Tải bản đầy đủ (.doc) (128 trang)

Một số giải pháp phát triển đội ngũ cán bộ quản lý nữ trường trung học phổ thông tỉnh quảng bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (525.99 KB, 128 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
ĐỖ THỊ QUẾ
MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ CÁN
BỘ QUẢN LÝ NỮ TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ
THÔNG TỈNH QUẢNG BÌNH
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ GIÁO DỤC
MÃ SỐ: 60 14 01 14
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. THÁI VĂN THÀNH
NGHỆ AN, NĂM 2014
i
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập và triển khai nghiên cứu đề tài “Một số giải
pháp phát triển đội ngũ cán bộ quản lý nữ trường trung học phổ thông tỉnh
Quảng Bình” tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ, chỉ bảo nhiệt tình của
các thầy giáo, cô giáo, các cấp lãnh đạo, đồng chí, đồng nghiệp, bạn bè
Với tình cảm chân thành nhất, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến toàn thể
các thầy giáo, cô giáo đã nhiệt tình giảng dạy, trang bị cho tôi những kiến
thức rất quý báu về lý luận và thực tiễn trong quản lý giáo dục, những
phương pháp nghiên cứu khoa học.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu, Khoa Giáo dục, Phòng Sau
đại học Trường Đại học Vinh; Ban Tổ chức Tỉnh ủy, UBND tỉnh, Sở Nội vụ,
Cục Thống kê, Sở Giáo dục và Đào tạo, các trường THPT tỉnh Quảng Bình
đã giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi trong thời gian học tập và nghiên cứu để
hoàn thành Luận văn.
Đặc biệt tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS Thái Văn
Thành, người đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn tôi trong suốt quá trình nghiên
cứu, xây dựng và hoàn thiện Luận văn.
Tôi cũng xin chân thành cám ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã động
viên, giúp đỡ tôi rất nhiều trong quá trình học tập và làm Luận văn.


Mặc dù đã rất cố gắng, song Luận văn không thể tránh khỏi những
khiếm khuyết. Tôi rất mong nhận được sự chỉ dẫn và góp ý của các thầy giáo,
cô giáo, của bạn bè, đồng nghiệp và của các quý vị quan tâm.
Tôi xin trân trọng cám ơn!
Tác giả Luận văn
Đỗ Thị Quế
ii
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
c. Trình độ lý luận chính trị 48
iii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
iv
STT CHỮ VIẾT TẮT CHỮ VIẾT ĐẦY ĐỦ
1. CB,CC Cán bộ, công chức
2. CBGVNV Cán bộ, giáo viên, nhân viên
3. CBQL Cán bộ quản lý
4. CNH - HĐH Công nghiệp hóa - hiện đại hóa
5. CSVC Cơ sở vật chất
6. ĐHSP Đại học sư phạm
7. GD&ĐT Giáo dục và đào tạo
8. HT Hiệu trưởng
9. PHT Phó Hiệu trưởng
10. GS.VS Giáo sư. Viện sỹ
11. PGS.TS Phó Giáo sự. Tiến sỹ
12. KT - XH Kinh tế - xã hội
13. NXB Nhà xuất bản
14. QL Quản lý
15. QLGD Quản lý giáo dục
16. QLNN Quản lý nhà nước

17. Th.s Thạc sỹ
v
18. THCS Trung học cơ sở
19. THPT Trung học phổ thông
20. TT GDTX Trung tâm Giáo dục thường xuyên
21. TT KTTHHN Trung tâm Kỹ thuật tổng hợp Hướng nghiệp
22. TW Trung ương
23. UBND Ủy ban nhân dân
24. XHCN Xã hội chủ nghĩa
25. XHH Xã hội hóa
vi
DANH MỤC BẢNG, BIỂU, SƠ ĐỒ
Sơ đồ 1: Mô hình về quản lý 13
Sơ đồ 2: Mối liên hệ các chức năng quản lý 16
Bảng 2.1: Các đơn vị hành chính tỉnh Quảng Bình 39
Bảng 2.2: Số liệu cán bộ quản lý, công chức, viên chức, lao động khối THPT
43
Bảng 2.4: Thống kê thâm niên quản lý của CBQL nữ trường THPT tỉnh
Quảng Bình 45
Bảng 2.5: Thống kê trình độ chuyên môn của CBQL nữ trường THPT tỉnh
Quảng Bình 47
Bảng 2.6: Thống kê trình độ quản lý của CBQL nữ trường THPT tỉnh Quảng
Bình 47
Bảng 2.7: Thống kê trình độ chuyên môn của CBQL nữ trường THPT tỉnh
Quảng Bình 48
Bảng 3.1: Đánh giá sự cần thiết của các giải pháp đề xuất 107
Bảng 3.2: Đánh giá tính khả thi của các giải pháp đề xuất 107
vii
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Nước ta đang bước vào thời kỳ chiến lược mới trong bối cảnh cả thế
giới đang thay đổi rất nhanh. Hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn.
Toàn cầu hoá và cách mạng khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ, thúc
đẩy quá trình hình thành xã hội thông tin và kinh tế tri thức. Sự phát triển kinh
tế - xã hội trong bối cảnh đó đặt ra những yêu cầu mới đối với người lao
động, do đó cũng đặt ra những yêu cầu mới cho sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ
và đào tạo nguồn nhân lực. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI tiếp tục khẳng
định: “Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn
nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây
dựng nền văn hoá và con người Việt Nam. Phát triển giáo dục và đào tạo cùng
với phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo
dục và đào tạo là đầu tư cho phát triển” [28,tr77].
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 đã nêu “Phát triển
giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện nền
giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ
hóa và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển
đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt” [28,tr,130,131].
Chiến lược phát triển giáo dục 2011 - 2020 đã được phê duyệt nêu rõ:
Để đạt được mục tiêu chiến lược, cần thực hiện tốt 8 giải pháp, trong đó giải
pháp 1 “Đổi mới quản lý giáo dục” là giải pháp đột phá và giải pháp 2 “Phát
triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục” là giải pháp then chốt
[46]. Chính vì vậy, công tác xây dựng, phát triển đội ngũ giáo viên và CBQL
giáo dục là hết sức quan trọng, có ý nghĩa chiến lược to lớn, vì đây là lực
lượng đóng vai trò quyết định cho sự phát triển của nền giáo dục quốc dân.
1
Ngành Giáo dục và Đào tạo là một trong những ngành nghề (cùng với
ngành y tế, cao su, dệt may, ngân hàng ) có số lượng CBGVNV nữ cao,
chiếm tỉ lệ 73,6% [24]; ngành GD&ĐT Quảng Bình có tỉ lệ nữ chiếm hơn
76%, các trường THPT tỉnh Quảng Bình có tỉ lệ nữ chiếm 59,7% [44].
Phải khẳng định rằng, với số lượng đông đảo như vậy, CBGVNV nữ

