Tải bản đầy đủ (.doc) (141 trang)

Tích hợp tri thức lý luận văn học trong dạy học đọc văn và làm văn ở trường trung học phổ thông huyện quỳ châu, tỉnh nghệ an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (605.07 KB, 141 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

LÊ THỊ HƯƠNG



TÍCH HỢP TRI THỨC LÝ LUẬN VĂN HỌC
TRONG DẠY HỌC ĐỌC VĂN VÀ LÀM VĂN
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
HUYỆN QUỲ CHÂU, TỈNH NGHỆ AN
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
NGHỆ AN - 2014
2
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
LÊ THỊ HƯƠNG
TÍCH HỢP TRI THỨC LÝ LUẬN VĂN HỌC
TRONG DẠY HỌC ĐỌC VĂN VÀ LÀM VĂN
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
HUYỆN QUỲ CHÂU, TỈNH NGHỆ AN
Chuyên ngành: Lý luận và phương pháp dạy học Văn và Tiếng Việt
Mã số: 60. 14. 01. 11
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Người hướng dẫn khoa học:
PGS. TS. ĐINH TRÍ DŨNG
NGHỆ AN - 2014
4
LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp này, tôi xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc


đến thầy giáo - PGS. TS. Đinh Trí Dũng, đã dành nhiều thời gian hướng dẫn
tận tình trong suốt quá trình tôi viết luận văn tốt nghiệp.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn quý thầy giáo, cô giáo đã tận tình
truyền đạt kiến thức cho tôi trong hai năm học vừa qua. Cảm ơn Ban chủ
nhiệm khoa Ngữ văn, Tổ Lí luận và Phương pháp dạy học Ngữ văn trường
Đại học Vinh đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi học tập và hoàn thành khóa học.
Nhân đây, tôi cũng xin cảm ơn Ban giám hiệu và tổ Ngữ văn trường
THPT huyện Quỳ Châu, các đồng nghiệp, bạn bè, gia đình đã tạo rất nhiều
điều kiện để tôi hoàn thành công việc học tập.
Nghệ An, tháng 10 năm 2014
Tác giả
Lê Thị Hương
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 10
1. Lý do chọn đề tài 10
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu 11
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 14
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 15
5. Phương pháp nghiên cứu 15
6. Đóng góp của luận văn 15
7. Cấu trúc luận văn 15
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC TÍCH HỢP TRI THỨC LÝ
LUẬN VĂN HỌC TRONG DẠY HỌC ĐỌC VĂN VÀ LÀM VĂN
Ở TRƯỜNG THPT 16
1.1. Một số khái niệm liên quan 16
1.1.1. Khái niệm tích hợp 16
1.1.2. Bản chất của giáo dục tích hợp 17
1.2. Cơ sở lý luận 25

1.2.1. Khái niệm tri thức lí luận văn học 25
1.2.2. Tri thức lí luận văn học là tri thức cơ sở để học tốt các phân môn Ngữ văn trong
nhà trường THPT 26
1.2.3. Tri thức lý luận văn học cần thiết để mở rộng kiến thức của văn học nói chung
29
1.3. Cơ sở thực tiễn 31
1.3.1. Chương trình Ngữ Văn ở trường THPT hiện nay 31
1.3.2. Những thuận lợi và khó khăn trong việc hình thành và cũng cố tri thức lý luận
văn học cho học sinh THPT huyện miền núi Quỳ Châu 33
1.3.3. Thăm dò ý kiến về tri thức lý luận văn học của học sinh THPT huyện miền núi
Quỳ Châu 38
Tiểu kết: Ở chương này, chúng tôi đã tập trung vào việc giới thuyết về khái niệm tích hợp, bản
chất của giáo dục tích hợp và sự chi phối của nó tới chương trình Ngữ văn ở trường THPT.
Chúng tôi cũng trình bày khái niệm và những nét khái quát về đặc điểm phần lí luận văn học
trong chương trình Ngữ văn THPT và những thuận lợi cũng như khó khăn đặt ra trong việc dạy
tích hợp nhằm hình thành và củng cố tri thức lí luận văn học vào dạy đọc văn và làm văn. Đây
chính là những điểm tựa về mặt lí thuyết để từ đó chúng tôi đi sâu vào nghiên cứu những
nguyên tắc, phương pháp định hướng học sinh vận dụng tri thức lí luận văn học vào dạy học
Ngữ văn ở trường THPT miền núi huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An. 39
Chương 2
ĐỊNH HƯỚNG NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
TÍCH HỢP TRI THỨC LÝ LUẬN VĂN HỌC
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG HUYỆN QUỲ CHÂU 40
2.1. Định hướng đối với việc tích hợp tri thức lý luận văn học trong dạy học đọc văn và làm văn
ở trường THPT 40
2.1.1. Chú ý đặc điểm tâm sinh lý của học sinh THPT 40
2.1.2. Bám sát chương trình, sách giáo khoa 42
2.1.3. Sáng tạo, linh hoạt trong tích hợp tri thức lý luận văn học 43
2.2. Những nội dung tri thức lí luận văn học cần tích hợp 45
2.2.1. Các tri thức mang tính nguyên lý chung 45

