Tải bản đầy đủ (.docx) (97 trang)

Lý thuyết sóng Elliott và kiểm chứng hiệu quả đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.41 MB, 97 trang )


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Dự thi giải thưởng “ TÀI NĂNG KHOA HỌC TRẺ VIỆT NAM”
NĂM 2015
Tên công trình:
LÝ THUYẾT SÓNG ELLIOTT VÀ KIỂM CHỨNG HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ TRÊN THỊ
TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
Thuộc nhóm ngành khoa học: Kinh doanh và quản lý 1.
Họ và tên sinh viên: Nguyễn Thành Chung Nam TCDN 54C
Lê Thị Ngọc Linh Nữ TCDN 54C
Vũ Thị Thu Trang Nữ TCQT 54

Năm đào tạo: 3 /4 số năm đào tạo
Trường Đại học Kinh Tế Quốc dân
Giáo viên hướng dẫn: TS. Lê Thị Hương Lan
HÀ NỘI, 2015

MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
TTCK: Thị trường chứng khoán
NĐT: Nhà đầu tư
PTKT: Phân tích kỹ thuật
TTGDCK: Thị trường giao dịch chứng khoán
HOSE: Sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh
HNX: Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội
UBCKNN: Ủy ban Chứng khoán nhà nước Việt Nam
OTC: Thị trường chứng khoán phi tập trung
DNNN : Doanh nghiệp nhà nước
CTCK: Công ty chứng khoán
NHTM: Ngân hàng thương mại


TCTD: Tổ chức tín dụng
BTC: Bộ tài chính
NHNN: Ngân hàng nhà nước
TTLKCK: Trung tâm lưu ký chứng khoán
SL DNNY: Số lượng Doanh nghiệp niêm yết
BCTC: Báo cáo tài chính
CTCP: Công ty Cổ phần
KLGD BQ: Khối lượng giao dịch bình quân
GTGD BQ: giá trị giao dịch bình quân.
CTQLQ: Công ty quản lý quỹ
TPCP: Trái phiếu chính phủ
CCQ: Chứng chỉ quỹ

DANH MỤC BẢNG BIỂU
5
LỜI MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Thị trường chứng khoán luôn là nơi hấp dẫn các tổ chức và cá nhân đầu tư
bởi mức sinh lợi cao. Tuy nhiên, đây cũng là nơi tiềm ẩn rất nhiều rủi ro. Vì thế,
việc đưa ra dự báo xu hướng biến động của giá chứng khoán để có một chiến
lược phù hợp cho hoạt động đầu tư thu hút rất nhiều sự quan tâm của các cá
nhân, tổ chức và các nhà kinh tế tài chính.
So với nhiều nước trên thế giới, thị trường chứng khoán Việt Nam là
điểm đến vô cùng tiềm năng nhưng đầy “bất ổn”. Vận hành từ năm 2000 đến
nay, thị trường chứng khoán Việt Nam liên tục đón những thăng trầm trong quá
trình phát triển. Sau bước đi chập chững đến sự bùng nổ năm 2007, thị trường
lao dốc mạnh vào thời điểm 2008, phục hồi ấn tượng vào năm tiếp theo rồi trải
qua một thời kì dài đi ngang và giảm điểm cho đến nay. Quy mô thị trường còn
nhỏ, hàng hóa trên TTCK đã tăng về số lượng nhưng chưa đa dạng về chủng
loại, thiếu những nhà đầu tư có tổ chức cũng như những tư vấn viên chuyên

nghiệp, công chúng đầu tư phần lớn vẫn ảnh hưởng lối đầu tư theo lý tính. Sự
ảm đạm và tâm lí e ngại khi tham gia thị trường cũng là điều dễ hiểu khi phần
lớn các nhà đầu tư đều chưa tự định hướng hoặc có cái nhìn toàn vẹn về chứng
khoán nước nhà. Trong hoàn cảnh đó, việc nghiên cứu ứng dụng và phát triển
các mô hình định giá-dự báo giá chứng khoán là vô cùng cấp thiết trong công
tác đẩy mạnh sự phát triển của thị trường nói chúng và tối ưu hiệu quả đầu tư
của các thành phần tham gia nói riêng.
Trong phân tích và đầu tư chứng khoán, có hai trường phái là Phân tích cơ
bản và Phân tích kỹ thuật. Trong đó phân tích kỹ thuật là dựa trên quan hệ cung
cầu về chứng khoán trong quá khứ để đưa ra dự đoán về xu thế biến động giá
tương lai. Bên cạnh đó, nó còn đưa ra kết quả phân tích nhanh chóng và cùng
lúc có thể phân tích nhiều loại chứng khoán khác nhau trên thị trường. Tại
TTCK ở các nước phát triển, phân tích kỹ thuật đã chứng tỏ là một công cụ hữu
ích cho các nhà đầu tư và tư vấn đầu tư.
6
Nhận thấy tầm quan trọng của việc đưa ra một mô hình tận dụng tối đa
gói dữ liệu thị trường và phù hợp với cấp độ phát triển kinh tế quốc gia, nhóm
đã đi sâu tìm hiểu và chọn lọc đề tài từ kết quả nghiên cứu của nhiều nhà kinh tế
trong nước và quốc tế. Chúng tôi lựa chọn đề tài “Lý thuyết sóng Elliott và kiểm
chứng hiệu quả đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam” để nghiên cứu.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Lý thuyết sóng Elliott không phải chủ đề quá xa lạ với các nhà kinh tế
trên thế giới. Tại các nước phát triển, có nhiều công trình nghiên cứu khoa học
đã được xây dựng trên nền tảng lý thuyết này, điển hình như nghiên cứu
“Applying Elliott Wave theory Profitably” của Steven W. Poser (Canada ) hay
“Elliott Wave princible” của Zhong Wang (Hong Kong). Tuy nhiên, tại Việt
Nam lý thuyết sóng Elliott chưa được phổ biến và gần như hoàn toàn mới mẻ
với những người quan tâm chứng khoán. Nhiều tài liệu và công trình nghiên cứu
đã đề cập lý thuyết này, nhưng bản thân nó chưa bao giờ được phát triển thành
đề tài hoàn thiện. Trong giới đầu tư, một vài cá nhân có tìm hiểu và sử dụng lý

