Tải bản đầy đủ (.doc) (101 trang)

Sự phát triển một số chỉ tiêu thể lực, thể chất và sinh lý của học sinh dân tộc dao và dân tộc kinh lứa tuổi 12 và 15 tại huyện văn yên, tỉnh yên bái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.73 MB, 101 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

ĐỖ THỊ THÙY LINH
SỰ PHÁT TRIỂN MỘT SỐ CHỈ TIÊU THỂ LỰC, THỂ
CHẤT VÀ SINH LÝ CỦA HỌC SINH DÂN TỘC DAO VÀ
DÂN TỘC KINH LỨA TUỔI 12 – 15 TẠI
HUYỆN VĂN YÊN, TỈNH YÊN BÁI
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC SINH HỌC
NGHỆ AN - 2014
2
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

ĐỖ THỊ THUỲ LINH
SỰ PHÁT TRIỂN MỘT SỐ CHỈ TIÊU THỂ LỰC, THỂ
CHẤT VÀ SINH LÝ CỦA HỌC SINH DÂN TỘC DAO VÀ
DÂN TỘC KINH LỨA TUỔI 12 – 15 TẠI
HUYỆN VĂN YÊN, TỈNH YÊN BÁI
Chuyên ngành: Sinh học thực nghiệm
Mã số: 60.42.01.14
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC SINH HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN NGỌC HỢI
NGHỆ AN - 2014
4
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, trước hết tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu
sắc tới thầy giáo PGS. TS. Nguyễn Ngọc Hợi đã tận tình hướng dẫn và giúp
đỡ tôi trong quá trình thực hiện.
Nhân dịp này tôi xin gửi lời cảm ơn đến:
- Ban giám hiệu Trường Đại học Vinh.


- Ban Chủ nhiệm khoa Sinh học, Tổ bộ môn Sinh học thực nghiệm.
- Phòng đào tạo Sau đại học, Trường Đại học Vinh.
- Ban giám hiệu, tập thể giáo viên và học sinh các trường Phổ thông
dân tộc bán trú Trung học cơ sở xã Viễn Sơn, Mỏ Vàng, Đại Sơn và trường
Trung học cơ sở Yên Hợp huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái.
- Gia đình và bạn bè đã động viên giúp đỡ.
Nghệ An, ngày 10 tháng 9 năm 2014
Học viên
Đỗ Thị Thùy Linh
BẢNG DANH MỤC CÁC CHỮ TẮT VÀ KÍ HIỆU
STT Chữ viết tắt Tên thường của chữ viết tắt
1 CST
Chỉ số thân
2 HSSH
Hằng số sinh học
3 n
Số lượng
4 PTDTBT.THCS
Phổ thông dân tộc bán trú Trung học cơ sở
5 TDTT
Thể dục thể thao
6 THCS
Trung học cơ sở
7 TST
Tần số tim
MỤC LỤC
1. Lí do chọn đề tài 9
TÀI LIỆU THAM KHẢO 87
PHỤ LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU

1. Lí do chọn đề tài 9
TÀI LIỆU THAM KHẢO 87
DANH MỤC HÌNH
1. Lí do chọn đề tài 9
TÀI LIỆU THAM KHẢO 87
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Con người là một chủ thể được phát triển toàn diện về hình thái cơ thể
cũng như về mặt nhân cách. Con người từ khi sinh ra cho đến khi già chết đi
trải qua các giai đoạn phát triển như bào thai, sơ sinh, nhà trẻ, mẫu giáo, niên
thiếu, dậy thì, trưởng thành, lão hóa và chết. Quá trình sinh trưởng và phát
triển của con người luôn có những biến đổi khác nhau, nó tuân theo những
quy luật sinh học nhất định và phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: di truyền, môi
trường, chủng tộc, giới tính, nội tiết, bệnh tật Đó là các quá trình biến đổi
liên tục về kích thước, hình dáng, chức năng sinh lí và trưởng thành sinh học
của cơ thể. Trong các giai đoạn phát triển của con người, tuổi dậy thì tương
đương với giai đoạn đang ngồi trên ghế nhà trường trung học cơ sở (THCS).
Đây là những giai đoạn có những biến đổi quan trọng cả về chất và lượng.
Ở tuổi dậy thì do sự phát triển của hệ thần kinh và nội tiết, hoạt động
của các hoocmon nam và nữ đã làm cho con người có sự phát triển có tính
chất nhảy vọt về thể lực, hình thái cơ thể cũng như trí tuệ, tình cảm và các đặc
điểm tâm lí, các mối quan hệ xã hội. Tuy nhiên các mốc đó xảy ra sớm hay
muộn, xảy ra ở đâu và sự phát triển hình thái đó đã đạt đến cực điểm của sự
cho phép chưa, điều đó còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố của môi trường tự
nhiên và xã hội. Trước hết nó phụ thuộc vào tố chất di truyền, sau đó là các
yếu tố môi trường, xã hội như: điều kiện khí hậu, chế độ dinh dưỡng, điều
kiện lao động, tác động của phim ảnh Những yếu tố trên đã làm nên những
nét khác biệt về mặt hình thái của các độ tuổi ở những vùng miền khác nhau.
Những năm gần đây, nền kinh tế - xã hội Việt Nam đã có nhiều bước
tiến vượt bậc, điều kiện sống của nhân dân nói chung, đồng bào các dân tộc ít

