Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

Bí mật lăng mộ Thành Cát Tư Hãn.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (367.99 KB, 40 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI GIỚI THIỆU
Trong lịch sử thế giới, có rất nhiều vị vua tài giỏi.Nhưng thành Cát Tư
Hãn lại la một vị vua ví đại nhất.cách cai trị của ông tuy có phần hung bạo và
tàn ác. Nhưng ta không thể phủ nhận được sự thông minh sáng suốt trong
cách lanh đạo của ông.trong cuộc đòi trinh chiến ông chưa một lần thua
cuộc,khi ông chết cũng là do tuổi già.Giò đây có rất nhiều đánh giá về vị vua
lừng danh này.có người cho rằng ông là mộ vị vua khát máu đi đen đâu là đầu
rơi máu chảy tới đó.Nhưng có ý kiến lại cho rắng ông lại là một vị vua rất tài
giỏi. Để đánh giá thật đúng về ông chúng ta không nên nhìn từ một phía. Vì
thế tôi đa chon đề tài xêmina viết về thành Cát Tư Hãn với mong muốn cung
các ban có thể nhìn nhận con người ông mọt cách đúng đắn nhất.
Dù thế nào đi nữa ông cũng là một vị vua vĩ đại nhất trong lịch sử.sau
cùng em xin chân thành cám ơn Ts:Nguyễn Thanh Tùng đã dậy cho tôi biết
đến những con người đã làm nên lịch sử nhân loại.
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chương I: Tiểu sử về THành Cát Tư Hãn
Thành Cát Tư Hãn (tiếng Mông Cổ: Чингис Хаан), sinh ra với tên Thiết
Mộc Chân (Тэмүүжин) khoảng năm 1155/1162/1167 và mất ngày 18 tháng 8
năm 1227, là Hãn vương của Mông Cổ và là người sáng lập ra Đế chế Mông
Cổ sau khi hợp nhất các bộ lạc độc lập của Mông Cổ năm 1206. Là một nhà
lãnh đạo lỗi lạc và quan trọng của lịch sử thế giới, ông được người Mông Cổ
dành cho sự tôn trọng cao nhất, như là một vị lãnh đạo đã loại bỏ hàng thế kỷ
của các cuộc giao tranh, mang lại sự ổn định về chính trị và kinh tế cho khu
vực Á-Âu trong lãnh thổ của ông, mặc dù đã gây ra những tổn thất to lớn đối
với những người chống lại ông. Cháu nội của ông và là người kế tục sau này,
đại hãn Hốt Tất Liệt đã thiết lập ra triều đại nhà Nguyên của Trung Quốc
(1271–1368) sau khi lật đổ triều đại nhà Nam Tống.
Có rất nhiều nhân vật nổi tiếng được cho là hậu duệ của Thành Cát Tư
Hãn, là những kẻ đi xâm chiếm nhiều đất đai về tay mình như Timur Lenk, kẻ


chinh phục dân Thổ Nhĩ Kỳ, Babur, người sáng lập ra Đế chế Mogul ở Ấn
Độ. Những hậu duệ khác của Thành Cát Tư Hãn còn tiếp tục cai trị Mông Cổ
đến thế kỷ 17 cho đến khi nó bị thống trị lại bởi người Trung Quốc.
Thời thơ ấu :
Thành Cát Tư Hãn sinh khoảng giữa 1155 (hay 1162) và 1167, là con
trai thứ hai của Dã Tốc Cai (Yesükhei), một thủ lĩnh của bộ tộc Ki Dát
(Kiyad). Dã Tốc Cai là người thuộc dòng họ Bột Nhi Chỉ Cân (Borjigin). Mẹ
ông là bà Nguyệt Luân (U Luân hay Hoelun) từ bộ lạc Ong-gút (Olkunut).
Ông được đặt tên theo tên của một thủ lĩnh rất dũng cảm của một bộ tộc khác
đã bị cha ông đánh bại.
Thời thơ ấu của Thiết Mộc Chân cực kỳ khó khăn. Khi ông lên chín tuổi,
cha ông đã đưa ông đến gia đình vợ tương lai và ông phải sống ở đó cho đến
khi đủ tuổi lấy vợ là 14 tuổi. Một thời gian ngắn sau đó cha ông bị đầu độc
bởi bộ lạc Thát Đát (Tartar) láng giềng trên đường trở về nhà và Thiết Mộc
Chân đã trở thành thủ lĩnh của bộ tộc của mình. Bộ tộc của ông không chấp
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nhận ông do họ không muốn ở dưới sự chỉ huy của một đứa trẻ. Trong những
năm sau đó, ông và gia đình sống một cuộc đời du cư nghèo khó, sống được
là nhờ các loài động vật gặm nhấm. Trong một lần đi săn bắn như vậy ông đã
giết chết một người em cùng cha khác mẹ trong một cuộc tranh giành chiến
lợi phẩm. Một lần khác, ông đã bị những người cùng bộ lạc cũ bắt trong một
cuộc tập kích và bị giam cầm với gông trên cổ. Sau đó ông trốn thoát với sự
trợ giúp của những người coi ngục có cảm tình. Mẹ ông đã dạy ông nhiều bài
học từ sống sót trong những điều kiện thời tiết khắc nghiệt của Mông Cổ tới
sự cần thiết của liên minh với những người khác, những bài học này đã hình
thành nên sự hiểu biết của ông trong những năm sau này về sự cần thiết của
thống nhất.
Năm 16 tuổi, Thiết Mộc Chân lấy Bật Tê (Börte) của bộ tộc Ong-ki-rát
(Qonggirat hay Chunggirat) sau này là Quang Hiến hoàng hậu. Bà họ là

