các đối tượng HS, giúp
GV chủ động, linh hoạt, sáng tạo trong áp dụng CT, từng bước đem lại chất
lượng giáo dục thực sự và sự bình đẳng trong phát triển năng lực cá nhân.
Chuẩn KT- KN là căn cứ để biên soạn SGK, QL DH, thanh KT; là căn
cứ để xác định MT của mỗi giờ học, MT của KT và thi cử, ĐG giờ dạy của
GV, ĐG kết quả GD ở từng môn môn học [13, tr.10].
1.2.3.2. Chuẩn kiến thức, kỷ năng
Chuẩn KT-KN là yêu cầu đòi hỏi đối với giáo viên (GV) trong quá trình
thực hiện chương trình giảng dạy. Tuy nhiên, tùy theo cấp học, đối tượng và
cả vùng miền mà yêu cầu chuẩn KT-KN có mức độ khác nhau.
Về kiến thức, yêu cầu học sinh phải nhớ, nắm vững, hiểu rõ các kiến
thức cơ bản trong chương trình và sách giáo khoa. Những tri thức đó chính là
nền tảng vững chắc để các em phát triển năng lực nhận thức ở mức độ cao
hơn trong quá trình học tập sau này. Về kỹ năng, học sinh biết vận dụng tri
thức đã được tiếp thu để trả lời câu hỏi, giải bài tập, làm thực hành, có kỹ
năng tính toán, vẽ hình, dựng biểu đồ… sau mỗi bài hoặc mỗi chương đã
học. Yêu cầu cần đạt về kiến thức thường được xác định theo sáu mức độ:
nhận biết, thông hiểu, vận dụng, phân tích, đánh giá và sáng tạo. Đối với
chương trình GDTX cấp THPT, THCS, mức độ cần đạt được về kiến thức,
kỹ năng đối với học sinh nói chung chủ yếu được yêu cầu ở ba mức đầu:
nhận biết, thông hiểu và vận dụng ở mức độ thấp. Cũng cần phải nói thêm,
do đặc thù bộ môn mà một số môn học có thể đưa ra yêu cầu ở mức độ cao
hơn. Tuy nhiên mức độ đó cũng không vượt quá yêu cầu quy định trong
9
chương trình. Trước hết về khái niệm nhận biết: Nhận biết là sự nhớ các dữ
liệu, thông tin đã có trước đây. Từ sự hồi tưởng đó người học tái hiện được
thông tin nhắc lại một loạt dữ liệu từ các sự kiện đơn giản. Hoặc nhắc lại một
loạt dữ liệu, từ các sự kiện đơn giản đến các lí thuyết phức tạp. Ví dụ, các em
nêu được định nghĩa: “Quá trình biến đổi chất này thành chất khác gọi là
phản ứng hóa học”, sau khi học xong bài Phản ứng hóa học (lớp 9). Đây là
mức độ, yêu cầu thấp nhất của trình độ nhận thức, thể hiện ở chỗ các em có
thể và chỉ cần nhớ hoặc nhận ra khi được đưa ra hoặc dựa trên những thông
tin có tính đặc thù của một khái niệm, một sự vật, một hiện tượng. Có nghĩa
là các em chỉ cần phát biểu đúng một định nghĩa, định lí hoặc định luật
nhưng chưa giải thích và vận dụng được chúng. Mức độ nhận biết có thể
được cụ thể hóa bằng các yêu cầu: nhận ra nhớ lại các khái niệm, nhận dạng
được (mà không cần giải thích) các khái niệm hoặc liệt kê, xác định mối
quan hệ giữa các yếu tố.