thuyết sóng Elliott nhưng thất bại hoặc bỏ dở giữa chừng vì đường lối thực hiện
chưa thực sự đúng đắn.
3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Hệ thống hóa các lý thuyết liên quan đến PTKT và lý thuyết sóng Elliott.
Đồng thời kết hợp với việc phân tích thực trạng hoạt động đầu tư và kiểm chứng
lý thuyết sóng Elliott trên TTCK Việt Nam. Từ đó đề xuất giải pháp áp dụng lý
thuyết sóng Elliott trong hoạt động đầu tư chứng khoán.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp nghiên cứu thống kê kết hợp với phân tích, nhận định, so
sánh để đưa ra kết luận về việc sử dụng lý thuyết sóng Elliott trong hoạt động
đầu tư chứng khoán.
Những thống kê và phân tích kết hợp với việc sử dụng phần mềm
Elwave được thiết kế trên nền tảng lý thuyết sóng Elliott để tăng tính thuyết
phục cũng như giảm bớt sự phức tạp trong phân tích diễn biến giá.
5. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
7
- Đối tượng nghiên cứu: lý thuyết sóng Elliott trong hoạt động đầu tư
chứng khoán.
- Phạm vi nghiên cứu: kiểm chứng khả năng áp dụng lý thuyết sóng
Elliott trong hoạt động đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán Việt
Nam dựa trên dữ liệu là diễn biến giá của các chứng khoán trên sàn HOSE từ
năm 2010-2014 ( điển hình là các chứng khoán trong rổ tính chỉ số VN30
6. KẾT CẤU ĐỀ TÀI
Nội dung đề tài gồm ba chương:
LỜI MỞ ĐẦU
CHƯƠNG I: CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN
VÀ LÝ THUYẾT SÓNG ELLIOTT TRONG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TRÊN
THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ VÀ KIỂM
CHỨNG LÝ THUYẾT ELLIOTT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN

VIỆT NAM
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP ÁP DỤNG LÝ THUYẾT SÓNG ELLIOTT
TRONG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT NAM
8
CHƯƠNG I: CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN VÀ LÝ
THUYẾT SÓNG ELLIOTT TRONG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TRÊN THỊ
TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN.
1.1. Hoạt động đầu tư trên thị trường chứng khoán
1.1.1 Khái niệm chứng khoán và thị trường chứng khoán
1.1.1.1 Khái niệm chứng khoán.
Chứng khoán là những giấy tờ có giá xác định số vốn đầu tư ( tư bản đầu
tư), xác nhận quyền sở hữu hoặc quyền đòi nợ hợp pháp, bao gồm các điều kiện
về thu nhập và tài sản trong một thời hạn nào đó và có khả năng chuyển
nhượng.
Chứng khoán có những đặc điểm cơ bản như sau:
- Tính lỏng (tính thanh khoản): khả năng chuyển đổi từ chứng khoán sang
tiền mặt.Tính lỏng của chứng khoán thể hiện qua thời gian chuyển đổi và chi phí
chuyển đổi chứng khoán thành tiền mặt.
- Tính sinh lời: Thu nhập của nhà đầu tư sinh ra từ việc tăng giá chứng
khoán trên thị trường, hay các khoản tiền lời được trả hàng năm.
- Tính rủi ro: đặc trưng cơ bản của chứng khoán, bao gồm rủi ro có hệ
thống ( rủi ro thị trường, sức mua, lãi suất….) và rủi ro phi hệ thống ( rủi ro
kinh doanh, rủi ro tài chính, thanh khoản…) . Nhà đầu tư thường quan tâm tới
việc xem xét và đánh giá rủi ro liên quan đến chứng khoán đang nắm giữ để có
quyết định đầu tư thích hợp.
Về phân loại chứng khoán: Có nhiều tiêu thức phân loại chứng khoán,
tiêu biểu có hai tiêu thức sau:
- Theo khả năng chuyển nhượng: Chứng khoán ghi danh ( ghi tên), và chứng
khoán vô danh ( không ghi tên)
- Theo thu nhập: chứng khoán có thu nhập cố định ( các loại trái phiếu, tín

phiếu ), chứng khoán có thu nhập biến đổi ( cổ phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư),
chứng khoán hỗn hợp ( trái phiếu có quyền mua cổ phiếu, trái phiếu có thu nhập
bổ sung, trái phiếu có khả năng chuyển đổi).
9
1.1.1.2 Thị trường chứng khoán
Để có thể thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh, cần hội đủ các yếu tố
như : lao động, vốn, đất đai, khoa học kỹ thuật… Trong đó, vốn ngày càng đóng
vai trò quan trọng và chiếm vị thế không nhỏ trong quá trình sản xuất kinh
doanh. Tuy nhiên, những người cần vốn hoặc có cơ hội đầu tư lớn không thể
tiếp cận được với tất cả các nguồn vốn dư thừa trong nền kinh tế. Và song song
tồn tại, vẫn có những người dư thừa vốn nhưng ít có cơ hội hoặc không có nhu
cầu đầu tư. Để khắc phục vấn đề trên, hệ thống trung gian tài chính mà tiêu biểu
là các ngân hàng thương mại ra đời. Tuy nhiên, để thu hút được các nguồn vốn
nhàn rỗi của xã hội một cách triệt để và sử dụng có hiệu quả, đồng thời giúp nhà
đầu tư tự chủ trong các hoạt động của mình thì cần có sự góp mặt của thị trường
chứng khoán.
Một cách chung nhất, thị trường chứng khoán được hiểu là nơi diễn ra
việc trao đổi, giao dịch mua bán các loại chứng khoán hay các giấy tờ có giá.
Việc trao đổi mua bán này được thực hiện theo những quy tắc ấn định trước.
Bản chất của thị trường chứng khoán là thị trường thể hiện mối quan hệ giữa
cung và cấu của vốn đầu tư, mà ở đó, giá cả của chứng khoán chứa đựng thông
tin về chi phí vốn hay giá cả của vốn đầu tư. Có thể nói, thị trường chứng khoán
là hình thức phát triển bậc cao của nền sản xuất và lưu thông hàng hóa.
• Phân loại chứng khoán:
Thị trường chứng khoán có thể được chia thành thị trường sơ cấp ( hay
thị trường phát hành) và thị trường thứ cấp ( nơi diễn ra hoạt động mua bán
chứng khoán đã được phát hành). Ngoài ra, có thể phân thị trường chứng khoán
thành thị trường giao ngay ( việc mua bán chứng khoán diễn ra ngay trong ngày
giao dịch) và thị trường có kỳ hạn ( thị trường mua bán chứng khoán theo một
hợp đồng đã định sẵn với giá cả được xác định ở thời điểm hiện tại, song việc

