Tải bản đầy đủ (.doc) (55 trang)

Đa dạng và phân bố của các loài cây hạt trần tại vườn quốc gia Bạch Mã.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (334.44 KB, 55 trang )

Phần 1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nước ta nằm trong vành đai nhiệt đới bắc bán cầu, vị trí địa lý và điều
kiện tự nhiên đặc biệt thuận lợi: Phía Bắc giáp Trung Quốc, phía Tây giáp
Lào và Campuchia, phía Đông và Nam giáp Thái Bình Dương, bờ biển dài
hơn 3.200km. Với vị địa lý như vậy làm cho Việt Nam có hệ sinh thái rừng
phong phú là nơi giao lưu của nhiều luồng động, thực vật. Theo ước tính sơ
bộ của các nhà nghiên cứu, ở Việt Nam có hơn 12.000 loài thực vật thuộc 387
họ, thực vật là nguồn cung cấp lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thức
ăn cho gia súc, gia cầm, làm vật liệu xây dựng cũng như nguyên liệu cho các
ngành công nghiệp … Hệ động vật cũng rất phong phú và đa dạng cả về loài
quý hiếm và loài đặc hữu. Theo nghiên cứu, có khoảng trên 7.000 loài côn
trùng, 2.600 loài cá, gần 1.000 loài chim, 275 loài thú và 260 loài bò sát.
Để bảo vệ tài nguyên rừng, bảo vệ nguồn gen động thực vật quý hiếm,
Việt Nam hình thành nhiều trung tâm bảo tồn, trong số đó có vườn quốc gia
Bạch Mã (VQGBM). VQGBM được thành lập năm 1991 theo QĐ 214/CT-
HĐBT ngày 15/7/1991. Núi Bạch Mã- Hải Vân nằm ở khu vực trung Trường
Sơn trên dãy núi cao chạy dọc theo hướng Tây Đông từ biên giới Việt-Lào và
gặp biển Đông tại đèo Hải Vân. Đây là dãy núi tạo nên sự gián đoạn của dãy
đồng bằng ven biển miền Trung và hình thành nên một ranh giới địa sinh vật
giữa khu hệ thực vật miền Bắc và miền Nam Việt Nam. VQGBM có toạ độ:
16
0
05’-16
0
15’ độ vĩ Bắc và 107
0
45’-107
0
53’ độ kinh Đông. Dãy núi Bạch Mã-
Hải Vân cũng ảnh hưởng đến tiểu khí hậu ở vườn quốc gia, nơi được xem là


ẩm ướt nhất Việt Nam với lượng mưa trung bình năm cao nhất tại đĩnh Bạch
Mã của vườn là 7.977mm.
Các nhà khoa học đã ghi nhận ở VQGBM có 1.493 loài động vật bao
gồm 132 loài thú (chiếm 1/2 tổng số loài thú ở Việt Nam), 358 loài chim, 21
loài ếch nhái, 57 loài cá, 894 loài côn trùng và nhiều loài bò sát, trong số này
có 68 loài được ghi vào sách đỏ Việt Nam. Và 2.147 loài thực vật (chiếm 1/5
tổng số loài thực vật có ở Việt Nam, trong đó có 68 loài được ghi vào sách đỏ
Việt Nam có nguy cơ tuyệt chủng, có trên 500 loài có tiềm năng thương mại
và được sử dụng làm cây thuốc). Đặc biệt ở đây có nhiều cây hạt trần, trong
đó có nhiều loài đặc hữu.

1
VQGBM không chỉ có giá trị đa dạng sinh học mà còn mang ý nghĩa về
kinh tế và tinh thần sâu sắc, đặc biệt với việc cung cấp nguồn giống. Các loài
thực vật còn được sử dụng cung cấp giống để tạo ra cảnh quan thông thoáng ở
các vườn, công viên, khuôn viên của các cơ quan, đường phố và làm cảnh
phục vụ cho gia đình, vườn còn là nơi tham quan nghĩ dưỡng cho hàng trăm
ngàn lượt khách mỗi năm.
Hiện nay, với sự khai thác quá mức, chúng ta đang phải đối mặt với
một số thách thức lớn, đó là sự gia tăng mất mát về các loài động, thực vật
được gọi chung là đa dang sinh học (ĐDSH). Đó là nguồn tài nguyên thiên
nhiên quý giá nhất mà không thể tái tạo lại được trên thế giới. Nó là cơ sở của
sự sống còn, sự thịnh vượng và phát triển bền vững của loài người. Việc làm
mất ĐDSH dẫn đến làm mất cân bằng sinh thái và kéo theo những thảm hoạ
mà loài người đang phải gánh chịu như hạn hán, lũ lụt, sự nóng lên của vỏ
Trái Đất, băng hai cực tan…. Chính vì thế việc sử dụng hợp lý và bảo vệ
nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ rừng, bảo vệ các nguồn gen đã trở thành
vấn đề cấp thiết trong công cuộc phát triển kinh tế xã hội ở nước ta.
Để góp phần giải quyết những vấn đề trên, việc kiểm kê và đánh giá
tính ĐDSH của các hệ thực vật có một ý nghĩa rất lớn, bởi công việc này

không những cho phép đánh giá tính đa dạng của một hệ thực vật về số lượng,
chất lượng của các thành phần mà nó còn chỉ ra được quy luật phân bố của
thực vật trong những khu vực địa lý khác nhau và cấu hình các nhóm thực vật
trong hệ thực vật. Đó là cơ sở để giúp các nhà quản lý hoạch định các chính
sách bảo tồn một cách chính xác và có hiệu quả.
Cho đến nay, công tác điều tra và nghiên cứu các hệ thực vật ở Việt
Nam, đặc biệt là hệ thực vật tại VQGBM tuy đã có những bước tiến đáng kể
nhưng vẫn còn nhiều vần đề chưa được quan tâm đầy đủ, đặc biệt là tính đa
dạng của các loài cây hạt trần. Vì vậy, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Đa
dạng và phân bố của các loài cây hạt trần tại vườn quốc gia Bạch Mã”.

2
Phần 2
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
2.1. Nghiên cứu về đa dạng sinh học trên thế giới
Vấn đề bảo tồn đa dạng sinh học đã trở thành một chiến lược trên toàn
thế giới. Nhiều tổ chức quốc tế đã ra đời để hướng dẩn, giúp đỡ và tổ chức
việc đánh giá, bảo tồn và phát triển đa dạng sinh học trên pham vi toàn thế
giới. Đó là hiệp hội quốc tế bảo vệ thiên nhiên (IUCN), chương trình môi
trường liên hợp quốc (UNEP), quỹ quốc tế về bảo vệ thiên nhiên (WWF),
viện tài nguyên di truyền quốc tế (IPGRI)…. Loài người muốn tồn tại lâu dài
trên hành tinh này thì phải có một dạng phát triển mới và phải có một cách
sống mới. Nhu cầu cơ bản và sự sống còn của con người phụ thuộc vào tài
nguyên của trái đất, nếu tài nguyên đó bị giảm sút thì chúng ta và con cháu
của chúng ta sẽ bị đe doạ. Chúng ta đã quá lạm dụng tài nguyên của trái đất
mà không nghĩ đến tương lai, nên ngày nay loài người đang đứng trước nhiều
hiểm hoạ về môi trường như sự nóng lên của khí hậu trái đất, lũ lụt,hạn hán,
sóng thần Để tránh sự huỷ hoại tài nguyên chúng ta phải tôn trọng trái đất
và sống một cách bền vững, dù muộn còn hơn không chú ý, vì vậy hội nghị
thượng đỉnh bàn về vấn đề môi trường và đa dạng sinh học đã được tổ chức

tại Rio de janeiro (Brazil) tháng 6 năm 1992, 150 nước đã ký vào bảng công
ước về ĐDSH và bảo vệ chúng. Từ đó, nhiều hội thảo được tổ chức để thảo
luận và nhiều cuốn sách mang tính chất chỉ dẫn đã ra đời. Năm 1990 WWF đã
cho xuất bản cuốn sách nói về tầm quan trọng của ĐDSH (The importance
biological diversity) hay IUCN, UNEP và WWF đưa ra chiến lược bảo tồn
thế giới (World conservation strategy) Wri, IUCN và WWF đưa ra chiến lược
sinh vật toàn cầu (Global biological strantegy). Nawm 1991 Wri, Wcu và
UNEP xuất bản cuốn chiến lược đa dạng sinh học và chương trình hành động.
Tất cả các cuốn sách đó nhằm hưóng dẫn và đề ra các phương pháp để bảo
tồn đa dạng sinh học, làm nền tảng cho công tác bảo tồn và phát triển trong
tương lai.
Năm 1992-1995 WCMC công bố một cuốn sách tổng hợp (Đánh giá đa
dạng sinh học toàn cầu) các tư liệu về ĐDSH của các nhóm sinh vật khác
nhau các vùng khác nhau trên toàn thế giới, làm cơ sở cho việc bảo tồn chúng
có hiệu quả.