ngành GD&ĐT có nhiều đóng góp công sức, trí tuệ cho việc giáo dục thế hệ trẻ,
nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, cũng như có nhiều đóng
góp quan trọng vào thành tựu KT – XH của quê hương, đất nước. Và vai trò, vị
trí của CBGVNV nữ ngày càng được nâng cao trong gia đình và trong xã hội.
Tuy nhiên, trước những yêu cầu của sự nghiệp phát triển giáo dục trong
thời kỳ CNH - HĐH đất nước, đội ngũ nhà giáo và CBQL giáo dục nói chung,
CBQL nữ nói riêng còn bộc lộ những hạn chế, bất cập. Số lượng giáo viên
còn thiếu nhiều, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Đội ngũ CBQL nữ còn thiếu so với nhu cầu, số lượng CBQL nữ có trình độ
chuyên môn trên chuẩn, được bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ quản lý,
bồi dưỡng về lý luận chính trị từ trung cấp còn ít. Tính chuyên nghiệp của đội
ngũ CBQL nữ chưa cao, trình độ và năng lực điều hành quản lý còn bất cập,
đặc biệt trong tham mưu, chỉ đạo và tổ chức thực hiện v.v.
Trong suốt quá trình cách mạng, Đảng ta luôn quan tâm lãnh đạo công
tác phụ nữ và thực hiện mục tiêu bình đẳng giới, cũng như công tác cán bộ
nữ. Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 27/4/2007 của Bộ Chính trị về công tác
phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã khẳng
định: “Xây dựng, phát triển vững chắc đội ngũ cán bộ nữ tương xứng với vai
trò to lớn của phụ nữ là yêu cầu khách quan, là nội dung quan trọng trong
chiến lược công tác cán bộ của Đảng. Xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học nữ
có trình độ cao, cán bộ lãnh đạo, quản lý nữ đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Kết luận số 55-KL/TW ngày
18/01/2013 của Ban Bí thư về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 11-
2
NQ/TW ngày 27/4/2007 của Bộ Chính trị về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước yêu cầu: “Ban Tổ chức Trung
ương hướng dẫn thực hiện công tác cán bộ nữ để các cấp ủy đảng, ban, ngành,
đoàn thể, địa phương xây dựng quy hoạch cán bộ nữ. Phấn đấu đến năm 2020,
cán bộ nữ tham gia cấp ủy đảng các cấp đạt từ 25% trở lên; nữ đại biểu Quốc
hội và hội đồng nhân dân các cấp từ 35% đến 40%. Các cơ quan, đơn vị có tỉ

lệ nữ từ 30%, nhất thiết có cán bộ lãnh đạo chủ chốt là nữ. Cơ quan lãnh đạo
cấp cao của Đảng, Quốc hội, Nhà nước, Chính phủ có tỉ lệ nữ phù hợp với
mục tiêu bình đẳng giới”.
Thực tiễn công tác quản lý giáo dục trong những năm qua cho thấy, đội
ngũ CBQL nữ của các trường THPT tỉnh Quảng Bình còn nhiều bất cập: chưa
đảm bảo về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, trình độ đào tạo sau đại học còn rất
thấp, năng lực chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ hiện tại và tương lai, vấn đề
dự báo nhu cầu CBQL nữ và quy hoạch đội ngũ CBQL nữ chưa được quan
tâm đúng mức; Nghị quyết 11 của Bộ Chính trị đã chỉ ra “Phụ nữ tham gia
lãnh đạo, quản lý có tỷ lệ thấp, chưa tương xứng với năng lực và sự phát triển
của lực lượng lao động nữ, nguồn cán bộ nữ hẫng hụt, ở một số lĩnh vực, tỷ lệ
cán bộ nữ sụt giảm” [10] Với mong muốn đóng góp thiết thực vào sự
nghiệp phát triển giáo dục nói chung và của tỉnh nhà nói riêng, nhằm phát huy
vai trò, tiềm năng, trí tuệ của CBGVNV nữ ngành GD&ĐT trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thực hiện sứ mệnh đổi mới căn
bản và toàn diện giáo dục Việt Nam tôi mạnh dạn chọn nghiên cứu đề tài
“Một số giải pháp phát triển đội ngũ cán bộ quản lý nữ trường trung học
phổ thông tỉnh Quảng Bình” nhằm góp phần vào việc thực hiện thành công
của chiến lược phát triển giáo dục tỉnh nhà.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất một số giải pháp phát triển đội ngũ CBQL nữ trường THPT
tỉnh Quảng Bình, nhằm nâng cao chất lượng giáo dục THPT của tỉnh.
3
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Khách thể phát triển đội ngũ CBQL nữ các trường THPT.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Giải pháp phát triển đội ngũ CBQL nữ trường THPT tỉnh Quảng Bình.
4. Giả thuyết khoa học
Nếu đề xuất được các giải pháp có tính khoa học, khả thi thì sẽ phát