Hoằng Cát Sắc (Angcatthat), và nhận được áo lông chồn đen như là của hồi
môn; đây là tài sản ban đầu để ông tăng thêm sự giàu có về sau từ chiến tranh.
Sau đó vợ ông bị bắt cóc trong một cuộc tập kích của bộ tộc Miệt Nhĩ
(Merkit) và ông đã nhờ bạn (sau này là kẻ thù) là Trác Mộc Hợp (Jamuka) và
người che chở cho ông là Tô Ha Rin (Toghril) của bộ tộc Khắc Liệt (Kereit).
Việc sinh đứa con đầu lòng (Truật Xích hay Joci) quá sớm đã dẫn đến sự nghi
ngờ của ông và Truật Xích cũng như hậu duệ của ông ta không bao giờ được
coi là những người kế vị.
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chương II: Những cuộc chinh phạt
Thống nhất các bộ lạc
Thiết Mộc Chân bắt đầu sự nghiệp của mình bằng cách liên kết với bạn
của cha mình là Tô Ha Rin (Toghril), một thủ lĩnh ở địa phương. Ông buôn
bán lông thú cho quân đội và gia nhập vào Keriat, một liên minh của người
Mông Cổ do Hãn Vương đứng đầu. Sau những chiến trận thắng lợi trước
người Tác-ta năm 1202, Thiết Mộc Chân đã được thừa nhận là người kế vị
Hãn Vương. Điều này dẫn đến sự thù hận của Tang Côn (Senggum), người lẽ
ra có quyền kế vị, Tang Côn lập kế hoạch ám sát Thiết Mộc Chân nhưng ông
đã biết được âm mưu của Tang Côn. Cuối cùng Thiết Mộc Chân đã đánh bại
Tang Côn, cùng những người ủng hộ Tang Côn, và kế nghiệp ngôi vị Hãn
Vương. Thiết Mộc Chân sau đó đã ban hành bộ luật bằng văn bản cho người
Mông Cổ gọi là Yassa và ông ra lệnh phải tuân thủ bộ luật này một cách
nghiêm ngặt để xây dựng tổ chức và quyền lực trong phạm vi vương quốc của
mình.
Với nhu cầu phải bảo vệ biên giới từ các quốc gia phía nam như đế chế nhà
Kim và nhà Tây Hạ là những quốc gia trên địa bàn Trung Quốc ngày nay, ông
đã tổ chức hệ thống của mình với sự tăng cường sức mạnh quân sự và đã
không bị đánh giá quá mức bởi những người Trung Quốc khi đó đã bắt đầu
cảm thấy khó chịu với quốc gia mới nổi Mông Cổ dưới thời đại của Thiết

Mộc Chân, cuối cùng là những hành động như ngăn cản việc tiếp tế lương
thực, thực phẩm đi qua Mông Cổ ngày nay. Với những phẩm chất cá nhân và
ý chí mạnh mẽ, Thiết Mộc Chân cuối cùng đã thống nhất được các bộ lạc
trong một hệ thống duy nhất, một nét đặc trưng vĩ đại của Mông Cổ, là đất
nước có lịch sử lâu đời của những cảnh huynh đệ tương tàn và gian khó về
kinh tế.
Năm 1206 Thiết Mộc Chân đã liên kết thành công các bộ lạc Mông Cổ
đang bị chia rẽ và tại hội nghị Kurultai (hội đồng các thủ lĩnh Mông Cổ) ông
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
đã được phong là "Thành Cát Tư Hãn" (trong tiếng Mông Cổ thì Чингис
Хаан có nghĩa là vua của cả thế giới).
Thành lập đế chế Trung Hoa
Cùng thời điểm với hội nghị Kuriltai, Thành Cát Tư Hãn đã bị lôi cuốn
vào cuộc tranh chấp với Tây Hạ là quốc gia bắt người Mông Cổ phải phục
tùng và nộp cống phẩm hàng năm. Ông đã chiếm được một số thành trì được
bảo vệ vững chắc của Tây Hạ. Năm 1209 khi hòa bình với Tây Hạ được ký
kết, về thực chất ông đã làm mất sự thống trị của Tây Hạ, đã được các vua
Tây Hạ thừa nhận là chúa tể, biến quốc gia này trở thành chư hầu chịu cống
nộp cho người Mông Cổ và cung cấp binh lính cũng như hậu cần cho các
chiến dịch trong tương lai của ông.
Mục đích chính của ông là xâm chiếm nhà Kim, vừa để trả thù những
thất bại trước đây khi những người Mông Cổ còn thù hận lẫn nhau và giành
lấy tài sản cùng sự giàu có của miền bắc Trung Quốc. Ông tuyên bố chiến
tranh năm 1211, để cho nhà Kim không thể còn là sự đe dọa thường xuyên
đối với Mông Cổ về lãnh thổ, tài sản ở phần biên giới phía nam. Mô hình của
cuộc chiến tranh chống lại nhà Kim của người Nữ Chân cũng giống như cuộc
chiến chống lại Tây Hạ
Kết quả của chiến thuật siêu đẳng và sự hoàn hảo của chiến lược là
Thành Cát Tư Hãn đã xâm chiếm và hợp nhất phần lãnh thổ nhà Kim đến tận