3
Bên cạnh đó, hàng ngàn tác phẩm, những công trình khoa học khác nhau đã ra
đời và hàng ngàn cuộc hội thảo khác nhau được tổ chức nhằm thảo luận về
quan điểm, về phương pháp luận và thông báo các kết quả đạt được ở khắp
mọi nơi trên toàn thế giới. Nhiều tổ chức quốc tế, tổ chức khu vực được nhóm
họp tạo thành mạng lưới cho việc đánh giá bảo tồn và phát triển đa dạng sinh
học trên phạm vi toàn cầu.
2.2. Nghiên cứu đa dạng sinh học ở Việt Nam
2.2.1 Vấn đề nghiên cứu đa dạng sinh học chung
Ngoài những tác phẩm cổ điển của Loureiro (1790), của Pierre (1879-
1907), từ những năm đầu thế kĩ đã xuất hiện một công trình nổi tiếng, là nền
tảng cho đánh giá tính đa dạng sinh học ở Việt Nam, đó là bộ thực vật chí
Đông Dương do H.Lecomte chủ biên (1907-1952). Trong công trình này, các
tác giả người Pháp đã thu mẫu và định tên, lập khoá mô tả các loài thực vật có

mạch trên toàn lãnh thổ Đông Dương.
Trên cơ sở bộ thực vật chí Đông Dương, Thái Văn Trừng (1978) đã
thống kê hệ thực vật Việt Nam có 7004 loài, 1850 chi và 289 họ. Ngành hạt
kín có 3.366 loài (90,9%), 1.727 chi (93,4%) và 239 họ (82,7%). Ngành
dương Xĩ và họ hàng dương xĩ có 599 loài (8,6%), 205 chi (5.575%) và 42 họ
(14,5%). Ngành hạt trần có 39 loài (0,5%), 18 chi (0,9%) và 8 họ (2,8%).
Về sau Humbert (1938-1950) đã bổ sung, chỉnh lý để hoàn thiện đánh giá
thành phần loài cho toàn vùng và gần đây phải kể đến bộ thực vât chí
Campuchia, Lào và Việt Nam do Aubréville khởi xướng và chủ biên (1960-
1997) cùng với nhiều tác giả khác. Đến nay đã công bố 29 tập nhỏ gồm 74 họ
cây có mạch nghĩa là chưa đầy 20% tổng số họ đã có.
Trên cơ sở các công trình đã có, năm 1965 Pócs Tamás đã thống kê
được ở Miền Bắc có 5.190 loài, 1.660 chi và 140 họ. Trong đó 1.069 loài thực
vật hạt kín và 540 loài thuộc các ngành còn lại. Song song với sự thống kê đó,
ở miền Bắc từ năm 1969-1976. Nhà xuất bản KHKT đã cho xuất bản cuốn
sách “Cây cỏ thường thấy ở Việt Nam” gồm 6 tập, do Lê Khả Kế chủ biên và
ở Niềm Nam Việt nam, Phạm Hoàng Hộ công bố 2 tập cây cỏ Miền Nam Việt
Nam giới thiêu 5.326 loài, trong đó có 60 loài thực vật bậc thấp và 20 loài rêu
còn lại 5.246 loài thực vật có mạch.
Để phục vụ công tác khai thác, viên điều tra quy hoạch rừng đã công bố
7 tập cây gỗ rừng Việt Nam (1971-1988) giới thiệu khá chi tiết cùng với hình

4
vẽ minh hoạ. Đến năm 1996 công trình này được dịch ra tiếng Anh do Vũ
Văn Dũng chủ biên. Trần Đình Lý và Tập thể (1993) công bố 1.900 cây có
ích ở Việt Nam, Võ Văn Chi (1997) công bố từ điển cây thuốc Việt Nam.
Trong thời gian gần đây hệ thực vật Việt Nam đã được hệ thống lại bởi các
nhà thực vật Liên Xô và Việt Nam và đăng trong kĩ yếu cây có mạch của thực
vật Việt Nam và tạp chí sinh học số 4 (chuyên đề) 1994 và 1995.
Đáng chú ý nhất phải kể đến bộ cây cỏ Việt Nam của Phạm Hoàng Hộ

(1991-1993) xuất bản tại Canada và đã được tái bản có bổ sung tại Việt Nam
trong hai năm gần đây. Đây là bộ danh sách đầy đủ nhất và dễ sử dụng nhất
góp phần đáng kể cho khoa học thực vật ở Việt Nam. Bên cạnh đó, có một số
họ riêng biệt đã được công bố như Orchidaceae Đông Dương của Seidenfaden
(1992), Orchidaceae Việt Nam của Leonid V.Averyanov (1994),
Euphorbiaceae Việt Nam của Nguyễn Nghĩa Thìn (1999), Annonaceae Việt
Nam của Nguyễn Tiến Bân (2000), Lamiaceae của Vũ Xuân Phương (2000),
Myrsinaceae của Trần Thị Kim Liên (2002), Cyperaceae của Nguyễn Khắc
Khôi (2002). Đây là những tài liệu quan trọng nhất làm cơ sở cho việc đánh
giá về đa dạng phân loại ở Việt Nam.
Bên cạnh những công trình mang tính chất chung cho cả nước hay ít ra
một nửa đất nước, có nhiều công trình nghiên cứu khu hệ thực vật từng vùng
được công bố chính thức như hệ thực vật Tây Nguyên đã công bố 3.754 loài
thực vật có mạch do Nguyễn Tiến Bân, Trần Đình Đại, Phan kế lộc chủ biên
xuất bản năm 1984; Danh lục thực vật Phú Quốc của Phạm Hoàng Hộ (1985)
công bố 793 loài thực vật có mạch trong một diện tích 592km
2
; Lê Trần Chấn,
Phan Kế lộc, Nguyễn Nghĩa Thìn, Nông Văn Tiếp (1990) về hệ thực vật Lâm
Sơn, Lương Sơn (Hoà Bình); Nguyễn Nghĩa Thìn và Nguyễn Thị Thời (1998)
đã giới thiệu 2.024 loài thực vật bậc cao, 771 chi, 200 họ của vùng núi cao Sa
Pa-Phan Si Phang.
Trên cơ sở các bộ thực vật chí, các danh lục thực vật của từng vùng,
việc đánh giá tính đa dạng hệ thực vật của cả nước hay từng vùng cũng đã
được các tác giả đề cập đến dưới các mức độ khác nhau, trên những khía cạnh
khác nhau.
Về đa dạng các đơn vị phân loại: Trên phạm vi cả nước Nguyễn Tiến
Bân (1990) đã thống kê và đi đến kết luận thực vật hạt kín trong hệ thực vật
Việt Nam hiện biết 8.500 loài, 2.050 chi, trong đó lớp hai lá mầm 1.590 chi


5
với trên 6.300 loài và lớp một lá mầm 460 chi với khoảng 2.200 loài. Phan Kế
Lộc (1996) đã tổng kết thực vật Việt Nam có 9.628 loài cây hoang dại có
mạch 2.010 chi, 291 họ, 733 loài cây trồng. Như vậy, tổng số loài lên tới
10.361 loài, 2.256 chi, 305 họ chiếm 4%, 15% và 57% tổng số các loài, chi
và họ của thế giới. Ngành hạt kín chiếm 92,47% tổng số loài, 92,48% tổng số
chi và 85,57% tổng số họ. Ngành Dương Xỉ kém đa dạng hơn theo tỉ lệ
6,45%, 6,27% và 9,97% về loài. Ngành thông đất đứng thứ ba (0,58%), tiếp
đến là ngành hạt trần (0,47%), hai ngành còn lại không đáng kể về họ, chi và
loài. Nguyễn Nghĩa Thìn (1997) đã tổng hợp và chỉnh lý các tên theo hệ thống
Brummitt (1992) đã chỉ ra hệ thực vật Việt Nam hiện biết 11.178 loài, 2.582
chi, 395 họ thực vật bậc cao và 30 họ có trên 100 loài với tổng 5.732 loài
chiếm 51,3% tổng số loài của hệ thực vật.
Về đánh giá đa dạng phân loại theo từng vùng: Mở đầu là các công
trình của Nguyễn Nghĩa Thìn (1992-1994) về đa dạng thực vật Cúc Phương,
tiếp theo là Phan Kế Lộc (1992) về cấu trúc hệ thực vật Cúc Phương; Lê Trần
Chấn, Phan Kế Lộc, Nguyễn Nghĩa Thìn, Nông Văn Tiếp (1994) về đa dạng
hệ thực vật Lâm Sơn (Hoà Bình).
Từ 1995-2003, Nguyễn Nghĩa Thìn Cùng một số tác giả khác công bố
một loạt bài báo về đa dạng thành phần loài ở vườn quốc gia Cúc Phương,
vùng núi đá vôi Hoà Bình, vùng núi đá vôi Sơn La, khu bảo tồn Nà Hang của
tỉnh Tuyên Quang, vùng núi cao SaPa-Phan Si Pan, vùng ven biển Nam trung
bộ, vườn quốc gia Ba Bể, Cát Bà, Bến En, Pù Mát, Phong Nha, Cát Tiên, Yok
Đôn
Qua quá trình nghiên cứu, tác giả Nguyễn Nghĩa Thìn đã công bố cuốn
“Cẩm nang nghiên cứu đa dạng sinh học” nhằm hướng dẫn cách đánh giá tính
đa dạng thực vật của vùng nghiên cứu cho các vườn quốc gia và các khu bảo
tồn trong cả nước. Ngoài những bài báo công bố, tác giả cùng Phùng Ngọc
Lan, Nguyễn Bá Thụ đã công bố cuốn sách “Tính đa dạng thực vật Cúc
Phương” (1976) và cùng Nguyễn Thị Thời công bố cuốn “Đa dạng thực vật