người nói riêng được nâng cao và cải thiện đáng kể. Điều này đã có tác động
tích cực đến sự phát triển các chỉ tiêu hình thái, thể lực, trí tuệ ở lứa tuổi đang
lớn (từ 12 – 15 tuổi). Thực tế cho thấy, hiện nay trẻ em ở nhiều vùng lớn
9
nhanh hơn, cao hơn, nặng hơn, cơ thể cân đối hơn các chỉ tiêu sinh học có
nhiều sai khác so với “Hằng số sinh học người Việt Nam” (1975). Chính vì
vậy việc đánh giá tìm hiểu các chỉ tiêu sinh học người Việt Nam là vấn đề
đang được quan tâm nghiên cứu.
Ngày nay, trẻ em dậy thì sớm hơn, trưởng thành về mặt sinh học nhanh
hơn so với trưởng thành về mặt nhận thức xã hội. Đã có những trường hợp trẻ
bỏ bê học hành, yêu đương sớm, có thai ngoài ý muốn gây đau đầu cho các
bậc phụ huynh, nhà trường và xã hội. Yên Bái tuy chưa phải là một tỉnh lớn
nhưng cũng đã là nơi giao lưu của nhiều nền văn hóa, điều đó không khỏi ảnh
hưởng đến sự phát triển sinh lí trẻ em.
Tuy nhiên việc nghiên cứu trên đối tượng học sinh THCS chỉ mới tập
trung ở một số thành phố và vùng đồng bằng. Đối với các dân tộc trung du
miền núi, việc nghiên cứu còn ít, nhất là về độ tuổi dậy thì. Với đặc điểm bản
thân cũng là người dân tộc miền núi nên tôi tiến hành đề tài: “Sự phát triển
một số chỉ tiêu thể lực, thể chất và sinh lý của học sinh dân tộc Dao và dân
tộc Kinh lứa tuổi 12 – 15 tại huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái” với mong muốn
góp phần giúp các nhà giáo dục và các bậc phụ huynh có những cách nhìn,
định hướng và biện pháp chăm sóc, giáo dục trẻ khoa học, thích hợp hơn.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Đánh giá sự phát triển của một số chỉ tiêu hình thái và chỉ tiêu sinh
lí ở lứa tuổi 12 – 15 của học sinh dân tộc Dao huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái.
2.2. So sánh sự phát triển các chỉ tiêu hình thái và sinh lí ở lứa tuổi 12 –
15 giữa học sinh dân tộc Dao và dân tộc Kinh của huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái.
3. Nội dung của đề tài
- Nghiên cứu và so sánh sự phát triển một số chỉ tiêu thể lực, thể chất
và sinh lý của học sinh dân tộc Dao và dân tộc Kinh từ 12 – 15 tuổi để tìm

hiểu sự chênh lệch giữa chúng trong lứa tuổi dậy thì:
+ Chỉ tiêu thể lực:
• Chiều cao đứng.
10
• Chiều cao ngồi.
• Cân nặng.
• Vòng ngực
+ Các chỉ số thể lực: Pignet, BMI, chỉ số thân, hệ số cân đối.
+ Chỉ tiêu thể chất:
• Tố chất nhanh.
• Tố chất mạnh.
• Tố chất dẻo
- Một số chỉ tiêu sinh lý:
+ Tần số tim, huyết áp tối đa, huyết áp tối thiểu, tần số thở (lần/phút),
thời gian nín thở tối đa (giây).
+ Sự xuất hiện kinh nguyệt ở trẻ em nữ lứa tuổi dậy thì.
+ Đánh giá về năng lực trí tuệ của học sinh.
4. Ý nghĩa của đề tài
Đánh giá đặc điểm phát triển một số chỉ tiêu thể lực, thể chất, sinh lý và
trí tuệ của học sinh từ 12 – 15 tuổi dân tộc Dao và dân tộc Kinh ở huyện Văn
Yên, tỉnh Yên Bái và mối tương quan giữa các chỉ tiêu đó nhằm:
Làm sáng tỏ sự xuất hiện những đặc trưng của tuổi dậy thì ở trẻ em
Việt Nam nói chung, dân tộc ít người nói riêng.
Cung cấp dẫn liệu cho cơ quan nghiên cứu có liên quan tham khảo đề
ra các chủ trương kế hoạch, biện pháp thích hợp nhằm nâng cao thể lực, thể
chất, trình độ phát triển nhận thức khoa học của học sinh nói chung và đồng
bào dân tộc nói riêng.
Đồng thời có thể sử dụng tham khảo trong việc cải tiến chương trình và
phương pháp giảng dạy nhằm đẩy mạnh việc thực hiện các mục tiêu của
chương trình hành động quốc gia vì trẻ em Việt Nam trong giai đoạn 2010 –

2020 và nâng cao chất lượng hiệu quả của công tác bảo vệ chăm sóc và giáo
dục trẻ em gắn liền với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội.
11
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cơ sở lí luận về sự sinh trưởng và phát triển theo giai đoạn
1.1.1. Khái niệm về sự sinh trưởng, phát triển
Sinh trưởng và phát triển là những đặc trưng cơ bản của mọi cơ thể
sống. Hai quá trình này xảy ra liên tục từ lúc trứng mới thụ tinh và phát triển
phôi thai đến khi ra đời, trưởng thành, cho đến lúc già, chết đi.
Sinh trưởng (Growth) là một quá trình thay đổi về mặt số lượng, là sự
tăng trưởng về mặt kích thước, khối lượng của toàn bộ cơ thể hay từng bộ
phận. Phát triển (Development) là sự biến đổi về chất, bao gồm: sự biến đổi
về hình thái, chức năng sinh lý, các quy luật hoạt động theo từng giai đoạn
của cuộc đời mỗi cá thể sinh vật.
Sinh trưởng và phát triển có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác động
qua lại lẫn nhau đôi khi không có sự phân biệt. Sinh trưởng là điều kiện của
phát triển; còn phát triển làm thay đổi sinh trưởng bằng cách thúc đẩy tăng
nhanh hay ức chế, kìm hãm sự sinh trưởng tùy theo từng giai đoạn. Ở giai
đoạn phát dục, cơ thể thường lớn nhanh, biến đổi nhiều; có tính chất nhảy vọt
về cả hình thái và chức năng sinh lý. Đến giai đoạn trưởng thành thì sự sinh
trưởng bị chậm lại và đến thời kì lão hóa thì cơ thể suy thoái [15], [38].
1.1.2. Một số quy luật sinh trưởng và phát triển
Các công trình của C.B.Penxon (1962), M.H.Saternicop (1968),
F.Bnedis đã chứng minh một số quy luật sinh trưởng và phát triển ở con
người cũng như động vật:
1.1.2.1. Quy luật sinh trưởng phát triển theo giai đoạn
Sự sinh trưởng và phát triển của cơ thể diễn ra và thay đổi tùy theo từng
giai đoạn của đời sống cá thể. Có giai đoạn tốc độ sinh trưởng, phát triển
nhanh; có giai đoạn tốc độ sinh trưởng phát triển chậm. Ví dụ: trẻ sơ sinh