2.2.2. Các tri thức về thể loại và tác phẩm văn học 46
2.2.3. Các tri thức về tiến trình văn học 49
2.3. Phương pháp tích hợp tri thức lý luận văn học trong dạy học môn Ngữ văn ở trường THPT
huyện Quỳ Châu 50
2.3.1. Tích hợp tri thức lý luận văn học trong dạy học văn học dân gian 50
2.3.2. Tích hợp tri thức lý luận văn học trong dạy học văn học trung đại 55
2.3.3. Tích hợp tri thức lý luận văn học trong dạy học văn học hiện đại 61
2.3.4. Tích hợp tri thức lý luận văn học trong dạy học làm văn ở trường THPT 73
Tiểu kết: Vận dụng tri thức lí luận văn học trong giờ dạy đọc văn và làm văn ở trường THPT là
một quá trình lâu dài và nên thực hiện ở tất cả các bậc học, cấp học. Tuy nhiên, để giờ học có
hiệu quả tích cực thì chúng ta cần phải tuân theo những yêu cầu nhất thiết. Ở chương 2, chúng
tôi đã đề xuất một số định hướng tích hợp, nội dung tích hợp tri thức lí luận cũng như cách tổ
chức vận dụng tri thức đó trong quy trình một giờ đọc văn và làm văn trong nhà trường phổ
thông. Cũng ở đây, chúng tôi còn đề xuất cách tiếp cận, khai thác bài đọc văn trên nền tảng tri
7
thức lí luận văn học nhằm khai thác các phương diện nội dung và hình thức trong học văn học
dân gian, truyện ngắn, tiểu thuyết theo đặc trưng thể loại, bồi dưỡng tri thức lý luận về các kĩ
năng làm văn nghị luận cho học sinh. Để thấy được cách vận dụng cụ thể các phương pháp này
trong giờ dạy đọc văn và làm văn chúng tôi xin trình bày một số thiết kế giáo án thử nghiệm
trong chương 3. 83
Chương 3
THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM 84
3.1. Thiết kế một số giáo án thực nghiệm 84
3.1.1. Giáo án 1: Tấm Cám (SGK Ngữ văn cơ bản, lớp 10, tập 1) 84
3.1.2. Giáo án 2: Vội vàng (SGK Ngữ văn 11, tập 2) 99
3.1.3. Giáo án 3: Chiếc thuyền ngoài xa - (SGK Ngữ văn 12 - Chương trình chuẩn - 2
Tiết) 109
3.1.4. Giáo án 4: Nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ - (SGK Ngữ văn 12, tập 1, chương
trình chuẩn) 124
3.2. Tiến hành thực nghiệm 129

3.2.1. Đối tượng thực nghiệm 129
3.2.2. Mục đích thực nghiệm 129
3.2.3. Phương pháp thực nghiệm 130
3.2.4. Đánh giá kết quả thực nghiệm 130
3.2.5. Kết luận và đề xuất 132
Tiểu kết: Kết quả thực nghiệm trên tuy vẫn còn hạn chế, song chúng tôi thấy việc vận dụng tri
thức lí luận vào dạy đọc - hiểu thơ trữ tình là điều mang tính khả thi và có thể thực hiện được
đối với tất cả các khối lớp và cấp học (ngay cả cấp THCS). 132
KÊT LUẬN 134
TÀI LIỆU THAM KHẢO 137
8
BẢNG KÍ HIỆU VIẾT TẮT
CH : Câu hỏi
ĐC : Đối chứng
GD&ĐT : Giáo dục và đào tạo
GV : Giáo viên
HS : Học sinh
Nxb : Nhà xuất bản
PPDH : Phương pháp dạy học
SGK : Sách giáo khoa
SGV : Sách giáo viên
TC&SGK : Chương trình và sách giáo khoa
THCS : Trung học cơ sở
THPT : Trung học phổ thông
TN : Thực nghiệm
TPVC : Tác phẩm văn chương.
VHDG : Văn học dân gian
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Hiện nay, chương trình, sách giáo khoa cũng như phương pháp

giảng dạy trong nhà trường đang thay đổi mạnh mẽ để phù hợp với yêu cầu,
đòi hỏi của xã hội. Trong đó, bộ môn Ngữ văn cũng không là một ngoại lệ.
Môn Ngữ văn còn có thế mạnh riêng trong bồi dưỡng tâm hồn, trang bị kiến
thức và kĩ năng sống. Tuy nhiên, dạy học hiện nay luôn đứng trước một mâu
thuẫn: một bên là yêu cầu truyền đạt một khối lượng tri thức khổng lồ của
nhân loại đang ngày một tăng lên, một bên là số lượng giờ học của học sinh
ngày càng ít đi do sự chi phối bởi nhiều nhu cầu của cuộc sống hiện đại. Để
giải quyết mâu thuẫn, phương pháp tích hợp đang được sử dụng một cách
hiệu quả. Các kiến thức lý luận văn học cũng cần thiết được tích hợp trong
quá trình giảng dạy.
1.2. Các kiến thức lý luận văn học có liên quan đến chương trình trung
học phổ thông là khá đa dạng phong phú. Trong đó, kiến thức chung có tính
nguyên lý như tính nhân bản, tính giai cấp, tính nhân dân, giá trị của văn
học…; có kiến thức về tác phẩm như đề tài, chủ đề, hình tượng, nhân vật…;
có kiến thức về quá trình văn học như trào lưu, khuynh hướng… Tích hợp cái
gì, tích hợp như thế nào cho hợp lý là một vấn đề mà mỗi người giáo viên
luôn phải đặt ra mà tìm tòi, khám phá, sáng tạo, tìm ra cách tích hợp tốt được
sử dụng một cách hiệu quả , Đề tài của tôi đi vào phương diện khó khăn
nhưng cũng rất thú vị này.
1.3. Quỳ Châu là một huyện miền núi có nhiều học sinh ở vùng sâu
vùng xa thuộc các dân tộc ít người, nói tiếng phổ thông chưa thạo, trình bày,
tạo lập văn bản còn hạn chế viết sai lỗi chính tả nhiều, kĩ năng làm văn còn
kém, thẩm thấu văn bản đọc văn còn hạn chế. Học sinh người ở đây cũng có
10
nhiều hạn chế về tri thức so với học sinh miền xuôi. Kiến thức lý luận văn học
nhìn chung là quá khó đối với các em. Do đó làm thế nào cho học sinh nắm
vững các kiến thức về lý luận văn học để hỗ trợ cho việc đọc hiểu tác phẩm và
làm văn là một vấn đề thiết thực, có ý nghĩa. Đề tài của chúng tôi hướng vào
việc tích hợp tri thức lý luận văn học trong dạy học Đọc Văn và Làm Văn cho
học sinh ở trường trung học phổ thông huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An, cũng