triển được đội ngũ cán bộ quản lý nữ trường THPT tỉnh Quảng Bình.
5. Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
5.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận của vấn đề phát triển đội ngũ cán bộ
quản lý nữ trường trung học phổ thông
5.1.2. Nghiên cứu cơ sở thực tiễn của vấn đề phát triển đội ngũ cán bộ
quản lý nữ trường trung học phổ thông tỉnh Quảng Bình
5.1.3. Đề xuất một số giải pháp phát triển đội ngũ cán bộ quản lý nữ
trường trung học phổ thông tỉnh Quảng Bình
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ nghiên cứu thực trạng công tác phát triển đội ngũ CBQL nữ
(hiệu trưởng và phó hiệu trưởng) các trường THPT tỉnh Quảng Bình; tình
hình phát triển đội ngũ CBQL nữ các trường THPT và bước đầu đề xuất các
giải pháp quản lý việc phát triển đội ngũ này.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Nghiên cứu, phân tích, tổng hợp những tài liệu lý luận, các công trình
nghiên cứu về những nội dung có liên quan đến đề tài, các văn bản, nghị
quyết, nghị định, chỉ thị, thông tư
4
6.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
6.2.1. Phương pháp nghiên cứu bằng phiếu điều tra
Phiếu điều tra được xây dựng trên cơ sở lý luận, mục đích, nhiệm vụ
nghiên cứu và tham khảo những đề tài liên quan đã có trước đây.
Phiếu điều tra gồm có ba loại:
- Phiếu điều tra dành cho CBQL các trường THPT
- Phiếu điều tra dành cho CBQL giáo dục Sở GD&ĐT, một số phòng
ban, cơ quan ban ngành liên quan cấp tỉnh
- Phiếu điều tra dành cho giáo viên các trường THPT
6.2.2. Phương pháp chuyên gia

Tham khảo ý kiến của các chuyên gia, các nhà giáo, CBQL giáo dục
lâu năm, nhiều kinh nghiệm.
6.3. Phương pháp toán thống kê
Xử lý kết quả điều tra khảo sát nhằm đánh giá thực trạng và định hướng
phát triển đội ngũ CBQL nữ các trường THPT tỉnh Quảng Bình.
7. Đóng góp của luận văn
Luận văn làm sáng tỏ thêm một số khái niệm về quản lý, quản lý giáo
dục, người cán bộ quản lý giáo dục, yêu cầu phẩm chất năng lực của người
cán bộ quản lý.
- Chỉ ra được thực trạng của đội ngũ CBQL nữ các trường THPT đóng
trên địa bàn tỉnh Quảng Bình
- Đề xuất các giải pháp phát triển đội ngũ CBQL nữ các trường THPT
đóng trên địa bàn tỉnh Quảng Bình
- Giúp cho cán bộ QLGD nữ làm việc khoa học hơn, năng động, sáng
tạo trong công tác, phân công trách nhiệm rõ ràng, ý thức trách nhiệm cao
trong công tác
5
- Công tác chỉ đạo điều hành được nâng lên, cơ chế phối hợp trong
công tác giữa các đơn vị đạt hiệu quả hơn
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận của vấn đề phát triển đội ngũ cán bộ quản lý
nữ trường trung học phổ thông
Chương 2. Thực trạng phát triển đội ngũ cán bộ quản lý nữ trường
trung học phổ thông tỉnh Quảng Bình
Chương 3. Một số giải pháp phát triển đội ngũ cán bộ quản lý nữ
trường trung học phổ thông tỉnh Quảng Bình
6
CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ
CÁN BỘ QUẢN LÝ NỮ TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Các nghiên cứu ở nước ngoài
Các tư tưởng quản lý sơ khai xuất phát từ các tư tưởng triết học cổ Hy
Lạp và cổ Trung Hoa. Sự đóng góp của các nhà triết học cổ Hy Lạp về quản lý
tuy còn ít ỏi nhưng đáng ghi nhận: Điển hình là tư tưởng của Xô - rát (469 - 399
Tr.CN), Arixtốt (384 - 322Tr.CN). Thời Trung Hoa cổ đại đã công nhận các
chức năng quản lý, đó là các chức năng: Kế hoạch hóa, tổ chức, tác động, kiểm
tra. Đặc biệt, các nhà tư tưởng và chính trị lớn là Khổng Tử (551- 478 Tr.CN),
Mạnh Tử (372 - 289 Tr.CN), Thương Ưởng (390 - 338 Tr.CN) đã nêu lên tư
tưởng quản lý "Đức trị, Lễ trị" lấy chữ Tín làm đầu. Những tư tưởng quản lý trên
vẫn có ảnh hưởng khá sâu sắc đến các nước phương Đông ngày nay.
Giai đoạn cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX là giai đoạn mang tư tưởng
quản lý Chủ nghĩa Tư bản. Do yêu cầu phát triển sản xuất đại công nghiệp,
dưới tác động của cuộc cách mạng kỹ thuật, nhu cầu quản lý không ngừng
tăng ở cả phạm vi vi mô lẫn vĩ mô. Khoa học quản lý từng bước tách ra khỏi
triết học và trở thành một bộ môn khoa học độc lập, có sự tham gia đóng góp
của nhiều trường phái: Thuyết Quản lý khoa học, Thuyết Hành chính, Trường
phái Tác phong (trường phái quan hệ giữa con người với con người trong
quản lý: Thuyết Tổ chức trong quản lý, Thuyết Hành vi).
Các nhà kinh điển của Chủ nghĩa Mác - Lê nin tuy không để lại những tác
phẩm chuyên nghiên cứu về quản lý, nhưng qua các tác phẩm về kinh tế và chính
trị - xã hội của các ông, chúng ta có thể rút ra những tư tưởng về quản lý. Trong
Bộ Tư bản, Chủ nghĩa Mác đã coi vai trò của nhà quản lý giống như vai trò của
7
nhạc trưởng trong dàn nhạc. Ông viết: “Một người độc tấu vĩ cầm tự mình điều
khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng" [17, tr.480].
Trong cuốn “Vấn đề quản lý và lãnh đạo nhà trường” V.A
Xukhomlinxki đã nêu rất cụ thể cách tiến hành phân tích và khảo sát giúp đội