Vạn lý trường thành của Trung Quốc năm 1213. Sau đó ông chỉ huy ba cánh
quân tiến vào phần trung tâm lãnh thổ Kim, giữa Vạn lý trường thành và sông
Hoàng Hà. Giống như các ông vua khác tin mình là con trời (thiên tử), ông đã
xâm chiếm phần miền bắc Trung Quốc, chiếm giữ hàng loạt thành phố và
năm 1215 đã bao vây, chiếm giữ và cướp bóc kinh thành của nhà Kim là Yên
kinh (sau này là Bắc Kinh). Tuy vậy nhưng vua nhà Kim là Hoàn Nhan Tuần
(完顏珣) tức vua Kim Tuyên Tông (宣宗 Xuan Zong) đã không đầu hàng mà
chuyển kinh thành về Khai Phong (開封 Kaifeng) vì sự lớn mạnh của người
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Mông Cổ ở phía bắc. Ở đó những ông vua cuối cùng của nhà Kim là Hoàn
Nhan Thừa Lân (完顏承麟) hay Kim Mạt Đế (末帝) đã bị đánh bại vào năm
1234.
Trung Á
Cùng thời gian đó Gút Sơ Lúc (Kuchlug), vị hãn bị phế truất của bộ tộc
Nãi Man, đã chạy về phía tây và cướp hãn quốc Tây Liêu, đồng minh phía tây
của Thành Cát Tư Hãn. Trong thời gian này, quân đội Mông Cổ đã mệt mỏi
do hơn 10 năm chiến tranh chống lại Tây Hạ và Kim. Vì vậy Thành Cát Tư
Hãn chỉ gửi khoảng 20.000 quân dưới sự chỉ huy của viên tướng trẻ Triết Biệt
(者別 Jebe) để chống lại Gút Sơ Lúc. Một cuộc nổi dậy trong nước với sự
giúp đỡ của người Mông Cổ và sau đó Triết Biệt tràn qua đất nước này. Lực
lượng của Gút Sơ Lúc đã bị đánh bại ở phía tây của Kashgar; ông ta bị bắt
sống và bị hành hình sau đó, Tây Liêu bị sát nhập vào Mông Cổ. Năm 1218
vương quốc Mông Cổ mở rộng về phía tây tới hồ Bal-kha và tiếp giáp với
Kharezm (dịch theo tiếng Hoa là Hoa Thích Tử Mô), một quốc gia Hồi giáo
trải dài từ biển Caspia ở phía tây và vịnh Ba Tư, biển Ả Rập ở phía nam.
Năm 1218 Thành Cát Tư Hãn gửi một đoàn sứ giả sang tỉnh phía đông của
Kharezm với mục đích thảo luận khả năng buôn bán với quốc gia này. Thống
đốc của tỉnh này đã giết chết họ và làm Thành Cát Tư Hãn giận dữ. Ông đã
cho 200.000 quân tràn sang để trả thù. Quân đội Mông Cổ với chiến lược và

chiến thuật hơn hẳn đã nhanh ***ng hạ thành phố này và hành hình viên
thống đốc bằng cách đổ bạc nóng chảy vào tai và mắt ông ta để trả đũa hành
động xúc phạm tới Thành Cát Tư Hãn và những ý định tốt đẹp ban đầu của
người Mông Cổ.
Cùng thời điểm này (1219) ông quyết định mở rộng ảnh hưởng của
Mông Cổ đối với thế giới Hồi giáo. Quân đội Mông Cổ lần lượt hạ các thành
phố chính của Kharezm như Bukhara, Samarkand và Balkh, và vua
Muhammad đã phải chuẩn bị lực lượng chống lại họ. Tuy nhiên, ông ta đã bị
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
vượt qua bởi những người Mông Cổ nhanh nhẹn và lắm mưu kế hơn và phải
liên tục rút lui. Cuối cùng, Muhammad đã phải tự tử năm 1220 và Đế chế
Kharezm sụp đổ.
Sau đó quân đội Mông Cổ chia làm hai đạo quân, Thành Cát Tư Hãn chỉ
huy một nhánh tràn vào Afghanistan và bắc Ấn Độ, nhánh kia do tướng Tốc
Bất Đài (Subedei hay Subutai) chỉ huy tiến vào Caucasus và Nga. Không một
cánh quân nào bổ sung thêm lãnh thổ cho đế chế nhưng họ đã cướp bóc và
đánh bại mọi đội quân mà họ gặp. Năm 1225 cả hai cánh quân đều quay trở
lại Mông Cổ.
Những cuộc xâm lăng này đã bổ sung thêm Transoxiana và Ba Tư vào
đế chế vốn đã ghê ghớm và xác lập hình ảnh của Thành Cát Tư Hãn như một
chiến binh khát máu trong những người không biết hoặc không muốn biết
rằng ông là ông chủ thực sự của thế giới.
Châu Âu
Cánh quân của Tốc Bất Đài đã tiến vào Ba Tư và Armenia, với lực lượng
40.000 quân họ đã tiến sâu vào lãnh thổ Armenia và Azerbaijan (Xem phần
Trung Á). Ở đây quân Mông Cổ đã tiêu diệt quân thập tự chinh Gruzia, chiếm
pháo đài đầu mối giao thương thành quốc Genova ở Crimea và nghỉ qua mùa
đông bên biển Đen. Trong khi đoàn quân này trở về Mông Cổ họ đã giao
tranh với đội quân 80.000 người của Đại công tước Mstitslav của Kiev, trong