nhằm hướng tới mục tiêu đó.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Xưa nay, lí luận văn học được coi là một bộ môn khoa học có nhiệm vụ
tổng kết ở cấp độ lí thuyết những quan điểm, kiến thức và phương pháp chung
nhất từ sáng tác phê bình… trở thành chỉ đạo cho các ngành hoạt động học
văn trong đó có việc dạy văn. Cuốn Lí luận văn học mà Phương Lựu chủ biên
đã xác định đây là một bộ môn chính trong giảng dạy văn học và có ý nghĩa
rất quan trọng: “Giúp cho sinh viên khoa Ngữ văn của các trường đại học sư
phạm giỏi môn văn, giúp cho người thầy giáo dạy văn ở trường trung học phổ
thông dạy tốt môn Văn, và đặc biệt là giúp cho học sinh phổ thông hình thành
và phát triển năng lực văn” [38, 642]. Trong điều kiện văn học phát triển
mạnh mẽ, đa dạng phong phú, vai trò chỉ đạo của lí luận văn học ngày càng
trở nên quan trọng, thiết thực đối với giáo viên và học sinh. Khẳng định vai
trò ý nghĩa của lí luận văn học trong dạy học mà từ trước đến nay đã có rất
nhiều nghiên cứu, bài viết bàn về nó.
Tác giả Đỗ Ngọc Thống trong Lí luận văn học ở trường phổ thông - bài
toán nghịch lí và phép giải thuận lí, khi nói về lí luận văn học đã nhận xét: “Lí
luận văn học ở cả hai phương diện trong việc tạo ra năng lực của học sinh. Một
mặt, nó giúp người học những tri thức cần thiết nhằm tiếp nhận các sự kiện văn
học bao gồm: tác phẩm, tác giả, trào lưu, xu hướng (khả năng giải mã), mặt
khác, nó cũng giúp học sinh năng lực sản sinh văn bản đúng (khả năng kí mã)
11
[21, 27]. Cùng với việc thay SGK Ngữ Văn THCS, năm 2002, trong cuốn Đổi
mới việc dạy và học môn Ngữ văn ở trung học cơ sở, tác giả Đỗ Ngọc Thống
cũng bàn về đổi mới phương pháp dạy học đọc - hiểu văn bản. Người viết chỉ
rõ đổi mới phương pháp dạy học đọc hiểu văn bản là nhằm tích cực hóa hoạt
động của người học, đồng thời vận dụng phương pháp chủ động vào dạy giờ
đọc hiểu cũng như đưa ra những kiến nghị về giải pháp cụ thể.
Huỳnh Như Phương trong bài Để lí luận văn học trở thành một môn
học thực sự có ích cho học sinh cũng bàn về vấn đề “những quan điểm lí luận

thường được khái quát chủ yếu từ thực tiễn văn học hiện thực chủ nghĩa với
việc đòi hỏi vận dụng nó để tìm hiểu sự phát triển đa dạng và phong phú của
văn học thế giới” [22, 171].
Nguyễn Nam Phong trong bài Bàn thêm về Lí luận văn học trong nhà
trường phổ thông cho rằng: “vấn đề rất nghiêm túc đặt ra cho môn Văn nói
chung và Lí luận văn học nói riêng là cần tăng cường tính thực dụng của môn
học, đồng thời phải giảng dạy một cách tử tế, có chọn lọc những thành lí luận,
những khái niệm thông dụng để khám phá tác phẩm” [21, 186]. Cũng theo
tác giả Trần Hữu Duy trong Hiệu quả của môn Lí luận văn học ở trung học
phổ thông đối với việc dạy - học văn học Việt Nam cổ cận viết: “Phân môn Lí
luận văn học hiện nay trong nhà trường phổ thông trung học chưa với tới việc
hướng dẫn cho học sinh những thao tác tiếp cận tác phẩm mà mới dừng lại ở
lí luận về tác phẩm” [21, 126].
Đổi mới phương pháp dạy học mà phương pháp dạy học Ngữ Văn nói
chung và phương pháp dạy đọc hiểu và làm văn nói riêng đang là vấn đề được
rất nhiều nhà nghiên cứu cũng như đội ngũ các thầy cô giáo quan tâm. Đã có
nhiều công trình nghiên cứu, các chuyên luận, bài báo,… viết về vấn đề này.
Thực tế trong chương trình Ngữ văn ở THPT, các bài học về lí luận văn học
chiếm giữ một vị trí quan trọng trong phần đọc văn. Là một phân môn có
12
nhiệm vụ cung cấp những kiến thức nền tảng làm công cụ để giúp học sinh
phổ thông học tốt môn Ngữ văn nói chung và phần đọc văn và làm văn nói
riêng. Nó cung cấp những tri thức lí thuyết về văn học cho học sinh, giúp học
sinh khám phá văn bản nghệ thuật sâu rộng hơn, bao quát hơn và ngược lại
tác phẩm văn học là ví dụ thực tiễn chứng minh cho các vấn đề đặt ra trong lí
luận nhưng lại chưa được quan tâm một cách đúng mức. Nhưng việc vận
dụng phương pháp dạy học tích hợp lí luận trong dạy đọc hiểu và làm văn
thực sự chưa mấy ai quan tâm.
Bàn về việc nâng cao hiệu quả dạy học lí luận văn học ở trường Phổ
thông trung học, Nguyễn Duy Bắc trong bài Về việc nâng cao hiệu quả dạy