ngũ CBQL nhằm thực hiện tốt và có hiệu quả giải pháp nâng cao chất lượng
đội ngũ CBQL. Do đó yêu cầu về đào tạo, cơ cấu và phát triển đội ngũ CBQL
để thích ứng với sự thay đổi trở thành áp lực thường xuyên của giáo dục.
Ngoài ra, đứng ở góc độ nghiên cứu lý luận giáo dục học, hầu hết các
công trình nghiên cứu của các tác giả Liên Xô (cũ) đã đề cập tới lực lượng
giáo dục; trong đó có nêu lên vai trò, vị trí, chức năng của CBQL nhà trường.
Đó là các công trình tiêu biểu như: Ilina. T.A. với tác phẩm Giáo dục học (tại
tập 3: Những cơ sở của công tác giáo dục; Savin N. V với tác phẩm Giáo dục
học. Năm 1991, tổ chức UNESCO đã cho xuất bản cuốn La Gestion
administrative et Pédagogique des écoles (Quản lý hành chính và sư phạm
trong các nhà trường tiểu học) của Jean Valérien. Thông qua việc giới thiệu
một số modul về vai trò, chức năng và nhiệm vụ của người hiệu trưởng
trường tiểu học; tác giả đã bày tỏ quan điểm về vai trò, trách nhiệm và yêu
cầu chất lượng của người hiệu trưởng trường tiểu học.
Theo nghiên cứu của tác giả Jquelyn A mattfesd (2008), “Woman in
Higher Education” [56] thì hệ thống giáo dục đại học ở Mỹ có xu hướng tư
nhân hóa và phân quyền. Nghiên cứu cho biết, vào những năm 1970 ở Mỹ
phụ nữ gần như ít bị đặt vào guồng máy của Văn phòng Hiệu trưởng Đại học,
ngoại trừ các trường nữ sinh Công giáo do các nữ tu sỹ điều hành. Chỉ có 10
trường Đại học đào tạo hệ 4 năm có hiệu trưởng là nữ và 5 trường Đại học
trong số này là trường của nữ sinh. Trong lĩnh vực nghiên cứu, phụ nữ đã có
những bước tiến dài, song việc thiết lập nghiên cứu vẫn chủ yếu do nam giới
đảm nhiệm. Công trình cũng đã đưa ra số liệu về số lượng phụ nữ là giám đốc
điều hành (Hiệu trưởng) trong các trường Đại học và Cao đẳng ở Mỹ đã tăng
8
lên nhanh chóng. Năm 1975 có 148 người, đến giữa năm 1992 có 348 người
và lên tới 500 người vào năm 2005. Số lượng Hiệu trưởng nữ tăng nhiều nhất
trong khoảng từ năm 1975 - 1992. Tuy nhiên, các trường do nữ làm Hiệu
trưởng hầu hết là các trường ít danh tiếng hoặc khó khăn về tài chính.
Trong các điều kiện cơ bản để phát triển giáo dục: (Môi trường kinh tế