Về thông hiểu, đó là khả năng nắm chắc hoặc giải thích và chứng minh
được ý nghĩa của các khái niệm sự vật, hiện tượng. Người học có thể chuyển
thông tin từ dạng này sang dạng khác bằng cách giải thích thông tin và ước
lượng xu hướng tương lai. Ví dụ, “Giải thích hình ảnh thằn lằn phơi nắng
vào các thời điểm khác nhau trong ngày” sau khi học bài Sinh vật và môi
trường. Mức độ thông hiểu được cụ thể hóa bằng các yêu cầu: Diễn tả bằng
ngôn ngữ cá nhân các khái niệm, định lí, định luật, chuyển đổi từ hình thức
ngôn ngữ này sang hình thức ngôn ngữ khác (từ lời nói sang công thức, kí
hiệu hay số liệu). Biểu thị, minh họa, giải thích được ý nghĩa các khái niệm,
hiện tượng; lựa chọn sắp xếp bổ sung những thông tin cần thiết để giải quyết
một vấn đề nào đó theo một cấu trúc logic cũng là một cách thông hiểu.
Vận dụng là khả năng sử dụng các kiến thức đã học vào một hoàn cảnh
cụ thể mới: vận dụng nhận biết, hiểu biết thông tin để giải quyết vấn đề đặt
ra; là khả năng đòi hỏi các em phải biết vận dụng kiến thức, biết sử dụng
10
phương pháp, nguyên lí hay ý tưởng để giải quyết một vấn đề nào đó. Ví dụ,
GV yêu cầu các em vận dụng kiến thức đã học về quy đồng mẫu thức nhiều
phân thức để làm một số bài tập sau khi học xong hai bài lý thuyết Quy đồng
mẫu thức. Đây là mức độ giải quyết vấn đề cao hơn mức độ thông hiểu, có
thể áp dụng được các quy tắc, phương pháp, khái niệm, công thức để giải
quyết vấn đề đã biết trước đó. Mức độ vận dụng thường được cụ thể hóa
bằng những yêu cầu sau: so sánh các phương án giải quyết vấn đề; phát hiện
lời giải có mâu thuẫn, sai lầm và chỉnh sửa được. Giải quyết những tình
huống mới bằng cách vận dụng các khái niệm định lí, định luật tính chất đã
biết. Vận dụng cao hơn là biết khái quát hóa, trừu tượng hóa những tình
huống đơn giản đơn lẻ quen thuộc sang tình huống mới phức tạp hơn.
1.2.3. Dạy học và dạy học theo chuẩn KT- KN
1.2.3.1. Khái niệm dạy học
Nhiều tác giả cho rằng: “Dạy học là toàn bộ các thao tác có mục đích
nhằm chuyển các giá trị tinh thần, các hiểu biết, các giá trị văn hóa mà
nhân loại đã đạt được hoặc cộng đồng đã đạt được vào bên trong một con
người”. Quan niệm này lí giải đầy đủ cách mà nền giáo dục đang cố gắng
đào tạo những con người thích ứng với những nhu cầu hiện tại của xã hội.
Tuy nhiên quan niệm này làm cho nền giáo dục luôn đi sau sự phát triển của
xã hội. Bởi vì nó chỉ có nhiệm vụ tái hiện lại các giá trị tinh thần xã hội đã
được vật chất hóa bằng cách nào đó để trở lại thành giá trị tinh thần bên
trong người học. Quan niệm đó đi ngược lại quan niệm của Socrate về giáo
dục trong đó giáo dục có nhiệm vụ “đở đẻ” các ý niệm vốn có trong mỗi con
người, để cho ý niệm đó được khai sinh và trở thành giá trị tinh thần chung
của nhân loại. Quan niệm đó cũng hạn chế nền giáo dục hướng đến một
phương pháp giáo dục giúp cho người học trở thành những con người sáng
tạo, vượt qua được những giá trị tinh thần hiện có của xã hội. Thời đại của
11
chúng ta, và hơn nữa xã hội chúng ta đang hướng đến một xã hội tri thức.
Một xã hội mà tri thức của con người đang được số hóa với một tốc độ cực
lớn, làm cho tri thức dễ dàng và nhanh chóng trở thành tài sản chung. Tuy
nhiên xã hội tri thức không chỉ có nhiệm vụ tích hợp các kiến thức của con
người đã đạt được trong những phương tiện lưu trữ dung lượng cực lớn,
trong các cơ sở dữ liệu khổng lồ mà còn có nhiệm vụ từ đó nhân lên khối
lượng kiến thức này thành các kiến thức mới có chất lượng cao hơn nữa.