trận chiến gọi là trận chiến sông Kalka năm 1223. Quân Mông Cổ đã đánh bại
đại công tước Mstitslav và quân đội của ông ta
Chiến dịch cuối cùng :
Đế chế chư hầu Tây Hạ đã từ chối không tham chiến chống lại đế chế
Kharezm, và Thành Cát Tư Hãn đã thề giành cho họ sự trừng phạt. Trong khi
ông đang ở Iran, Tây Hạ và Kim đã hình thành liên minh chống lại người
Mông Cổ. Sau một thời gian nghỉ ngơi để chỉnh đốn quân đội, Thành Cát Tư
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Hãn chuẩn bị chiến tranh chống lại liên minh này.
Cùng thời gian này, ông cũng phải suy nghĩ về việc chọn người kế
nghiệp để xóa bỏ những cuộc tranh giành liên miên giữa các con; ông đã chọn
người con trai thứ ba là Oa Khoát Đài (Ögedei) làm người kế nghiệp cũng
như thiết lập cơ chế lựa chọn những người kế nghiệp trong tương lai với điều
kiện họ phải là hậu duệ của ông. Ông đã nhận được những báo cáo tình báo
về lực lượng Tây Hạ, Kim và chuẩn bị lực lượng 180.000 quân cho các chiến
dịch mới.
Năm 1226, Thành Cát Tư Hãn tấn công Tây Hạ với cớ là Tây Hạ chứa
chấp kẻ thù của Mông Cổ và để trừng phạt sự phản bội của họ. Tháng 2, ông
chiếm các thành phố Heisui, Cẩm Châu (贛州) và Tô Châu và trong mùa thu
năm đó ông chiếm phủ Tây Lương. Các tướng Tây Hạ đã đánh một trận lớn
với quân Mông Cổ gần dãy núi Hà liên sơn. ("Hà liên" có nghĩa là "đại mã"
trong phương ngôn phía bắc Trung Quốc.) Quân Tây Hạ đại bại. Tháng 11,
ông bao vây thành Linh Châu và vượt qua sông Hoàng Hà đánh bại quân cứu
viện của Tây Hạ.
Năm 1227, ông tấn công kinh đô Tây Hạ, trong tháng 2 chiếm phủ
Lintiao, tháng 3 chiếm quận Tây Ninh (tỉnh Thanh Hải ngày nay) và phủ Tín
Đô (信都府). Trong tháng 4 chiếm quận Deshun. Tại Deshun, tướng Tây Hạ
Mã Diên Long chống lại quân Mông Cổ trong nhiều ngày cả trong và ngoài
thành. Mã Diên Long sau đó chết do bị tên bắn. Thành Cát Tư Hãn sau khi

chiếm Deshun, tiến quân tới núi Lưu Pan (thôn Thanh Thuỷ (清水), tỉnh Cam
Túc) để tránh mùa hè khắc nghiệt.
Vua Tây Hạ mới, đã chính thức đầu hàng quân Mông Cổ năm 1227. Tây
Hạ bị diệt sau khi tồn tại 190 năm, từ 1038 đến 1227. Quân Mông Cổ đã giết
vua Tây Hạ và cả hoàng tộc này.
Trước khi chết, Thành Cát Tư Hãn đã chia đế chế của ông cho bốn người
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
con trai. Truật Xích là lớn nhất, nhưng đã chết và quan hệ huyết thống của
ông ta cũng bị nghi ngờ, vì thế những vùng đất xa xôi nhất của đế chế như
nam Ruthenia đã được chia cho các con của ông này là Batu thủ lĩnh của bộ
lạc Xanh, và Orda, thủ lĩnh của bộ lạc Trắng. Sát Hợp Đài (Chagatai) là con
trai thứ hai, nhưng là người nóng nảy được chia vùng Trung Á và bắc Iran.
Oa Khoát Đài (Ogedei), con trai thứ ba là Đại Hãn và nhận được Trung Quốc.
Đà Lôi (Tolui), trẻ nhất, nhận Mông Cổ.
Trên giường bệnh năm 1227, Thành Cát Tư Hãn phác thảo kế hoạch cho
Đà Lôi, sau kế hoạch này được những người kế vị sử dụng để triệt hạ dứt
điểm nhà Kim.
Trong chiến dịch cuối cùng của mình chống lại nhà Tây Hạ, Thành Cát
Tư Hãn đã chết vào ngày 18 tháng 8 năm 1227. Nguyên nhân cái chết của ông
vẫn chưa được sáng tỏ, nhiều người cho rằng do ông ngã ngựa vì tuổi già và
suy giảm thể lực hay sự ám sát từ phía kẻ thù. Biên niên sử Galicia-Volhynia
cho rằng ông bị những người Tanguts giết chế, tuy nhiên đến ngày nay vẫn
chưa ai biết rõ.
Sau khi ông ta chết, thân xác ông được đưa về Mông Cổ và được cho là
mang về nơi ông sinh ra ở Hentiy, là nơi mà nhiều người cho rằng ông đã
được hỏa thiêu ở một nơi nào đó gần sông Onon. Đoàn hộ tống lễ tang đã giết
hết mọi người và tiêu hủy mọi thứ lạc vào đường của họ tới nơi thiêu xác ông
để không ai có thể khám phá ra nơi họ chôn cất người lãnh tụ đáng kính của
mình. Trong đám tang của ông (để giữ bí mật) người ta cho rằng đã có ít nhất