có mạch vùng núi cao SaPa-Phan Si Phan” (1998), cùng với Mai Văn Phô
công bố cuốn “Đa dạng sinh học khu hệ nấm và thực vật ở vườn quốc gia
Bạch Mã” (2003). Đó là kết quả nghiên cứu trong nhiều năm của tác giả và
tập thể nhằm phục vụ cho công tác bảo tồn ở các vườn quốc gia và các khu
bảo tồn ở Việt Nam. Bên cạnh đó, tác giả cùng Phạm Bình Quyền công bố

6
cuốn “Đa dạng sinh học” (2000), cùng Lê Vũ Khôi công bố cuốn “Địa lí sinh
vật” (2000) và chính tác giả cũng cho ra cuốn “Đa dạng sinh học và tài
nguyên di truyền thực vật” (2003) nhằm cung cấp những cơ sở cho công tác
nghiên cứu đa dạng thực vật ở Việt Nam.
Về đa dạng quần xã thực vật trên phạm vi cả nước: Phải kể đến công
trình nổi tiếng của Thái Văn Trừng (1963-1978) về thảm thực vật rừng Việt
Nam. Dựa trên quan điểm sinh thái phát sinh quần thể, tác giả đã phân thảm
thực vật Việt Nam thành các kiểu, kiểu phụ, kiểu trái và thấp nhất các ưu hợp.
Trong các yếu tố phát sinh thì khí hậu là yếu tố phát sinh ra kiểu thực vật còn
yếu tố địa lý, địa chất, địa hình, thổ nhưỡng, khu hệ thực vật và con người là
yếu tố phát sinh của các kiểu phụ, kiểu trái và ưu hợp.
Đối với mỗi miền có những tác phẩm lớn: Ở miền nam có công trình
thảm thực vật Nam Trung Bộ của Schmid (1974). Ngoài điều kiện khí hậu với
chế độ thoát nước khác nhau, các tiêu chuẩn phân biệt các quần xã là sự phân
hoá khí hậu, thành phần thực vật đai cao. Tác giả xác nhận các loài thuộc về
hệ thực vật Malezi ở đai thấp dưới 600m còn các loài thuộc hệ thực vật bắc
Việt Nam-Nam Trung Hoa ở đai trên 1.200m, từ 600m-1.200m được coi là
đai chuyển tiếp. Ở Miền bắc có công trình của Trần Ngũ Phương (1970) đã
chia các đai trên cơ sở độ cao, sau đó kiểu dựa vào điều kiện địa hình và tính
chất sinh thái, các kiểu khu vực dựa vào thành phần thực vật.
Năm 1995, Nguyễn Vạn Thường xây dựng bản đồ thảm thực vật Bắc
Trung Bộ đã chia bốn vùng sinh thái chính căn cứ vào độ cao so với mực
nước biển: <700m nhiệt đới ẩm, <700m nhiệt đới ẩm có nửa mùa khô, <700m

hơi khô có mùa mưa rõ và 800m-1.500m nhiệt đới ẩm. Có thể nói, đó là sơ đồ
tổng quát nhất của thực vật Bắc Trung Bộ Việt Nam. Mãi đến năm 1985, theo
cách phân loại mới của UNESCO (1973), Phan Kế Lộc đã vận dụng thang
phân loại đó để xây dựng thang phân loại thảm thực vật Việt Nam thành năm
lớp quần hệ, 15 dưới lớp, 32 nhóm quần hệ, 77 quần hệ khác nhau. Cách phân
loại đó đã được Nguyễn Nghĩa Thìn áp dụng (1994-1996).
Đối với các khu bảo tồn: Năm 1995, Nguyễn Nghĩa Thìn, Nguyễn Bá
Thụ và Trần Văn Thuỵ đã nghiên cứu các quần xã thực vật và xây dựng bản
đồ thảm thực vật vườn quốc gia Cúc Phương, cùng năm đó có một số thông
báo của Vũ Văn Dũng về các kiểu thảm thực vật ở khu bảo tồn Vũ Quang,
của Nguyễn Đức Ngắn, Lê Xuân Ái về các kiểu thảm thực vật Côn Đảo, của

7
Nguyễn Duy Chuyên về các kiểu thảm thực vật ở các khu bảo tồn và vườn
quốc gia các tỉnh miền Nam Việt Nam, của Trần Ngọc Bút về các kiểu thảm
thực vật vườn quốc gia Cát Bà, Lê Đức Giang về các kiểu thảm thực vật vườn
quốc gia Bến En, của Huỳnh Văn Kéo về các kiểu thảm thực vật ở vườn quốc
gia Bạch Mã, của Võ Văn Bền về các kiểu thảm thực vật vườn quốc gia Nam
Cát Tiên, của Đỗ Minh Tiến về các kiểu thảm thực vật của khu bảo tồn Tam
Đảo, của Bùi Văn Định, Cao Văn Sung, Phạm Đức Tiến về các kiểu thảm
thực vật vườn quốc gia Ba Bể. Những năm gần đây, Nguyễn Nghĩa Thìn và
Nguyễn Thị Thời giới thiệu về các kiểu thảm thực vật vùng SaPa-Pan Si Phan
(1998), Kim J. W., Nguyễn Nghĩa Thìn (1998) và Nguyễn Nghĩa Thìn (1999)
về các kiểu thảm thực vật ở vườn quốc gia Cát Bà.
2.2.2. Những nghiên cứu ở vườn quốc gia Bạch Mã.
Việc nghiên cứu về hệ thực vật ở Bạch Mã đã được quan tâm nghiên
cứu từ lâu dưới thời pháp thuộc: Năm 1925 đã có một dự án thành lập vườn
quốc gia Bạch Mã với diện tích 50.000ha được trình lên bộ thuộc địa Pháp,
bên cạnh đó các tài liệu viết về thực vật Bạch Mã, phải kể đến các công trình
của Lecomte 1907-1952, trong đó tác giả đã thu thập khá nhiều mẫu thực vật

của vùng Bạch Mã với các địa danh nổi tiếng như: Thừa Lưu, Hải Vân, Bạch
Mã. Đặc biệt có 3 loài được đặt tên của Bạch Mã: Piper bachmaensis, Cissus
bachmaensis, Elaeocarpus bachmaensis.
Trong các năm 1989-1990, Viện Điều Tra Quy Hoạch Rừng đã bước
đầu nghiên cứu hệ thực vật Bạch Mã nhằm xây dựng luận chứng kinh tế kĩ
thật vườn quốc gia Bạch Mã. Kết quả điều tra được 501 loài thực vật bậc cao
thuộc 344 chi và 124 họ. Trong đó đã xác định 4 loài thực vật quý hiếm đó là:
Cẩm Lai (Dalbergia bariaensis), Trắc (Dalbergia cochinchinensis), Trầm
Hương (Aquilaria crassna), Kim Giao (Podocarpus annamensis).
Có một số nghiên cứu nhỏ như báo cáo tổng kết đề tài “Nghiên cứu
một số yếu tố sinh thái khu nghỉ mát vườn quốc gia Bạch Mã” năm 1995 của
Trương Văn Lới và Mai Văn Phô, các tác giả đã thống kê được hệ thực vật
Bạch Mã có 336 loài thuộc 120 họ nhưng không nêu rõ loài nào có nguy cơ
suy thoái.
Trong 2 năm, từ 01/02/1995 đến 31/01/1997 trong khuôn khổ dự án
VN0012.01 do liên hiệp Châu Âu tài trợ và tổ chức WWF thực hiện một báo
cáo bổ sung luận chứng kinh tế kỹ thuật vườn quốc gia Bạch Mã được soạn