Triết học Mác nói rằng “Lượng đổi thì chất đổi. Lượng thay đổi một
cách tiệm tiến còn chất thì thay đổi một cách nhảy vọt”. Phạm trù về mối
tương quan giữa lượng và chất này hoàn toàn đúng trong các hoạt động giáo
dục. Người ta đã tính ra rằng khối lượng kiến thức hiện nay của nhân loại
trong vòng 20 năm trở lại đây đã tăng bằng tổng khối lượng kiến thức mà
nhân loại đạt được trong toàn bộ lịch sử trước đó của nó. Sự tăng về khối
lượng kiến thức đó nhất thiết phải kéo theo sự thay đổi về chất tri thức của
con người. Sự thay đổi về chất đó là gì? Con người của thời đại hiện tại
không chỉ có nhiệm vụ học tập và nhớ các kiến thức sẳn có mà còn đòi hỏi
con người phải có khả năng từ khối lượng tri thức đó sản sinh ra các giá trị
vật chất và tinh thần mới và nắm bắt tri thức mới. Thời đại của máy tính và
mạng Internet đã làm cho mọi biên giới văn hóa, kinh tế dần bị xóa nhòa.
Nếu trước đây việc tìm kiếm sở hữu tri thức là quan trọng hàng đầu trong
cuộc đấu tranh sinh tồn, việc tích lũy kiến thức (nhớ) là ưu tiên 1 thì giờ đây
khi mà các phương tiện lưu trữ đã quá đầy đủ, quá sẳn sàng cho việc truy cập
và xử lí thì ưu tiên 1 lại là khả năng nhanh chóng tiếp cận tri thức mới, khả
năng vận dụng tri thức mới và khả năng "đẻ" ra tri thức mới. Một ví dụ rất
rõ ràng là trong vòng vài tháng thì công nghệ phần cứng của máy tính lại có
một công nghệ mới, trong vòng vài năm thì Microsoft (chưa kể đến các hảng
phần mềm khác!) lại xuất ra một phiên bản như Office 2007, Office 2010
mới với nhiều tính năng mới, .v.v. con người phải có khả năng thích ứng liên
12
tục và nhanh chóng - chẳng những về tri thức mà còn về kỹ năng - với một
tốc độ cực cao. Nếu cuộc cách mạng kỹ thuật của thế kỷ trước đã nối dài
cánh tay con người thì nay cuộc cách mạng công nghệ thông tin đã bố trí
thêm cho mỗi con người vô số bộ óc bên ngoài cơ thể. Cách tay của con
người trong thế kỷ trước cần được đào tạo để chế tạo và điều khiển những
cách tay máy thì trong thời đại hôm nay bộ óc con người cần được đào tạo để
chế tạo và điều khiển những bộ óc máy. Nhưng con người là con người!
Những kiểu tâm trạng và kiểu cảm xúc của nó nói chung là bất biến đối với
thay đổi kỹ thuật. Những vấn đề cốt lõi của con người về hạnh phúc, về sự
sống, về cái chết, về chiến tranh và hòa bình, về khả năng sống hòa hợp
trong không gian các giá trị văn hóa của cộng đồng .v.v. hầu như không hề
tay đổi!
Và nó cũng phải được đào tạo để thích ứng với điều đó!