40 cung nữ đã bị hỏa thiêu cùng với ông, vì thế ngay cả các bà mẹ của họ
cũng không thể xác định được nơi mà các cung nữ đã bị thiêu. Lăng mộ của
Thành Cát Tư Hãn là nơi tưởng niệm ông, nhưng không phải là nơi chôn cất
ông ta. Vào ngày 6 tháng 10 năm 2004, người ta đã cho là tìm thấy "cung điện
Thành Cát Tư Hãn", được cho là khu mộ của ông
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chương III: Chính trị và kinh tế
Thành Cát Tư Hãn là một nhà lãnh đạo thực thụ có khả năng. Ông đã tạo
ra bộ luật bằng chữ viết của người Mông Cổ mà mọi người trong đế chế phải
tuân thủ. Vì sự đa dạng về dân tộc, tôn giáo và sắc tộc của các công dân và
binh lính trong Đế chế Mông Cổ bao gồm cả Trung Quốc, Ba Tư và châu Âu
ngày nay, ông đã truyền lại sự trung thành chỉ đối với ông (Đại Hãn) mà
không cho một ai khác. Để giữ vững và bổ sung cho các chi phí cho quân đội
cũng như các hoạt động khác, ông đã cho phép các thủ lĩnh duy trì quyền lực
khi mà họ còn cung cấp được sức mạnh quân sự, nộp cống phẩm và cung cấp
nhân lực trong các cơ sở cố định. Chiếm đóng được một khu vực đất đai rộng
lớn, ông đã khuyến khích thương nghiệp và trao đổi hàng hóa và người Mông
Cổ nhận được hàng hóa và dịch vụ từ những người khác. Các thương nhân,
giáo sĩ, đặc sứ đã được đảm bảo sự an toàn và hướng dẫn cần thiết dưới đế
chế Mông Cổ, ví dụ một số người trong số họ đã đến Trung Quốc như nhà du
hành Giovanni da Pian del Carpini dưới thời Oa Khoát Đài hay nhà du hành
người Ý Marco Polo tới Bắc Kinh dưới thời Hốt Tất Liệt, là những người đã
viết sách trong chuyến du hành của họ với một độ chính xác cao. Dưới thời
Thành Cát Tư Hãn, mọi "cá nhân và tôn giáo là bình đẳng trước pháp luật
Mông Cổ".
Vì sự mở rộng đế chế của ông, Thành Cát Tư Hãn đã có ảnh hưởng sâu
rộng trong văn hóa của nhiều quốc gia châu Á, chủ yếu là Trung Quốc và
Nga. Ông đã tiêu diệt tầng lớp quý tộc hiện thời trong các vùng lãnh thổ của
mình, tạo ra tầng lớp trí thức thô sơ trong thời kỳ đó. Ông cũng tạo ra hệ

thống bưu chính rộng lớn và mở rộng sự phổ biến của việc sử dụng hệ thống
chữ cái thế giới, mặc dù trong nhiều năm người ta vẫn tin rằng ông là người
thất học vì sự xuất hiện gần đây của chữ viết cũng như tuổi tác của ông tại
thời điểm thi hành điều đó. Tuy nhiên, gần đây theo các phát kiến của các nhà
sử học Mông Cổ và Trung Quốc ta thấy ông là người có học thức cao. Các
văn bản viết tay được cho là của ông cũng như nội dung của chúng cho thấy
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
ông có thể đọc các bài thuyết pháp của Lão giáo [1]. Thương mại và du lịch
trong lãnh thổ Trung Quốc, Trung Cận Đông và châu Âu được phát triển
mạnh mẽ bởi sự ổn định chính trị nhất mà Đế chế Mông Cổ đã đem lại khi
thiết lập lại Con đường tơ lụa. Ông giảm các hình phạt trong các khu vực của
mình, miễn giảm thuế cho các lang y và thầy đồ, và thiết lập sự tự do tôn giáo.
Các ngôn ngữ khác như tiếng Thổ Nhĩ Kỳ được phát triển và các loại hình tôn
giáo đã nảy nở do có tự do tôn giáo. Quân đội Mông Cổ về sau bao gồm rất
nhiều người của các nền di sản khác nhau. Người Mông Cổ mở đầu cho phần
lớn châu Á biết đến bàn tính và la bàn cũng như cho châu Âu biết đến thuốc
súng và thuốc nổ được phát minh bởi người Trung Quốc cũng như các
phương tiện chiến tranh vây hãm mà người Trung Quốc đã phát triển để đối
phó với người châu Âu. Ông cũng là người thống nhất các bộ lạc Mông Cổ, là
điều mà một số người cho là thành tựu đáng kể nhất của ông. Người ta cũng
cho rằng ông là người đầu tiên ngăn chặn sự phân chia bắc và nam Trung
Quốc được bắt đầu từ thời kỳ nhà Tống. Liên quan đến việc thống nhất Mông
Cổ (một trong những thành tựu ấn tượng nhất của ông) là ông đã kiểm soát tốt
để giành được sự hậu thuẫn của người Mông Cổ
Ông tổ chức quân đội Mông Cổ thành các nhóm theo cơ số 10 (10 lính là một
arban (thập hộ), 100 là một zuun (bách hộ), 1.000 là một myangan (thiên hộ),
10.000 là một tumen (vạn hộ)) và mỗi một nhóm binh sĩ có một thủ lĩnh có
trách nhiệm báo cáo với cấp trên cho đến tận tumen. Cơ cấu mệnh lệnh này
tạo ra một sự mềm dẻo cao và cho phép quân đội Mông Cổ có khả năng tấn