học Lí luận văn học ở phổ thông trung học - tạp chí Nghiên cứu giáo dục số 8
- 1997 cho rằng: “Việc dạy học lí luận văn học chủ yếu là phải kết hợp giữa lí
thuyết và thực hành, gắn lí luận với các ví dụ được phân tích khoa học. Dạy
học lí luận văn học phải được tiến hành thông qua việc dạy học các phân môn
văn học khác và ngược lại”.
Tác giả Lê Thị Hương trong Tạp chí giáo dục số 159 (quý I/2007) đã
có ít nhiều vấn đề mà luận văn muốn hướng tới: Tích hợp kiến thức lí luận
văn học với việc phân tích tác phẩm văn học trong dạy văn ở THPT. Bài viết
đã đưa ra mộ số vấn đề như: Cơ sở lí luận của việc tích hợp; Nguyên tắc tích
hợp lí luận văn học trong phân tích tác phẩm (về nội dung và phương pháp).
Vấn đề đưa ra trong bài viết như là bản lề có tính chất gợi mở và phần nào
định hướng để chúng tôi tiếp tục triển khai và làm rõ hơn vấn đề vận dụng tri
thức lí luận văn học vào dạy đọc hiểu và làm văn ở trường THPT.
Cùng với việc đổi mới chương trình, SGK Ngữ Văn THPT và phương
pháp dạy học Bộ Giáo dục và Đào tạo đã xuất bản nhiều tài liệu tham khảo
tương ứng để giúp giáo viên nắm bắt kịp thời và chính xác tinh thần của đổi
mới dạy học nhằm nâng cao chất lượng. Tuy nhiên do đặc thù là loại sách công
13
cụ, những cuốn SGV cũng chỉ là những định hướng cho dạy học đọc hiểu ở
những bài cụ thể chứ chưa có tính chất tổng quát về hệ thống phương pháp tích
hợp, nhất là vấn đề vận dụng (tích hợp) tri thức lí luận trong dạy đọc hiểu và
làm văn. Ngoài SGV, Bộ Giáo dục và Đào tạo còn cung cấp thêm bộ bốn cuốn
Thiết kế bài giảng Ngữ văn THPT xuất bản từ năm 2006 đến năm 2008, tương
đương với chương trình sách giáo khoa THPT. Sau này có thêm Tài liệu chuẩn
kiến thức cho bộ môn Ngữ văn các lớp. Loại tài liệu này đã xác định những nội
dung trọng tâm của phân môn văn cần hình thành cho học sinh. Đây chính là
cơ sở để giáo viên xây dựng bài dạy theo nguyên tắc tích hợp.
Trong quá trình dạy học và khảo sát, chúng tôi chưa bắt gặp tài liệu nào
tập trung nghiên cứu một cách có hệ thống, đầy đủ về hoạt động vận dụng tri
thức lí luận văn học trong dạy đọc hiểu và làm văn ở trường THPT theo tinh

thần đặc trưng của phân môn để phát huy sự sáng tạo, ý thức tự lực cho học
sinh. Bởi vậy khi lựa chọn nghiên cứu đề tài, chúng tôi mong muốn góp một
phần nhỏ nhằm gợi mở những giải pháp đem lại hiệu quả cho hoạt động dạy
học vận dụng tri thức lí luận trong dạy đọc hiểu và làm văn ở trường THPT,
miền núi nói chung, học sinh THPT miền núi Quỳ Châu nói riêng để tạo được
sự hứng thú, lòng say mê của học sinh trong khám phá tác phẩm và góp phần
nâng cao chất lượng học tập môn Ngữ văn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là: Tích hợp tri thức lý luận văn học
trong dạy học Đọc Văn và Làm Văn ở trường THPT huyện Quỳ Châu, tỉnh
Nghệ An.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu lý thuyết các tri thức lý luận văn học liên quan đến chương
trình THPT, các nguyên tắc biện pháp để tích hợp các tri thức lý luận văn học
cho học sinh ở các lớp trường THPT miền núi huyện Quỳ Châu
14
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Dạy tích hợp để góp phần hình thành, cũng cố tri thức lý luận văn học
giúp học sinh học tốt các phân môn trong chương trình THPT, trên đối tượng
học sinh một huyện miền núi còn gặp nhiều khó khăn.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu các tri thức lý luận văn học cần tích hợp trong dạy học Đọc
Văn và Làm Văn ở trường THPT.
- Tìm hiểu, nghiên cứu, định hướng chung, nguyên tắc, biện pháp tích
hợp tri thức lý luận văn học trong dạy học Đọc Văn và Làm Văn ở
trườngTHPT huyện Quỳ Châu.
- Thực nghiệm sư phạm
5. Phương pháp nghiên cứu

Nhóm phương pháp lý thuyết: Phân tích, tổng hợp, phân loại, so sánh
Nhóm thực nghiệm: Điều tra, phỏng vấn, thực nghiệm sư phạm.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn đi sâu tìm hiểu vấn đề: ”Tích hợp tri thức lý luận văn học trong
dạy Đọc Văn và Làm Văn ở trường THPT huyện Quỳ Châu,Tỉnh Nghệ An và
đề xuất một số định hướng cách thức thực hiện mang tính khả thi nhằm nâng
cao hiệu quả dạy học Đọc Văn và Làm Văn trong nhà trường THPT hiện nay.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, nội dung chính của
luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc tích hợp tri thức lý luận
văn học trong dạy học Đọc Văn và Làm Văn ở trường THPT.
Chương 2: Nội dung và phương pháp tích hợp tri thức lý luận văn học
trong dạy học Đọc Văn và Làm Văn ở trường THPT huyện Quỳ Châu.
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm
15
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC TÍCH HỢP TRI THỨC
LÝ LUẬN VĂN HỌC TRONG DẠY HỌC ĐỌC VĂN VÀ LÀM VĂN
Ở TRƯỜNG THPT
1.1. Một số khái niệm liên quan
1.1.1. Khái niệm tích hợp
Tích hợp là một khái niệm có nguồn gốc từ tiếng La tinh (Integration)
với nghĩa: xác lập cái chung, cái toàn thể, cái thống nhất trên cơ sở những bộ
phận riêng lẻ. Theo từ điển Tiếng Anh - Anh (Oxford Advanced Learner’s
Dictionary), từ Intergrate có nghĩa là kết hợp những phần, những bộ phận với
nhau trong một tổng thể. Những phần, những bộ phận này có thể khác nhau
nhưng được kết hợp với nhau nhằm đạt đến mục đích và hiệu quả hoạt động.
Như vậy, tích hợp có nghĩa là sự hợp nhất, sự hoà hợp, sự kết hợp. Nội
hàm khái niệm tích hợp có thể hiểu một cách khái quát là sự hợp nhất hay là

