Tải bản đầy đủ (.doc) (121 trang)

Những biến đổi về đời sống tinh thần của đồng bào dân tộc khơ mú ở miền tây nghệ an trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (510.91 KB, 121 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

CỤT THỊ NGUYỆT
NHỮNG BIẾN ĐỔI VỀ ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA ĐỒNG BÀO
DÂN TỘC KHƠ MÚ Ở MIỀN TÂY NGHỆ AN TRONG QUÁ TRÌNH
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA HIÊN NAY
Chuyên ngành: CHÍNH TRỊ HỌC
Mã số: 60.14.10
LUẬN VĂN THẶC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. NGUYỄN LƯƠNG BẰNG


Nghệ An, 2014
1
LỜI CẢM ƠN
Tác giả rất vinh dự là một trong số học viên đầu tiên được học, nghiên
cứu về chuyên ngành Chính trị học thuộc chương trình đào tạo sau Đại học -
khóa XX của Trường Đại học Vinh. Xin trân trọng cảm ơn các đồng chí lãnh
đạo huyện ủy, UBND, các phòng, ban ngành liên quan của các huyện Kỳ Sơn,
Tương Dương, Quế Phong, Ủy ban dân tộc (UBDT) Chính Phủ, Ban Dân tộc
tỉnh Nghệ An đã nhiệt tình giúp đỡ, cung cấp thông tin tài liệu, tạo điều kiện và
hỗ trợ về mặt thực tiễn, đóng góp nhiều ý kiến quý báu cho việc nghiên cứu và
hoàn thiện đề tài.
Tác giả xin chân thành cảm ơn: phòng Đào tạo sau Đại học, Hội đồng
khoa học, các giảng viên của trường Đại học Vinh đã tận tình, chu đáo giảng
dạy, giúp đỡ và hướng dẫn trong quá trình học tập và nghiên cứu. Tác giả xin
bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc đến PGS.TS Nguyễn Lương Bằng,
người đã luôn quan tâm, theo dõi, động viên để tác giả có đủ sự tự tin vượt
qua những khó khăn. Đồng thời tận tâm bồi dưỡng kiến thức, năng lực tư duy,


phương pháp nghiên cứu và trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ tác giả hoàn thành
Luận văn này.
Dù bản thân tác giả đã có nhiều cố gắng, song không thể tránh khỏi
những thiếu sót, hạn chế nhất định. Tác giả mong nhận được sự chỉ dẫn và
góp ý của các thầy cô giáo, bạn bè đồng nghiệp các độc giả để Luận văn được
hoàn thiện và đề tài có giá trị ứng dụng thực tiễn cao hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Nghệ An, tháng 8 năm 2014
Tác giả
Cụt Thị Nguyệt
2
MỤC LỤC
MỤC CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT
CHDCND : Cộng hòa dân chủ nhân dân
CHXHCN : Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
CN - TT : Công nghệ - thông tin
CNH - HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CBRIP : Dự án trung tâm dựa vào cộng đồng
DTTS : Dân tộc thiểu số
ĐBDT : Đồng bào dân tộc
GS. TS : Giáo sư. Tiến sĩ
KT - XH : Kinh tế, xã hội
QP - AN : Quốc phòng, an ninh
THCS : Trung học cơ sở
KH - KT : Khoa học - kỹ thuật
KHCN : Khoa học công nghệ
3
XĐGN : Xóa đói giảm nghèo
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
UBND : Ủy ban nhân dân

UBDT : Ủy ban dân tộc
VHXH : Văn hóa xã hội
A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(bổ sung, phát triển năm 2011), đã xác định: “Thực hiện chính sách bình
đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện
để các dân tộc cùng phát triển, gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của
cộng đồng dân tộc Việt Nam. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa, ngôn ngữ,
truyền thống tốt đẹp của các dân tộc. Chống tư tưởng kỳ thị và chia rẽ dân
tộc. Các chính sách kinh tế - xã hội phải phù hợp với đặc thù của các vùng và
các dân tộc nhất là dân tộc thiểu số”. Trong Hội nghị đại biểu các dân tộc
thiểu số Việt Nam, Hồ Chí Minh đã nêu lên những chủ trương cụ thể, thiết
thực đối với đồng bào miền núi, Người nói: Anh em thiểu số chúng ta sẽ
được:
1. Dân tộc bình đẳng: Chính phủ sẽ bãi bỏ hết những điều hủ tệ cũ, bao
nhiêu bất bình trước sẽ sửa chữa đi.
4
2. Chính phủ sẽ gắng sức giúp cho các dân tộc thiểu số về mọi mặt:
a) Về kinh tế, sẽ mở mang nông nghiệp cho các dân tộc được hưởng.
b) Về văn hóa, Chính phủ sẽ chú ý trình độ học thức cho dân tộc.
Miền Tây tỉnh Nghệ An với tổng diện tích tự nhiên 13.747,69 km
2
,
chiếm 83,36% diện tích toàn tỉnh; có 11 đơn vị hành chính cấp huyện và 217
đơn vị hành chính cấp xã, trong đó có 195 xã miền núi, 27 xã biên giới với
419 km đường biên với nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào, có 01 cửa
khẩu quốc tế (Nậm Cắn, huyện Kỳ Sơn), 01 cửa khẩu quốc gia (Thanh Thuỷ,
huyện Thanh Chương) và 03 cửa khẩu phụ (Tam Hợp, huyện Tương Dương;
Thông Thụ, huyện Quế Phong và Cao Vều, huyện Anh Sơn). Dân số toàn

vùng 1.131.000 người, chiếm 36,93% dân số toàn tỉnh; đồng bào dân tộc thiểu
số có 41 vạn người, chiếm 38,4% dân số toàn miền Tây. Trong đó, dân tộc
Khơ Mú đến lập nghiệp ở nước ta từ khoảng từ 200 năm; ở Nghệ An có
35.670 người, chiếm 48,9% tổng số người Khơ Mú tại Việt Nam (trong đó ở
huyện Kỳ Sơn có 24.099 người chiếm 67,56%).
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở miền Tây Nghệ An trong
những năm qua không chỉ góp phần tích cực vào việc cải thiện nâng cao đời
sống vật chất mà còn là động lực to lớn dẫn đến những biến đổi tích cực trên
nhiều mặt trong đời sống tinh thần của đồng bào dân tộc ít người, như đời
sống chính trị, đạo đức, pháp luật, khoa học, công nghệ v.v Song, mặt trái
của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng không ít những hạn chế, tiêu
cực ít nhiều ảnh hưởng đến đời sống tinh thần của đồng bào các dân tộc. Đó
là sự phân hóa giàu nghèo; môi trường ô nhiễm; các tai tệ nạn xã hội… đã và
đang len lỏi vào tận những vùng xa, vùng sâu của đồng bào dân tộc ít người.
Do đó, việc nâng cao đời sống tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số nói
chung và đồng bào dân tộc Khơ Mú nói riêng ở miền Tây Nghệ An vừa là
mục tiêu vừa là động lực của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện
nay. Và nó cũng là một trong những phương hướng cơ bản, chủ yếu vừa có
tính trước mắt, vừa có tính lâu dài nhằm đánh bại âm mưu “diễn biến hòa
5
bình” của các thế lực thù địch trong và ngoài nước, củng cố khối đại đoàn
kết toàn dân.
Nghiên cứu, tìm hiểu một cách toàn diện và hệ thống “Những biến đổi về
đời sống tinh thần của đồng bào dân tộc Khơ Mú ở miền Tây Nghệ An trong
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay” là vấn đề có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng cả về mặt lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đời sống vật chất và đời sống tinh thần của cộng đồng các dân tộc thiểu
số ở nước ta trong những năm qua đã thu hút khá nhiều nhà khoa học quan
tâm, nghiên cứu. Trước hết, phải kể đến công trình “Vấn đề dân tộc và chính