thanh toán sẽ diễn ra tại một thời điểm trong tương lai với kỳ hạn xác định
trước).
10
• Vai trò của thị trường chứng khoán trong phát triển nền kinh tế
Xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực với sự ra đời của Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO), của Liên minh Châu Âu, của các khối thị trường
chung, đòi hỏi các quốc gia phải thúc đẩy phát triển kinh tế với tốc độ và hiệu
quả cao. Và điều kiện cần để phát triển kinh tế là cần có lượng vốn lớn. Thị
trường chứng khoán đã và đang đóng góp một phần không nhỏ cho sự phát triển
chung đó. Thực tế phát triển kinh tế ở các quốc gia trên thế giới đã khẳng định
vai trò quan trọng của thị trường chứng khoán trong phát triển kinh tế:
- Thứ nhất, thị trường chứng khoán, với việc tạo ra các công cụ có tính thanh
khoản cao, có thể tích tụ, tập trung và phân phối vốn, chuyển thời hạn của vốn
phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế.
- Thứ hai, thị trường chứng khoán góp phần thực hiện tái phân phối công bằng
hơn.
- Thứ ba, thị trường chứng khoán tạo điều kiện cho việc tách biệt giữa sở hữu và
quản lý doanh nghiệp.
- Thứ tư, hiệu quả của quốc tế hoá thị trường chứng khoán. Việc mở cửa thị
trường chứng khoán làm tăng tính lỏng và cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Điều này cho phép các công ty có thể huy động nguồn vốn rẻ hơn, tăng cường
đầu tư từ nguồn tiết kiệm bên ngoài, đồng thời tăng cường khả năng cạnh tranh
quốc tế và mở rộng các cơ hội kinh doanh của các công ty trong nước.
- Thứ năm, thị trường chứng khoán tạo cơ hội cho Chính phủ huy động các
nguồn tài chính mà không tạo áp lực về lạm phát, đồng thời tạo các công cụ cho
việc thực hiện chính sách tài chính tiền tệ của Chính phủ.
- Thứ sáu, thị trường chứng khoán cung cấp một dự báo tuyệt vời về các chu kỳ
kinh doanh trong tương lai. Việc thay đổi giá chứng khoán có xu hướng đi trước
chu kỳ kinh doanh cho phép Chính phủ cũng như các công ty đánh giá kế hoạch
đầu tư cũng như việc phân bổ các nguồn lực của họ. Thị trường chứng khoán

cũng tạo điều kiện tái cấu trúc nền kinh tế.
Ngoài những tác động tích cực trên đây, thị trường chứng khoán cũng có
những tác động tiêu cực nhất định như việc quyết định giá cả, mua bán chứng
khoán của các nhà đầu tư không dựa trên cơ sở thông tin và xử lý thông tin dẫn
11
đến giá cả chứng khoán không phản ánh giá trị kinh tế cơ bản của công ty và
không trở thành cơ sở để phân phối một cách có hiệu quả các nguồn lực.
Một số tiêu cực khác của thị trường chứng khoán như hiện tượng đầu cơ,
hiện tượng xung đột quyền lực làm thiệt hại cho quyền lợi của các cổ đông
thiểu số, việc mua bán nội gián, thao túng thị trường làm nản lòng các nhà đầu
tư và như vậy, sẽ tác động tiêu cực tới tiết kiệm và đầu tư.
Như vậy, vai trò của thị trường chứng khoán được thể hiện trên nhiều
khía cạnh khác nhau. Song vai trò tích cực hay tiêu cực của thị trường chứng
khoán có thực sự được phát huy hay hạn chế phụ thuộc đáng kể vào các chủ thể
tham gia thị trường và sự quản lý của Nhà nước.
• Nguyên tắc hoạt động của TTCK
TTCK hoạt động theo 3 nguyên tắc cơ bản: nguyên tắc trung gian,
nguyên tắc đấu giá và nguyên tắc công khai.
- Nguyên tắc trung gian: Mọi hoạt động giao dịch, mua bán chứng khoán trên thị
trường chứng khoán đều được thực hiện thông qua các trung gian, hay còn gọi là
các nhà môi giới. Các nhà môi giới thực hiện giao dịch theo lệnh của khách hàng
và hưởng hoa hồng. Ngoài ra, nhà môi giới còn có thể cung cấp các dịch vụ khác
như cung cấp thông tin và tu vấn cho khách hàng trong việc đầu tư
- Nguyên tắc đấu giá: Giá chứng khoán đuợc xác định thông qua việc đấu giá
giữa các lệnh mua và các lệnh bán. Tất cả các thành viên tham gia thị truờng đều
không thể can thiệp vào việc xác định giá này. Có hai hình thức đấu giá là đấu
giá trực tiếp và đấu giá tự động.
- Nguyên tắc công khai: Tất cả các hoạt động trên thị truờng chứng khoán đều
phải đảm bảo tính công khai. Sở giao dịch chứng khoán công bố các thông tin về
giao dịch chứng khoán trên thị trường. Các tổ chức niêm yết công bố công khai