Vậy có lẻ hợp lí hơn nếu cho rằng:
“Dạy học là một quá trình gồm toàn bộ các thao tác có tổ chức và có định
hướng giúp người học từng bước có năng lực tư duy và năng lực hành
động với mục đích chiếm lĩnh các giá trị tinh thần, các hiểu biết, các kỹ
năng, các giá trị văn hóa mà nhân loại đã đạt được để trên cơ sở đó có khả
năng giải quyết được các bài toán thực tế đặt ra trong toàn bộ cuộc
sống của mỗi người học”
1.2.3.2. Dạy học theo chuẩn KT- KN
Văn bản CTGDPT cấp trung học phổ thông quy định các tiêu chí của
Chuẩn KT, KN đối với từng chủ đề/nội dung DH. Theo đó, Chuẩn KT- KN
có ba mức độ nhận thức cơ bản là Biết/nhớ, Hiểu và Vận dụng. Yêu cầu của
DH theo Chuẩn KT- KN [10, tr.9] là:
- Căn cứ Chuẩn KT- KN để xác định mục tiêu bài học. Chú trọng DH
nhằm đạt được yêu cầu cơ bản và tối thiểu về KT- KN, đảm bảo không quá
13
tải và không lệ thuộc hoàn toàn vào SGK; mức độ khai thác sâu KT- KN
trong SGK phải phù hợp với khả năng tiếp thu của HS.
- Sáng tạo về PPDH phát huy tính chủ động, tích cực, tự giác của HS.
Chú trọng rèn luyện phương pháp tư duy, năng lực tự học, tự nghiên cứu; tạo
niềm hứng khởi, nhu cầu hành động và thái độ tự tin trong học tập cho HS.
- DH thể hiện mối quan hệ tích cực giữa GV và HS; tiến hành thông
qua việc tổ chức các hoạt động học tập của HS; kết hợp học tập cá thể với
DH hợp tác, làm việc theo nhóm.
- DH chú trọng đến việc rèn luyện các kỹ năng, năng lực hành động, vận
dụng kiến thức, tăng cường thực hành và gắn nội dung bài học với thực tiễn.
- DH chú trọng đến việc sử dụng hiệu quả phương tiện, thiết bị, quan
tâm đến ứng dụng công nghệ thông tin.
- DH chú trọng đến việc động viên khuyến khích kịp thời sự tiến bộ của
HS trong quá trình học tập; đa dạng nội dung, hình thức, cách thức đánh giá
và tăng cường hiệu quả đánh giá.
1.2.4. Hoạt động và hoạt động dạy học
1.2.4.1. Hoạt động
Hoạt động là gì? Có nhiều cách nêu khái niệm khác nhau về hoạt động:
Thông thường người ta coi hoạt động là sự tiêu hao năng lượng thần kinh và
cơ bắp của con người khi tác động vào hiện thực khách quan, nhằm thoã mãn
những nhu cầu của mình.
Theo Từ điển Tiếng Việt: "Hoạt động là tiến hành những việc làm có
quan hệ với nhau chặt chẽ nhằm một mục đích nhất định trong đời sống xã
hội". [ 34, tr. 452]
Về phương diện triết học, tâm lý học người ta quan niệm hoạt động là
phương thức tồn tại của con người trong thế giới.
14
Hoạt động là mối quan hệ tác động qua lại giữa con người với thế
giới(khách thể) để tạo ra sản phẩm cả về thế giới cả về phía con người(chủ thể)
Hoạt động là phương thức tồn tại của con người thể hiện hai cấp độ:
- Cấp độ vi mô: là cấp độ hóat động của cơ thể, các giác quan, các bộ
phận tuân theo quy luật sinh học. Nhờ có họat động mà con người tồn tại
và phát triển, nhưng họat động ở cấp độ này không phải là đối tượng của
tâm lý học.
- Cấp độ vĩ mô: là hoạt động có đối tượng của con người với tư cách là
một chủ thể của hoạt động có mục đích. Đây chính là đối tượng nghiên cứu
của tâm lý học.
Hoạt động là quá trình con người thực hiện các quan hệ giữa mình với
thế giới bên ngoài- thế giới tự nhiên và xã hội giữ mình với người khác, giữa
mình với bản thân. Trong quá trình quan hệ đó có hai quá trình diễn ra đồng
thời và bổ sung cho nhau, thống nhất với nhau.
+ Quá trình thứ nhất là quá trình đối tượng hoá, trong đó chủ thể chuyển
năng lực của mình thành sản phẩm của hoạt động hay nói cách khác đi tâm
lý của con người (cuả chủ thể) được bộc lộ, được khách quan hoá trong quá
trình làm ra sản phẩm. Quá trình này còn gọi là qúa trình “xuất tâm”
+ Quá trình chủ thể hoá, có nghĩa là khi hoạt động con người chuyển từ
phía khách thể vào bản thân mình những quy luật bản chất của thế giới để tạo
thành tâm lý, ý thức, nhân cách của bản thân, bằng cách chiếm lĩnh thế giới.