8
thảo. Báo cáo này đã thống kê được 943 loài thực vật, có 29 loài bị đe dọa mà
trong đó có 8 loài cần phải được bảo vệ theo NĐ 18/HĐBT và 26 loài được
ghi vào Sách Đỏ Việt Nam. Một đề nghị bảo vệ các loài bị đe dọa này trong
thời gian 3 năm tới đã được đề ra, trong đó cần lưu ý các loài đặc hữu.
Năm 1998, Mai Văn Phô và Nguyễn Hoàng Lộc đã cho đăng bài “Tính
đa dạng về thành phần loài của họ Lan (Orchidaceae) ở vườn quốc gia Bạch
Mã” trên tạp chí sinh học số 20 với kết quả điều tra xác định được 83 loài
thuộc 40 chi của họ Phong Lan. Trong đó có 3 loài được ghi vào Sách Đỏ
Việt Nam: Giải Thùy Sapa (Anoectochilus chapaensis), Cầu Diệp Hiệp
(Bulbophyllum hiepii), Hoàng Thảo Hương Thơm (Dendrobium amabile).
Ngoài ra, các tác giả đề nghị bảo vệ, phát triển một số loài có giá trị như: Vân

Hài (Paphiopedium callosum), Nhất Điểm Hồng (Dendrobium draconis),
Hoàng Thảo Xoắn (Dendrobium tortile), Quế Lan Hương (Aerides odorata),
Hạc Đính Vàng (Phaius flavus).
Tiếp đó, Lê Doãn Anh dưới sự hướng dẫn của Ngô Kim Khôi đã hoàng
thành luận văn thạc sĩ Lâm Nghiệp với đề tài “Nghiên cứu một số đặc điểm
cấu trúc rừng làm cơ sở bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng tại vườn quốc
gia Bạch Mã, TT Huế”. Trên cơ sở nghiên cứu, tác giả đã đi đến một số kết
luận về tái sinh rừng: Tại kiểu rừng á nhiệt đới các loài Hoàng Đàn Giả, Gò
Đồng, Dẻ, Trâm chiếm ưu thế; tại kiểu rừng nhiệt đới, tổ thành cây tái sinh
gồm các loài cây Chò, Kiền Kiền, Ươi, Dẻ…chiếm ưu thế. Trong đó các loài
Hoàng Đàn Giả, Kiền Kiền, Ươi là các loài cây quý hiếm cần phải tăng cường
quản lý, bảo vệ hơn nữa nhằm bảo tồn chúng.
Năm 2000, nhiều công trình nghiên cứu đa dạng thực vật có mạch ở
vườn quốc gia Bạch Mã lần lượt công bố: Nguyễn Nghĩa Thìn, Mai Văn Phô,
Huỳnh Văn Kéo và Ngô Đức Phương đã công bố “Đánh giá tính đa dạng về
phân loại hệ thực vật ở vườn quốc gia Bạch Mã”; Nguyễn Nghĩa Thìn, Ngô
Đức Phương công bố “Đánh giá đa dạng về dạng sống và giá trị nguồn gen
thực vật tại vườn quốc gia Bạch Mã”; Mai Văn Phô, Phạm Thị Hòa công bố
“Dẫn liệu bước đầu về các loài thuộc họ Long Não (Lauraceae) có tinh dầu ở
vườn quốc gia Bạch Mã”.
Năm 2001, Huỳnh Văn Kéo đã tổng hợp, hệ thống các nghiên cứu, điều
tra hệ động thực vật của vườn quốc gia Bạch Mã và cho xuất bản công trình
“Vườn quốc gia Bạch Mã-Bach Ma National Park”, đây là tài liệu đầu tiên,

9
giới thiệu một cách tổng quát nhất về Vườn cũng như công tác quản lý, bảo
tồn và phát triển vườn. Tác giả đã thống kê được 1.406 loài thực vật, trong đó
có 30 loài có nguy cơ bị suy thoái được đưa vào Sách Đỏ Việt Nam.
Cũng trong năm này, Huỳnh Văn Kéo, Trần Thiện Ân, Trần Khắc Bảo
đã hoàn thành công trình “Đa dạng sinh học cây thuốc vườn quốc gia Bạch

Mã, TT Huế”. Trong tác phẩm đó, tập thể tác giả công bố danh sách 334 loài
cây thuốc có trong Vườn, cũng như các bài thuốc, thành phần sử dụng của
chúng. Kết quả bước đầu xác định 16 loài cây thuốc quý hiếm bị đe dọa, có
nguy cơ tuyệt chủng cao, cần được bảo vệ như Vàng Đắng (Coscinium
fenestratum), Hoàng Tinh Hoa Trắng (Disporpsis longifolia), Kim Tuyến
Sapa (Anoetochilus chapaensis), Kim Tuyến (Anoetochilus roxburghii)…
Năm 2002, Nguyễn Nghĩa Thìn cùng Trần Văn Thụy hoàn thành công
trình về xây dựng bản đồ thảm thực vật vườn quốc gia Bạch Mã; nguyễn
Nghĩa Thìn, Mai Văn Phô, Hồ Thị Tuyết Sương và Huỳnh Văn Kéo đã hoàn
thành công trình “Đánh giá tính đa dạng sinh học của nhóm Dương xỉ, và họ
hàng thân thuộc và nhóm thực vật có hạt vườn quốc gia Bạch Mã”, các tác giả
đã kiểm kê khá đầy đủ số loài và đánh giá một các toàn diện tính đa dạng hệ
thực vật của vườn. Trong năm này, Hồ Hỷ dưới sự hướng dẫn khoa học của
nguyễn Nghĩa Thìn đã hoàn thành luận văn thạc sĩ với đề tài “Nghiên cứu,
đánh giá và đề xuất một số loài cây rừng bản địa cho việc trồng rừng ở vùng
đồi tỉnh TT Huế”. Dựa trên kết quả nghiên cứu của mình, tác giả đề xuất 8
loại cây trồng bản địa đáp ứng mục tiêu kinh doanh Lâm Nghiệp, trong đó
đáng chú ý có cây Dó Bầu (Aquilqria crassna) là một loài có nguy cơ tuyệt
chủng trong tự nhiên do bị săn lùng khai thác cạn kiệt.
Năm 2003, Huỳnh Văn Kéo đã hoàn thành công trình khoa học của
mình với đề tài “Nghiên cứu một số đặc điểm sinh lý-sinh thái và khả năng
nhân giống bằng hom cây Hoàng Đàn Giả (Dacrydium elatum)”. Tác giả đã
xác định vùng phân bố của cây Hoàng Đàn Giả, được xếp bậc K trong Sách
Đỏ Việt Nam, ở vườn quốc gia Bạch Mã là từ độ cao 700m trở lên và có xu
hướng mọc thành cụm tạo thành chủng loài ưu thế ở sườn các đỉnh núi cao.
Cũng trong năm 2003, sau 18 tháng tiến hành đề tài độc lập cấp Nhà
nước “Nghiên cứu tài nguyên đa dạng sinh học và đề xuất một số giải pháp
bảo vệ, phát triển bền vững vườn quốc gia Bạch Mã” do trường đại học Khoa
Học Huế thực hiện đã tổ chức được hội thảo để đánh giá đa dạng thực vật của


10
vườn. Đây là một công trình nghiên cứu đầy đủ nhất cho đến hiện nay về tài
nguyên đa dạng sinh học tại vườn quốc gia Bạch Mã. Ngoài ra các tác giả
Nguyễn Ngĩa Thìn, Mai Văn Phô, Ngô Anh và cộng sự đã công bố công trình
“Đa dạng hệ nấm và Thực vật ở vườn quốc gia Bạch Mã, tỉnh TT Huế-
Biodiversity of Fungi and Flora Bach Ma National Park”. Kết quả đã công bố
ở vườn quốc gia Bạch Mã có 2.067 loài của tất cả 10 ngành, trong đó có 3
ngành nấm với số loài là 332, 1 ngành rêu với số loài là 87, còn lại 6 ngành
thực vật bậc cao có mạch với tổng số 1.648 loài. Đánh giá về nguy cơ bị đe
dọa của thực vật bậc cao có mạch gồm 44 loài được ghi vào Sách Đỏ Việt
Nam với 3 loài cấp E (Đang bị nguy cấp), 10 loài cấp V (Sẽ bị nguy cấp), 14
loài cấp R (Hiếm), 8 loài cấp T (Bị đe dọa) và 9 loài cấp K (Không biết chính
xác).