giáo dục; chính sách và công cụ thể chế hóa giáo dục; cơ sở vật chất kỹ thuật
và tài chính giáo dục; đội ngũ CBQL), thì các nghiên cứu của nhiều nước trên
thế giới đều khẳng định CBQL là điều kiện cơ bản, quyết định sự phát triển
của giáo dục. Thực tế nhiều nước đi vào cải cách giáo dục, phát triển giáo dục
thường bắt đầu bằng phát triển đội ngũ CBQL.
1.1.2. Các nghiên cứu trong nước
Ở Việt Nam, khoa học Quản lý tuy còn non trẻ, song nó đã có những
thành tựu đáng kể, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý xã hội trong những
điều kiện cụ thể, tương ứng với tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về lý luận và thực tiễn, đề ra những
giải pháp quản lý trong lĩnh vực quản lý và phát triển giáo dục - đào tạo Việt
Nam. Có thể kể đến một số tác giả và công trình nghiên cứu như: tác giả Vũ
Dũng, tác giả Phùng Đình Mẫn nghiên cứu "Tâm lý học quản lý" đã đề cập
đến khái niệm quản lý và lãnh đạo, bản chất của quản lý và nghiên cứu sâu
sắc đến quyền lực trong lãnh đạo, phong cách và uy tín của người lãnh đạo.
Tác giả Nguyễn Ngọc Quang với nghiên cứu: "Những khái niệm cơ bản về lý
luận quản lý giáo dục" đã đề cập đến những khái niệm cơ bản của quản lý,
quản lý giáo dục, các đối tượng của khoa học quản lý giáo dục; tác giả Đặng
Bá Lãm, tác giả Phạm Thành Nghị: "Chính sách và kế hoạch phát triển trong
quản lý giáo dục" đã phân tích về lý thuyết và mô hình chính sách, các
phương pháp lập kế hoạch giáo dục; tác giả Vũ Ngọc Hải, tác giả Trần Khánh
Đức: "Hệ thống giáo dục hiện đại trong những năm đầu thế kỷ XXI", tác giả
Đặng Quốc Bảo: "Những vấn đề cơ bản về quản lý giáo dục" đã trình bày
9
những quan điểm, mục tiêu, giải pháp phát triển giáo dục và hệ thống giáo
dục, làm rõ tư tưởng quản lý, GS. VS. Phạm Minh Hạc trong “Giáo dục Việt
Nam trước ngưỡng cửa của thế kỷ XXI” đã khẳng định: Đội ngũ giáo viên là
một yếu tố quyết định sự phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo và đã đưa ra
những chuẩn quy định đào tạo giáo viên [29].
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Mọi công dân đều bình đẳng trước

pháp luật. Đàn bà có quyền bình đẳng với đàn ông về các mặt chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội và gia đình”. Tháng 10/1946 bản Hiến pháp đầu tiên của
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa chính thức được ban hành, quyền bình đẳng
giữa nam và nữ được công nhận. Hồ Chí Minh nói: “Bản Hiến pháp đó tuyên
bố với thế giới: dân tộc Việt Nam đã có đủ mọi quyền tự do. Hiến pháp đó
tuyên bố với thế giới phụ nữ Việt Nam đã đứng ngang hàng với đàn ông để
hưởng mọi quyền công dân”. Di chúc của Bác ghi rõ: “Trong sự nghiệp chống
Mỹ cứu nước, phụ nữ ta đảm đang đã góp phần xứng đáng trong chiến đấu và
trong sản xuất. Đảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi
dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công
việc kể cả công việc lãnh đạo. Bản thân phụ nữ thì phải cố gắng vươn lên. Đó
là một cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ” [38].
Cuốn sách “Phụ nữ tham gia lãnh đạo quản lý” [32] do Trần Thị Tuy
Hòa làm chủ biên (1997), là công trình khoa học nghiên cứu cơ sở lý luận về
vị trí, vai trò của phụ nữ nước ta đang tham gia quản lý. Đề tài đã chứng minh
rằng, cho dù ở bất cứ cương vị nào và làm công việc gì thì người phụ nữ luôn
tỏ rõ vai trò và năng lực của giới nữ, đặc biệt là vai trò của phụ nữ tham gia
lãnh đạo và ra quyết định quản lý.
Tác giả Võ Thị Mai (2003) trong cuốn sách “Vai trò của nữ cán bộ
quản lý nhà nước trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa” [37] đã góp
phần làm rõ thực trạng và xu hướng biến đổi vai trò nữ CBQL nhà nước trong
10
quá trình CNH - HĐH, đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao vai
trò, vị thế của phụ nữ tham gia công tác quản lý nhà nước.
Trong lĩnh vực GD&ĐT, đề tài về quản lý giáo dục nói chung, xây dựng,
phát triển đội ngũ CBQL nói riêng được đặc biệt quan tâm. Đã có một số luận
văn thạc sỹ quản lý giáo dục nghiên cứu, đề xuất các biện pháp nâng cao chất
lượng đội ngũ CBQL trường THPT, xây dựng đội ngũ CBQL trường THPT
nói chung và các biện pháp nâng cao chất lượng đội ngũ CBQL nữ trường
THPT, xây dựng đội ngũ CBQL nữ trường THPT Ở tỉnh Quảng Bình chưa