+ Quá trình chủ thế hoá còn gọi là quá trình nhập tâm. Như vậy là trong
quá trình hoạt động, con người vừa tạo ra sản phẩm về phía thế giới, vừa tạo
ra tâm lý của mình, hay nói cách khác đi tâm lý nhân cách được bộc lộ và
hình thành trong hoạt động
15
1.2.4.2. Khái niệm hoạt động dạy học
Hoạt động dạy học là quá trình gồm hai hoạt động thống nhất biện
chứng: Hoạt động dạy của giáo viên Hoạt động học của học sinh. Trong đó
dưới sự lãnh đạo, tổ chức, điều khiển của giáo viên, người học tự giác, tích
cực tự tổ chức, tự điều khiển hoạt động học tập của mình nhằm thực hiện
những nhiệm vụ dạy học. Trong quá trình dạy học, hoạt động dạy của giáo
viên có vai trò chủ đạo, hoạt động học của học sinh có vai trò tự giác, chủ
động, tích cực. Hoạt động dạy học là các hoạt động trong quá trình dạy học
của giáo viên bao gồm công việc chuẩn bị phương tiện dạy học, lựa chọn
phương pháp dạy học, xác định mục tiêu dạy học và nội dung dạy học, đến
việc thực hiện hoạt động dạy của người giáo viên. Hoạt động dạy học được
xem xét cả trước, trong và sau khi lên lớp. Trước khi lên lớp là công tác
chuẩn bị như tìm kiếm tài liệu, soạn giáo án, làm mô hình dạy học…; Trong
khi lên lớp là hoạt động dạy học trên lớp; Và sau khi lên lớp là các hoạt động
hỗ trợ học tập như việc tư vấn, giải đáp thắc mắc, tổ chức các hoạt động
nghiên cứu cho học sinh.
Theo thuyết hoạt động, DH gồm hai hoạt động: Hoạt động dạy của thầy
và hoạt động học của trò. Hai hoạt động này luôn gắn bó với nhau, tồn tại
trong một quá trình thống nhất.
Hoạt động dạy: Là sự tổ chức, điều khiển quá trình lĩnh hội tri thức,
hình thành và phát triển nhân cách HS. Vai trò chủ đạo của hoạt động dạy
được biểu hiện với ý nghĩa là tổ chức và điều khiển hoạt động học tập của
HS, giúp HS hình thành các kỹ năng, thái độ để tiếp nhận các kiến thức có
hiệu quả. Hoạt động dạy có chức năng kép là truyền đạt, tiếp nhận thông tin
ngược và điều khiển hoạt động học.
Hoạt động học: Là quá trình HS tự điều khiển tối ưu sự chiếm lĩnh tri
thức khoa học, hình thành cấu trúc tâm lý mới, phát triển nhân cách. Vai trò
tự điều khiển của hoạt động học thể hiện ở sự tự giác, tích cực, chủ động
16
sáng tạo dưới sự tổ chức, điều khiển, hướng dẫn của thầy. Khi chiếm lĩnh tri
thức, HS đồng thời đạt được ba mục đích, đó là: tiếp nhận tri thức khoa học,
phát triển năng lực trí tuệ và hình thành phẩm chất, nhân cách. Hoạt động
học có hai chức năng: lĩnh hội và điều khiển quá trình chiếm lĩnh tri thức,
các khái niệm một cách tự giác, tích cực. Nội dung hoạt động học bao gồm
hệ thống khái niệm của môn học, phương pháp đặc trưng của bộ môn để biến
tri thức của nhân loại thành những kiến thức của bản thân, hình thành và phát
triển năng lực của con người theo đúng MT GD.