trung bình có chiều dài 50cm – 60cm, nặng 2,5 – 3,5kg. Cuối năm đầu, trẻ
12
cao khoảng 70 – 75cm (tăng 50%), nặng 9 – 10kg. Năm thứ hai, cân nặng
tăng 2,5 – 3kg, chiều cao tăng 10 – 15cm. Các năm tiếp theo cho đến tuổi dậy
thì, mỗi năm cân nặng tăng 1,5 – 2kg và cao thêm 3 – 4cm. Hết tuổi trưởng
thành, cơ thể cao khoảng 1,55 – 1,7m và nặng 50 – 60kg. Sau tuổi trưởng
thành chiều cao và khối lượng cơ thể không biến đổi nhiều.
1.1.2.2. Quy luật sinh trưởng phát triển không đồng đều
Tốc độ sinh trưởng, phát triển của các hệ cơ quan, cơ quan, các mô,
thậm chí cả các tế bào trong cùng một cơ thể là không giống nhau (không
đồng đều). Chính sự không đồng đều đó đã làm cho tỉ lệ các cơ quan, bộ
phận ở các giai đoạn khác nhau là không giống nhau. Ví dụ: trẻ sơ sinh
chiều dài đầu bằng ¼ chiều dài cơ thể, khi trưởng thành chỉ bằng 1/8 cơ
thể; chi dưới trẻ sơ sinh chỉ bằng 1/3 cơ thể, đến khi trưởng thành, chi dưới
dài hơn 1/2 cơ thể.
Theo các số liệu thu được về chỉ tiêu sinh học người Việt Nam năm
1982: cân nặng trung bình của cơ thể trưởng thành (sau tuổi dậy thì) gấp 20
lần cân nặng trẻ sơ sinh; cân nặng các nội quan (tim, phổi, tuyến nội tiết) tăng
15 lần, xương tăng 30 – 32 lần so với trẻ sơ sinh [4]. Từ các số liệu đó chúng
ta thấy ở tuổi dậy thì các cơ quan đều sinh trưởng, phát triển mạnh.
Từ các quy luật đó, người ta nhận thấy rằng có thể căn cứ vào các chỉ
tiêu hình thái, thể lực, thể chất như: cân nặng, chiều cao, vòng ngực, chỉ số
Pignet, chỉ số BMI, tố chất nhanh, tố chất mạnh, tố chất dẻo để đánh giá sự
sinh trưởng, phát triển của một cơ thể.
Với mục đích xác định những đặc tính quan trọng, đặc trưng cho những
giai đoạn khác nhau của sự sinh trưởng, phát triển ở con người, các nhà khoa
học đã chia quá trình sinh trưởng và phát triển thành nhiều giai đoạn và thời
kì khác nhau: phát triển phôi, sơ sinh, nhà trẻ, mẫu giáo, nhi đồng, thiếu
niên, dậy thì, trưởng thành, trung niên, lão hóa và tử vong. Cơ sở để phân
chia các thời kì của giai đoạn phôi thai là sự phân hóa, biệt hóa tế bào, hình

thành các mô và cơ quan. Cơ sở để phân chia các giai đoạn, thời kì của cơ
13
thể sau khi sinh là các dấu hiệu đặc trưng về hình thái và sinh lý như: sự
mọc răng, sự cốt hóa các phần khác nhau của bộ xương, hoạt động của các
tuyến nội tiết, sự phát triển một số đặc điểm hình thái, sinh lý, sự biến đổi
các đặc điểm tâm lí,
Các tác giả khác nhau có cách phân chia khác nhau nhưng nhìn chung
chênh lệch không nhiều: trẻ em từ 10 – 11 tuổi là thời kỳ tiền dậy thì (thời kỳ
học sinh nhỏ); từ 12 – 15 tuổi đối với nữ, 13 – 16 tuổi đối với nam là thời kỳ
dậy thì (thời kỳ học sinh lớn). Độ tuổi này thay đổi theo giới tính, chủng tộc,
vùng khí hậu, môi trường sống, [8], [15], [19], [18], [23].
1.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình sinh trưởng và phát triển
1.1.3.1. Các yếu tố bên trong
1.1.3.1.1. Tính di truyền
Các chủng tộc, dân tộc khác nhau, các chi, dòng họ khác nhau có quá
trình sinh trưởng, phát triển khác nhau. Điều này do cơ sở vật chất của tính di
truyền là hệ gen chi phối. Hai đặc điểm do yếu tố di truyền chi phối dễ nhận
thấy nhất là tốc độ lớn và giới hạn lớn. Ví dụ: các chủng tộc ở châu Âu có tốc
độ lớn nhanh hơn và giới hạn các chỉ số cao hơn so với các chủng tộc ở châu
Á, tuổi dậy thì cũng đến muộn hơn một ít, sự tăng trưởng mạnh mẽ hơn.
Ngoài ra, sự sai khác còn thể hiện ở những tính trạng như: đặc điểm hình thái,
loại hình thần kinh, trạng thái tinh thần, khả năng tư duy, trí nhớ, nhóm máu
1.1.3.1.2. Giới tính
Bộ nhiễm sắc thể của nam và nữ (nhất là nhiễm sắc thể giới tính) là
khác nhau nên quá trình sinh trưởng, phát triển của nam và nữ cũng khác
nhau, làm xuất hiện nhiều tính trạng đặc trưng cho giới, phân biệt giữa nam
và nữ. Ví dụ: nữ giới thường dậy thì sớm hơn nhưng tốc độ tăng khối lượng,
kích thước cơ thể trong giai đoạn dậy thì kém hơn nam giới; khi cơ thể có
nhiều biến đổi, tâm lí nữ giới thường có những biểu hiện khác với nam giới
như e thẹn, mẫn cảm còn nam giới thường tò mò, bồng bột.