sự thể hoá đưa tới một đối tượng mới như là một thể thống nhất trên những
nét bản chất nhất của các thành phần đối tượng. Hiểu như vậy thì tích hợp có
hai tính chất cơ bản, mật thiết với nhau, quy định lẫn nhau, là tính liên kết và
tính toàn vẹn. Liên kết phải tạo thành một thực thể toàn vẹn, không còn sự
phân chia giữa các thành phần kết hợp. Tính toàn vẹn dựa trên sự thống nhất
nội tại giữa các phần liên kết chứ không phải là sự sắp đặt các thành phần bên
cạnh nhau. Không thể gọi là tích hợp nếu các tri thức, kĩ năng chỉ được thụ
đắc, tác động một cách riêng rẽ, không có sự liên kết, phối hợp với nhau trong
lĩnh hội nội dung hay giải quyết một vấn đề, tình huống.
Tích hợp là một khái niệm được sử dụng trong nhiều lĩnh vực. Trong
lĩnh vực khoa học giáo dục, khái niệm tích hợp xuất hiện từ thời kì Khai sáng,
dùng để chỉ một quan niệm giáo dục toàn diện cho con người nhằm chống lại
16
hiện tượng làm cho con người phát triển thiếu hài hòa, cân đối. Tích hợp là
một khái niệm rộng, ở mỗi lĩnh vực khoa học khác nhau cũng được hiểu và
ứng dụng khác nhau. Trong dạy học, tích hợp được hiểu là sự “phối kết hợp
các tri thức của một số môn học có những nét chính tương đồng vào một lĩnh
vực chung, thường là những chủ đề, những kiến thức nguồn” [35; 45]. Đối
với việc dạy học các bộ môn, tích hợp được hiểu là sự kết hợp, tổ hợp các nội
dung từ các môn học, lĩnh vực học tập khác nhau (theo cách hiểu truyền thống
từ trước tới nay) thành một “môn học” mới hoặc lồng ghép các nội dung cần
thiết vào những nội dung vốn có của môn học. Ví dụ: lồng ghép nội dung giáo
dục dân số, giáo dục đạo đức, giáo dục môi trường, giáo dục an toàn giao
thông trong môn học Ngữ văn mà cụ thể là phần đọc - hiểu văn bản nhằm xây
dựng môn học tích hợp từ các môn học truyền thống. Nói cách khác, tích hợp
là những phương thức tối ưu các quá trình học tập một cách riêng rẽ các môn
học, các phân môn học khác nhau đáp ứng mục tiêu, mục đích và yêu cầu cụ
thể khác nhau.
Tóm lại, trong lí luận dạy học, tích hợp được hiểu là sự kết hợp một
cách hữu cơ, có hệ thống, ở những mức độ khác nhau, các kiến thức, các kĩ

năng thuộc các môn học khác nhau hoặc các hợp phần của bộ môn thành một
nội dung thống nhất, dựa trên cơ sở các mối liên hệ về lí luận và thực tiễn
được đề cập đến trong các môn học hoặc các phần của bộ môn đó. Trong
chương trình Ngữ văn THPT, môn Ngữ văn năm 2002 của Bộ GD&ĐT, khái
niệm tích hợp cũng được hiểu là sự phối hợp các tri thức gần gũi, có quan hệ
mật thiết với nhau trong thực tiễn, để chúng hỗ trợ và tác động vào nhau, phối
hợp với nhau nhằm tạo nên kết quả tổng hợp nhanh chóng và vững chắc.
1.1.2. Bản chất của giáo dục tích hợp
Tích hợp là một trong những quan điểm giáo dục đã trở thành xu thế
trong việc xác định nội dung dạy học trong nhà trường phổ thông và trong xây
17
dựng chương trình môn học ở nhiều nước trên thế giới. Quan điểm tích hợp
được xây dựng trên cơ sở những quan niệm tích cực về quá trình học tập và
quá trình dạy học.
Thực tiễn ở nhiều nước đã chứng tỏ rằng, việc thực hiện quan điểm tích
hợp trong giáo dục và dạy học sẽ giúp phát triển những năng lực giải quyết
những vấn đề phức tạp và làm cho việc học tập trở nên ý nghĩa hơn đối với học
sinh so với việc các môn học, các mặt giáo dục được thực hiện riêng rẽ. Tích
hợp là một trong những quan điểm giáo dục nhằm nâng cao năng lực của người
học, giúp đào tạo những người có đầy đủ phẩm chất và năng lực để giải quyết
các vấn đề của cuộc sống hiện đại. Nhiều nước trong khu vực Châu Á và trên
thế giới đã thực hiện quan điểm tích hợp trong dạy học và cho rằng quan điểm
này đã đem lại hiệu quả nhất định. Nó trở thành một trào lưu sư phạm hiện đại
mang tính tích cực trong phát triển học sinh một cách toàn diện trong quá trình
học tập, hình thành ở học sinh những năng lực rõ ràng, thông qua những hoạt
động tích hợp trong đó học sinh học cách sử dụng phối hợp các kiến thức, kĩ
năng và các thao tác để lĩnh hội tri thức một cách độc lập. Năng lực này là một
hoạt động phức hợp đòi hỏi sự tích hợp, phối hợp các kiến thức và kĩ năng chứ
không phải là sự tác động các kĩ năng riêng lẻ lên một nội dung.
Trong dạy học, tích hợp nhấn mạnh cách dạy tìm tòi sáng tạo và cách