công ồ ạt, chia thành các nhóm nhỏ hơn để bao vây và dẫn dắt kẻ thù vào
trong mai phục hay chia thành các nhóm nhỏ 10 người để áp chế các nhóm
tàn quân đã tan vỡ và đang trốn chạy. Quân đội Mông Cổ là rất mềm dẻo vì
sự kiên định của binh sĩ. Mỗi người lính Mông Cổ có thể có từ 2 đến 4 ngựa
cho phép họ phi nước đại trong vài ngày mà không cần nghỉ ngơi hay bị mệt
mỏi. Binh sĩ Mông Cổ cũng có thể sống vài ngày chỉ cần uống máu ngựa và
ăn thịt bò Tây Tạng khô khi thời tiết khắc nghiệt.
11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Khi bổ sung binh lính mới cho quân đội, Thành Cát Tư Hãn chia họ ra
thành nhiều nhóm dưới quyền của các thủ lĩnh khác nhau để tránh tình trạng
có quan hệ về sắc tộc hay xã hội, vì thế ở đây không có sự phân chia theo các
liên minh sắc tộc. Trong mọi chiến dịch, binh sĩ được phép đem theo gia đình
của họ. Chỉ những chiến binh dũng cảm nhất mới được thăng chức. Mỗi một
thủ lĩnh của một nhóm nào đó phải chịu trách nhiệm về sự sẵn sàng chiến đấu
của binh lính dưới quyền tại bất kỳ thời điểm nào và có thể bị thay thế nếu
như phát hiện được sự tắc trách.
Binh lính Mông Cổ là các khinh kỵ binh (kỵ binh nhẹ) so với các kỵ sĩ
châu Âu, điều này cho phép họ tiến hành các chiến thuật và rút lui nhanh
***ng. Đây là một thông lệ đối với các đội quân linh hoạt. Người Mông Cổ
dưới thời Thành Cát Tư Hãn và các hậu duệ của ông là sự hoàn hảo của loại
hình quân khinh kỵ bắn cung. Một trong những kỹ thuật mà người Mông Cổ
sử dụng trong chiến tranh là sự giả vờ rút lui giữa trận đánh, quân Mông Cổ
có thể rút lui bất thình lình, làm cho quân đối phương tin rằng người Mông
Cổ đã thua trận. Chỉ sau đó trong một khoảng cách nhất định thì họ mới hiểu
là đã bị quân Mông Cổ bao vây và cuối cùng là hàng trận mưa tên bắn về phía
họ. Người Mông Cổ không thích hợp với các cuộc cận chiến, họ thích đánh
nhau từ một khoảng cách nhất định bằng cung tên với khả năng bắn cung khi
đang cưỡi ngựa điêu luyện của mình.
Trong các cuộc chiến, thủ lĩnh quân đội Mông Cổ có thể sử dụng cờ hay

kèn hiệu để thực hiện chiến lược, chiến thuật của mình. Đối với người Mông
Cổ, chiến thắng có vẻ như là vấn đề quan trọng nhất và họ không thể chấp
nhận thua trận cũng như mất người bởi vì họ bị thua sút về tiếp viện (ít nhất là
hai lần thấp hơn trong phần lớn các trận đánh nếu tính theo lượng binh sĩ)
cũng như họ phải di chuyển xa lãnh thổ của mình. Như đã đề cập trên đây, vũ
khí chủ yếu của người Mông Cổ là cung của người Hun và kiếm lưỡi cong,
nhẹ và hiệu quả để mang vác và đánh nhau hơn là kiếm dài và nặng của người
châu Âu. Một quy tắc đơn giản trong giao tranh đã được làm rõ trong thời đại
12
Website: Email : Tel : 0918.775.368
của Thành Cát Tư Hãn là nếu hai hay nhiều hơn binh sĩ tách khỏi nhóm của
họ mà không có sự chấp thuận của thủ lĩnh thì họ phải chết. Kiểu giao tranh
của người Mông Cổ có vẻ như là phương thức tự nhiên nhất của cuộc sống du
cư của họ, nó có nghĩa là trong các cuộc viễn du thì phải có hành lý gọn nhẹ
nhất cũng như tốc độ và sự linh hoạt lớn hơn. Do thế Thành Cát Tư Hãn đã bổ
sung thêm một thành phần quan trọng, đó là kỷ luật nghiêm minh đối với
quân đội của ông mà nó là tương tự như các đội quân khác của thảo nguyên
trong thời gian dựa vào kiểu chiến tranh bằng khinh kỵ binh với cung tên.
Triết lý quân sự của Thành Cát Tư Hãn nói chung là đánh bại kẻ thù với ít tổn
thất và rủi ro nhất cho người Mông Cổ, dựa trên lòng trung thành và tài năng
trong việc lựa chọn các tướng lĩnh và binh sĩ.
Thành Cát Tư Hãn đã thực hiện rất thành công các kiểu chiến tranh tâm
lý, đặc biệt trong các việc mở rộng sự đe dọa, khủng bố đối với các thành phố,
thị trấn khác. Nếu ông nhận thấy là ở đó có sự chống cự, ông có thể đưa ra cơ
hội để họ đầu hàng và cống nộp. Nếu lời đề nghị bị từ chối, ông có thể tiêu
diệt cả thành phố hay thị trấn đó nhưng cho một số người chạy trốn để loan
truyền tin về tổn thất của họ cho cư dân của các thành phố khác. Một khi
những tin đồn về sức mạnh của đội quân của ông đã loang rộng thì rất khó
cho các thủ lĩnh của các thành phố đó trong việc thuyết phục người dân của
họ chống lại Thành Cát Tư Hãn. Quan điểm của Thành Cát Tư Hãn đối với