các thông tin tài chính định kỳ hàng năm của công ty, các sự kiện bất thuờng xảy
ra đối với công ty, nắm giữ cổ phiếu của giám đốc, nguời quản lý, cổ đông đa
số. Các thông tin càng được công bố công khai minh bạch, thì càng thu hút đuợc
nhà đầu tư tham gia vào thị trường chứng khoán.
12
Các nguyên tắc trên đây nhằm đảm bảo cho giá cả chứng khoán đuợc hình
thành một cách thống nhất, công bằng cho tất cả các bên giao dịch.
1.1.2 Khái niệm và hình thức đầu tư trên TTCK
Đầu tư chứng khoán là một loại hình đầu tư tài chính. Trong hoạt động
này, NĐT bỏ tiền để mua chứng khoán (bao gồm cổ phiếu, trái phiếu…). Giá trị
của chứng khoán phụ thuộc vào giá trị kinh tế cơ bản của các quyền được bao
hàm trong mỗi loại chứng khoán, hay phụ thuộc vào năng lực tài chính của nhà
phát hành. Đồng thời, giá chứng khoán phụ thuộc vào quan hệ cung cầu chứng
khoán trên thị trường. Đầu tư chứng khoán giúp NĐT có thể thu được lợi nhuận
từ phần lợi tức được chia và phần tăng giá chứng khoán trên thị trường. Mặt
khác, NĐT có thể được hưởng quyền quản lý, quyền kiểm soát doanh nghiệp từ
việc nắm giữ cổ phiếu.
• Phân loại đầu tư chứng khoán
Theo mục đích đầu tư thì hoạt động đầu tư chứng khoán được chia thành
bốn hoạt động chính như sau:
- Đầu tư ngân quỹ
Hoạt động đầu tư ngân quỹ thường được thực hiện bởi các tổ chức kinh
tế và NĐT lớn. Xuất phát từ nhu cầu thanh toán chi trả, nhu cầu dự phòng và dự
trữ, các tổ chức kinh tế và NĐT lớn thường phải nắm giữ một lượng tiền khá
lớn. Tuy nhiên, tiền không phải là tài sản sinh lời, nên các đối tượng này thường
có xu hướng tăng cường đầu tư vào các tài sản sinh lời, giảm dự trữ tiền, do vậy
tiềm ẩn khả năng phá sản lớn do khả năng thanh toán kém. Để khắc phục điều
này, các nhà quản trị tài chính thường đầu tư vào chứng khoán ngắn hạn, có khả
năng chuyển đổi nhanh thành tiền như tín phiếu kho bạc, kỳ phiếu ngân hàng…
Bên cạnh khả năng sinh lời, các chứng khoán này có vai trò như là các dự trữ

thứ cấp khi nhu cầu thanh toán chi trả phát sinh.
13
- Đầu tư hưởng lợi
Khác với đầu tư ngân quỹ nhằm đáp ứng khả năng thanh toán, hoạt động
đầu tư hưởng lợi nhằm mục tiêu lợi nhuận. Lợi nhuận từ hoạt động đầu tư có thể
có được từ lợi tức, từ tài sản đầu tư như cổ tức hàng năm, hay từ lợi tức của trái
phiếu. Bên cạnh đó, NĐT có thể thu được chênh lệch giá chứng khoán và các
quyền lợi khác nếu có. Hoạt động đầu tư hưởng lợi gồm kinh doanh chênh lệch
giá, hoạt động đầu cơ, kinh doanh giảm giá, tạo lập thị trường.
- Đầu tư phòng vệ
Hoạt động đầu tư có khả năng mang lại lợi nhuận lớn, song cũng hàm
chứa rủi ro rất cao. Vì vậy, công cụ phòng vệ xuất hiện ngày càng nhiều nhằm
giúp NĐT phòng tránh rủi ro như: hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng quyền mua…,
các công cụ này được sử dụng cho cả nghiệp vụ kinh doanh chênh lệch giá,
nghiệp vụ đầu tư và nghiệp vụ phòng vệ.
- Đầu tư nắm quyền kiểm soát
Cổ phiếu cho phép chủ sở hữu có quyền kiểm soát công ty phát hành
thông qua quyền nhận thông tin, quyền tham dự và biểu quyết tại ĐHCĐ. Số
lượng cổ phiếu nắm giữ thường quyết định khả năng biểu quyết, kiểm soát của
NĐT. Một số NĐT lớn, thường là NĐT tổ chức như doanh nghiệp hoặc ngân
hàng lớn thường thực hiện hoạt động đầu tư nắm quyền kiểm soát.
Một hình thái khác của đầu tư nắm quyền kiểm soát phát triển trong
những năm gần đây là hoạt động đầu tư mạo hiểm. Một số tổ chức đầu tư lớn
tìm kiếm cơ hội đầu tư từ các công ty chưa phát triển, đặc biệt yếu kém về công
nghệ quản lý. Thông qua nắm quyền kiểm soát, họ thực hiện tái cấu trúc công ty,
thay đổi quản lý, công nghệ, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động và cải thiện hình
ảnh trong công chúng đầu tư và sẽ thực hiện bán cổ phiếu trên thị trường tập
trung hoặc thị trường OTC khi cổ phiếu tăng giá.
14
1.1.3 Các NĐT trên TTCK