14
1.1.3.1.3. Các hoocmon sinh trưởng và phát triển
Sự sinh trưởng, phát triển chịu sự chi phối bởi rất nhiều hoocmon của
tuyến nội tiết. Mỗi hoocmon có một vai trò khác nhau trong từng giai đoạn,
đối với từng cơ quan, bộ phận nhưng sự hoạt động, phối hợp nhịp nhàng của
các hoocmon là điều kiện cần thiết cho cơ thể sinh trưởng, phát triển bình
thường, khỏe mạnh.
Ví dụ:
- Hoocmon tiroxin: có tác dụng tăng tốc độ chuyển hóa cơ bản, tăng cường
sinh trưởng.
- Hoocmon sinh dục nữ Oestrogen (oestradiol, oestron, oestriol): có tác dụng:
Điều hòa phát triển các tính trạng sinh dục thứ sinh ở nữ như: mọc lông
nách, lông mu, giọng nói thanh, vú phát triển, mông to ra,
Kích thích nang trứng phát triển, gây rụng trứng.
Ở nồng độ cao cùng với Progesteron ức chế tuyến yên tiết FSH, LH.
Kích thích niêm mạc dạ con dày lên, tích máu.
- Hoocmon Progesteron: có tác dụng:
Ức chế tuyến yên tiết FSH, LH

ức chế trứng chín và rụng.
Kích thích niêm mạc dạ con dày lên, tích máu chuẩn bị cho phôi phát triển.
- Hoocmon Testosteron: có tác dụng:
Điều hòa phát triển các tính trạng sinh dục thứ sinh ở nam như: mọc
râu, lông nách, lông mu, giọng nói trầm, cơ phát triển,
Kích thích hệ cơ, xương phát triển.
Kìm hãm tuyến yên tiết LH.
1.1.3.2. Các yếu tố bên ngoài (môi trường)
Mỗi sinh vật cũng như mỗi cá thể con người đều sinh ra, lớn lên, hoạt
động trong một môi trường nhất định. Môi trường bao gồm các yếu tố bao
quanh cơ thể và tác động qua lại đối với cơ thể. Môi trường là phạm trù rất

rộng, có thể chia thành môi trường tự nhiên (bao gồm môi trường không khí,
môi trường đất, môi trường nước, môi trường sinh vật) và môi trường xã hội
15
(chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, ). Tất cả các yếu tố môi trường
đó đều ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến quá trình sinh trưởng và phát
triển của cơ thể. Do đó, sinh vật sống trong các môi trường khác nhau có quá
trình sinh trưởng, phát triển khác nhau.
Ví dụ:
Theo nhiều nghiên cứu cho thấy trẻ em ở vùng gần xích đạo thường có
xu hướng dậy thì sớm hơn vùng xa xích đạo.
Trẻ em tiếp xúc với nhiều nguồn thông tin (qua phim ảnh, sách báo,
internet, những người xung quanh như bạn bè khác giới và ngay cả cùng
giới, ) thường dậy thì sớm hơn những trẻ em hạn chế về giao lưu.
Trẻ em sống trong điều kiện đầy đủ, ăn uống giàu chất dinh dưỡng,
chất kích thích thường dậy thì sớm hơn trẻ em sống trong điều kiện khó khăn,
ăn uống nghèo chất dinh dưỡng [11], [15], [23].
1.1.4. Đặc điểm tâm lí lứa tuổi 12 – 15
So với học sinh cấp tiểu học, phổ thông trung học cơ sở học tập chiếm
vị trí nhiều hơn và các em gặp một loạt hoàn cảnh mới: nhiều môn học mới,
phải thực hiện yêu cầu không phải của một giáo viên mà nhiều giáo viên, học
sinh phải hoạt động độc lập với khối lượng công việc tăng một cách đáng kể
và các em có một địa vị mới trong gia đình và trường học. Đối với các em bắt
đầu cố gắng muốn tự lập, điều này có quan hệ đặc biệt đến sự phát triển thái
độ có ý thức đối với hoạt động của mình. Nguyện vọng đó sẽ giúp các em tích
cực hơn trong hoạt động, nâng cao ý thức trách nhiệm, phát triển sự sáng tạo
trong hoạt động. Tuy nhiên nếu giáo dục không đúng thì tính độc lập trong tư
duy của các em phát triển theo chiều hướng không đúng sẽ dẫn đến kết quả
không tốt (học đòi, cáu kỉnh, thô lỗ, hỗn láo, hút thuốc lá, sống “vô chính
phủ” và dễ dàng mắc phải những tệ nạn xã hội – đặc biệt là ở lứa tuổi cuối
cấp học phổ thông trung học cơ sở.