11
Phần 3
ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, MỤC TIÊU, NỘI DUNG, PHƯƠNG
PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu các loài cây hạt trần trong thời gian: Từ 05/01/2009 đến
05/05/2009 tại Vườn quốc gia Bạch Mã
3.2. Mục tiêu nghiên cứu
Thống kê được thành phần loài, sự phân bố và đa dạng cây hạt trần làm
cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp bảo tồn, phát triển và sử dụng hợp lí cây
hạt trần tại vườn quốc gia Bạch Mã.
3.3. Nội dung nghiên cứu.
- Đa dạng về thành phần loài.
- Đa dạng về dạng sống.
- Đa dạng về sinh thái.
- Đa dạng về giá trị sử dụng.

- Đặc điểm phân bố của cây hạt trần tại Bạch Mã.
- Giải pháp bảo tồn, phát triển bền vững cây Hạt Trần tại khu vực
nghiên cứu.
3.4. Phương pháp nghiên cứu
 Thu thập thông tin thứ cấp qua tài liệu, báo chí, sách vở, Internet,
ban quản lý vườn quốc gia Bạch Mã
 Thu thập số liệu thực địa.
Áp dụng phương pháp điều tra theo hệ thống tuyến và ô tiêu chuẩn điễn hình.
- Điều tra theo tuyến.
Khi nghiên cứu tính đa dạng của một hệ thực vật, thì việc thu thập mẫu
là một nhiệm vụ quan trọng làm cơ sở để xác định tên taxon và xây dựng bản
danh lục chính xác, đầy đủ. Do điều kiện thực tế, nghiên cứu trong vườn quốc
gia hạn chế nên đề tài này, thay phương pháp lấy mẫu bằng chụp hình.
Dựa vào đặc điểm địa hình, sự phân bố của thực vật và đặc trưng của
đề tài tôi chia khu vực nghiên cứu thành hai vùng.
Vùng 1: Có độ cao <900m so với mực nước biển (Từ chân đến km14)
ứng với hệ sinh thái nổi bật là kiểu rừng thường xanh gió mùa nhiệt đới.

12
Vùng 2: Có độ cao >900m so với mực nước biển (Từ km14 lên đỉnh)
ứng với hệ sinh thái rừng thường xanh á nhiệt đới.
Tại mỗi khu vực, các tuyến điều tra được thiết lập theo đường ôtô, từ
đây mở các tuyến phụ về hai phía đi qua các sinh cảnh và quần xã thực vật
khác nhau.
Trên mỗi tuyến, tiến hành điều tra tất cả các loài thực vật hạt trần nằm
ở phạm vi 7,5m mỗi bên (chiều rộng tuyến 15m). Trên mỗi ô, xác định các
loài cây Hạt Trần, tiến hành thu mẩu, chụp hình (có đánh dấu riêng). Cụ thể
chúng tôi đã khảo sát trên 5 tuyến chủ yếu nằm trong địa phận đĩnh Bạch Mã.
- Điều tra ô tiêu chuẩn.
Chọn ô tiêu chuẩn phải đại diện cho tính chất của thảm thực vật tại khu

vực điều tra, do đó nó phải được chọn một cách ngẫu nhiên và đảm bảo tính
đại diện cho hầu hết các sinh cảnh và độ cao khác nhau trong phạm vi nghiên
cứu. Ngoài việc đánh giá tính đa dạng của thực vật hạt trần, còn đánh giá khả
năng tái sinh của các loài cây này.
Trên mỗi tuyến lập từ 2-3 ô tiêu chuẩn (gồm 13 ô tiêu chuẩn trên 5
tuyến điều tra), với diện tích 0,1 ha (50m × 20m). Dùng GPS đứng ở vị trí
trung tâm ô định vị để biết được độ cao, toạ độ địa lý. Đếm tổng số cây hạt
trần có trong ô; Ghi nhận sự có mặt của những loài chiếm ưu thế; Chụp hình
mẫu tất cả các cây hạt trần (có ghi chú).
 Xử lý số liệu.
Xác định tên loài, tên họ: Từ những mẫu và hình ảnh đã chụp, có mô tả
đặc điểm, thảo luận với cán bộ vườn, tham khảo ý kiến chuyên gia. Sau đó, dùng
tài liệu tra cứu tên phổ thông, tên khoa học và họ thực vật cho từng loài cây.
+ Xác định số cây bình quân của các loài cây hạt trần trong 1ha. Xác
định theo công thức:
n × 10.000
N =
1.000
Trong đó: n: Số cây hạt trần trung bình có trong các ô tiêu chuẩn.
N: Số cây hạt trần trung bình có trong 1ha.
+ Xác định độ ưu thế của từng loài cây hạt trần theo từng tuyến và từng
vùng điều tra. Áp dụng công thức:

13
m × 100
G(%) =
M
Trong đó: m: Số lượng mỗi loài cây hạt trần trong các ô tiêu chuẩn.
M : Tổng số các loài cây hạt trần trong các ô tiêu chuẩn.
 Xác định phổ dạng sống: Dùng phổ dạng sống của Raunkiaer

(1934) với một số bổ sung để xác định phổ dạng sống của cây Hạt Trần tại
Bạch Mã. Theo phổ này thì dạng sống của cây được chia như sau:
1. Cây chồi trên mặt đất (Phanerophytes): Bao gồm những cây gỗ cao từ 3m
trở lên. Trong dạng sống này chia thành các nhóm nhỏ sau:
1.1. Cây chồi lớn trên mặt đất (Mega-phanerophytes): Gồm những cây cao
trên 25m.
1.2. Cây chồi vừa trên mặt đất (Meso-phanerophytes): Gồm những cây cao
từ 8m-25m.
1.3. Cây chồi lùn trên mặt đất (Nana-phanerophytes): Gồm những cây cao
từ 3m-8m.
1.4. Dây leo (Lian-phanerophytes): Gồm những cây dây leo.
1.5. Cây mọng nước (Succulentes-phanerophytes): Gồm những cây mọng
nước.
1.6. Cây bì sinh (Epiphytes-phanerophytes): Gồm những cấy bì sinh, sống
bám trên các cây khác hay trên đá.
1.7. Cây kí sinh hay bán kí sinh (Hemi, Parasite-phanerophytes): Gồm
nững cây kí sinh hay bán kí sinh.
2. Cây chồi sát mặt đất (Chamephytes): Gồm những cây chết trong mùa khô
hay giá lạnh nằm cách mặt đất từ 30cm-300cm.
3. Cây chồi nữa ẩn (Hemicryptophytes): Gồm những cây có chồi khô héo
trong mùa khô hay giá lạnh, nằm nữa dưới đất, sát mặt đất hay cách mặt đất
đến 30cm.
4. Cây chồi ẩn (Cryptophytes): Gồm những cây có chồi bị chết trong mùa
khô hay giá lạnh và nằm hoàn toàn dướ mặt đất.
5. Cây một năm (Therophytes): Thường là những cây thảo, sinh trưởng, ra
hoa, kết quả và tàn lụi trong một năm.

14
Phần 4
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN

4.1. Điều kiện tự nhiên khu vực nghiên cứu
4.1.1. Vị trí, ranh giới, diện tích, quá trình thành lập
+ Vị trí:
Vườn Quốc gia Bạch Mã nằm trên địa bàn hai tỉnh Thừa Thiên Huế và
Quảng Nam. Nó thuộc địa bàn 12 xã của ba huyện Phú Lộc, Nam Đông
(Thừa Thiên Huế) và Đông Giang (Quảng Nam). Trong đó, gồm thị trấn Phú
Lộc, các xã Lộc Điền, Lộc Trì, Lộc Hòa, Xuân Lộc (Phú Lộc); Hương Phú,
Hương Lộc, Thượng Lộ, Thượng Long, Thượng Nhật (Nam Đông); Ating,
Sông Côn thuộc huyện Đông Giang tỉnh Quảng Nam. Riêng vùng mở rộng
VQGBM nằm trên địa bàn hai tỉnh Thừa Thiên Huế và Quảng Nam thuộc địa
bàn 5 xã gồm các xã Thượng Lộ, Thượng Long, Thượng Nhật (Nam Đông);
Ating, Sông Côn thuộc huyện Đông Giang tỉnh Quảng Nam.
Vườn có tọa độ địa lý:
- Từ 15
0
59’28’’ đến 16
0
16’02’’ vĩ độ Bắc
- Từ 107
0
37’22’’ đến 107
0
54’58’’ kinh độ Đông
+ Ranh giới:
- Phía Bắc giáp Công ty lâm nghiệp Phú Lộc;
- Phía Nam giáp huyện Đông Giang tỉnh Quảng Nam;
- Phía Đông giáp huyện Hoà Vang thành phố Đà Nẵng;
- Phía Tây giáp thị trấn Khe Tre.
+ Diện tích:
VQG Bạch Mã gồm 42 tiểu khu, với tổng diện tích tự nhiên là 37.487

ha (trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế 34.380 ha, trên địa bàn tỉnh Quảng Nam
3.107 ha) gồm 12.064,8 ha rừng thuộc phân khu bảo vệ nghiêm ngặt, 20.234
ha rừng thuộc phân khu phục hồi sinh thái và 5.188,2 ha rừng thuộc phân khu
dịch vụ hành chính.
Vùng mở rộng khu vực huyện Nam Đông và Đông Giang có 14 tiểu
khu với diện tích là 16.248 ha đều thuộc phân khu phục hồi sinh thái.
+ Lịch sử hình thành:
Từ năm 1925, dưới thời Pháp thuộc để bảo tồn loài Gà lôi lam mào
trắng (Lophura edwardsi) chính quyền sở tại đã xây dựng và đệ trình lên Bộ