1.1.3.1 Khái niệm Nhà đầu tư
Trong cuốn sách của UBCKNN-SSC của tiến sỹ Đào Lê Minh chủ biên
có đưa ra một khái niệm về NĐT chứng khoán như sau: “ NĐT chứng khoán là
những người thực sự mua và bán chứng khoán trên thị trường chứng khoán”.
Trong Luật chứng khoán 2006, tại khoán 10 điều 6 có đưa khái niệm
sau:” NĐT là tổ chức, cá nhân Việt Nam và tổ chức, cá nhân nước ngoài tham
gia đầu tư trên thị trường chứng khoán”. Khái niệm trên mới chỉ ra được đối
tượng có thể trở thành NĐT mà chưa chỉ ra bản chất thật sự của một nhà đầu tư.
Cần phân biệt khái niệm NĐT chứng khoán với thuật ngữ “ người chơi
chứng khoán”. Đây là ví dụ điển hình để phân biệt những người gọi là nhà đầu
tư- những người có nhiều kinh nghiệm, kiến thức và sự hiểu biết về đầu tư
chưng khoán, có hành vi mua bán chứng khoán trong một khoảng thời gian nhất
định ( thường là từ 3-5 năm, hoặc dài hơn). Một thuật ngữ cần phân biệt với
NĐT chứng khoán là “ các nhà kinh doanh chứng khoán”, thuật ngữ này gần
giống “người chơi chứng khoán” nhưng khác ở bản chất và mục đích mua bán
chứng khoán. Các nhà kinh doanh chứng khoán thường là những người mua bán
chứng khoán trong thời gian ngắn, từ vài ngày đến vài tháng hay cao hơn là từ
1- 2 năm. Đôi khi, họ bị gọi là nhà đầu cơ hay “ lướt sóng” chứng khoán. Phân
loại nhà đầu tư
Theo cách tiếp cận của pháp luật Việt Nam, có 2 loại NĐT là NĐT
chuyên nghiệp và NĐT không chuyên nghiệp:
- Nhà đầu tư chuyên nghiệp : là những tổ chức có tư cách pháp nhân, như công ty
chứng khoán, quỹ đầu tư chứng khoán và những định chế tài chính khác như:
ngân hàng, công ty tài chính, doanh nghiệp bảo hiểm, v.v
- Nhà đầu tư không chuyên nghiệp: là những cá nhân, tổ chức khác trong nền kinh
tế
15
Tiêu
chí
Nhà đầu tư

chuyên nghiệp
Nhà đầu tư
không chuyên nghiệp
Tư cách Là tổ chức kinh tế như ngân
hàng, công ty tài chính, bảo
hiểm, công ty chứng khoán,
công ty đầu tư chứng khoán…
Có thể là cá nhân, doanh
nghiệp và tổ chức khác.
Trình độ
chuyên môn
Am hiểu về nghiệp vụ đầu tư
chứng khoán
Có thể không am hiểu nhiều
về nghiệp vụ đầu tư
Trang thiết
bị và
nhân lực
Phải có những trang thiết bị
cần thiết như hệ thống máy
tính, trụ sở, và các nhân viên
am hiểu chuyên môn nghiệp
vụ
Có thể không có những trang
thiết bị cần thiết vì đã uỷ thác
đầu tư cho công ty chứng
khoán hoặc công ty quản lý
quỹ
Nguồn vốn Thường có nguồn vốn mạnh
và tập trung vào đầu tư chứng

khoán.
Nguồn vốn nhàn rỗi do tiết
kiệm hoặc chưa có mục đích
sử dụng khác. Ngay cả khi
nguồn vốn đó dành để đầu tư
chứng khoán thì cũng không
quá nhiều.
Những
ràng buộc
pháp lý
Bị ràng buộc nhiều hơn trong
hoạt động như chế độ công bố
thông tin, những nghĩa vụ
đảm bảo an toàn tài chính…
Những ràng buộc pháp lý
thường ít hơn nhà đầu tư
chuyên nghiệp
Vai trò
đối với
thị trường
Rất quan trọng, thường là cầu
nối của những nhà đầu tư
không chuyên nghiệp với thị
trường chứng khoán
Rất quan trọng, bởi đây mới
là những nhà đầu tư thật sự
(là nhà đầu tư ‘nắm giữ’
chứng khoán sau cùng, hiểu
theo nghĩa rộng nhất của từ
này)

Bảng 01: Bảng phân loại nhà đầu tư
1.2. Phân tích kỹ thuật trong hoạt động đầu tư chứng khoán
1.2.1 Khái niệm và sự cần thiết của việc ứng dụng PTKT trong đầu tư chứng
khoán trên TTCK
Trong đầu tư chứng khoán, hoạt động mua bán không thể diễn ra theo
cảm tính mà cần có một hệ thống các nguyên tắc để lựa chọn những loại chứng
khoán tốt nhất cũng như thời điểm hợp lý nhất để mua bán chúng. Có rất nhiều
người sau nhiều năm kinh doanh chứng khoán vẫn chưa thực sự hiểu thế nào là
phân tích cơ bản và phân tích kỹ thuật, hay gọi chung là phân tích chứng khoán.
16
Đa số họ mua bán theo cảm tính và không có một công cụ đầu tư hiệu qủa.
Thêm vào đó là tình trạng mua bán chứng khoán theo tâm lý đám đông và “lướt
sóng” là chủ yếu. Thị trường cũng thiếu những nhà đầu tư có tổ chức cũng như
các chuyên gia tư vấn chuyên nghiêp. Có chăng một số ít các đối tượng tham gia
trên thị trường cũng quan tâm một phần nhỏ đến tình hình tài chính của các công
ty mà họ tham gia mua bán, nhưng chỉ ở góc độ rất khiêm tốn, chưa có bài bản
theo một phương pháp phân tích nhất định.
Riêng về phân tích kỹ thuật, hầu như chưa nhận được sự quan tâm và
nhu cầu ứng dụng trong thực tiễn. Đây thực sự là một thiếu sót. Mục tiêu khi
đầu tư cũng như kinh doanh chứng khoán là để kiếm lợi nhuận. Việc ứng dụng
phương pháp kỹ thuật để phân tích và định giá chứng khoán được chính xác, sẽ
đem lại hiệu quả cho nhà đầu tư từ chuyên nghiệp tới nghiệp dư. Bởi trong quá
trình phân tích kỹ thuật , nhà đầu tư sẽ thấy được xu hướng của thị trường, sức
ép cung cầu trong ngắn và trung hạn, từ đó tìm kiếm thời điểm thích hợp để mua
hay bán cổ phiếu tạo thu nhập.
• Khái niệm phân tích kỹ thuật
Nếu các nhà phân tích cơ bản tìm kiếm thông tin cho phép dự báo giá cổ
phiếu thông qua việc xem xét, nghiên cứu bảng báo cáo tài chính của một doanh
nghiệp (VD: thông tin về cổ tức , lợi nhuận, báo cáo kết quả kinh doanh, bảng
cân đối kế toán…), các đối thủ cạnh tranh, điều kiện môi trường kinh doanh, yếu