sách dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam”, Ban Tư tưởng Văn hóa Trung
ương, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, cuốn sách đã đề cập một số vấn
đề chung về dân tộc, quan hệ dân tộc trên thế giới và tình hình đặc điểm chủ
yếu, mối quan hệ giữa các dân tộc ở Việt Nam, cùng những chính sách dân
tộc của Đảng và Nhà nước ta; “Truyền thống văn hóa các dân tộc Việt Nam”
của GS.Vũ Ngọc Khánh, Nxb. Thanh Niên, 2004, tác giả đã khái quát một số
tri thức về đất nước, con người, văn hóa, phong tục, lễ hội… của các dân tộc
ít người ở nước ta; “Công bằng và bình đẳng xã hội trong quan hệ dân tộc ở
các quốc gia đa dân tộc”, PGS.TS. Nguyễn Quốc Phẩm (chủ biên), Nxb Lý
luận Chính trị, Hà Nội, 2006, trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh về công bằng, bình đẳng xã hội, từ góc độ dân tộc
và giai cấp các tác giả công trình đã đề xuất một số kiến nghị thực hiện công
bằng, bình đẳng xã hội trong các dân tộc, trong sự phát triển kinh tế - xã hội ở
các vùng dân tộc thiểu số và miền núi nước ta; “Những vấn đề cơ bản về
chính sách dân tộc ở nước ta hiện nay”, PGS.TSKH. Phan Xuân Sơn - ThS.
Lưu Văn Quảng (chủ biên), Nxb. Lý luận Chính trị, Hà Nội, 2006, cuốn sách
đã giúp cho chúng ta nắm được những nội dung cơ bản về dân tộc, chính sách
dân tộc của Đảng và Nhà nước ta qua các giai đoạn cách mạng và những vấn
đề đang đặt ra cho việc thực hiện chính sách dân tộc, cùng những quan điểm,
nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện tốt chính sách dân tộc hiện nay;
6
“Bảo đảm bình đẳng và tăng cường hợp tác giữa các dân tộc trong phát triển
kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay”, GS.TS. Hoàng Chí Bảo (chủ biên), Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, cuốn sách đề cập vấn đề bức xúc về dân tộc
trong quá trình đổi mới ở nước ta hiện nay, như vấn đề bình đẳng, công bằng
và hợp tác giữa các dân tộc, cùng thực trạng, mục tiêu hướng tới việc thực
hiện các chính sách dân tộc ở nước ta; đồng thời cuốn sách nêu lên những
quan điểm, phương hướng và giải pháp nhằm bảo đảm công bằng, bình đẳng
và tăng cường hợp tác giữa các dân tộc trong quá trình phát triển kinh tế - xã
hội tại vùng đa dân tộc ở nước ta hiện nay; “Một số điểm nóng chính trị - xã

hội điển hình tại các vùng đa dân tộc ở miền núi trong những năm gần đây -
hiện trạng, vấn đề các bài học kinh nghiệm trong xử lý tình huống”, của
GS.TS. Lưu Văn Sùng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tác giả đã khái
quát hoàn cảnh phát sinh, diễn biến và tính chất các điểm nóng chính trị xã
hội ở một số vùng, như đồng bằng sông Hồng, miền núi Tây Bắc, Tây
Nguyên và Tây Nam Bộ đồng thời tìm ra các giải pháp để ngăn ngừa, khắc
phục; “Phát triển nguồn cán bộ dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi phía
Bắc ở nước ta hiện nay”, TS. Lô Quốc Toản, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2010, tác giả đã làm sáng tỏ một số khái niệm cơ bản, đó là khái niệm
“phát triển”, “Nguồn cán bộ”, “Cán bộ dân tộc thiểu số” và phân tích
thực trạng công tác phát triển nguồn cán bộ dân tộc thiểu số ở các tỉnh
miền núi phía Bắc nước ta
Kế đến là đề tài “Đời sống tinh thần của nông dân Việt Nam hiện nay -
thực trạng và xu hướng biến đổi”, PGS.TS. Vũ Duy Thông làm chủ nhiệm đề
tài. “Di sản văn hóa các dân tộc thiểu số trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa” của Trần Văn Bản (chủ biên) Nxb. Lý luận Chính trị, Hà Nội,
năm 2006; Những tác phẩm khá đồ sộ của GS.Viện sĩ. Trần Ngọc Thêm, như
“Cơ sở văn hóa Việt Nam”,“Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam”, đã phản ánh
được phần nào về đời sống tinh thần của dân tộc Việt Nam nói chung và đồng
bào dân tộc ít người miền Đông Nam Bộ nói riêng. Trong tài liệu cũng đã đề
cập những biến đổi của đời sống tinh thần xã hội dưới tác động của công
7
nghiệp hóa, hiện đại hóa, tuy nhiên mới chỉ dừng lại những nét chung nhất và
khái quát. Tác giả Đào Duy Thanh với công trình “Bản chất và quy luật của
đời sống tinh thần”, cũng đã chỉ ra những quy luật cơ bản chi phối sự vận
động, phát triển của đời sống tinh thần xã hội v.v
Nguyễn Lương Bằng (2009), Phát triển nguồn nhân lực miền Tây
Nghệ An trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa Kỷ yếu Hội thảo khoa
học: Chương trình nghiên cứu Miền Tây Nghệ An, Đại học Vinh, 2009. tr13-
16. Nguyễn Lương Bằng (2012), Đại đoàn kết dân tộc - động lực cơ bản của