các kẻ thù là: hoặc đầu hàng và chịu cống nộp hoặc là chết. Khi họ đã đầu
hàng, Thành Cát Tư Hãn thông thường giữ cho thành phố đó được nguyên
vẹn và đảm bảo cho họ sự bảo vệ để họ trở thành nguồn nhân lực và quân nhu
cho các chiến dịch trong tương lai. Nếu họ chống lại, ông thực hiện quyền của
người cai trị cả thế giới. Người ta cho rằng ông đã giữ được nhiều sinh mạng
nhờ chiến tranh tâm lý và sự hăm dọa đối với kẻ thù.
Công nghệ là một mặt quan trọng trong chiến thuật của ông. Những thiết
bị vây hãm là một phần trong chiến thuật của ông, đặc biệt trong việc tấn
công các thành phố đã tăng cường phòng thủ. Ông sử dụng các nhà kỹ thuật
13
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Trung Quốc rất am hiểu các thiết bị vây hãm trong thời gian đó trong quân
đội của mình. Các thiết bị vây hãm này được tháo rời và vận chuyển bằng
ngựa và được lắp ráp lại ở nơi mà chúng cần sử dụng.
Trong bối cảnh của một cuộc chiến tranh điển hình và các biến thái của
nó, trước khi xâm chiếm, Thành Cát Tư Hãn và các tướng lĩnh của ông thực
hiện việc chuẩn bị tích cực ở Kurultai để quyết định xem sẽ chỉ đạo cuộc
chiến tranh sắp tới như thế nào cũng như các tướng nào cần tham gia; có
nghĩa là họ có thể tích lũy kiến thức hoàn hảo hơn từ những kẻ thù của mình,
sau đó sự khiêu chiến sẽ được tính toán, và sau đó họ quyết định bao nhiêu
đơn vị là cần thiết. Ở phía khác, các tướng Mông Cổ là những chiến binh với
mức độ độc lập cao trong các quyết định khi họ tỏ rõ lòng trung thành với
Thành Cát Tư Hãn trong một thời gian dài, điều này làm giảm thiểu sự kiểm
tra, giám sát của ông đối với họ trong thời gian diễn ra chiến dịch. Vì bản chất
nhẹ của quân đội Mông Cổ, Thành Cát Tư Hãn đã xây dựng một mạng lưới
tình báo phức tạp trong quân đội Mông Cổ cũng như trong các mạng lưới
thương mại hay các nước chư hầu, trong đó tình báo có thể nhanh ***ng đến
được mọi ngõ ngách của đế chế Mông Cổ. Người ta cho rằng, để chuẩn bị cho
chiến tranh, các tướng có thể cử 200 kỵ binh đi theo 4 hướng khác nhau để do
thám các hoạt động của kẻ thù và đôi khi binh sĩ đi tới 300 km trong 1 hay 2