15
thuộc địa Pháp dự án thành lập vườn quốc gia rộng 50.000 ha ở vùng Bạch
Mã - Hải Vân.
Năm 1932, người Pháp khám phá ra điểm nghỉ mát Bạch Mã và cho
xây dựng tại khu vực đỉnh một quần thể biệt thự và khách sạn. Đến năm 1960,
chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã biến khu nghỉ mát Bạch Mã thành thị trấn
Bạch Mã và xúc tiến việc thành lập lâm viên Bạch Mã - Hải Vân với diện tích
78.000 ha.
Năm 1986, sau khi đất nước thống nhất nhà nước Việt Nam đã thiết lập
một mạng lưới gồm 87 khu bảo tồn thiên nhiên. Trong đó có khu bảo tồn
Bạch Mã - Hải Vân. Đến năm 1991, VQGBM chính thức ra đời theo Quyết
định 214/CT ngày 15/7/1991 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ
tướng Chính Phủ) với diện tích 22.031 ha. Đến năm 2008, VQGBM được
điều chỉnh mở rộng lên 34.487 ha theo Quyết định số 01/2008/QĐ-TTg ngày
02/01/2008 của Thủ tướng Chính Phủ. Khu vực mở rộng trước năm 2008 là
rừng phòng hộ thuộc các BQL RPH Nam Đông và Sông Côn quản lý. Đến
năm 2008, vùng mở rộng được quy hoạch điều chỉnh là rừng đặc dụng và
thuộc VQGBM.
4.1.2. Điều kiện tự nhiên của khu vực nghiên cứu
+ Địa hình, địa thế:

Địa hình khu vực Bạch Mã là phần cuối cùng của dãy Trường Sơn Bắc,
bị chia cắt phức tạp có nhiều dải núi với các đỉnh cao trên 1.000 m chạy
ngang theo hướng Tây - Đông và thấp dần ra biển. Địa hình ở đây bị chia cắt
mạnh và rất dốc, địa hình hiểm trở với những dốc đứng, độ dốc bình quân
toàn khu vực là 15
0
- 25
0
, nhiều nơi có dốc đứng trên 40
0
. Dưới chân của các
dải núi là những thung lũng hẹp, dài với những dòng suối trong và sạch tạo
nên vẻ đẹp độc đáo thu hút khách du lịch, đồng thời góp phần cải tạo tiểu khí
hậu vùng và cũng là một trong những điều kiện thuận lợi tạo nên đa dạng
sinh học vùng này.
+ Khí hậu:
Khí hậu nhiệt đới của vùng Bạch Mã chịu ảnh hưởng của hai hiện tượng
chính: gió mùa Đông Bắc kéo theo mưa từ tháng 9 đến tháng 3 năm sau; gió mùa
Tây Nam kéo theo khô hạn từ tháng 4 đến tháng 9. Qua số liệu cung cấp tại các
trạm khí tượng thuỷ văn thì nhiệt độ bình quân năm của vùng là 24
0
C; lượng mưa
bình quân năm là 3.440 mm; độ ẩm bình quân năm là 85%.

16
4.1.3.Điều kiện kinh tế - xã hôi
 Thành phần dân tộc và lao động:
VQGBM nằm trên địa bàn 2 tỉnh gồm 15 xã, thị trấn (kể cả vùng đệm)
có 12.617 hộ gia đình đang sinh sống với tổng số 61.371 nhân khẩu. Khu vực
vùng đệm mở rộng nằm trên địa bàn 7 xã: Thượng Lộ, Thượng Nhật, Thượng

Long (huyện Nam Đông, tỉnh Thừa Thiên Huế); Xã Tư, A Ting, Sông Côn,
Ta Lu (huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam).
Mật độ dân số trong khu vực ở mức trung bình, mật độ bình quân trên
toàn khu vực là 159 người/km
2
, mật độ dân số cao nhất là 790 người/km
2
,
thấp nhất là 10 người/km
2
.
Tỷ lệ tăng dân số trong khu vực không đồng đều, tỷ lệ tăng dân số bình
quân trên toàn khu vực là 1,2%, thấp nhất là 0,6%, cao nhất là 1,8%. Tỷ lệ
dân số tăng cao chủ yếu ở các xã miền núi như: Thượng Long, Thượng Nhật,
Thượng Lộ,
Trong vùng đệm VQG có 4 dân tộc anh em sinh sống là Kinh, Ka tu,
Vân Kiều và dân tộc Mường. Trong đó:
Dân tộc Kinh: 50.230 người, chiếm 82% dân số vùng đệm.
Dân tộc Ka tu: 5.567 người, chiếm 8,6 % dân số vùng đệm.
Các dân tộc khác: 5.574 người, chiếm 9,4 % dân số vùng đệm.
Tổng nguồn lao động toàn vùng đệm là 31.571 người, chiếm 51,4%
tổng dân số, bình quân mỗi hộ có 3 lao động.
Lao động đang làm việc theo ngành kinh tế có 28.388 người.
Lao động sản xuất NLN: 16.938 người, chiếm 59,67%.
Lao động thuỷ sản: 2.471 người, chiếm 8,7%.
Lao động các ngành nghề khác: 8.979 người, chiếm 31,63%.
 Hiện trạng đói nghèo và tình hình định canh định cư:
Nhìn chung dân cư trong vùng đã định canh định cư ổn định, tuy nhiên
với đặc điểm địa hình chia cắt phức tạp, mật độ dân cư phân bố không đồng
đều, dẫn đến việc quy hoạch định canh định cư gặp nhiều khó khăn, đặc biệt

là các xã miền núi như: Thượng Long, Thượng Lộ (Nam Đông)
Đời sống của nhân dân trong khu vực mở rộng còn rất nhiều khó khăn. Số hộ
đói nghèo chiếm tỷ lệ khá cao, bình quân trên toàn vùng là 12,3%; tỷ lệ hộ đói
nghèo cao tập trung ở các xã miền núi cao (trên 20%).

17
 Sản xuất nông nghiệp và các ngành nghề khác:
Giá trị sản xuất nông nghiệp chiếm 49,6% trong cơ cấu kinh tế.
- Trồng trọt:
Diện tích gieo trồng là 3.205,5 ha, trong đó:
Diện tích trồng lúa 1.792 ha, chiếm 55,9%.% đất trồng trọt.
Diện tích gieo trồng ngô là 232,5 ha, chiếm 7,3% đất trồng trọt.
Diện tích cây công nghiệp ngắn ngày:225 ha, chiếm 7,0 % đất trồng trọt.
Diện tích cây công nghiệp dài ngày 223 ha, chiếm 6,9% đất trồng trọt.
Diện tích trồng màu, cây hàng năm khác 733 ha, chiếm 22,9%.
Diện tích đất canh tác nông nghiệp bình quân đầu người 486 m
2
/người.
Diện tích đất canh tác đất nông nghiệp ít, chất lượng không đồng đều, chưa
chủ động tưới tiêu, mùa vụ. Để sản xuất nông nghiệp phát triển, vấn đề đặt ra
là kiên cố hoá kênh mương, chuyển một số diện tích đất một vụ thành hai vụ,
thâm canh tăng năng suất, tăng thu nhập từ các sản phẩm khác để cân đối đủ
lương thực cho vùng.
Cơ cấu cây trồng khá phong phú. Cây lương thực có Lúa, Ngô, Khoai,
Sắn,… Cây công nghiệp ngắn ngày có Lạc, Đậu các loại,… Cây công nghiệp
dài ngày có Cao su, Chè.
- Chăn nuôi:
Chăn nuôi gia súc, gia cầm đóng vai trò quan trọng đối với đời sống
người dân các xã trong vùng. Lợn và các loại gia cầm được nuôi chủ yếu lấy
thịt; Trâu, Bò được sử dụng làm sức kéo phục vụ sản xuất. Ở đây chăn nuôi