sự phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Tạp chí Đại học Sài
Gòn, số 4. 2010, tr.16-22, đã phân tích và đề xuất các giải pháp về đào tạo
nguồn nhân lực và vấn đề đoàn kết các dân tộc tạo ra động lực của sự phát
triển xã hội.
Khi đề cập đến tình hình nghiên cứu đề tài, không thể không quan tâm đến
các công trình như: Dân tộc Khơ mú ở Việt Nam, Khổng Diễn (chủ biên) (1999),
Nxb. Văn hóa dân tộc. Hoàng Xuân Lương (chủ biên, 2005), Người Kưm mụ
ở Nghệ An, Nxb Nghệ An. Nguyễn Đình Lộc (2009), Các dân tộc thiểu số ở
Nghệ An, Nxb Nghệ An và Đặc trưng văn hóa và truyền thông cách mạng
các dân tộc ở Kỳ Sơn, Nghệ An. Huyện ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân
dân huyện Kỳ Sơn (1995), Nxb. Chính trị Quốc gia.
Quyết định số: 2355/2013/QĐ-TTg ngày 04 tháng 12 năm 2013 của
Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án "phát triển kinh tế - xã hội
Miền Tây nghệ An đến năm 2020" đã nghiên cứu toàn diện các lĩnh vực, các
dân tộc ở miền Tây Nghệ An. Cho đến nay có nhiều bài viết, đề tài, sách xuất
bản liên quan đến nhiều khía cạnh, góc độ và lát cắt khác nhau về vấn đề dân
tộc ít người. Nhưng cho đến nay chưa có công trình chuyên biệt nào nghiên
cứu, tìm hiểu một cách toàn diện và hệ thống “Những biến đổi về đời sống
tinh thần của đồng bào dân tộc Khơ Mú ở miền Tây Nghệ An trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay”. Vì thế, chúng tôi chọn vấn đề này để
làm đề tài luận văn thạc sĩ.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
8
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là nhằm góp phần làm sáng tỏ thêm
những vấn đề lý luận về đời sống tinh thần xã hội và thực trạng biến đổi đời
sống tinh thần của đồng bào dân tộc Khơ Mú ở miền Tây Nghệ An dưới tác
động của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay; từ đó đề xuất
những phương hướng, giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao đời sống tinh thần
của đồng bào dân tộc Khơ Mú ở miền Tây Nghệ An.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận về đời sống tinh thần của đồng bào dân tộc Khơ
Mú ở miền Tây Nghệ An.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng một số vùng có đồng bào dân tộc Khơ
Mú ở miền Tây Nghệ An nhằm tìm hiểu về đời sống vật chất và tinh thần của
đồng bào.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp nâng cao đời sống tinh thần của
đồng bào dân tộc Khơ Mú ở miền Tây Nghệ An trong giai đoạn hiện nay.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu những biến đổi về đời sống tinh thần của
đồng bào dân tộc Khơ Mú ở miền Tây Nghệ An với quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu thực trạng biến đổi về đời sống tinh thần của đồng bào dân
tộc Khơ Mú ở miền Tây Nghệ An.
5. Cơ sở lý luận và Phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Để hoàn thành những nội dung trên, đề tài sẽ dựa trên cơ sở lý luận, thế
giới quan, phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử. Các quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà
nước về đời sống tinh thần của đồng bào các dân tộc với quá trình công
9
nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay, các công trình khoa học khác có liên quan
đến đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng một số phương pháp như phương pháp thống nhất giữa
lôgic và lịch sử, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp so sánh,
phương pháp thống kê, phương pháp điều tra xã hội học, và phương pháp

phỏng vấn v.v để nghiên cứu, trình bày đề tài.
Nội dung đề tài liên quan rất nhiều đến các lĩnh vực, phương diện khác
nhau của đời sống tinh thần nên ngoài các phương pháp nghiên cứu cơ bản,
để nghiên cứu đề tài tác giả đã trực tiếp đi thực tế các sự kiện, lễ hội, để tìm
hiểu trực tiếp, từ đó tổng kết, khái quát những vấn đề mang tính lý luận về đời
sống tinh thần của đồng bào dân tộc Khơ Mú ở miền Tây Nghệ An.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Về ý nghĩa lý luận, đề tài góp phần làm phong phú, sâu sắc thêm lý luận
về biện chứng giữa quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa với việc không
ngừng cải thiện, nâng cao đời sống tinh thần của các cộng đồng dân tộc ít
người; về vấn đề đồng bào dân tộc Khơ Mú ở miền Tây Nghệ An.
Đây là những vấn đề lý luận vừa mang tính thời sự, vừa mang tính
chiến lược và cốt lõi, mấu chốt phản ánh bản chất nhân văn của quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn ở nước ta hiện nay.
Lý luận về đời sống tinh thần của đồng bào dân tộc là chìa khóa góp
phần khai thông, tháo gỡ những ách tắc, cản trở và bất bình trong các cá nhân,
gia đình ở một số cộng đồng dân tộc dân tộc Khơ Mú ở miền Tây Nghệ An
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đến các vùng nông thôn, rừng
núi, vùng sâu và vùng xa của Nghệ An. Nơi giữ vị trí chiến lược quan trọng
cả về kinh tế và địa - chính trị của khu vực biên giới của đất nước ta.
Về ý nghĩa thực tiễn, đề tài nghiên cứu bức tranh toàn cảnh về những
biến đổi của đời sống tinh thần trong đồng bào dân tộc Khơ Mú ở miền Tây
Nghệ An từ đó đề xuất phương hướng, giải pháp góp phần cải thiện, nâng
10
cao đời sống tinh thần trong đồng bào dân tộc Khơ Mú ở miền Tây Nghệ An
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Đề tài sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác tuyên giáo, dân vận
và dân tộc; có thể làm cơ sở cho tỉnh Đảng bộ Nghệ An đề các quyết sách về
vấn đề dân tộc Khơ Mú trong bối cảnh hiện nay.
7. Kết cấu đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
đề tài được kết cấu bởi 03 chương, 09 tiết.

B. NỘI DUNG
Chương 1
ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA ĐỒNG BÀO CÁC DÂN TỘC TRONG
QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA HIỆN NAY
1.1. Các khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài
1.1.1. Khái niệm đời sống tinh thần và kết cấu của nó.
- Khái niệm tinh thần
Xem xét thế giới ở góc độ triết học ngay từ thời cổ đại người ta đã chia
thế giới thành hai lĩnh vực vật chất và tinh thần. Trong đời sống của con
người cũng chia thành hai lĩnh vực là đời sống vật chất và đời sống tinh thần.
Khái niệm vật chất và khái niệm tinh thần trải qua các giai đoạn lịch sử khác
nhau, các quốc gia, các trường phái triết học khác nhau được diễn đạt thể hiện
ở những thuật ngữ khác nhau nhưng nội hàm và ngoại diên của nó vẫn không
thay đổi.
11
Triết học mácxít dùng phạm trù ý thức xã hội để chỉ mặt tinh thần của
đời sống xã hội và phạm trù tồn tại xã hội để chỉ đời sống vật chất và những
điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội. Tuy nhiên, phạm trù ý thức xã hội
chưa phản ánh hết được tính phong phú, đa dạng về tinh thần xã hội. Cho nên
khái niệm tinh thần thường được xem xét trong mối tương quan với vật chất
của xã hội. Vận dụng tư tưởng này vào đời sống thực tiễn, khái niệm tinh thần
được diễn đạt theo các cách khác nhau, phổ biến nhất khái niệm tinh thần
được hiểu là “tổng thể những ý nghĩ, tình cảm v.v , những hoạt động thuộc về
nội tâm của con người. Những thái độ, ý nghĩ định hướng cho hoạt động,
quyết định hành động của con người” [54,tr.961]. Tinh thần, theo nghĩa rộng
là khái niệm đồng nhất với khái niệm ý thức, tức toàn bộ tri thức, tình cảm, ý
chí, niềm tin… của con người, phản ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách

quan, dựa trên cơ sở thực tiễn lịch sử - xã hội.
- Khái niệm đời sống:
Khi đề cập đến khái niệm đời sống tức là nói đến hoạt động của sinh
vật. Theo nghĩa rộng khái niệm đời sống được hiểu là toàn bộ nói chung
những hiện tượng diễn ra ở cơ thể sinh vật trong suốt khoảng thời gian sống.
Hay toàn bộ nói chung những điều kiện sinh hoạt của con người, của xã hội.
Theo nghĩa hẹp đời sống được hiểu là “toàn bộ nói chung những hoạt động
trong một lĩnh vực nào đó của con người, của xã hội” [54, tr.7].
Có thể nói tất cả mọi hoạt động liên quan đến con người đều mang trong
đó gọi là đời sống vì suy cho cùng thì mọi hoạt động chỉ có thể là hoạt động
vật chất hoặc là hoạt động tinh thần. Theo đó, chúng ta có thể phân khái
niệm đời sống gồm hai lĩnh vực: đời sống vật chất và đời sống tinh thần.
Tuy nhiên, sự phân chia này chỉ mang tính tương đối. Bởi vì chúng tồn tại
đan xen lẫn nhau, hoà quyện nhau, đời sống vật chất là sự vật chất hoá các
giá trị tinh thần và các giá trị đời sống tinh thần không phải là nó chỉ tồn tại
dưới dạng tinh thần thuần tuý mà nó được vật thể hoá dưới dạng vật chất.
Khái niệm đời sống của con người liên quan chặt chẽ với khái niệm văn
hóa theo nghĩa rộng nhất, văn hóa là toàn bộ giá trị vật chất và giá trị tinh
12
thần do con người sáng tạo ra bằng lao động của mình, để từ đó phân ra văn
hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Tuy nhiên, sự phân biệt giữa văn hóa vật
chất và văn hóa tinh thần chỉ có ý nghĩa tương đối bởi không có giá trị vật
chất nào không bao hàm trong nó các giá trị tinh thần, cũng như không có
giá trị tinh thần nào tồn tại ngoài những hình thức vật chất của nó.
- Khái niệm đời sống tinh thần
Đời sống tinh thần là nói đến tất cả nội dung và cách thức hoạt động trên
lĩnh vực tinh thần của con người và xã hội trong điều kiện kinh tế - xã hội
nhất định, bao gồm cả hoạt động sáng tạo và hưởng thụ các giá trị văn hóa vì
sự phát triển của con người và cộng đồng. Chất lượng của đời sống tinh thần
xã hội được thể hiện ở trình độ của đời sống văn hóa tinh thần. Đời sống tinh

thần không phải là bất di bất dịch, khép kín, hay một cơ cấu tĩnh tại, mà là
một tổng thể đang vận động của các giá trị tinh thần, được thực hiện thông
qua hoạt động của con người trên các lĩnh vực khác nhau của sự sáng tạo và
hưởng thụ các giá trị tinh thần. Chỉ trong hoạt động văn hóa tinh thần, các giá
trị tinh thần mới được tạo ra, được tiếp nhận và thấm sâu vào từng người,
từng cộng đồng, định hướng cho tư duy, suy nghĩ chỉ đạo hành vi, thái độ ứng
xử của cá nhân và cộng đồng trong mối quan hệ với mình, với người, với xã
hội và với môi trường tự nhiên.
Tiêu chí cơ bản để xem xét và đánh giá đời sống tinh thần của một con
người hay một cộng đồng là trình độ hiểu biết, ứng xử của con người, sự
phát triển về các mặt chân - thiện - mỹ của mọi hoạt động và quan hệ của
con người hay cộng đồng đó. Hoạt động sản xuất tinh thần là quá trình tìm
tòi, sáng tạo ra các giá trị chân - thiện - mỹ nhằm đáp ứng nhu cầu văn hóa
tinh thần của con người và xã hội. Trong đời sống xã hội nói chung, đời
sống tinh thần của con người rất phong phú, đa dạng, nhiều màu sắc, gồm
những lĩnh vực hoạt động khác nhau. Hoạt động hưởng thụ, tiêu dùng các
giá trị tinh thần là quá trình con người lựa chọn, tiếp. Thực ra không phải bất
cứ hiện tượng nào được tạo ra từ hoạt động tinh thần đều là văn hóa tinh
thần. Chỉ những sản phẩm, hoạt động tinh thần nào biểu hiện và thúc đẩy
13
phát triển những năng lực và phẩm chất con người, hoàn thiện con người và
xã hội theo hướng chân, thiện, mỹ mới được mang nghĩa là văn hóa tinh
thần.
Theo Từ điển bách khoa văn hóa học, văn hóa tinh thần là “Toàn bộ
kinh nghiệm “tinh thần” của nhân loại, các hoạt động “trí tuệ” và “tâm hồn”
cùng những kết quả của chúng, bảo đảm xây dựng con người với tính chất
những nhân cách, tác động dựa trên ý chí và sáng kiến.
Từ định nghĩa trên ta thấy rằng, văn hóa tinh thần không chỉ là hoạt
động tinh thần mà còn đề cập đến kết quả hay giá trị của hoạt động đó trong
những điều kiện lịch sử xã hội nhất định nhằm phát triển hoàn thiện phẩm

chất nhân cách của con người, mặt khác nêu lên được những hình thức tồn
tại của văn hóa tinh thần, cho nên nó là nền tảng của đời sống tinh thần của
xã hội.
Việc phân chia văn hóa thành văn hóa vật chất (đời sống vật chất) và
văn hóa tinh thần (đời sống tinh thần) trong thực tế cũng chỉ mang tính
tương đối. Bởi vì có những công trình kiến trúc, những món ăn, trang
phục… không chỉ được tạo ra nhằm thõa mãn nhu cầu vật chất của con
người, mà nó còn chứa đựng những giá trị tinh thần trong đó và nó trở
thành biểu tượng văn hóa cho một quốc gia dân tộc.
Khi xác định vấn đề cơ bản của triết học, Ph.Ăngghen viết: “Vấn đề cơ
bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa
tư duy với tồn tại” [25,tr.403] hay còn gọi là mối quan hệ giữa vật chất và ý
thức, ở đây tinh thần được dùng đồng nghĩa với khái niệm tư duy - sản phẩm
cao nhất của một dạng vật chất đặc biệt là bộ não người, phản ánh tích cực thế
giới khách quan trong các khái niệm, phán đoán, suy luận… là hình ảnh chủ
quan của thế giới khách quan.
Các nhà triết học duy vật siêu hình coi tinh thần là cái có tính thứ hai
so với giới tự nhiên. Chủ nghĩa duy vật biện chứng bác bỏ quan niệm coi
tinh thần là cái gì đó tồn tại độc lập với vật chất. Tinh thần là sản phẩm của
vật chất, có nguồn gốc từ vật chất. Đời sống tinh thần của xã hội phản ánh
14
đời sống vật chất của xã hội và có tác động tích cực trở lại đối với đời sống
vật chất của xã hội. Từ điển triết học định nghĩa:“Văn hóa tinh thần là toàn
bộ những hình thức của đời sống tinh thần của xã hội” [53,tr.973]. Theo
định nghĩa này thì nội hàm và ngoại diên của khái niệm đời sống tinh thần
đồng nhất với nội hàm và ngoại diên của khái niệm văn hóa tinh thần. Đây
là định nghĩa theo nghĩa rộng nhất.
1.1.2. Các phương diện chủ yếu của đời sống tinh thần
Trước hết, về hoạt động tư tưởng
Hệ tư tưởng là trình độ phát triển cao của tư tưởng, đó là tư tưởng được