Hứng thú của các em xuất hiện thêm nhiều nét mới so với học sinh cấp
I. Hứng thú đã được xác định rõ rệt hơn, mang tính chất bền vững, sâu sắc và
16
phong phú hơn. Hứng thú của các em rất năng động, các em sẵn sàng đi vào
lĩnh vực tri thức mình ưa thích. Do vậy việc giảng dạy TDTT cũng như các
môn học khác đóng vai trò chủ yếu trong vấn đề này. Giờ học TDTT sẽ tạo
cho các em hiểu được ý nghĩa, vai trò của TDTT đối với cá nhân và xã hội,
giúp các em tự giác tích cực trong tập luyện trong giờ chính khóa và hoạt
động ngoại khóa. Song chất lượng giảng dạy và nhân cách giáo viên có ảnh
hưởng mạnh đến sự nảy sinh và phát triển hứng thú của các em đối với môn
học (thầy này dạy thì mình thích học môn học đó, còn thầy khác dạy thì mình
không thích nữa).
Một đặc điểm nữa là hứng thú nhận thức đối với môn học ngày càng
phân hóa, được thể hiện khi các em đam mê một lĩnh vực tri thức nào đó
thì coi thường các giờ học những môn mà các em không thích. Lứa tuổi
này các em rất thích hoạt động các môn thể thao khác nhau và thường quan
tâm đến các sự kiện thể thao xảy ra, buồn khi đội mình thích bị thua, vui
khi đội đó thắng.
Do hứng thú phát triển rộng rãi nên thầy giáo và cha mẹ phải hướng
và điều chỉnh hứng thú sao cho phù hợp để hướng dẫn các em hoạt động có
hiệu quả.
Lứa tuổi này xúc cảm diễn ra tương đối mạnh mẽ nên các em dễ bị kích
động, kém tự chủ. Nhưng các em có những mối quan hệ bạn bè thân thiết, gần
gũi nhau trên cơ sở có cùng chung hứng thú, cùng thống nhất trong một hoạt
động nào đó (đá bóng, chơi các trò chơi…) và các em thường tạo thành nhóm
bạn thân thiết hàng ngày.
So với học sinh cấp tiểu học thì ở học sinh phổ thông trung học cơ sở,
các phẩm chất ý chí được phát triển. Song việc tự ý thức và tự nhận thức
không phải các em bao giờ cũng hiểu đúng mình và hiểu đúng người khác,
nhưng những nét ý chí của tính cách như can đảm, dũng cảm, quả cảm là

những phẩm chất các em rất quý trọng và các em rất sợ mang tiếng là “yếu
đuối”, cho mình vẫn còn là “trẻ con”… vì vậy việc giáo viên xem thường kết
17
quả học tập của học sinh hoặc không đánh giá, động viên kịp thời thì học sinh
sẽ nhanh chóng chán nản học tập và luyện tập, có thể lôi kéo những bạn cùng
nhóm không tích cực học tập nữa.
Như vậy tuổi học sinh phổ thông trung học cơ sở là tuổi quá độ nên
cũng là giai đoạn rất sinh động, các em phát triển đặc biệt mạnh mẽ, linh hoạt,
toàn bộ nhân cách đang trên con đường “rẽ”, vì vậy cá tính của các em có rất
nhiều cái chưa bền vững và mong muốn thử sức mình theo các phương hướng
khác nhau, nên nhân cách của các em phức tạp hơn và nhiều mâu thuẫn hơn
học sinh cấp tiểu học. Do vậy cần phải thường xuyên quan sát và giáo dục cho
phù hợp trên cơ sở dựa trên tính tích cực, phát huy tính sáng tạo, biết điều
chỉnh và tổ chức hoạt động cho các em, tạo điều kiện phát triển tốt khả năng
của các em.
1.1.5. Đặc điểm sinh lý lứa tuổi 12 – 15
1.1.5.1. Hệ thần kinh
Não bộ đang thời kỳ hoàn chỉnh, hoạt động của thần kinh chưa ổn định,
hưng phấn chiếm ưu thế vì vậy khi học tập các em dễ tập trung tư tưởng,
nhưng nếu thời gian kéo dài, nội dung nghèo nàn, hình thức hoạt động đơn
điệu, thần kinh sẽ nhanh chóng mệt mỏi và dễ phân tán sức chú ý. Do hoạt
động thần kinh linh hoạt đó là điều kiện dễ dàng hình thành phản xạ có điều
kiện. Do vậy nội dung tập luyện phải phong phú, phương pháp giảng dạy tổ
chức giờ học phải linh hoạt, không cứng nhắc đơn điệu, giảng giải và làm
mẫu có trọng tâm chính xác đúng lúc, đúng chỗ. Ngoài ra cần tăng cường hoạt
động thể dục thể thao ngoài giờ và các hình thức vui chơi khác để làm phong
phú khả năng hoạt động và phát triển các tố chất thể lực một cách toàn diện.
1.1.5.2. Hệ vận động
Hệ xương đang trong giai đoạn phát triển mạnh về chiều dài. Hệ thống
sụn tại các khớp đang đòi hỏi điều kiện tốt để phát triển và hoàn thiện, do vậy

giáo dục thể chất có tác dụng tốt đến sự phát triển của hệ xương nhưng phải
chú ý đến tư thế, đến sự cân đối trong hoạt động để tránh sự phát triển sai lệch
18
của hệ xương và kìm hãm sự phát triển chiều dài. Đặc biệt đối với các em gái
xương chậu chưa được phát triển hoàn thiện nên dễ bị lệch lạc nếu quá trình
hoạt động vận động không hợp lý.
Hệ cơ của các em phát triển chậm hơn sự phát triển của hệ xương, hệ
cơ chủ yếu phát triển về chiều dài, thiết diện cơ chậm phát triển nhưng đến
tuổi 15 – 16 thì thiết diện cơ phát triển nhanh đặc biệt là các cơ co, cơ to phát
triển nhanh hơn các cơ duỗi và cơ nhỏ. Do sự phát triển không đồng bộ, thiếu
cân đối nên các em không phát huy được sức mạnh và chóng mệt mỏi. Vì vậy
trong giáo dục thể chất cần chú ý đến tư thế, đến sự cân đối trong hoạt động
để tránh sự phát triển sai lệch của hệ xương và kìm hãm sự phát triển chiều
dài. Đặc biệt đối với các em gái xương chậu chưa được phát triển hoàn thiện
nên dễ bị lệch lạc nếu quá trình hoạt động vận động không hợp lý.
1.1.5.3. Hệ tuần hoàn
Tim phát triển chậm hơn so với sự phát triển mạch máu, sức co bóp
còn yếu, khả năng điều hòa hoạt động của tim chưa ổn định nên hoạt động
quá nhiều, quá căng thẳng sẽ chóng mệt mỏi. Vì vậy, tập luyện TDTT
thường xuyên sẽ ảnh hưởng tốt đến sự hoạt động của hệ tuần hoàn, sự
hoạt động của tim dần dần được thích ứng và có khả năng chịu đựng với
khối lượng lớn sau này. Nhưng trong quá trình tập luyện TDTT cần phải
đảm bảo nguyên tắc tăng dần yêu cầu trong giáo dục thể chất, tránh hoạt
động quá sức và quá đột ngột.
1.1.5.4. Hệ hô hấp
Phổi của các em phát triển chưa hoàn thiện, phế nang còn nhỏ, hệ cơ hô
hấp chưa phát triển, dung lượng phổi còn bé, vì vậy khi hoạt động các em thở
nhiều, thở nhanh nên chóng mệt mỏi.
Ở lưa tuổi phổ thông trung học cơ sở, các em đang trong giai đoạn phát
triển dậy thì (gái sớm hơn trai 1 – 2 tuổi) do phát triển đột biến của một số