sử dụng kiến thức và kĩ năng của mình để giải quyết những tình huống cụ thể
có ý nghĩa nhằm mục đích hình thành và phát triển năng lực cho học sinh.
Đồng thời dạy tích hợp chú ý tạo lập mối liên hệ giữa các kiến thức, kĩ năng
khác nhau của các môn học hay các phân môn khác nhau để đảm bảo cho học
sinh khả năng huy động có hiệu quả những kiến thức và năng lực của mình
vào giải quyết các vấn đề trong học tập.
Có nhiều ý kiến khác nhau về quan điểm tích hợp nhưng cũng cần hiểu
tích hợp là: “một phương hướng nhằm phối hợp một cách tối ưu các quá trình
18
học tập riêng rẽ, các môn học, phân môn khác nhau theo những hình thức, mô
hình, cấp độ khác nhau nhằm đáp ứng những mục tiêu, mục đích và yêu cầu
cụ thể khác nhau” [13, 6]. Khoa sư phạm định nghĩa tích hợp: “Là một quan
niệm về quá trình học tập trong đó toàn thể quá trình học tập góp phần hình
thành ở học sinh những năng lực rõ ràng, có dự tính trước, những điều cần
thiết cho học sinh, nhằm phục vụ cho các quá trình học tập tương lai, hoặc
nhằm hòa nhập học sinh vào cuộc sống lao động” [13, 73]. Định nghĩa trên đã
chỉ rõ quan điểm, mục tiêu, mục đích đào tạo học sinh ở nhà trường hiện nay
là trang bị cho các em kiến thức cơ bản làm hành trang bước vào đời và giúp
các em hòa nhập ngay được với cuộc sống, môi trường xung quanh. Đồng
thời với những hoạt động tích hợp, học sinh học cách sử dụng phối hợp những
kiến thức, những kĩ năng và những động tác đã lĩnh hội một cách tổng hợp.
Ở Việt Nam, thời Pháp thuộc, quan điểm tích hợp được thể hiện trong
một số môn ở trường tiểu học như môn “Cách trí”, sau đổi thành môn “Khoa
học thường thức”. Môn học này còn được dạy một số năm ở trường cấp I của
miền Bắc nước ta. Cách trí được hiểu là “suy xét cho đến nơi, suy xét các
nguyên lý của sự vật mà tìm hiểu chân lý cùng cực” [57, 106]. Và ngày trước,
các môn sinh lí học, động vật học, địa chất học người ta gọi là cách trí. Từ
những năm 1987, việc nghiên cứu xây dựng môn “Tìm hiểu Tự nhiên và xă
hội” theo quan điểm tích hợp đã được thực hiện và môn học này được thiết kế
để đưa vào dạy học ở trường cấp I từ lớp 1 đến lớp 5. Chương trình năm 2000

đã được hoàn chỉnh thêm một bước, quan điểm tích hợp đã được thể hiện
trong CT&SGK và các hoạt động dạy học ở tiểu học và triển khai ở THCS.
Tuy nhiên khái niệm tích hợp vẫn còn mới lạ với nhiều giáo viên. Một số đã
có nhận thức ban đầu nhưng còn hạn chế về kĩ năng vận dụng. Chúng ta phải
hiểu tích hợp là tư tưởng, là nguyên tắc, là quan điểm hiện đại trong giáo dục.
Hiểu đúng và làm đúng quá trình tích hợp có thể đem lại những hiệu quả cụ
19
thể đối với từng phân môn trong một thể thống nhất của các môn học ở bậc
tiểu học cũng như THCS và THPT.
Cuộc sống là một bộ đại bách khoa toàn thư của tri thức, kinh nghiệm
và phương pháp. Mọi tình huống xảy ra trong cuộc sống bao giờ cũng là
những tình huống tích hợp. Không thể giải quyết một vấn đề và nhiệm vụ nào
của lí luận và thực tiễn mà lại không sử dụng tổng hợp và phối hợp kinh
nghiệm kĩ năng đa ngành của nhiều lĩnh vực khác nhau. Rèn được khả năng
tích hợp sẽ giúp học sinh học tập thông minh, biết vận dụng sáng tạo kiến
thức, kĩ năng và phương pháp của khối lượng tri thức toàn diện, hài hòa và
hợp lí trong giải quyết các tình huống khác nhau trong cuộc sống hiện đại.
Phương pháp dạy học tích hợp là một trong những xu thế dạy học hiện
đại hiện đang được quan tâm nghiên cứu và áp dụng vào nhà trường ở nhiều
nước trên thế giới. Ở nước ta, từ thập niên 90 của thế kỷ XX trở lại đây, vấn
đề xây dựng môn học tích hợp với những mức độ khác nhau mới thực sự
được tập trung nghiên cứu, thử nghiệm và áp dụng vào nhà trường phổ thông,
chủ yếu ở bậc Tiểu học và THCS. Trước đó, tinh thần giảng dạy tích hợp mới
chỉ thực hiện ở mức độ thấp như liên hệ, phối hợp các kiến thức kĩ năng thuộc
các môn học hay phân môn khác nhau để giải quyết một vấn đề giảng dạy.
Hiện nay, xu hướng tích hợp vẫn đang được tiếp tục nghiên cứu, thử nghiệm
và áp dụng đổi mới CT&SGK bậc THPT. Các môn học trong nhà trường đều
lấy quan điểm tích hợp làm nguyên tắc chỉ đạo để tổ chức nội dung chương
trình, biên soạn SGK và lựa chọn các phương pháp giảng dạy. Trong lĩnh vực
lí luận và phương pháp dạy học, bài toán đang đặt ra cho bộ môn Ngữ văn là