Như vậy, HĐDH là một trong những hoạt động giao tiếp sư phạm mang
ý nghĩa xã hội. Các chủ thể của HĐDH tiến hành các hoạt động khác nhau,
nhưng không đối lập nhau mà song song tồn tại và phát triển trong một quá
trình thống nhất, cùng hướng đến MT chung, đó là sự biến đổi của người học
về nhận thức, kỹ năng và thái độ. Kết quả học tập của HS được ĐG không
chỉ là kết quả của hoạt động học mà còn là kết quả của hoạt động dạy.
Tóm lại, DH là quá trình hoạt động cộng đồng hợp tác giữa thầy với
HS, giữa HS với HS. Dạy tốt, học tốt là đảm bảo sự thống nhất của điều
khiển, bị điều khiển, tự điều khiển và mối liên hệ ngược thường xuyên, bền
vững [35]
1.2.5. Quản lý, quản lý hoạt động dạy học theo chuẩn KT- KN
1.2.5.1. Khái niệm quản lý
Sử gia Daniel A. Wren đã nhận xét rằng: “QL cũng xưa cũ như chính
con người vậy”, tuy nhiên, chỉ mới gần đây người ta mới chú ý đến “chất
khoa học” của quá trình QL và dần dần hình thành nên các “lý thuyết” QL.
Có nhiều cách tiếp cận nên có nhiều quan niệm khác nhau về QL.
Theo Từ điển Tiếng Việt: “QL là trông coi và giữ gìn theo những yêu
cầu nhất định”. Trong khía cạnh khác “QL là tổ chức và điều khiển các hoạt
động theo các yêu cầu nhất định” [34, tr.800]
17
Theo C.Mac, “QL là lao động điều khiển lao động”. C.Mác viết: “Bất cứ
lao động chung nào mà tiến hành trên một quy mô khá lớn, đều yêu cầu phải có
một sự chỉ đạo để điều hòa những hoạt động của cá nhân… Một nhạc sỹ độc
tấu thì điều khiển lấy mình, nhưng một dàn nhạc thì phải có nhạc trưởng”.
Fridrick Winslow Taylo đưa ra định nghĩa: “QL là biết được chính xác
điều mà bạn muốn người khác làm, và sau đó hiểu được rằng họ đã hoàn
thành công việc một cách tốt nhất và rẻ nhất” [22, tr.237].
Henry Fayol thì khẳng định rằng, khi con người lao động hợp tác thì họ cần
phải xác định rõ công việc mà họ phải hoàn thành. Ông đã phân biệt thành 5
chức năng cơ bản của QL là KH hóa, tổ chức, chỉ huy, phối hợp và KT và sau
này được kết hợp lại thành 4 chức năng cơ bản của QL: KH, tổ chức, chỉ đạo và
KT. Nhiều luận điểm của ông đến nay vẫn còn giá trị khoa học và thực tiễn.
Theo tác giả Đặng Quốc Bảo, QL gồm hai quá trình tích hợp nhau: Quá
trình quản gồm coi sóc, giữ gìn, duy trì hệ thống ở trạng thái ổn định; quá
trình lý là sửa sang, sắp xếp, đổi mới đưa hệ thống vào thế phát triển [4].
Tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc: “Hoạt động QL là tác
động có định hướng, có chủ đích của chủ thể QL đến khách thể QL trong một
tổ chức, nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được MT của tổ chức” [27].
Các quan niệm trên đều khẳng định đến chủ thể, đối tượng, nội dung,
phương thức và mục đích của quá trình QL: Phải có chủ thể QL là tác nhân
tạo ra các tác động và đối tượng bị QL tiếp nhận sự tác động của chủ thể QL.
Giữa chủ thể và khách thể QL có mối quan hệ tác động qua lại hỗ trợ lẫn nhau,
có MT và một quỹ đạo đặt ra cho chủ thể và đối tượng QL.
Có thể khái quát lại: “QL là hoạt động có ý thức của con người nhằm
định hướng, tổ chức, sử dụng các nguồn lực và phối hợp hoạt động của một
nhóm người hay một cộng đồng người để đạt được MT đề ra một cách có
hiệu quả nhất” [22, tr.328].
18