tuyến nội tiết gây ra sự mất ổn định nên một số chức năng của các hệ thống
cơ quan và tâm lý đều có sự khác biệt rõ ràng dần.
19
Ví dụ : các em gái buồng trứng bắt đầu phát triển, xuất hiện kinh
nguyệt và thường rối loạn cấu tạo của xương mỏng và xốp, mỡ dưới da nhiều,
lồng ngực hẹp, dung lượng phổi nhỏ, khả năng hoạt động tuần hoàn và hô
hấp… đều kém hơn các em trai.
1.2. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Xuất phát từ nhu cầu thực tế và lợi ích cuộc sống của con người, việc
nghiên cứu các chỉ tiêu phát triển hình thái, sinh lý, trí tuệ của con người nói
chung và trẻ em nói riêng đã được tiến hành từ rất sớm trên thế giới. Cuốn
sách đầu tiên viết về sự tăng trưởng chiều cao con người của Stocller được
xuất bản tại Đức năm 1729. Tác giả đã nghiên cứu học sinh quý tộc trường
Carxchile. Sau đó là hàng loạt các công trình khác của Mondiere (1875),
Beegon (1902), Thondihee (1903), Herman (1937), Freemon (1971), đã
nghiên cứu sự phát triển hình thái và trí tuệ trẻ em ở các lứa tuổi và địa
phương khác nhau.
Năm 1948, Tổ chức Y tế thế giới vì sức khỏe cộng đồng ra đời đã
nghiên cứu, đánh giá sự phát triển của trẻ em thông qua hai chỉ số chiều
cao, cân nặng và đã có nhiều đóng góp đáng kể trong việc chăm sóc sức
khỏe trẻ em.
Những năm 1960 nhiều nhà khoa học đã phát hiện ra hiện tượng “gia
tốc” phát triển cơ thể ở trẻ em lứa tuổi học đường và nhận thấy trẻ em có sự
gia tăng các chỉ tiêu hình thái so với các trẻ em cùng lứa tuổi những thập kỉ
trước đó. Các tác giả đã có những giả thiết khác nhau để giải thích hiện tượng
này, điển hình là thuyết “Thành thị hóa” của Rudder.
Trong cuốn “Giải phẫu sinh lý và vệ sinh trẻ em”, A.N Kabanop và A.
Trabopxcaia đã tổng hợp nhiều công trình nghiên cứu của nhiều tác giả và
bản thân. Các tác giả cho rằng: Trước khi trở thành người lớn, trẻ em phải trải
qua nhiều giai đoạn phát triển quan trọng, nhiều năm cần sự giúp đỡ của

người trưởng thành, cấu tạo và hoạt động của các cơ quan trong cơ thể cũng
như nhu cầu cơ thể, những phản ứng của cơ thể đối với điều kiện bên ngoài
20
đều được thay đổi. Để tạo nên những điều kiện tốt nhất cho sự sinh trưởng và
phát triển của trẻ em, để dạy dỗ và giáo dục trẻ em một cách đúng đắn thì cần
phải nắm vững những đặc trưng của từng giai đoạn phát triển của trẻ để có
biện pháp tác động thích hợp [20].
Kabanop (1972) nghiên cứu thấy rằng: Sự tăng thể lực và thể chất ở
trẻ em ngoài sự quyết định bởi yếu tố di truyền thì nó còn liên quan chặt
chẽ đến chế độ dinh dưỡng, sự luyện tập và chế độ chăm sóc của gia đình
và xã hội [19].
Xukhomlinxki – nhà sư phạm nổi tiếng của Nga cho rằng: Khả năng
vận động, kĩ năng, kĩ xảo ở con người nói chung, học sinh nói riêng được
hình thành trong đời sống cá thể, điều đó có nghĩa phải trải qua quá trình
luyện tập. Quá trình vận động nói chung, tập thể dục thể thao nói riêng có vai
trò quyết định đối với sự phát triển toàn diện của con người. Đặc biệt, lứa tuổi
thanh thiếu niên chỉ có một cơ thể khỏe mạnh, một thân hình cường tráng,
phát triển cân đối thì hệ thần kinh mới nhạy bén, phản xạ mới linh hoạt.
Philipôven (1975) đã chứng minh rằng hoạt động điện não đồ ở trẻ em
có nhiều dao động so với người lớn, đặc biệt là sóng bê-ta ở tuổi dậy thì, biên
độ sóng đạt tới 4 – 5 micro Vôn, tần số 10 – 12 Hz (nhanh hơn ở người lớn).
1.3. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
Ở Việt Nam, việc nghiên cứu các chỉ tiêu hình thái, sinh lý ở các lứa
tuổi được tiến hành từ những năm 30 của thế kỉ XX tại Ban nhân học thuộc
Viện Viễn Đông Bắc Cổ. Kết quả nghiên cứu được công bố tập trung trong 9
số kỉ yếu phân khoa Nhân học (1936 – 1944) gồm nhiều loại kích thước của
các đoạn thân thể theo tuổi và thành phần khác nhau, đặc biệt là kích thước
của bộ xương người Việt Nam hiện đại.
Sau ngày miền Bắc giải phóng và nhất là sau ngày đất nước thống nhất,
các công trình khoa học thuộc mọi lĩnh vực được đẩy mạnh và thu được nhiều