tố vĩ mô… nhằm xác định một giá trị hợp lý của một loại cổ phiếu, hoặc các cổ
phiếu trên thị trường nói chung thì phân tích kỹ thuật lại nghiên cứu các biểu đồ,
thống kê và các diễn biến của giá và khối lượng giao dịch trong quá khứ để dự
đoán xu thế giá trong tương lai. Điều này giúp kiểm tra, theo dõi, nhận định về
mức cung và cầu chứng khoán.
Tuy không phủ nhận giá trị của thông tin cơ bản, các chuyên gia vẫn cho
rằng giá cổ phiếu cuối cùng sẽ phù hợp với giá trị cơ bản của chúng, và giá cổ
phiếu biến động có tính chất chu kỳ và theo những chiều hướng nhất định. Số
liệu về giá và quy mô trước đây là những dấu hiệu biến động về giá trong tương
lai. Trước khi những thông tin được phản ánh vào giá cổ phiếu, họ tin rằng có
17
thể khai thác được xu hướng giá cả. Vì vậy, cơ sở lý luận chúng của họ là giá
chứng khoán được quyết định bởi cung và cầu về chứng khoán. Sự đổi hướng
của giá cả có cơ sở là sự chuyển biến từ từ về mức cung cầu. Do đó bằng việc
lập biểu đồ các chỉ số tài chính trong quá khứ như giá cả, khối lượng giao dịch,
chỉ số chung của thị trường chứng khoán thì có thể nhìn nhận về khuynh hướng
chung của giá trong thời gian sắp tới mà không cần biết công ty phát hành sản
xuất gì, làm ăn có lãi hay không…
Như vậy, “Phân tích kỹ thuật (Technical Analysis) là khoa học ghi chép
biểu đồ dưới dạng đồ thị các giao dịch cổ phiếu hoặc nhóm cổ phiếu trong quá
khứ, từ đó vẽ ra bức tranh về xu thế tương lai”.
• Mục tiêu và ý nghĩa của phân tích kỹ thuật
Các nhà đầu tư và các chuyên gia phân tích chứng khoán tiến hành việc
phân tích chứng khoán nói chung hay phân tích kỹ thuật nói riêng nhằm vào
nhiều mục đích khác nhau, nhưng tựu trung cũng không ngoài những mục tiêu
sau:
- Xác định giá trị chứng khoán
- Xác định giá mua và giá bán chứng khoán.
- Xác định các yếu tố để ghép chứng khoán vào danh mục đầu tư.
Các nhà đầu tư sẽ sử dụng các công cụ như biểu đồ giá, các công thức

toán học để đưa ra những phân tích, nhận định về thời điểm mua bán chứng
khoán phù hợp cũng như đưa ra quyết định đầu tư chính xác, khoa học. Từ đó, ta
có thể thấy tầm quan trọng cũng như ý nghĩa của PTKT trong đầu tư chứng
khoán.
1.2.2 Những quy tắc và lý thuyết trong phân tích kỹ thuật
Theo Edward và Magee trong cuốn sách “Phân tích kỹ thuật các xu
hướng chứng khoán”, những nguyên tắc chính sau đây được coi là yếu tố quyết
định trong phân tích kỹ thuật:
- Thị giá các loại chứng khoán được quyết định bởi sự tương tác giữa cung và cầu
các loại chứng khoán đó.
- Mức cung và cầu bị chi phối bởi nhiều yếu tố: kinh tế, chính trị, tâm lý…
18
- Bất chấp những giao động nhỏ trên thị trường, giá cả các loại chứng khoán
thường có xu hướng duy trì ổn định qua một thời gian chấp nhận được (gọi là
thời kỳ lên hay xuống ổn định).
- Các xu hướng biến động giá do dịch chuyển mức cung cầu ấn định.
- Các dịch chuyển cung-cầu, dù xảy ra và biến động như thế nào đi nữa, vẫn có
thể phát hiện bằng cách quan sát những biến đổi của các biểu đồ
- Một số dạng thức biểu đồ có xu hướng tự lặp lại.
1.2.2.1 Lý thuyết Dow (Dow Theory)
Lý thuyết Dow là cơ sở đầu tiên cho mọi nghiên cứu kĩ thuật trên thị
trường chứng khoán. Mặc dù nó thường bị coi là trễ so với thị trường và bị nhiều
người chỉ trích, nhưng nó vẫn nhận được sự quan tâm và tôn trọng nhất định.
Rất nhiều người, dù ít hay nhiều có sử dụng lý thuyết này cho việc đề ra cho
riêng mình một quan điểm đầu tư đều không nhận ra một điều là bản chất của
Lý thuyết Dow là hoàn toàn mang “tính kĩ thuật”.
Cơ sở để xây dựng cũng như đối tượng nghiên cứu của lý thuyết chính là
những biến động của bản thân thị trường (thể hiện trong chỉ số trung bình của thị
trường) và không hề dựa trên cùng cơ sở của Phân tích cơ bản là các thống kê
họat động kinh doanh của doanh nghiệp.