ngày, điều này là thông thường trong thời đại của đội quân Mông Cổ.
Mặc dù chiến chiến lược của người Mông Cổ là có sự thay đổi tùy theo phản
ứng của kẻ thù, nhưng kỹ thuật của họ có thể vẫn chỉ là một. Người Mông Cổ
giao chiến theo hàng dọc, thông thường có ba cánh quân, hai cánh bên hông
có thể tách ra từ cánh quân trung tâm khi họ tính toán xem nơi nào họ có thể
thọc vào. Các cánh quân bên hông có quân số tương đương có thể đi sâu vào
lãnh thổ kẻ thù và bắt đầu chôn vùi kẻ thù bằng các toán quân Mông Cổ được
chia thành các cơ, đội 10, 100, 1.000, 10.000 binh sĩ với các thủ lĩnh của họ,
nó tạo ra một lực lượng chiến đấu rất tinh tế và có tổ chức cao, gần như không
thể ngăn chặn nổi bởi những đội quân nông dân của người châu Âu hay Trung
14
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Quốc. Khi họ hiện diện ở một nơi nào đó và do thám các thành phố và cánh
đồng xung quanh, họ có thể bằng cách nào đó nhập lại với cánh quân trung
tâm và đưa ra đòn đánh quyết định với đội quân chính của kẻ thù. Tư tưởng
và ưu thế của việc sử dụng các lực lượng bên hông là lan truyền đe dọa,
khủng bố (người Mông Cổ rất giỏi việc này), thu thập tin tức tình báo từ các
kẻ thù của họ và loại bỏ các đơn vị nhỏ hơn của kẻ thù để không cho họ
không thể hỗ trợ lẫn nhau. Nói cách khác, nó là một dạng của khái niệm phân
chia và chế ngự. Các cánh quân bên hông này gửi các thông điệp thông qua
tình báo cho các cánh quân khác về những gì xảy ra trên hướng của họ và họ
có cần sự hỗ trợ từ các cánh quân đó hoặc hỗ trợ các cánh quân đó hay không.
Quân đội Mông Cổ có các cuộc giao chiến với các đội quân nhỏ lẻ trên các
cánh đồng trước khi tiêu diệt lực lượng đối địch chính, điều này làm tăng ưu
thế của họ trong việc loại trừ khả năng thông tin từ một thành phố cho các
thành phố khác của kẻ thù (mà có thể có được sự hỗ trợ từ đó). Người Mông
Cổ giỏi chiến tranh vây hãm, giỏi làm lệch dòng chảy của các dòng sông cũng
như lương thực, thực phẩm cho các thành phố và gửi những người tỵ nạn tới
các thành phố khác để tạo căng thẳng về kinh tế-xã hội cho các thành phố này
(lương thực, thực phẩm, nơi ăn ở v.v).

Khi trận đánh chính hay sự vây hãm đã kết thúc, người ta cho rằng quân
đội Mông Cổ truy đuổi thủ lĩnh của kẻ thù cho đến khi ông ta hoàn toàn suy
sụp để làm ông ta không thể đến điểm thu thập quân đội của mình sau trận
đánh. Phần lớn thời gian thủ lĩnh của kẻ thù phải chạy trốn đã nhận ra rằng họ
có lẽ đã thua cuộc, nhưng các lực lượng Mông Cổ truy đuổi cho đến khi họ
chắc chắn rằng những kẻ này đã chết
Nhận thức về ông :
Thành Cát Tư Hãn là nhân vật bị phân cực nhiều nhất trong cách đánh
giá của người phương Đông và phương Tây. Ở phương Tây và Trung Đông,
hình ảnh của ông là không tích cực lắm vì ông đã giết quá nhiều người cũng
như là mối đe dọa đối với cuộc sống và tài sản của họ. Tuy nhiên, ở phương
15
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Đông thì ông là một trong những lãnh tụ có ảnh hưởng to lớn đối với lịch sử.
Ngày nay, những người Mông Cổ tìm thấy ở ông như là người sáng lập ra và
thống nhất Mông Cổ, là điều mà họ không thể có được trước khi có ông.
Ngược lại, ở Trung Đông, người ta có cách đánh giá hơi pha trộn về ông và
các hậu duệ của ông vì quân đội của họ đã xâm chiếm và tiêu hủy thành
Baghdad, nhưng cuối cùng thì một số trong quân đội Mông Cổ đã chuyển
sang theo đạo Hồi và có cuộc sống hòa trộn với dân bản xứ. Một số trường
phái và các nhà khoa học, phụ thuộc vào gốc gác của họ, cho rằng những
người Mông Cổ là những người xây dựng hay những kẻ hủy diệt vĩ đại nhất.
Thành Cát Tư Hãn và những người Mông Cổ là một trong những chủ đề trái
ngược nhau theo các cách hiểu khác nhau tùy theo vị trí mà ta xem xét, trong
đó tiêu cực nhất là từ châu Âu và Trung Đông là những nơi đã từng bị đe dọa
và tiêu diệt (ví dụ: châu Âu, Ba Lan, Hungary, một phần của Nga).
Nhìn nhận về Thành Cát Tư Hãn ở Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ngày nay
là mâu thuẫn vì các nhà sử học Trung Quốc vừa nhìn thấy ở ông mặt tích cực
lẫn mặt tiêu cực. Trong khi người ta nhận thức được những tổn thất nặng nề
mà ông gây ra, thì hình ảnh của ông trong một phương diện nào đó được nhìn

nhận tốt hơn do ông đã đưa các sự kiện gây ra sự chia rẽ bắc-nam Trung Hoa
có từ thời nhà Tống đi vào dĩ vãng. Ngoài ra, sự phỉ báng Thành Cát Tư Hãn
là một sự xúc phạm ghê gớm đối với các công dân Trung Quốc có nguồn gốc
Mông Cổ, là những người mà giống như bà con của họ ở Mông Cổ coi Thành
Cát Tư Hãn như một người anh hùng dân tộc và xu hướng trong lịch sử Trung
Quốc hiện đại đã tránh nói tới điều đó.
Di sản:
Các hậu duệ của ông đã mở rộng quốc gia của ông rộng hơn về phía nam
Trung Quốc, Nga, Iraq, Triều Tiên và Tây Tạng. Người Mông Cổ cuối cùng
đã xâm chiếm Ba Lan và Hungary dưới triều đại của Hãn vương Batu cũng
như các mức độ khác nhau của sự thành công đối với Syria, Nhật Bản và Việt
Nam (vì các lý do như khí hậu nóng bức, nhất là ở Trung Đông như Ả Rập
16

×