thành tựu to lớn. Trong các nghiên cứu về chỉ tiêu hình thái ở người lớn, Đỗ
Xuân Hợp và Nguyễn Quang Quyền có một số công trình có tính hệ thống và
21
toàn diện như: “Hằng số sinh học người Việt Nam” (1967), “Bàn về những
hằng số giải phẫu nhân học người Việt Nam và ý nghĩa đối với y học” (Một
số chuyên đề y học, 1967). Các chỉ tiêu sinh lý, sinh hóa đã được nhiều tác
giả nghiên cứu, nổi bật trong đó là “Hằng số sinh học người Việt Nam” –
công trình đúc kết nhiều năm nghiên cứu của các tác giả Trịnh Bỉnh Dy,
Nguyễn Tấn Gi Trọng, Phạm Khuê, Lê Thành Uyên, Lê Quang Long,
(1975); “Về những thông số sinh học người Việt Nam” của Trịnh Bỉnh Dy,
Đỗ Đình Hồ, Phạm Khuê, Nguyễn Quang Quyền, Lê Thành Uyên (1982);
“Sinh lý thần kinh trẻ em” của Tạ Thúy Lan (1992) [4], [11], [24].
Bên cạnh hàng loạt công trình nghiên cứu về người lớn, có không ít
công trình nghiên cứu về trẻ em và học sinh Việt Nam như: “Hằng số phát
triển trẻ em Việt Nam” của Chu Văn Tường; “Phát triển thể lực ở trẻ em dưới
7 tuổi”; “Một số hằng số của trẻ em Việt Nam” của Chu Văn Tường và
Nguyễn Công Khanh (Báo cáo tại Hội nghị Hằng số sinh học người Việt
Nam, 1972).
Tuy nhiên, từ đó đến nay với khoảng thời gian tương đối dài, điều kiện
môi trường tự nhiên và xã hội có nhiều biến đổi, nhất là sau ngày đất nước
hoàn thành thống nhất, đã mở ra một địa bàn mới, những đối tượng mới cho
việc nghiên cứu hình thái, sinh lý cũng như sinh hóa ở nước ta. Nhiều công
trình của nhiều tác giả đã thực hiện trên khắp đất nước như các công trình
nghiên cứu của Trường Đại học Y khoa TP Hồ Chí Minh dưới sự chủ trì của
Nguyễn Quang Quyền: “Các chỉ tiêu phát triển hình thái của trẻ em và người
lớn Tây Nguyên” (1980 – 1990); “Các chỉ tiêu hình thái, sự phát triển thể lực
và thể chất của trẻ em và học sinh miền đồng bằng, thành phố Vinh và miền
núi Nghệ An” của Nghiêm Xuân Thăng, Nguyễn Ngọc Hợi, Ngô Thị Bê,
Hoàng Thị Ái Khuê; “Nghiên cứu sự phát triển hình thái, thể lực của học sinh
6 – 17 tuổi ở Thừa Thiên Huế” của Lê Đình Vấn (2002); Đặc biệt đề tài cấp

Nhà nước “Đặc điểm sinh thể, tình trạng dinh dưỡng của người Việt Nam và
biện pháp nâng cao chất lượng sức khỏe” do Trường Đại học Y Hà Nội chủ
22
trì mang mã số KX07 đã góp phần to lớn vào việc nghiên cứu con người Việt
Nam [5].
Bên cạnh các công trình nghiên cứu về sự phát triển thể lực, thể chất
của trẻ em, còn có rất nhiều đề tài đi sâu nghiên cứu sự phát triển trí tuệ, tư
duy của trẻ gắn liền với quá trình phát triển sinh lý, đặc biệt là sự phát triển
của bộ não của trẻ.
Các công trình của Hoàng Xuân Hinh (1971), Phạm Hoàng Gia (1977),
Trần Cường, Trọng Thủy (1989) [34], Tạ Thúy Lan (1993) [24] đã cho thấy
sự phát triển năng lực trí tuệ và tư duy của trẻ qua nhiều giai đoạn. Năng lực
tư duy trừu tượng gắn liền sự phát triển vốn từ của trẻ. Vốn từ của trẻ phát
triển thuận lợi nhất từ 2 – 3 tuổi. Muốn cho trẻ phát triển vốn từ chúng ta cần
cho trẻ tiếp xúc nhiều với thế giới xung quanh.
Nhiều tác giả đã sử dụng các hình thức trắc nghiệm trí thông minh để
nghiên cứu khả năng hoạt động trí tuệ của trẻ. Cho đến nay, một số hình thức
test trí tuệ đã và đang được thích nghi hóa và sử dụng ở Việt Nam. Hai cơ sở
quan trọng nhất trong lĩnh vực này là Viện tâm sinh lý lứa tuổi thuộc Viện
Khoa học Giáo dục Việt Nam và Trung tâm nghiên cứu trẻ em Hà Nội với
nhiều đề tài trọng điểm. Trong các loại hình trắc nghiệm đó, trắc nghiệm
Gille, trắc nghiệm khuôn hình tiếp diễn của Ra-ven (Test Ra-ven) đã được
ứng dụng rộng rãi và có hiệu quả (Võ Văn Toàn – 1995, Trần Trọng Thủy –
2001, Võ Thị Chí, Lưu Thị Minh Trí – 2001). Test Ra-ven được xây dựng
trên cơ sở hai thuyết: thuyết tri giác hình thể tâm lý học Ghetxytan và thuyết
“tâm phát sinh” của Speaman. Sau nhiều lần chuẩn hóa vào các năm 1954,
1956 đến năm 1960, test Ra-ven được UNESCO chính thức sử dụng để chuẩn
hóa trí tuệ của con người. Đây là loại hình trắc nghiệm phi ngôn ngữ được
dùng để đo năng lực tư duy trên bình diện rộng nhất và được sử dụng rộng rãi
trên nhiều đối tượng. Số liệu thu được cho phép chuyển đổi thành chỉ tiêu