Trước hết, ta cần lưu ý đến chỉ số trung bình của thị trường. Nhìn chung
giá, chứng khoán của tất cả các công ty đều cùng lên và xuống, tuy nhiên một số
cổ phiếu lại chuyển động theo hướng ngược lại xu thế chung của các cổ phiếu
khác cho dù là chỉ trong vài ngày hoặc vài tuần. Thực tế cho thấy khi thị trường
lên giá thì giá của một số chúng khoán tăng nhanh hơn những chứng khoán
khác, còn khi thị trường xuống giá thì một số chứng khoán giảm giá nhanh
chóng trong khi có một số khác lại tăng lên, nhưng thực tế vẫn chứng minh rằng
hầu như tất cả các chứng khoán đều dao động theo cùng một xu thế chung.
Cùng với những cố gắng nghiên cứu của mình, Charles Dow đã đưa ra
khái niệm về “chỉ số giá bình quân” nhằm phản ánh xu thế chung của một số cổ
phiếu đại diện cho thị trường. Hai loại chỉ số bình quân Dow Jones được hình
thành vào năm 1897 và vẫn được sử dụng cho đến ngày nay do Dow tìm ra và
áp dụng trong các nghiên cứu của ông về xu thế chung của thị trường. Một trong
19
hai loại chỉ số ấy là chỉ số của 20 công ty xe lửa, loại còn lại gọi là chỉ số công
nghiệp thuộc các ngành khác bao gồm 12 công ty mạnh nhất vào thời kỳ đó.
Con số này tăng lên 20 công ty vào năm 1916 và đến 1928 là 30 công ty.
• Các nguyên lý cơ bản của lý thuyết Dow
Thuật ngữ thị trường nhằm chỉ giá chúng khoán nói chung, giao động của
thị trường tạo thành các xu thế giá, trong đó, quan trọng nhất là các xu thế cấp 1
(xu thế chính hay xu thế cơ bản)
- Chỉ số bình quân thị trường phản ánh tất cả (trừ hành động của Chúa)
Bởi vì nó phản ánh những hoạt động có liên kết với nhau của hàng nghìn
nhà đầu tư, gồm cả những người có kinh nghiệm dự đoán thị trường giỏi nhất,
có những thông tin tốt nhất về xu hướng và các sự kiện, những gì có thể nhận
thấy trước và tất cả những gì có thể ảnh hưởng đến cung và cầu của các loại
chứng khoán.Thậm chí cả những thiên tai hay thảm họa không dự tính được thì
ngay khi xảy ra, chúng đã được thị trường phản ánh ngay vào giá của các loại
chứng khoán.
- Ba xu thế của thị trường

Thuật ngữ thị trường nhằm chỉ giá chúng khoán nói chung, dao động của
thị trường tạo thành các xu thế giá, trong đó, quan trọng nhất là các xu thế cấp 1
(xu thế chính hay xu thế cơ bản). Đây là những biến động tăng hoặc giảm với
qui mô lớn,thường kéo dài trong một hoặc nhiều năm và gây ra sự tăng hay giảm
đến 20% giá của các cổ phiếu.Chuyển động theo xu thế cấp 1 sẽ bị ngắt quãng
bởi sự xen vào của các dao động cấp 2 theo hướng đối nghịch, gọi là những
phản ứng hay điều chỉnh của thị trường. Những biến động này xuất hiện khi xu
hướng cấp 1 tạm thời vượt quá mức độ hiện tại của bản thân nó (gọi chung các
biến động này là các biến động trung gian - biến động cấp 2). Những biến động
cấp 2 bao gồm những biến động giá nhỏ hay gọi là những biến động hàng ngày
đều không có ý nghĩa quan trọng trong Lý thuyết Dow.
20
- Xu thế cấp 1
Như đã nói đến ở phần trước, xu thế cấp 1 là những chuyển động lớn của
giá, bao hàm cả thị trường, thường kéo dài hơn 1 năm và có thể là trong vài
năm. Nếu như mỗi đợt tăng giá liên tiếp đều đạt đến mức cao hơn mức trước đó
và mỗi điều chỉnh cấp 2 đều dừng lại ở mức đáy cao hơn mức đáy của lần điều
chỉnh trước thì xu thế cấp 1 lúc này là tăng giá - thị trường lúc này là thị trường
đầu cơ giá lên (Bull Market). Còn ngược lại nếu mỗi biến động giảm đều làm
cho giá xuống những mức thấp hơn còn mỗi điều chỉnh đều không đủ mạnh để
làm cho giá tăng lên đến mức đỉnh của những đợt tăng giá trước đó thì xu thế
cấp 1 của thị trường lúc này là giảm giá, thị trường được gọi là thị trường đầu cơ
giá xuống (Bear Market).Thông thường, về lý thuyết thì xu thế cấp 1 chỉ là một
trong 3 loại xu thế mà một nhà đầu tư dài hạn quan tâm. Nhà đầu tư hiểu rằng họ
có thể bỏ qua một cách an toàn tất cả những sự xen vào của các điều chỉnh cấp 2
và các dao động nhỏ vì họ đầu tư dài hạn theo xu thế chính của thị trường. Tuy
nhiên với một nhà đầu tư ngắn hạn thì những biến động của xu thế cấp 2 lại có
vai trò quan trọng bởi họ kiếm lợi nhuận dựa trên những biến động ngắn hạn của
thị trường.
- Xu thế cấp 2