khái quát hóa thành hệ thống chặt chẽ, thể hiện thế giới quan, nhân sinh
quan của một giai cấp, được truyền bá vào xã hội một cách có mục đích
nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp. Là hoạt động cơ bản và quan trọng trong
đời sống tinh thần của xã hội, là một bộ phận của hoạt động tinh thần của
con người, thuộc hình thái ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội và trên cơ sở
đó xác định con đường để cải tạo xã hội, cải tạo thế giới. Hoạt động tư tưởng
góp phần hình thành thế giới quan khoa học, thế giới quan khoa học là hệ
thống các quan điểm về thế giới tự nhiên, xã hội và các quy luật vận động và
phát triển của chúng, về cách thức và con đường nhận thức và cải tạo thế
giới. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào thống trị xã hội thì hệ tư tưởng
của giai cấp đó cũng giữ địa vị thống trị trong đời sống tinh thần của xã hội.
Thế giới quan khoa học không chỉ bao gồm tri thức, nhận thức, quan
niệm mà còn được chuyển hóa thành niềm tin, tình cảm và định hướng cho
mọi hành động. Chính tình cảm, niềm tin được hình thành, cũng cố và phát
triển trên cơ sở của tri thức, có vai trò là kim chỉ nam, định hướng cho hoạt
động và quan hệ giữa con người và xã hội cũng như đối với thế giới xung
quanh. Do vậy hoạt động tư tưởng có nhiệm vụ “đem lại được những tri thức
đúng đắn, cũng cố được niềm tin, rèn luyện được ý chí cách mạng và tinh
thần lạc quan trước tiền đồ của đất nước” [51,tr.3]. Văn kiện Hội nghị trung
ương Năm, khóa VIII của Đảng ta đã chỉ rõ: “hệ tư tưởng là cốt lõi của văn
hóa, là định hướng cơ bản cho đời sống tinh thần xã hội” Đảng Cộng sản
15
Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ Năm BCHTƯ khóa VIII,
Nxb.CTQG,HN,1998, tr.20. Hoạt động tư tưởng là hoạt động chủ đạo, quy
định trình độ và phẩm chất của đời sống tinh thần, đem lại tri thức đúng đắn,
củng cố được niềm tin, rèn luyện ý chí và tinh thần lạc quan cách mạng cho
mỗi cá nhân và cộng đồng nhân tố hàng đầu bảo đảm cho đời sống tinh
thần xã hội phát triển đúng hướng [12,tr.20].
Thứ hai, về lĩnh vực hoạt động văn hóa nghệ thuật
Hoạt động văn hóa nghệ thuật là sự phản ánh cuộc sống thông qua các

hình tượng nghệ thuật, là sự sáng tạo ra những sản phẩm vật thể hoặc phi vật
thể chứa đựng những giá trị lớn về tư tưởng, thẩm mỹ mang tính chất văn
hóa làm rung động cảm xúc, tư tưởng, tình cảm cho người thưởng thức.
Nghệ thuật bao giờ cũng hướng đến cái đẹp, nó không chỉ có chức năng đơn
thuần là giải trí mà còn bồi dưỡng cho con người về trí tuệ, đạo đức, tâm
hồn, lối sống và phát huy sự sáng tạo của con người. Đây là lĩnh vực hoạt
động có tính chất đặc trưng, mang tính thẩm mỹ cao nhất trong các hoạt
động sáng tạo giá trị tinh thần, có tính giáo dục, cảm hóa mạnh mẽ đối với
con người. Nghệ thuật là một trong những hình thức hoạt động cơ bản trong
đời sống tinh thần của con người. Nghệ thuật không chỉ thu hút sự chú ý của
một số người mà thường có tính phổ biến thu hút và tác động đến nhiều
người trong xã hội. Văn học nghệ thuật trau dồi vốn sống hiện thực muôn
màu muôn vẻ, sinh động và hấp dẫn, mang tính giáo dục và tính thẩm mỹ,
giàu cảm xúc và ước mơ. Thông qua hoạt động nghệ thuật con người đến với
nó không chỉ để thỏa mãn những sở thích cá nhân, mà còn đi tìm những
niềm vui giải tỏa những mệt mỏi sau thời gian lao động căng thẳng.
Lĩnh vực hoạt động văn hóa nghệ thuật bao gồm nhiều loại hình khác
nhau như văn học, mỹ thuật, nhiếp ảnh, âm nhạc, sân khấu điện ảnh. Chúng
lấy chất liệu từ cuộc sống, hay nói cách khác là quá trình phản ánh cuộc
sống phong phú, sôi động trên mọi lĩnh vực hoạt động của con người và xã
hội. Đánh giá vai trò của nghệ thuật trong đời sống tinh thần của con người,
Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Không hình thái tư tưởng nào có thể
16
thay thế được văn hóa, nghệ thuật trong việc xây dựng tình cảm lành mạnh,
tác động sâu sắc vào việc đổi mới nếp nghĩ, nếp sống của con người”
[13,tr.129-130].
Thứ ba, về lĩnh vực hoạt động giáo dục
Giáo dục là một hiện tượng xã hội, ra đời, tồn tại và phát triển cùng với
sự phát triển của xã hội loài người, là yếu tố vĩnh hằng, phục vụ cho phát
triển của xã hội. Giáo dục là quá trình đào tạo con người có mục đích nhằm

chuẩn bị hành trang tri thức, kỹ năng cho con người tham gia vào đời sống
xã hội. Hoạt động giáo dục có tác động to lớn tới toàn bộ đời sống vật chất
và tinh thần của xã hội. Vai trò chức năng của giáo dục rất quan trọng trong
việc hình thành và phát triển nhân cách của con người, trang bị cho con
người những tri thức về tự nhiên, xã hội và nhân văn, giúp cho con người có
được những phẩm chất và năng lực cần thiết để sáng tạo nên những giá trị
mới cho cuộc sống, trong đó có giá trị tinh thần. Khẳng định vai trò to lớn
của giáo dục, Hồ Chí Minh từng nói: “Vì lợi ích mười năm phải trồng cây.
Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người” [37,tr.222].
Hoạt động giáo dục được thể hiện rất đa dạng và phong phú bao gồm
giáo dục nhà trường, giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội. Các lĩnh vực
giáo dục đó phải kết hợp một cách chặt chẽ, thống nhất với nhau hướng tới
mục tiêu đào tạo những con người phát triển toàn diện. Lợi ích của giáo dục
không phải có ngay lập tức mà nó có trong tương lai gần hay xa, không chỉ
cho người học được giáo dục mà cho toàn xã hội và cả nhân loại. Trong
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, Đảng ta cũng luôn coi giáo dục đào tạo
là quốc sách hàng đầu.
Thứ tư, về lĩnh vực hoạt động tín ngưỡng - tôn giáo: Hoạt động tín
ngưỡng, tôn giáo là một hoạt động tinh thần của con người, nó xuất hiện rất
sớm trong lịch sử xã hội loài người, là hoạt động hướng về thế giới siêu
nhiên nào đó, là sự phản ánh hoang đường hư ảo hiện thực khách quan. Tín
ngưỡng, tôn giáo là một trong những hoạt động của đời sống tinh thần, đáp
ứng nhu cầu tinh thần của một bộ phận quần chúng nhân dân. Về mặt thế
17
giới quan, tín ngưỡng, tôn giáo đều dựa trên cơ sở niềm tin vào một lực
lượng siêu nhiên mà ở đó con người có thể cầu xin những điều tốt lành hoặc
mong được che chở, an ủi khi gặp những rủi ro, bất hạnh của cuộc đời. Với
tôn giáo, những hiện tượng tự nhiên biến thành siêu nhiên, huyền bí. Theo
Ph. Ăngghen “Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo vào
đầu óc của con người - của những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống

hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã
mang hình thức những lực lượng siêu trần thế” [26,tr.473]. Về mặt nhân sinh
quan, tín ngưỡng tôn giáo tin vào các lực lượng siêu nhiên, vô hình mang
tính thiêng liêng, được chấp nhận một cách trực giác và tác động qua lại một
cách hư ảo, nhằm lý giải những vấn đề ở trên trần thế cũng như ở thế giới
bên kia, thể hiện khát vọng của con người vươn tới cái thiện, tình thương, lẽ
phải và sự công bằng trong các quan hệ xã hội của con người, chi phối mạnh
mẽ đến lẽ sống, đạo đức của hàng triệu người theo đạo; có quan hệ đến
nhiều lĩnh vực khác của đời sống tinh thần mà trước hết là lĩnh vực chính trị,
tư tưởng. Và do vậy tôn giáo tín ngưỡng góp phần cùng xã hội tạo ra các giá
trị văn hóa.
Thứ năm, hoạt động giao lưu trao đổi văn hóa
Là hoạt động của các chủ thể xã hội giới thiệu, truyền bá trao đổi văn
hóa, sản phẩm văn hóa tinh thần của mình đến với xã hội trong và ngoài nước,
đồng thời học hỏi, tiếp biến các sản phẩm văn hóa tinh thần của các chủ thể xã
hội khác.
Giao lưu là tất yếu, một khâu quan trọng của hoạt động đời sống tinh
thần trong điều kiện quốc tế hóa. Hoạt động giao lưu trao đổi văn hóa xuất
phát từ nhu cầu phát triển văn hóa mỗi quốc gia dân tộc, nhằm học hỏi, làm
phong phú lẫn nhau giữa các nền văn hóa. Nếu không có hoạt động giao lưu
trao đổi văn hóa thì rất có thể cả xã hội và nền văn hóa của mỗi quốc gia dân
tộc sẽ rơi vào tình trạng trì trệ, suy thoái. Nhưng cũng không thể nhân danh
giao lưu trao đổi văn hóa để tiếp nhận vô điều kiện các yếu tố ngoại sinh bỏ
qua các giá trị nội sinh, sẽ dẫn đến nguy cơ bị đồng hóa. Giao lưu trao đổi văn
18
hóa phải vừa tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại vừa biết giữ gì và phát
huy những giá trị, bản sắc của văn hóa dân tộc. Văn kiện Đại hội VIII của
Đảng khẳng định “đi vào kinh tế thị trường, mở rộng giao lưu quốc tế, công
nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại,
song phải luôn coi trọng những giá trị truyền thống và bản sắc văn hóa dân

tộc, quyết không tự đánh mất mình, trở thành cái bóng mờ hoặc bản sao chép
của người khác” [14,tr.30].
Đạo đức: Đạo đức là một tập hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực
xã hội, nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử giữa con người với con
người và các mối quan hệ xã hội. Đạo đức là sản phẩm tinh thần, mang bản
sắc và biểu hiện tính người cao nhất. Trên cơ sở đó giúp con người đánh giá
đúng các hiện tượng, các hành vi đạo đức diễn ra xung quanh mình. Từ đó,
con người tự đánh giá những suy nghĩ, hành vi của bản thân, hình thành lý
tưởng niềm tin và sẵn sàng bảo vệ lý tưởng niềm tin đó.
Đạo đức là một trong những hình thái ý thức xã hội xuất hiện rất sớm
trong lịch sử. Thuộc tính đạo đức biểu hiện bản chất xã hội của con người, là
nét cơ bản trong tính người. Sự tiến bộ của đạo đức là một trong những tiêu
chí của sự tiến bộ xã hội. Tình trạng đạo đức của xã hội phản ánh trình độ
phát triển và tiến bộ của đời sống tinh thần xã hội. Do vậy, một xã hội không
thể được coi là phát triển và tiến bộ khi nền đạo đức xã hội bị suy đồi. Khi xã
hội chưa phân chia giai cấp, đạo đức là công cụ chủ yếu để điều tiết hành vi
cá nhân. Khi xã hội đã phân chia giai cấp, đạo đức cùng với pháp luật trở
thành phương thức điều chỉnh hành vi của con người. Đạo đức và pháp luật
có cùng chức năng xã hội, song không phải là một. Pháp luật là sản phẩm của
xã hội có giai cấp, là công cụ của giai cấp thống trị. Khi xã hội không còn giai
cấp thì pháp luật không còn lí do tồn tại. Pháp luật chỉ ra đời và tồn tại trong
một giai đoạn lịch sử nhất định. Đạo đức xuất hiện và tồn tại mãi với xã hội
loài người, là một công cụ đắc lực để giữ vững ổn định trật tự xã hội.
Đạo đức xuất hiện cùng với xã hội loài người. Đạo đức là sản phẩm tinh
thần biểu hiện bản sắc, tính người cao nhất. Mối quan hệ của con người với
19
con người, con người với tự nhiên ngày càng đa dạng. Sự đa dạng của các
mối quan hệ do sự phát triển của đời sống xã hội quy định. Con người muốn
tồn tại luôn luôn phải hành động. Hành động để khẳng định sự tồn tại, hành
động để thoả mãn những khát vọng và hứng thú của mình. Trong quá trình