làm thế nào để tiếp cận, nghiên cứu và vận dụng phương pháp tích hợp vào
dạy học nhằm hình thành và phát triển năng lực cho học sinh một cách hiệu
quả hơn, góp phần thực hiện tốt mục tiêu giáo dục (dạy chữ, dạy người và
hướng nghiệp).
20
1.1.3. Sự chi phối của quan điểm tích hợp tới chương trình Ngữ văn
THPT hiện nay
Dạy học theo quan điểm tích hợp là phù hợp với mục tiêu giáo dục của
nhà trường phổ thông hiện đại. Trước kia, mỗi môn học tồn tại biệt lập, có
mục tiêu riêng nhằm trang bị cho học sinh kiến thức cơ bản để hiểu biết thế
giới xung quanh thì ngày nay chúng ta phải đặt ra mục tiêu thống nhất. Không
những sau khi ra trường các em thích nghi với cuộc sống mà ngay khi còn ở
trường, ở lớp các em phải hòa nhập được ngay với cuộc sống hiện tại. Môn
Ngữ văn (bao gồm các bộ phận: Văn học, Tiếng Việt, Làm Văn) là một môn
học nền tảng, có tác dụng quan trọng tạo nên trình độ văn hóa của con người
càng phải đặt trong quan điểm hiện đại ấy. Dạy và học tốt môn Ngữ văn còn
là điều kiện để phát huy truyền thống văn hóa dân tộc, tiếp thu văn hóa nhân
loại, giáo dục tư tưởng, tình cảm cao đẹp cho người công dân tương lai.
Chương trình THPT vừa qua, đã khách quan nhìn nhận: “Nguyên tắc
tích hợp cần được hiểu toàn diện và phải quán triệt trong toàn bộ môn học,
đọc văn đến làm văn; quán triệt trong mọi khâu của quá trình dạy học; quán
triệt mọi yếu tố của hoạt động học tập, tích hợp trong chương trình, tích hợp
trong SGK, tích hợp trong phương pháp dạy học của giáo viên và tích hợp
trong hoạt động học tập của học sinh, tích hợp trong các sách đọc thêm, tham
khảo”[Theo tài liệu hướng dẫn thực hiện chương trình SGK lớp 10 - Bộ
GD&ĐT]. Trong đó, môn Ngữ văn trước hết là một môn học thuộc nhóm
khoa học xã hội do đó nó có tầm quan trọng đặc biệt trong việc giáo dục quan
điểm, tư tưởng và tình cảm, nhân cách cho học sinh lấy quan điểm tích hợp là
một bước đổi mới phương pháp dạy học đáp ứng được yêu cầu đào tạo nên
những con người hiện đại.

Ngay từ tổ chức nội dung chương trình cũng như SGK, các nhà biên
soạn đã bám sát quan điểm tích hợp làm nguyên tắc chỉ đạo, đồng thời lựa
21
chọn phương pháp giảng dạy phù hợp là yêu cầu đặt ra trong việc dạy học
Ngữ văn hiện nay. Điều đó, đòi hỏi giáo viên phải có những thay đổi về cách
thức dạy học và tiến trình giờ học. Giáo viên nói chung và giáo viên THPT
nói riêng, trong thời gian qua đã quá quen với lối giảng dạy tách rời từng phân
môn theo từng giờ với từng cuốn sách riêng biệt. Yêu cầu mới là dạy ba phân
môn trong từng bài học như một thể thống nhất, trong đó mỗi giờ Văn học,
Tiếng Việt, Tập làm văn vừa giữ được bản sắc riêng vừa hoà nhập với nhau
để cùng hình thành cho học sinh những kỹ năng, năng lực tổng hợp. Đây là
một việc làm tuy quen nhưng lại lạ. Quen là vì bản chất của việc học tập môn
Văn - Tiếng Việt trong nhà trường vẫn có sự phối hợp dạy giữa ngôn từ Tiếng
việt để hiểu văn và ngược lại. Lạ là vì giờ đây một bài học Ngữ văn lại bao
gồm cả ba mạch kiến thức, kỹ năng Văn, Tiếng Việt, Tập làm văn. Tuy nhiên,
không phải lúc nào cũng tích hợp được cả ba phân môn trong mỗi bài học, bởi
có những kiến thức, kỹ năng của phân môn này không thể tìm thấy sự đồng
quy với những phân môn khác. Lúc đó, giáo viên cần tổ chức dạy chúng như
những yếu tố độc lập theo cách riêng.
Quan điểm tích hợp hiện nay mà sách giáo khoa sử dụng là sự kế thừa
và nâng cao các chỉ dẫn tích hợp đã nói đến trong lịch sử dạy - học môn Ngữ
văn nói chung, ở THPT nói riêng với các cơ sở lí luận mới. Điểm mới của
chương trình, sách giáo khoa hiện hành là bồi dưỡng cho giáo viên lý thuyết
về tích hợp, để giáo viên có ý thức tích hợp một cách có cơ sở khoa học và đạt
hiệu quả cao. So với các môn học khác môn Ngữ văn có điều kiện thuận lợi
để thực hiện tích hợp, vì:
- Môn Ngữ văn là môn học vừa có tính khoa học, vừa có tính nghệ
thuật. Ngôn ngữ giàu sắc thái biểu cảm là phương tiện, công cụ giao tiếp của
cả phân môn Văn học, Tiếng Việt và Tập làm văn.
- Dù là bài Văn, Tiếng Việt hay Làm văn đều có tính chất chung của cả

ba phân môn: là những phát ngôn hoàn chỉnh. Chúng ta có thể xem tác phẩm
22
văn học là văn bản sáng tạo, Tiếng Việt là văn bản khai thác, Làm văn là văn
bản luyện tập kỹ năng trong quá trình tích hợp. Mỗi phân môn đều chứa đựng
những mức độ khác nhau của tính khoa học, tính nghệ thuật, tính xã hội và
tính sáng tạo của nó. Đó cũng là cơ sở chung để suy nghĩ về sự quy tụ những
giao điểm của quá trình tích hợp.
- “Cuối cùng là sự tích hợp bên trong vừa tự nhiên vừa năng động của
chủ thể giáo viên và học sinh, mà ở đó trí thông minh, sức tưởng tượng, trực
giác và sự suy luận tỉnh tạo đóng góp rất nhiều vào con đường tích hợp Ngữ
văn” [17, 9 - 10].
Trong dạy học Ngữ văn, tích hợp hiểu một cách đơn giản là dạy học ba
phân môn hợp nhất, hoà trộn vào nhau, học cái này thông qua cái kia và
ngược lại để tạo nên sức mạnh tổng hợp của bộ môn. Quán triệt quan điểm
này, khi biên soạn chương trình, SGK, các tác giả đã lồng ghép các tri thức
tương đồng của ba phân môn vào trong cùng một bài học một cách thật nhuần
nhuyễn, phù hợp với tính chất tích hợp của chương trình, SGK.
Tính chất tích hợp trong sách giáo khoa Ngữ văn thể hiện như sau:
- Dùng tên gọi Ngữ văn để thay thế cho các tên gọi trước đây như Văn
học - Tiếng Việt - Làm văn, hay cách gọi môn Văn - Tiếng Việt, hoặc Tiếng
Việt - Văn học. Như vậy, có thể thấy, với cách gọi tên Ngữ văn, chương trình
đã thể hiện rõ định hướng giảng dạy đi theo quan điểm tích hợp, liên thông
kiến thức ba phân môn trên.
- Tích hợp ba phân môn vào trong cùng một bài dạy là nhằm mục đích
hình thành bốn kỹ năng nghe, nói, đọc, viết và hình thành cho học sinh năng
lực phân tích, bình giá, cảm thụ văn học một cách chủ động, sáng tạo. Dựa
trên một văn bản để dạy các kiến thức, kỹ năng của từng phân môn, giúp học
sinh biết vận dụng linh hoạt những kiến thức, kỹ năng của các phân môn vào
việc giải mã và tạo lập văn bản. Trong đó đặc biệt chú ý tới sự hỗ trợ lẫn nhau
giữa hai nhóm kỹ năng: kỹ năng về Tiếng Việt và kỹ năng về Văn học.