như một hình thức dự trữ của cải, khi cần thiết họ có thể bán hoặc trao đổi.
Hình thức chăn nuôi chủ yếu là hộ gia đình và chăn nuôi để lấy phân, sức kéo,
chưa trở thành hàng hoá, còn thả rông gia súc trong rừng, chưa có quy hoạch
vùng chăn thả.
Về nuôi trồng thuỷ sản mặc dù có tiềm năng nhưng chưa phát triển
Diện tích nuôi trồng toàn vùng 251 ha, sản lượng cá hàng năm chỉ đạt 624
tấn; giá trị nuôi trồng đạt 11.462 triệu đồng. Các xã ở huyện Nam Đông chủ
yếu nuôi cá tại các ao, hồ nhỏ theo phương thức hộ gia đình. Các xã ở huyện
Đông Giang hầu như không phát triển chăn nuôi cá nước ngọt, việc nuôi trồng
thuỷ sản còn hạn chế, chủ yếu là đào ao, hồ hoặc làm lồng nuôi cá với mục
đích cải thiện đời sống.

18
+ Sản xuất lâm nghiệp:
Trên địa bàn vùng mở rộng hiện có hai Ban quản lý phòng hộ đầu
nguồn làm nhiệm vụ quản lý bảo vệ và phát triển rừng đầu nguồn sông Tả
Trạch, Sông Kôn.
Mỗi huyện có ban quản lý điều hành thực hiện Chương trình trồng mới
5 triệu ha rừng (661). Hầu hết các xã đều tham gia thực hiện các hạng mục
của Dự án 661 (bảo vệ, trồng rừng, khoanh nuôi phục hồi rừng, ). Ngoài ra
các khuyến lâm, khuyến nông địa bàn cũng là một bộ phận quan trọng chỉ
đạo, hướng dẫn, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật sản xuất nông lâm nghiệp cho
các xã trong vùng.
Bình quân mỗi hộ gia đình được giao 01 ha rừng để canh tác nông lâm
nghiệp và một số hộ được giao rừng cộng đồng để quản lý bảo vệ và hưởng
lợi như ở Thượng Nhật,
Hoạt động sản xuất lâm nghiệp của nhân dân trong vùng chủ yếu là
nhận khoán trồng rừng, khoanh nuôi, bảo vệ rừng từ BQL rừng phòng hộ
Nam Đông, BQL rừng phòng hộ Sông Côn và VQG Bạch Mã. Hiện nay nhân
dân đã nhận thức được sản xuất lâm nghiệp đóng góp nhiều cho kinh tế hộ gia

đình. Theo số liệu điều tra xã hội học có khoảng 20% hộ gia đình nhận khoán
trồng và quản lý bảo vệ rừng của các dự án, mặc dù suất đầu tư đối với khoán
quản lý bảo vệ không cao (50.000đ/ha/năm), kết hợp đầu tư trồng rừng và
chăm sóc của các dự án là (4.000.000đ/ha). Nguồn thu nhập của một số hộ
tham gia sản xuất lâm nghiệp bình quân khoảng 2 triệu đồng/ năm, góp phần
ổn định đời sống kinh tế cho người dân.
 Cơ sở hạ tầng:
- Giao thông:
Hiện nay tất cả xã trong vùng đã có đường ô tô đến được UBND xã,
giao thông đi lại tương đối thuận lợi, có đường tỉnh lộ và đường dân sinh liên
thôn, xã.
- Điện:
Hiện nay được sự quan tâm của cấp trên và ngành điện lực toàn bộ các
xã trên khu vực đã có điện lưới quốc gia thắp sáng, tỷ lệ số hộ dùng điện
không đồng đều như Thượng Lộ 58,2%, Thượng Nhật 52,6%, Thượng Long
51,4%; Tà Lu 42,8%, A Ting 45,9%, xã Tư 48,2%,

19
- Giáo dục:
Hầu hết tất cả các xã đều có trường tiểu học. Các trường trung học cơ
sở và trung học phổ thông mới chỉ có trung tâm thị trấn và các xã vùng thấp.
Qua khảo sát cộng đồng cho thấy, về cơ sở vật chất chưa đáp ứng được điều
kiện học tập của các con em nhân dân sống xa trung tâm các xã. Ngoại trừ các
cơ sở chính, tất cả các cơ sở phụ của trường đều xuống cấp nghiêm trọng,
nhiều trường do thiếu phòng học, ngành giáo dục phải mượn các cơ sở của
chính quyền như: nhà đội sản xuất, nhà kho, để mở lớp học. Điều đó chưa
khuyến khích được khả năng theo học của các em nhất là các con em dân tộc
thiểu số, nạn bỏ học giữa cấp I, cấp II còn nhiều đó là vấn đề đáng báo động
cần sự quan tâm của các cấp chính quyền.
- Y tế: 100% các xã trong vùng đều có trạm y tế khám và chữa bệnh tại

chổ, nhưng hầu hết các trạm y tế đều thiếu về cơ sở vật chất, trang thiết bị
dụng cụ y tế còn lạc hậu, cơ sở y tế tạm bợ, cho nên việc khám chữa bệnh gặp
nhiều khó khăn.
- Thông tin văn hoá liên lạc:
100% các xã có điện lưới quốc gia nên người dân hiện nay nắm bắt được
các thông tin tương đối nhanh thông qua các phương tiện nghe nhìn và báo chí.
100% các xã có bưu điện, bưu cục, việc phát hành thư từ, báo chí đã
được chú trọng đến tận các vùng sâu, xa.
Một số xã miền núi như Thượng Nhật, Thượng Long, Ating, Sông Côn, đã
xây dựng nhà Rông, Gươl, trung tâm học tập cộng đồng.
- Thuỷ lợi:
Với sự đầu tư hỗ trợ của chương trình 135 hầu hết các xã thuộc tỉnh
Thừa Thiên Huế đã được bê tông hóa kênh mương.
- Nước sạch:
Các công trình cung cấp nước sinh hoạt trong vùng chủ yếu là do hỗ trợ
của nhà nước từ chương trình 135, UNICEP, ADB và một phần đóng góp của
nhân dân trong vùng. Tuy nhiên tỷ lệ dân cư dùng nước sạch trong vùng còn
thấp, nhiều hộ gia đình dùng ngay nguồn nước thuỷ lợi làm nước sinh hoạt.
Nguyên nhân là do thói quen của một bộ phận người dân tộc và trình độ hiểu
biết còn hạn chế.

20
+ Khó khăn thuận lợi chủ yếu:
- Thuận lợi:
Đất đai rộng, được sự quan tâm của chính quyền các cấp thông qua các
chính sách và dự án hỗ trợ nhằm cải thiện đời sống người dân địa phương.
- Khó khăn:
Địa hình chia cắt, độ dốc lớn, thiếu vốn, thiếu kiến thức khoa học kỹ
thuật và chịu ảnh hưởng của thiên tai.
4.1.4. Hiện trạng tài nguyên rừng tại khu vực nghiên cứu

 Hiện trạng thảm thực vật rừng:
Trong chương trình bảo tồn hệ sinh thái dãy Trường Sơn, VQG Bạch Mã
thuộc vùng sinh thái Trung Trường Sơn (sinh cảnh ưu tiên CA1-Trung Trường
Sơn) có giá trị bảo tồn ĐDSH quốc tế.
Rừng kín thường xanh mưa ẩm á nhiệt đới: Kiểu rừng này phân bố ở
những nơi có độ cao trên 900m. Diện tích phân bố của quần hệ rất hẹp, gồm
dải địa hình gần đỉnh dãy núi chủ yếu ở đai cao núi thấp đều được bao phủ
bởi loại rừng này, cấu trúc và thành phần loài khác biệt hẳn với rừng mưa ở
đai đất thấp. Rừng ở đây còn tồn tại chủ yếu rừng giàu và trung bình. Rừng ở
đây có cấu trúc 2-3 tầng, trong đó 1-2 tầng cây gỗ. Tầng cây bụi cỏ quyết
thường mọc xen lẫn, xâm nhập làm thành một tầng tương đối thưa thớt.
Rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới: Kiểu rừng này phân bố ở những
nơi có độ cao dưới 900 m. Ranh giới phân hoá đai cao căn cứ vào chỉ tiêu
nhiệt ẩm của khí hậu, phân biệt với quần hệ ở đai cao hơn (900m - 1.500m)
bởi cấu trúc và thành phần loài. Kiểu rừng này gồm đầy đủ các trạng thái rừng
giàu, trung bình, nghèo, phục hồi và đất trống.
 Đa dạng tài nguyên thực vật rừng:
Thành phần loài thực vật tại VQGBM rất đa dạng (gần 2500 loài hơn
336chi, 120 họ thực vật). Qua điều tra, đã xác định trong khu vực có 42 loài
thực vật bậc cao quý hiếm được ghi vào sách đỏ Việt Nam trong đó 10 loài
theo Nghị định 48/2002/NĐ-CP. Kết quả được trình bày ở bảng 1:

21
Bảng 1: Các lòai thực vật bậc cao quý hiếm có nguy cơ đe dọa
tại VQGBM
Tt Cấp đe dọa Ký hiệu Số lượng
(loài)
1 Đang nguy cấp E (Endangered) 3
2 Sẽ nguy cấp V (Vulnerable) 10
3 Hiếm R (Rare) 16

4 Bị đe dọa T (Threatened) 6
5 Chưa rõ thông tin K (Insuffcienty known) 7
Nguồn: vườn quốc gia Bạch Mã
Bảng 2: Tỷ lệ số loài thực vật hạt trần, hạt kín của hệ thực vật Bạch Mã
và hệ thực vật Việt Nam
Ngành
Bạch Mã Việt Nam
So với hệ thực vật
Việt Nam (%)
Số loài
Tỷ lệ
(%)
Số loài
Tỷ lệ
(%)
Hạt Trần
(Gymnospermatophyta)
21 1,43 54 0,54 38,89
Hạt kín
(Angiosnospermatophyta)
1448 98,57 9812 99,46 14,76
Tổng 1469 100 9866 100 14,89
Nguồn: Nguyễn Nghĩa Thìn (2004).
Qua bảng 2 cho thấy thực vật Hạt trần ở Bạch Mã chiếm tỷ lệ lớn
(38,89%) so với tổng số loài Hạt trần của Việt Nam. Điều đó cho chứng tỏ
được tính chất độc đáo của nền tảng địa chất, điều kiện địa hình, khí hậu cũng
như môi trường sống của khu vực Do đó Bạch Mã còn giữ lại được tính chất
nguyên sinh của hệ thực vật nhất là các loài Hạt trần á nhiệt đới khả năng duy
trì và phát triển hạn chế.
 Đa dạng sinh học khu hệ động vật rừng:

Bạch mã có khu hệ động vật hoang dã rất phong phú với nhiều loài đặc
hữu, quý hiếm và đặc biệt đây là vùng cư trú của loài Sao La. Qua điều tra

22
phỏng vấn đã xác định được về động vật có xương sống ở Bạch Mã có 65 loài
được ghi vào Sách Đỏ Việt Nam. Trong các loài quý hiếm có nguy cơ đe dọa,
lớp thú có số loài cao nhất, với 33 loài, lớp chim có 18 loài; lớp bò sát có 8 loài
và lớp Cá có 3 loài.
4.2. Đa dạng cây hạt trần ở vườn quốc gia Bạch Mã
4.2.1. Đa dạng về thành phần loài
Qua điều tra trên hai vùng sinh thái khác nhau ở vườn quốc gia
Bạch Mã, chúng tôi có được kết quả sau:
+ Vùng 1: Có độ cao <900m (Có các tuyến điều tra mang ký hiệu 1, 2, 3)
- Tuyến 1: Từ bãi đỗ xe km8 đi thác Trĩ Sao rồi đi ven sối thêm 1km.
Đặc điểm: Rừng ở đây là rừng phục hồi, cây gỗ chủ yếu là gỗ nhỏ
và gỗ nhở, thành phần loài cây gỗ đa dạng nhiều chủng loại, có nhiều dây leo.
Thảm thực bì ưu thế bởi Đót, Lá Nón
Thực vật hạt trần trên tuyến gồm các loài sau: Thông Tre
(Podocarpus neriifolius), Dây Gắm (Gnetum indicum). Trên tuyến này đã
điều tra 3 ô tiêu chuẩn (Kí hiệu ô: 1, 2, 3.), kết quả thể hiện ở bảng 3:
Bảng 3: Thành phần cây loài hạt trần ở 3 ô tiêu chuẩn của tuyến điều tra 1
Tên họ Tên loài
Việt
Nam
Khoa
Học
Việt Nam Khoa Học
Dây
Gắm
Gnetacea

e
Dây Gắm bông
nhỏ
Gnetum
leptostachyum
2/3 6,67 22,22
Dây Gắm
Gnetum
indicum
3/3 10 33,33
Dây Gắm lá rộng
Gnetum
latifolium
4/3 13,33 44,44
Qua số liệu ở bảng 3, chúng tôi nhận thấy: Với tuyến điều tra này, vùng
có độ cao thấp (<900m), chủ yếu là ven suối. Cây hạt trần hạn chế cả về thành
phần loài và số lượng cá thể, ưu thế rõ bỡi các cây thuộc họ dây Gắm.
- Tuyến 2: Theo đường mòn ô tô, từ chân lên km14.
Đặc điểm: Ở đai thấp, rừng ít cây gỗ chủ yếu là các cây tiên phong và một số
thông ba lá, thông hai lá được trồng trong thời kì thuộc Pháp. Ở đai cao hơn,

23
chủ yếu là cây gỗ nhỏ, nhở, tại km14 có nhiều cây gỗ lớn. Địa hình của tuyến
có độ dốc lớn.
Thực vật hạt trần trên tuyến gồm các loài sau: Thông Ba Lá (Pinus
kesiya), Thông Hai Lá (Pinus merkusii), Thông Tre (Podocarpus neriifolius),
Dây Gắm (Gnetum indicum), Dây Gắm lá rộng (Gnetum latifolium). Trên
tuyến này điều tra hai ô tiêu chuẩn ( kí hiệu ô: 4, 5), kết quả thể hiện ở bảng 4:
Bảng 4: thành phần cây hạt trần ở 2 ô tiêu chuẩn của tuyến điều tra 2.
Tên họ Tên loài n

(cây/ô)
N
(cây/ha)
G
(%)
Việt
Nam
Khoa Học Việt Nam Khoa Học
Kim
Giao
Podocarpaceae
Hoàng Đàn
Giả
Dacrydium
elatum
2/2 10 16,67
Thông Tre
Podocarpus
neriifolius
3/2 15 25
Dây
Gắm
Gnetaceae Dây Gắm Gnetum indicum 2/2 10 16,67
Dây Gắm lá
rộng
Gnetum latifolium 4/2 20 33,33
Dây Gắm bông
nhỏ
Gnetum
leptostachyum

1/2 5 8,33
Tuyến điều tra này có độ dốc tương đối lớn, có sự thay đổi thành phần
cây gỗ theo độ cao, có đủ các trạng thái rừng. Cây Hạt Trần nhiều về thành
phần loài nhưng còn hạn chế về số lượng cây. Ưu thế vẩn là các cây thuộc họ
Dây Gắm.
Đã có sự xuất hiện của Hoàng Đàn Giả ở những ô tiêu chuẩn ở đai cao.
- Tuyến 3: Từ km14 đi hồ Truồi, tuyến này rừng ưu thế bởi cây gỗ, có rừng
trung bình, rừng phục hồi và rừng giàu. Địa hình tuyến phức tạp độ dốc lớn.
Thực vật hạt trần trên tuyến gồm các loài sau: Thông Tre (Podocarpus
neriifolius), Dây Gắm (Gnetum indicum), Dây Gắm Lá Rộng (Gnetum
latifolium), Tuế Trạm Lụi (Cycas chevalieri). Trong tuyến này điều tra 2 ô
tiêu chuẩn (kí hiệu ô: 6, 7), kết quả thể hiện ở bảng 5.

24
Bảng 5: thành phần cây hạt trần ở 2 ô tiêu chuẩn của tuyến điều tra 3
Tên họ Tên loài
Việt Nam
Khoa học Việt Nam Khoa Học
Kim Giao Podocarpaceae Hoàng Đàn Giả
Dacrydium elatum
1/2 5 10
Thông Tre
Podocarpus
neriifolius
3/2 15 30
Dây Gắm Gnetaceae Dây Gắm
Gnetum indicum
2/2 10 20
Dây Gắm lá rộng
Gnetum latifolium

3/2 15 30
Tuế Cycadaceae Tuế Trạm Lụi
Cycas chevalieri
1/2 5 10
2
5

×