có đề tài nghiên cứu khoa học nào đề cập đến vấn đề phát triển đội ngũ CBQL
nữ trường THPT một cách toàn diện. Vì vậy, việc nghiên cứu giải pháp phát
triển đội ngũ CBQL nữ trường THPT tỉnh Quảng Bình là rất cần thiết.
1.2. Các khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1. Quản lý
1.2.1.1. Khái niệm
Quản lý được CacMarx coi là chức năng đặc biệt sinh ra từ tính chất xã
hội hóa (XHH) lao động: “Bất kỳ một lao động xã hội hay một công việc nào
được tiến hành trên quy mô tương đối lớn cũng đều có sự quản lý, nó xác định
được mối quan hệ hài hòa giữa các công việc riêng lẽ và thực hiện những chức
năng chung nhất, xuất phát từ sự vận động của toàn bộ cơ cấu sản xuất" [17].
Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedi, quản lý (management) là quá
trình điều khiển và hướng dẫn tất cả các bộ phận của một tổ chức, thông qua
việc thành lập và thay đổi các nguồn tài nguyên (nhân lực, tài chính, vật tư), tri
thức và giá trị vô hình. Theo tác giả Vũ Dũng, Phùng Đình Mẫn: “Quản lý là
sự tác động có định hướng, có mục đích, có kế hoạch và có hệ thống thông tin
của chủ thể đến khách thể của nó” [25,tr.43].
11
Theo F.W.Taylor cho rằng: “Quản lý là phải biết chính xác điều muốn
người khác làm và sau đó thấy rằng họ đã hoàn thành công việc một cách tốt
nhất và rẻ nhất” [18].
H.Koonz thì khẳng định: “Quản lý là một hoạt động thiết yếu, nó đảm
bảo phối hợp những nỗ lực hoạt động cá nhân nhằm đạt được mục đích của
nhóm (tổ chức). Mục tiêu của quản lý là hình thành một môi trường mà trong
đó con người có thể đạt được các mục đích của nhóm với thời gian, tiền bạc,
vật chất và sự bất mãn cá nhân ít nhất. Quản lý là một trong những loại hình
quan trọng nhất trong các hoạt động con người. Quản lý đúng tức là con người
đã nhận thức được quy luật, vận động theo quy luật và sẽ đạt được những thành
công to lớn” [18].
Trong cuốn Lý luận quản lý nhà nước của Mai Hữu Khuê, xuất bản năm

2003 có định nghĩa về quản lý như sau: “Quản lý là một phạm trù có liên quan
mật thiết với hợp tác và phân công lao động, nó là một thuộc tính tự nhiên của
mọi lao động hợp tác. Từ khi xuất hiện những hoạt động quần thể của loài
người thì đã xuất hiện sự quản lý. Sự quản lý đã có trong xã hội nguyên thuỷ, ở
đó con người phải tập hợp với nhau để đấu tranh với thế giới tự nhiên, muốn
sinh tồn con người phải tổ chức sản xuất, tổ chức phân phối” [31].
Những khái niệm trên tuy có khác nhau về cách tiếp cận và cách diễn
đạt nhưng đều có chung một số dấu hiệu cơ bản. Xét quản lý với tư cách là
một hành động, có thể định nghĩa: Quản lý là sự tác động có tổ chức, có
hướng đích của chủ thể quản lý lên đối tượng và khách thể quản lý nhằm sử
dụng có hiệu quả nhất các tiềm năng, các cơ hội của tổ chức để đạt được mục
tiêu đặt ra trong điều kiện biến động của môi trường.
1.2.1.2. Bản chất của hoạt động quản lý
Theo tác giả Vũ Dũng, Phùng Đình Mẫn: "Quản lý là những tác động
có phương hướng, có mục đích rõ ràng của chủ thể quản lý; quản lý là hoạt
động trí tuệ mang tính sáng tạo cao. Quản lý là một khoa học và là một nghệ
12
thuật" [25]. Hoạt động quản lý bao giờ cũng có chủ thể quản lý và khách thể
quản lý. Từ những đặc điểm nêu trên, có thể khẳng định:
Bản chất của hoạt động quản lý là cách thức tác động hợp quy luật của
chủ thể quản lý đến khách thể quản lý trong một tổ chức nhằm làm cho tổ
chức vận hành đạt hiệu quả mong muốn và đạt mục tiêu đề ra.
Vì vậy nhiệm vụ của quản lý là biến đổi mối quan hệ trên thành những
yếu tố tích cực, hạn chế xung đột và tạo nên môi trường thuận lợi để hướng
tới mục tiêu. Đó là “bí quyết” của người quản lý, bí quyết sắp xếp các nguồn
lực của tổ chức, là sự sáng tạo khi phải đối phó với những tình huống khác
nhau trong hoạt động của tổ chức, điều này cho ta thấy quản lý là một nghệ
thuật. Các “bí quyết” của người quản lý được đúc kết kinh nghiệm thực tế.
Những kinh nghiệm thực tế được khái quát hoá thành những nguyên tắc,
phương pháp, kỹ năng quản lý cần thiết, đó chính là khoa học - khoa học quản

lý. Do đó ta có thể nói rằng: Quản lý vừa là khoa học vừa là nghệ thuật, hoạt
động quản lý được mô tả qua sơ đồ sau:
Sơ đồ 1: Mô hình về quản lý

M: Mục tiêu; N: Nội dung; P: Phương pháp.
Trong sơ đồ 1 đã thể hiện các yếu tố của quản lý: “Ai quản lý?” đó là
chủ thể quản lý. Chủ thể QL chỉ có thể là người hoặc tổ chức do con người cụ
thể lập nên. Khách thể QL: Là đối tượng quản lý. Đối tượng quản lý có thể là
người (quản lý ai), vật (quản lý cái gì), hay sự việc (quản lý sự việc nào). Cũng
có khi khách thể là tập thể nhiều người tổ chức được con người đại diện trở
Chủ thể
quản lý
M
N
P
Khách
thể quản