23
- Dạy - học Ngữ văn theo hướng tích hợp, quan niệm về văn bản sẽ
rộng hơn, các ngữ liệu được lựa chọn đều mang tính gợi ý, không bắt buộc
phải tuân theo, các câu hỏi, bài tập đa dạng, có độ phân hoá, vừa có tính tích
hợp, vừa chú trọng nêu vấn đề, liên tưởng, các câu hỏi đọc - hiểu văn bản
quan tâm hơn tới những yếu tố làm cơ sở cho việc đọc hiểu văn bản chứ
không dừng ở những cảm nhận chung. Ngoài ra, có rất nhiều câu hỏi, bài tập
mở, gắn với những tình huống trong cuộc sống, tạo tiền đề cho học sinh có
những phương án trả lời đa dạng, phù hợp với vốn sống và ngôn ngữ của học
sinh. Với hệ thống câu hỏi và bài tập đó, giáo viên có thể vận dụng để tổ chức
các hình thức học tập khác nhau, có thể sử dụng phương tiện dạy hỗ trợ để
tăng cường khả năng tư duy và năng lực làm việc độc lập hay hợp tác của học
sinh trong học tập.
Những thay đổi như vậy là phù hợp với đặc trưng môn học, theo kịp
với những tiến bộ về khoa học, đáp ứng đúng những đòi hỏi của thực tiễn dạy
- học ở Việt Nam.
Tóm lại, tích hợp trong môn Ngữ văn có thể hiểu là sự hợp nhất ba
phân môn Văn - Tiếng Việt - Làm văn, “hoà trộn” trong nhau, học cái này
thông qua cái kia và ngược lại. Cả ba phân môn đều dựa vào một văn bản
chung để khai thác, hình thành kiến thức và rèn luyện kỹ năng theo yêu cầu
của mỗi phần trong hệ thống kiến thức của cả ba phần có mối liên hệ chặt chẽ,
phụ thuộc vào nhau, hỗ trợ lẫn nhau và làm sáng tỏ cho nhau, tránh được sự
chồng chéo và thiếu tính thống nhất.
Đối với bộ môn Ngữ văn ở trường phổ thông, các nhà biên soạn đã tổ
chức các bài dạy - học tích hợp theo nguyên tắc: tích hợp ngang, tích hợp dọc.
Tích hợp ngang: Là kiểu tích hợp trong từng thời điểm, tức là kiểu
tích hợp trong một tiết học, một bài học kiến thức của ba phân môn: Văn
học - Tiếng Việt - Làm văn. “Tích hợp kiến thức tiếng Việt với các mảng
24
kiến thức về văn học, thiên nhiên, con người và xã hội theo nguyên tắc

đồng quy” [36, 12].
Tích hợp dọc: Tích hợp ở một đơn vị kiến thức và kỹ năng với những
kiến thức và kỹ năng đã học trước đó, theo nguyên tắc đồng tâm (còn gọi
vòng tròn xoáy trôn ốc), cụ thể là: kiến thức và kỹ năng của lớp trên bậc học
trên bao hàm kiến thức và kỹ năng của lớp dưới, bậc học dưới, nhưng cao
hơn, sâu hơn. Đây là kiểu tích hợp khoa học. Xét riêng từng phân môn một thì
khi tích hợp ngang, ít nhiều phá vỡ tính hàng dọc của hệ thống tri thức thuộc
ngành khoa học, trong khi ở bậc THCS học sinh bước đầu đã phải làm quen,
phải có ý thức về các ngành khoa học. Với phân môn Văn học, vì coi trọng
việc học văn theo thể loại nên tính hệ thống của văn học sử bị lu mờ. Dẫu sao
chúng ta vẫn thấy các nhà biên soạn chương trình, sách giáo khoa, có dụng ý
sắp xếp các văn bản đọc - hiểu vừa theo thể loại, vừa theo trình tự lịch sử
nhằm tạo ra ít nhiều cơ sở cho việc học chương trình văn học sử ở bậc THPT.
Thông qua các giờ ôn tập từng phần hay ôn tập cuối năm về kiến thức văn
học, giáo viên giúp học sinh bước đầu thấy được sự phát triển của lịch sử văn
học từ tác phẩm đến thể loại, đến phương pháp, phong cách, trào lưu sáng tác
và một số vấn đề lịch sử tiếp nhận văn học.
Trong các kiểu tích hợp trên, các nhà biên soạn chương trình và sách
giáo khoa đặc biệt lưu tâm đến kiểu tích hợp ngang, coi đây như là “nguyên
tắc chính để tổ chức nội dung giảng dạy” Ngữ văn [35, 38].
1.2. Cơ sở lý luận
1.2.1. Khái niệm tri thức lí luận văn học
Lí luận văn học (tiếng Anh: theory of literature) là “Một bộ môn
nghiên cứu văn học, có nhiệm vụ nghiên cứu bản chất, chức năng xã hội và
thẩm mĩ, quy luật phát triển của sáng tác văn học, có tác dụng định hướng
phương pháp luận và phương pháp phân tích văn học”[12, 173].
25

×