đánh giá trí tuệ tổng quát. Có thể nói Test Ra-ven là công cụ sắc bén cho việc
đánh giá mức độ phát triển trí tuệ [9], [35], [36].
23
Ở Nghệ An đã có các công trình về hình thái và sinh lý của học sinh
Tiểu học và Trung học của Nguyễn Ngọc Hợi, Nghiêm Xuân Thăng, Ngô Thị
Bê, chủ yếu nghiên cứu về đặc điểm hình thái và thể lực [17].
1.4. Vài nét về khu vực nghiên cứu
1.4.1. Tỉnh Yên Bái [39], [40].
Yên Bái là một tỉnh thuộc vùng trung du và miền núi phía Bắc Việt
Nam. Yên Bái nằm ở vùng Tây Bắc tiếp giáp với Đông Bắc. Phía đông
bắc giáp 2 tỉnh Tuyên Quang và Hà Giang, phía đông nam giáp tỉnh Phú
Thọ, phía tây nam giáp tỉnh Sơn La, phía tây bắc giáp hai tỉnh Lai Châu
và Lào Cai.
Với diện tích là 6.807 km2, Yên Bái bao gồm 01 thành phố, 01 thị xã
và 07 huyện với tổng số 180 xã, phường, thị trấn. Theo điều tra dân số ngày
01/04/2009, toàn tỉnh Yên Bái có khoảng 740.905 dân, gồm 30 dân tộc sinh
sống với nhau từ lâu đời, trong đó dân tộc Kinh chiếm 54%, còn các dân tộc
thiểu số như: Tày, Dao, Mông, Thái, Mường, Nùng, Sán Chay (Cao Lan –
Sán Chi), Khơ Mú, Phù Lá chiếm 46%.
Yên Bái là một trong những địa bàn sinh tụ của người Việt cổ. Việc tìm
thấy di cốt động vật hóa thạch ở hang Hùm (Lục Yên) và các công cụ bằng đá
ở hang Thẩm Thoóng (Văn Chấn) cách đây hơn 10 vạn năm, cùng thạp đồng
Đào Thịnh, Hợp Minh (Trấn Yên) nổi tiếng cách đây hơn 2000 năm, thời văn
hóa Đông Sơn đã chứng minh Yên Bái là một trong những điểm văn minh từ
xa xưa của loài người. Ở đây có hồ thủy điện Thác Bà, rộng hơn 23.000 ha
với hơn 1.300 hòn đảo lớn nhỏ giống như “Vịnh Hạ Long nổi trên lục địa.
Cánh đồng Mường Lò lớn thứ nhì vùng Tây Bắc, là vựa lúa của tỉnh, có đặc
sản gạo nếp Tú Lệ, thơm ngon.
Yên Bái có những đồi chè hình xoắn ốc rộng ngút ngàn với những rừng
quế, rừng cây nguyên liệu giấy sợi hình thành nhiều vùng sản xuất hàng hóa

xuất khẩu. Rừng của Yên Bái không chỉ có gỗ và lâm sản tự nhiên quý với trữ
lượng lớn mà đặc biệt còn hàng nghìn ha cây pơ-mu rải rác trên các miền núi
24
cao có tuổi đời thế kỉ, tán lá hình tháp, thân thẳng cao tới 25 đến 30m, đường
kính tới 2m, xuất khẩu đạt giá trị kinh tế cao. Cây pơ-mu được coi là biểu
tượng trường tồn của Yên Bái.
Ngoài các mỏ Cao Lanh, Graphit, Pirit, chì, kẽm có trữ lượng lớn,
gần đây Yên Bái đã tìm thấy mỏ đá quý Hồng Ngọc (Rubi) ở Lục Yên có tuổi
nguyên sinh hơn 1.000 triệu năm bắt đầu từng bước khai thác. Mặt hàng xuất
khẩu chủ yếu cuả Yên Bái là: chè, quế, gỗ, đá quý (Rubi), tinh dầu thực vật,
một số loại khoáng sản.
1.4.2. Huyện Văn Yên (tư liệu được trích từ Báo cáo tổng hợp tình hình kinh
tế - xã hội – giáo dục huyện Văn Yên năm 2013)
Văn Yên là một huyện thuộc tỉnh Yên Bái có vị trí địa lý nằm ở 21
0
35’
– 22
0
10’ vĩ độ Bắc, 104
0
23’ – 104
0
60’ kinh độ Đông, phía Đông Bắc giáp
huyện Lục Yên, Yên Bình, phía Đông Nam giáp huyện Trấn Yên, phía Nam
giáp huyện Văn Chấn, phía Tây giáp huyện Văn Bàn tỉnh Lào Cai. Với tổng
diện tích đất tự nhiên là 139.154,11 ha, Văn Yên là đơn vị hành chính lớn
nhất tỉnh Yên Bái. Địa hình của huyện cấu trúc khá đa dạng và phức tạp, cao
dần từ Đông sang Tây, từ Nam lên Bắc. Phía tả ngạn sông Hồng là dãy núi
Con Voi có độ cao 1.460m; phía hữu ngạn là dãy Phan-xi-păng hùng vĩ có các
đỉnh cao từ 1.300 – 1.900m. Tuy nhiên, những vùng thấp của huyện chỉ còn

75m. Toàn huyện có khoảng 70% diện tích có địa hình dốc từ 25 độ trở lên.
Khí hậu Văn Yên thuộc loại thời tiết nhiệt đới gió mùa, nắng lắm mưa
nhiều, nền nhiệt cao, chia làm hai vùng khí hậu là Bắc Trái Hút và Nam Trái
Hút, tuy nhiên sự cách biệt đó không nhiều. Nhiệt độ trung bình trong năm là
22
0
C, mùa đông nhiệt độ thấp nhất là 3
0
C, mùa hè cao nhất là 38
0
C. Độ ẩm
bình quân là 88%. Lượng mưa trung bình từ 1400-1500mm.
Ở Văn Yên, tài nguyên khoáng sản và tài nguyên rừng rất phong phú.
Rừng ở Văn Yên thuộc loại rừng á nhiệt đới và nhiệt đới núi cao với nhiều
loại cây lá kim như pơ mu, sa mộc xen lẫn các loại cây lá rộng thuộc họ sồi,
dẻ, đỗ quyên. Bên cạnh đó còn có các loại gỗ quý như nghiến, táu, lát hoa,
25

×