hành động, cá nhân có thể vi phạm lợi ích với cá nhân, lợi ích xã hội. Bất cứ
xã hội nào cũng có những nguyên tắc để điều chỉnh hành vi của cá nhân, để
hành động thực hiện lợi ích của cá nhân nằm trong khuôn khổ lợi ích xã hội.
Đạo đức điều chỉnh hành vi của con người thông qua lương tâm và dư luận xã
hội. Hành vi ấy của con người được định hướng qua niềm tin đạo đức của chủ
thể về những nguyên tắc sống, những quan niệm về thiện ác, hạnh phúc, nghĩa
vụ, lương tâm, danh dự. Đạo đức mang tính lịch sử. Đạo đức được điều chỉnh
cùng với sự phát triển của xã hội theo những tiêu chuẩn, nguyên tắc, được dư
luận xã hội thừa nhận có phù hợp hay không phù hợp với tiến bộ lịch sử và hạnh
phúc của nhân dân. Điều 2 luật Giáo dục viết “Mục tiêu giáo dục là đào tạo con
người Việt Nam phát triển toàn diện có đạo đức tri thức, sức khỏe thẩm mỹ và
nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình
thành và bồi dưỡng nhân cách phẩm chất và năng lực công dân, đáp ứng yêu
cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Lối sống: là phương thức hoạt động sống của con người. Đó là những
cách thức, phương pháp, hình thức của hoạt động sống tương đối ổn định của
cá nhân và cộng đồng trong sản xuất, sinh hoạt và giao tiếp. Lối sống của cá
nhân, cộng đồng thể hiện rõ nét đặc trưng văn hóa của cộng đồng, có vai trò
quan trong trong điều chỉnh nhận thức và hành động của con người, từ sản
xuất vật chất đến hoạt động chính trị - xã hội, hoạt động tinh thần và trong
sinh hoạt, giao tiếp. Lối sống góp phần vào việc lựa chọn nhu cầu, lợi ích,
hình thành động cơ, mục đích cho hoạt động của con người. Do vậy, lối sống
là một thành tố của hoạt động con người với tư cách là một thiết chế tự định
hướng, điều chỉnh hoạt động và thể hiện mặt văn hóa trong hoạt động của con
người.
20
Phong tục, tập quán: Phong tục, tập quán có vai trò quan trọng trong
việc hình thành bản sắc, truyền thống của một dân tộc, một địa phương, chi
phối thái độ ứng xử của cá nhân và cộng đồng, góp phần tạo nên sự thống
nhất, ổn định cho cộng đồng. Phong tục tập quán phản ánh tồn tại xã hội,

những hoạt động sống của con người được hình thành trong quá trình lịch sử,
lưu truyền từ đời này sang đời khác, có tinh ổn định, được cộng đồng thừa
nhận và tự giác thực hiện, tạo nên tính thống nhất của cộng đồng. Ví dụ, tập
quán du canh, du cư của một số dân tộc ít người ở miền núi. Phong tục của
một dân tộc, một địa phương, một tầng lớp xã hội, một dòng họ, một gia tộc
thể hiện khá đa dạng qua nhiều thế hệ khác nhau của đời sống con người và
hoạt động lao động sản xuất của con người. Một khi phong tục trở thành tập
quán xã hội thì tồn tại tương đối bền vững.
Thông tin đại chúng: Đó là hoạt động truyền bá thông tin đến đông đảo các
nhóm cộng đồng trong xã hội thông qua các phương tiện truyền thông như:
báo chí, phát thanh, truyền hình, xuất bản, các loại hình thông tin điện tử khác
là phương tiện truyền bá nhanh, rộng, có hiệu quả các sản phẩm văn hóa tinh
thần đến cộng đồng xã hội. Thông tin đại chúng là lĩnh vực hoạt động có ý
nghĩa quan trọng trong đời sống xã hội nói chung và đời sống tinh thần nói
riêng. Thông tin đại chúng là hoạt động góp phần nâng cao dân trí, định
hướng nhận thức, tư tưởng của cộng đồng, của dư luận.
Lễ hội: “Lễ là những nghi thức tiến hành nhằm đánh dấu hoặc kỷ niệm
một sự việc, sự kiện có ý nghĩa nào đó” [52,tr.540] ví dụ lễ thành hôn, lễ quốc
khánh, lễ chào cờ v.v Hội là sinh hoạt văn hóa, tôn giáo, nghệ thuật của cộng
đồng, được hình thành từ nhu cầu của cuộc sống, từ sự tồn tại và phát triển
của cộng đồng. Lễ hội góp phần tăng cường sự đoàn kết cộng đồng, đáp ứng
nhu cầu giải trí, tín ngưỡng và ước vọng hướng tới cái chân, thiện, mỹ - hệ giá
trị phổ quát của mọi nền văn hóa. Trong thực tế, lễ và hội thường đi với nhau
và đều có ý nghĩa chung là nhắc nhở con người nhớ đến quá khứ, biết “uống
nước nhớ nguồn”, tự hào về quê hương đất nước. Lễ hội là hệ thống các hành
vi, động tác biểu hiện lòng tôn kính của con người đối với thần linh, sự suy
21
tôn, tưởng nhớ đến những bậc tiền nhân có công với cộng đồng, làng, nước.
Lễ hội là một hình thức cơ bản và phổ biến trong đời sống tinh thần của các
cộng đồng người.

Tóm lại: Đời sống tinh thần là tổng hòa sống động các hoạt động tinh
thần của con người, chủ yếu trên các lĩnh vực: tư tưởng, đạo đức, lối sống,
phong tục, tập quán, khoa học, nghệ thuật, giáo dục, lễ hội, tín ngưỡng, tôn
giáo, thông tin đại chúng…Từ những hoạt động đó, các giá trị tinh thần được
tạo ra, thấm sâu vào từng người, từng cộng đồng, đáp ứng nhu cầu tinh thần
ngày càng cao của mọi thành viên trong xã hội.
1.2. Biện chứng của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa với
việc nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân
1.2.1. Vai trò của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa với việc nâng
cao đời sống tinh thần của nhân dân
Khái niệm Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) thuộc lĩnh vực kinh tế của
đời sống xã hội. Văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội, phát triển văn hóa
nhằm mục đích nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân. CNH, HĐH là con
đường tất yếu phải tiến hành đối với bất cứ nước nào, nhất là những nước có
xuất phát điểm từ nền nông nghiệp kém phát triển muốn xây dựng nền kinh tế
phát triển hiện đại. Hiện nay ở nhiều nước, nhất là nước đang phát triển, phát
triển CNH, HĐH được coi là vấn đề tất yếu có ý nghĩa chiến lược lâu dài. Đối
với Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) từ một quốc gia lạc hậu, hơn
80% dân số sống ở nông thôn với một cơ cấu kinh tế độc canh thuần nông,
năng suất lao động thấp, nhu cầu việc làm rất bức bách.
Biện chứng giữa quá trình CNH, HĐH với việc nâng cao đời sống tinh
thần của nhân dân là mối quan hệ biện chứng giữa phát triển kinh tế và phát
triển văn hóa xã hội (VH - XH).
Quá trình CNH, HĐH thúc đẩy sự phát triển kinh tế, tạo điều kiện và tiện
nghi vật chất, nâng cao chất lượng cuộc sống, thỏa mãn ngày càng tốt hơn
nhu cầu đời sống tinh thần của nhân dân.
22
Quá trình CNH, HĐH có tác dụng cải tạo tâm lý, tập quán, lối sống cũ, lạc
hậu của cộng đồng, hình thành ý thức, phong cách, lối sống phù hợp với xã