13
thành chủ thể quản lý cấp dưới thấp hơn. Giữa chủ thể quản lý và khách thể
quản lý có mối quan hệ tác động qua lại tương hỗ nhau. Chủ thể làm nảy sinh
các tác động QL, khách thể thì nảy sinh các giá trị vật chất và tinh thần có giá
trị sử dụng, trực tiếp đáp ứng nhu cầu của con người, thoả mãn mục đích của
chủ thể quản lý. Hoạt động QL thực hiện được thông qua cơ chế QL. Cơ chế
quản lý là phương thức nhờ nó mà hoạt động quản lý được thực hiện và tác
động qua lại giữa chủ thể quản lý và khách thể quản lý. Bằng những phương
pháp riêng của mỗi người mà chủ thể quản lý tác động đến khách thể quản lý
những nội dung cần thiết để đối tượng quản lý thực hiện, vận hành đạt được
mục tiêu của tổ chức đề ra. Chức năng QL là hình thức biểu hiện sự tác động
có chủ đích của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý. Đó là tập hợp những

nhiệm vụ khác nhau mà chủ thể quản lý phải tiến hành trong quá trình quản lý.
Thực chất của các chức năng quản lý chính là do sự tồn tại các hoạt động QL.
1.2.1.3. Các chức năng quản lý
Là một dạng quản lý đặc biệt, thông qua đó chủ thể quản lý tác động
đến khách thể quản lý nhằm thực hiện một mục tiêu nhất định. Chức năng
quản lý gắn liền với sự phân công và hợp tác lao động trong quá trình lao
động. Hoạt động quản lý thường diễn ra theo một chu kỳ, gọi là chu kỳ quản
lý. Quản lý có 4 chức năng chủ yếu, cơ bản có liên quan mật thiết với nhau:
Kế hoạch hóa, tổ chức, lãnh đạo - chỉ đạo và kiểm tra. Cụ thể như sau:
- Kế hoạch hóa:
Là xác định mục tiêu, mục đích đối với những thành tựu trong tương lai
của tổ chức; xác định các con đường, biện pháp, cách thức để đạt được mục
tiêu, mục đích đó. Có 3 nội dung chủ yếu của chức năng kế hoạch hóa:
a/ Xác định hình thành mục tiêu đối với tổ chức;
b/ Xác định và đảm bảo về các nguồn lực của tổ chức để đạt được các
mục tiêu này;
14
c/ Quyết định xem những hoạt động nào là cần thiết để đạt các mục
tiêu;
- Tổ chức:
Khi nhà quản lý đã lập xong kế hoạch, họ cần chuyển hóa những ý tưởng
đó thành hiện thực. Một tổ chức lành mạnh sẽ có ý nghĩa quyết định đối với sự
chuyển hóa như thế. Xét về chức năng quản lý, tổ chức là quá trình hình thành
nên những cấu trúc các quan hệ giữa các thành viên, giữa các bộ phận trong
cùng một tổ chức để họ thực hiện thành công các kế hoạch để đạt được mục
tiêu tổng thể của tổ chức. Nhờ công tác tổ chức tốt, người quản lý có thể phối
hợp, điều phối tốt hơn các nguồn lực và nhân lực. Thành tựu của một tổ chức
phụ thuộc rất nhiều vào năng lực của người quản lý sử dụng các nguồn lực
trong tổ chức.
- Lãnh đạo (chỉ đạo):

Sau khi kế hoạch đã được lập, cơ cấu bộ máy đã được hình thành, nhân sự
đã được chuẩn bị thì phải có người lãnh đạo, đứng ra dẫn dắt tổ chức. Một số
nhà nghiên cứu cho đó là quá trình chỉ huy hay tác động. Cho dù có gọi tên như
thế nào thì lãnh đạo luôn bao hàm việc liên kết, liên hệ với người khác và động
viên họ hoàn thành những nhiệm vụ nhất định để đạt được mục tiêu của tổ chức.
Song việc lãnh đạo không chỉ bắt đầu sau khi đã hoàn thành kế hoạch và thiết kế
bộ máy mà nó thấm vào, ảnh hưởng quyết định đến hai chức năng kia.
- Kiểm tra:
Kiểm tra là một chức năng của quản lý, thông qua đó, một nhóm, một
cá nhân hoặc một tổ chức theo dõi, giám sát các thành quả hoạt động và tiến
hành những hoạt động khắc phục, điều chỉnh nếu cần thiết. Kết quả của một
quá trình hoạt động phải phù hợp với những chi phí bỏ ra, nếu không tương
xứng thì phải hoạt động điều chỉnh, uốn nắn. Đó là quá trình tự điều chỉnh,
diễn ra có tính chất chu kỳ như sau:
15
+ Nhà quản lý đặt ra những chuẩn mực thành đạt của tổ chức;
+ Nhà quản lý đối chiếu, đo lường kết quả, sự thành công so với những
chuẩn mực đã đặt ra;
+ Nhà quản lý tiến hành điều chỉnh những sai lệch;
+ Nhà quản lý hiệu chính, sửa lại những chuẩn mực nếu thấy cần thiết.
Mối liên hệ giữa các chức năng quản lý được thể hiện qua sơ đồ sau:
Sơ đồ 2: Mối liên hệ các chức năng quản lý
(Nguồn: Tập bài giảng cao học quản lý giáo dục, ĐHQG Hà Nội, 2007)
1.2.2. Quản lý giáo dục
1.2.2.1. Khái niệm
Có nhiều cách tiếp cận khác nhau trong việc đưa ra khái niệm quản lý
giáo dục. Trên cơ sở khái niệm “quản lý“ một số nhà nghiên cứu về giáo dục
đã đưa ra khái niệm về quản lý giáo dục, điển hình như:
Học giả nổi tiếng Kônđacốp M.I cho rằng: “Quản lý giáo dục là một tập
hợp những biện pháp tổ chức, cán bộ, kế hoạch hóa, tài chính, cung tiêu

nhằm đảm bảo vận hành bình thường của các cơ quan trong hệ thống giáo
dục, để tiếp tục phát triển và mở rộng hệ thống cả về mặt số lượng lẫn chất
lượng" [35].
Kế hoạch
Kiểm tra
đánh giá
Chỉ đạo
Tổ chức
Thông tin
16
Giáo trình giáo dục học của tác giả Phạm Viết Vượng cho rằng: “Mục
đích cuối cùng của quản lý giáo dục là tổ chức quá trình giáo dục có hiệu quả
để đào tạo lớp thanh niên thông minh, sáng tạo, năng động, tự chủ, biết sống
và phấn đấu vì hạnh phúc của nhân dân và xã hội" [54].
Tóm lại, khái niệm quản lý giáo dục có thể hiểu một cách chung nhất,
đó là hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của
chủ thể quản lý nhằm tổ chức, điều khiển hoạt động của khách thể quản lý
thực hiện mục tiêu giáo dục đề ra.
1.2.2.2. Bản chất quản lý giáo dục
- Quản lý giáo dục là quá trình diễn ra những tác động quản lý. Quá
trình này diễn ra khi đủ các điều kiện: có chủ thể quản lý và đối tượng quản
lý; có thông tin hai chiều giữa chủ thể quản lý và đối tượng quản lý, đây được
xem huyết mạch làm nên sự vận hành của quá trình quản lý. Điều cần thiết là
thông tin phải đảm bảo tính chính xác, kịp thời và xử lý thông tin có hiệu quả;
chủ thể quản lý và các đối tượng quản lý có khả năng thích nghi. Đối tượng bị
quản lý thích nghi với chủ thể quản lý và chủ thể quản lý có khả năng thích
nghi với đối tượng bị quản lý.
- Quản lý giáo dục nằm trong phạm trù quản lý xã hội, có đặc trưng:
+ Quản lý giáo dục là loại hình quản lý nhà nước được tiến hành dựa
trên cơ sở quyền lực nhà nước thông qua các cơ quan chuyên trách. Quản lý

nhà nước là tác động hợp theo quy luật, được thể chế hóa bằng hệ thống các
qui phạm pháp luật như: Luật Giáo dục, các nghị định của Chính phủ về giáo
dục, các quyết định, các thông tư của Bộ Giáo dục và Đào tạo hay liên bộ,
điều lệ nhà trường
+ Quản lý giáo dục thực chất là quản lý con người, quản lý con người
còn có nghĩa là đào tạo con người, hướng dẫn và tạo điều kiện cho họ thực
17
hiện vai trò, chức năng, nhiệm vụ được giao để họ phát triển nghề nghiệp,
hoàn thành trách nhiệm xã hội.
+ Quản lý giáo dục cũng có những thuộc tính như quản lý xã hội, hai
thuộc tính chủ yếu là: thuộc tính tổ chức - kỷ luật và thuộc tính KT - XH.
Quản lý giáo dục vừa mang tính khoa học vừa mang tính nghệ thuật và
đang được phát triển thành một khoa học có cơ sở lý luận riêng. Quản lý giáo
dục là một hiện tượng xã hội, đồng thời là một dạng lao động đặc biệt, nét đặc
trưng của nó là tính tích cực, sáng tạo, năng lực vận dụng những tri thức để
đạt được mục đích với hiệu quả cao.
Tóm lại, bản chất của quản lý giáo dục là vì lợi ích phát triển giáo dục,
nhằm mục tiêu hình thành và phát triển nhân cách người học, đối tượng và
chủ thể giáo dục đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội
1.2.3. Cán bộ quản lý và cán bộ quản lý nữ
Theo từ điển tiếng Việt, CBQL là “người làm công tác có chức vụ
trong một cơ quan, một tổ chức, phân biệt với người không có chức vụ"
[41,tr.105].
CBQL có thể là cấp trưởng hoặc cấp phó của một tổ chức được cơ quan
cấp trên bổ nhiệm bằng quyết định hành chính nhà nước. Cấp phó giúp việc
cho cấp trưởng, chịu trách nhiệm trước cấp trưởng và chịu trách nhiệm trước
pháp luật về công việc được phân công.
CBQL là lực lượng rất quan trọng trong cơ quan, đơn vị. Theo ông Lê
Đức Bình, nguyên Phó Trưởng ban Tổ chức Trung ương Đảng: “Cán bộ,
trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý là lực lượng nòng cốt trong bộ máy tổ

chức" [8].
Với tầm quan trọng của người CBQL, đòi hỏi người CBQL phải có
những phẩm chất và năng lực điển hình. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng
người CBQL phái có những phẩm chất sau:
18

×