hội công nghiệp.
Quá trình CNH, HĐH thúc đẩy sự phát triển của giáo dục đào tạo (GD -
ĐT), nâng cao dân trí. Ngày nay, với nền kinh tế tri thức, KH - CN đang có
những bước phát triển vượt bậc. Khoảng cách giữa nghiên cứu, phát minh
khoa học với sáng chế công nghệ để sản xuất ra sản phẩm mới ngày càng
được rút ngắn. Những tiến bộ của KH - CN đòi hỏi người công nhân phải
thường xuyên trau dồi tri thức, không ngừng nâng cao trình độ hiểu biết để
đáp ứng yêu cầu của nền sản xuất hiện đại. Sự tiến bộ khoa học kỹ thuật (KH
- KT), sự giảm dần lao động chân tay và thô sơ, sự gia tăng chuyên môn hóa
và tự động hóa trong sản xuất công nghiệp là những kích thích quan trọng
nhằm nâng cao trình độ học vấn và trình độ nghề của công nhân, bởi nếu chỉ
bằng lòng với những gì mình đang có thì nguy cơ bị đào thải là không tránh
khỏi. Vì vậy, quá trình CNH, HĐH đặt ra nhiệm vụ cấp bách là phát triển
mạnh KH - CN, GD - ĐT, xây dựng và phát triển đội ngũ công nhân vững về
kiến thức, có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao, thích ứng nhanh với tiến bộ
của KH - CN, năng động, sáng tạo, có khả năng làm chủ công nghệ mới.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa, kinh tế phát triển còn tạo được nguồn
lực vật chất, tài chính để bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử -văn hóa, khôi
phục các lễ hội truyền thống của dân tộc và cộng đồng, phát triển văn hóa
nghệ thuật đáp ứng nhu cầu thưởng thức các giá văn hóa tinh thần đa dạng,
phong phú của nhân dân.
1.2.2. Sự tác động của việc nâng cao đời sống tinh thần của nhân
dân đối với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay.
Sự phát triển văn hóa - xã hội, nâng cao đời sống tinh thần của người lao
động còn là động lực của quá trình CNH, HĐH, thúc đẩy kinh tế phát triển
nhanh và bền vững. Văn hóa thấm sâu vào các yếu tố của sản xuất sẽ làm cho
sản xuất không ngừng phát triển. Nguồn lực tự nhiên mới chỉ là tiềm năng của
sự phát triển, nếu con người khai thác theo kiểu tước đoạt tự nhiên sẽ đưa đến
23
những hậu quả xấu cho con người và xã hội. C.Mác đã từng cảnh báo: “Nếu

canh tác được tiến hành một cách tự phát mà không được hướng dẫn một cách
có ý thức…thì sẽ để lại đằng sau nó đất hoang” [30,tr.80], KH - KT và công
nghệ - sản phẩm của năng lực sáng tạo của con người là một nguồn lực quan
trọng trong sự phát triển và hiện đại hóa nền kinh tế. Xã hội hiện đại đang
phát triển đến một nền kinh tế mà yếu tố quyết định của sự cạnh tranh là sự
gia tăng hàm lượng chất xám, hàm lượng tri thức kết tinh ở sản phẩm hàng
hóa. Đó là nền kinh tế tri thức. Do vậy, GD - ĐT để tạo ra nguồn nhân lực có
chất lượng cao không còn là yếu tố phi sản xuất, tách rời sản xuất mà trở
thành một yếu tố bên trong, động lực cho quá trình hiện đại hóa nền sản xuất
xã hội.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Đảng ta luôn khẳng định vị trí, vai
trò của đời sống tinh thần trong cách mạng giải phóng dân tộc cũng như trong
cách mạng xã hội chủ nghĩa (XHCN). Thế kỷ XXI, KH - CN có những bước
tiến nhảy vọt. Nền kinh tế tri thức và xã hội thông tin ngày càng có vai trò
quan trọng trong quá trình phát triển. Xu hướng toàn cầu hóa với những mặt
tích cực và tiêu cực đan xen đang cuốn hút ngày càng nhiều quốc gia trên thế
giới. Trong bối cảnh đó, tầm quan trọng của nhân tố văn hóa lại càng được
khẳng định. Tiếp theo các quan điểm của Đại hội VII, VIII, Đại hội IX của
Đảng nhấn mạnh: “ Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, thể hiện tầm cao
và chiều sâu về trình độ phát triển của dân tộc, vừa là mục tiêu, vừa là động
lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội”.
+ Văn hóa là nền tảng tinh thần của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa
Một quốc gia giàu tài nguyên nhưng chưa hẳn là một nước giàu nếu
không có công cụ và chiến lược khai thác, chế biến, kỹ năng quản lý của con
người. Nguồn vốn cũng rất quan trọng, song việc huy động, sử dụng nguồn
vốn để có hiệu quả đòi hỏi con người phải có trình độ và kỹ năng nhất định.
Thiếu nền tảng văn hóa thể hiện ở thiếu tri thức, kinh nghiệm, trình độ KH -
CN, trình độ quản lý và khai thác thì các nguồn lực tự nhiên và nguồn vốn
24

cũng không thể mang lại hiệu quả kinh tế cao. Dưới góc độ này, vai trò nền
tảng của văn hóa đối với quá trình CNH, HĐH thể hiện ở nền tảng tri thức,
KH - KT, công nghệ mà con người có được, cách thức con người tạo ra và
vận hành chúng.
Mục đích của sự nghiệp CNH, HĐH là phát triển lực lượng sản xuất,
nâng cao năng suất lao động. Yếu tố cơ bản trong các thành tố của lực lượng
sản xuất là con người - chủ thể của quá trình sản xuất. Nguồn lực con người
không chỉ đơn thuần là số lượng người lao động, mà quan trọng hơn là chất
lượng nguồn nhân lực, được thể hiện ở sức khỏe, tri thức, kỹ năng, kinh
nghiệm, lý tưởng, tình cảm, niềm tin, sự sáng tạo, đức tính cần cù, ý thức kỷ
luật trong lao động. Những yếu tố trên, trừ sức khỏe mang tính sinh học, còn
lại đều là kết tinh của văn hóa, thuộc lĩnh vực đời sống tinh thần của con
người. Trong nền sản xuất công nghiệp hiện đại, nếu thiếu nền tàng văn hóa
đó thì con người không thể tham gia vào quá trình sản xuất và các nguồn lực
khác cũng không được phát huy và sử dụng có hiệu quả. Ở đây, vai trò của
văn hóa, giáo dục được thể hiện một cách nổi bật, một trụ cột của phát triển,
trực tiếp nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần tạo
ra nguồn nhân lực chất lượng cao - nhân tố quyết định đảm bảo cho thắng lợi
của sự nghiệp CNH, HĐH.
+ Nâng cao đời sống văn hóa tinh thần của xã hội còn là cơ sở để định
hướng, điều tiết quá trình CNH, HĐH phát triển kinh tế diễn ra một cách hài
hòa, bền vững.
Trong quá trình sản xuất, vì lợi nhuận, người ta cũng có thể bất chấp luật
pháp, đạo đức, tìm mọi cách làm hàng giả, kém chất lượng, trốn thuế, cạnh
tranh không lành mạnh, hủy hoại các nguồn tài nguyên thiên nhiên, gây ô
nhiễm môi trường…Những biểu hiện trên chính là những yếu tố phản văn
hóa. Đề cao vai trò của đạo đức trong kinh doanh sẽ làm cho các hoạt động
kinh tế diễn ra có nhân tính, phù hợp với các chuẩn mực xã hội. Quá trình
CNH, HĐH có thể khiến cho mức sống của nhân dân tăng lên, nhưng không
được điều tiết, định hướng bởi các giá trị văn hóa thì sự phát triển ấy vẫn là

25

×