Xu thế cấp 2 là những điều chỉnh có tác động làm gián đoạn quá trình vận
động của giá theo xu thế cấp 1. Chúng là những đợt suy giảm tạm thời (trung
gian) hay còn gọi là những điều chỉnh xuất hiện ở các thị trường giá lên; hoặc
những đợt tăng giá hay còn gọi là hồi phục xuất hiện ở các thị trường giá xuống.
Thường thì những biến động trung gian này kéo dài từ 3 tuần đến nhiều tháng.
Chúng sẽ kéo thị trường ngược lại khoảng 1/3 đến 2/3 mức tăng (hay giảm tùy
loại thị trường) của giá theo xu thế cấp 1. Do đó, chẳng hạn trong thị trường giá
lên, nếu chỉ số giá bình quân công nghiệp tăng liên tục ổn định hoặc có gián
đoạn rất nhỏ và mức tăng đạt đến 30 điểm, khi đó xuất hiện xu thế điều chỉnh
cấp 2, thì người ta có thể trông đợi xu thế điều chỉnh này có thể làm giảm từ 10
đến 20 điểm cho đến khi thị trường lặp lại xu thế tăng cấp 1 ban đầu của nó.
21
Quy tắc giảm 1/3 đến 2/3 không phải là một quy luật không thể phá vỡ
mà nó đơn giản chỉ là một nhận xét về khả năng có thể xảy ra mà hầu hết các
biến động cấp 2 đều bị giới hạn trong mức này. Rất nhiều trong số đó ngừng tác
động ở điểm gần với mức 50% mà rất hiếm khi đạt đến mức 1/3.
Như vậy có 2 tiêu chí để nhận định một xu thế cấp 2: Tất cả những
chuyển động của giá ngược hướng với xu thế cấp 1 kéo dài ít nhất 3 tuần và kéo
hoàn lại ít nhất 1/3 mức biến động thức của xu thế cấp 1 (tính từ điểm kết thúc
biến động cấp 2 trước đó đến biến động cấp 2 này, bỏ qua những giao động nhỏ)
thì được coi là thuộc loại trung gian hay còn gọi là biến động cấp 2. Mặc dù đã
có những tiêu chí để xác định một xu thế cấp 2 nhưng vẫn có những khó khăn
trong việc xác định thời điểm hình thành và thời gian tồn tại của xu thế.
- Xu thế nhỏ (Minor)
Đây là những dao động trong thời gian ngắn (dài tối đa 3 tuần, thường
chỉ dưới 6 ngày) mà theo như thuyết Dow đã nói đến, bản thân chúng không
thực sự có ý nghĩa nhưng chúng góp phần tạo nên các xu thế trung gian. Thông
thường thì một biến động trung gian dù là một xu thế cấp 2 hay là một phần của
xu thế cấp 1 xen giữa hai xu thế cấp 2 liên tiếp đều được tạo thành từ một dãy
gồm 3 hoặc nhiều hơn những dạng nhỏ khác nhau. Xu thế nhỏ là dạng duy nhất

trong 3 loại xu thế có thể bị “lôi kéo” (bị tác động). Để tác động vào xu thế cấp
1 và 2 thì cần những giao dịch với khối lượng rất lớn và điều này hầu như là
không thể.
- Thị trường giá lên
Một xu thế tăng giá cơ bản thường bao gồm 3 thời kì.
 Thời kì đầu tiên là quá trình “tích tụ”.
Trong quá trình này, những nhà đầu tư có tầm nhìn xa sẽ tiến hành xem
xét các doanh nghiệp, có thể vào thời kì này doanh nghiệp đang suy thoái nhưng
nhà đầu tư nhận thấy khả năng doanh ngiệp có thể chuyển biến tình hình thành
tăng trưởng nhanh chóng,có thể giá cổ phiếu của nó sẽ tăng trong thời gian tới.
Đây cũng là thời điểm mà cổ phiếu này đang được chào bán rất nhiều bởi những
nhà đầu tư đang có tâm lý rất chán nản và lo lắng về tình trạng của những cổ
22
phiếu của họ và để nhằm tăng dần giá chào bán của họ khi thị trường xuất hiện
sự suy giảm trong khối lượng giao dịch. Các bản báo cáo tài chính của doanh
nghiệp đó có thể không tốt thậm chí rất tồi. Giới đầu tư hoàn toàn cảm thấy thất
vọng khi tham gia vào thị trường chứng khoán bởi họ thấy tiền đầu tư của họ
đang giảm nhanh chóng và có nguy cơ còn giảm nữa, vì vậy mà họ muốn thoát
ra khỏi thị trường.Tuy nhiên có thể nhận thấy một điều vào cuối giai đoạn thứ
nhất này là trong hoạt động của công ty và trong những biến động trên thị
trường đã có những biến chuyển tuy mới chỉ ở mức hạn chế, bắt đầu xuất hiện
những đợt tăng giá nhỏ.
 Thời kỳ thứ 2 là thời kỳ của sự tăng trưởng khá vững chắc.
Họat động của doanh ngiệp đang theo dõi gia tăng mạnh cùng với những
khởi sắc trong nội bộ doanh nghiệp và doanh thu của nó cũng tăng dần và bắt
đầu thu hút các mối quan tâm trên thị trường.Đây chính là thời kì mang lại nhiều
lợi nhuận cho các nhà kinh doanh chứng khoán theo trường phái phân tích kĩ
thuật.
 Cuối cùng là thời kì thứ 3. Trong thời kì này thị trường sôi sục với những biến
động của nó.

Công chúng rất háo hức với từng biến động của thị trường.Tất cả các
thông tin tài chính của doanh nghiệp đưa ra đều rất tốt, giá chứng khoán tăng
cao ngoài sức tưởng tượng và đang là những vấn đề nóng hổi được đưa lên trang
đầu của các tờ báo ra hàng ngày.Thời điểm này có thể là 2 năm kể từ khi thị
trường bắt đầu đi lên, những người ít kinh nghiệm cho rằng thị trường lúc này
mới chắc chắn cho lợi nhuận của họ và muốn tham gia vào thị trường. Nhưng
thực sự thì sau 2 năm, giá đã tăng khá cao, câu hỏi nên đặt ra vào lúc này là “nên
bán cổ phiếu nào” chứ không còn là “nên mua cổ phiếu nào” nữa.Vào cuối thời
kì thứ 3, người ta có thể thấy nạn đầu cơ tràn lan, khối lượng giao dịch vẫn tiếp
tục tăng những “air-pocket” ( cổ phiếu đột ngột giảm giá) xuất hiện và cũng gia
tăng thường xuyên,số lượng cổ phiếu có giá thấp nhưng không có giá trị đầu tư
cũng gia tăng và cả những đợt phát hành trái phiếu cũng ít dần đi.
- Thị trường giá xuống
23
Xu thế giảm giá của thị trường cũng được chia thành 3 thời kì.
 Thời kỳ đầu tiên là thời kỳ “phân bổ” (thời kỳ này thực sự bắt đầu ở giai đoạn
cuối của thị trường giá lên trước đó).
Trong thời kỳ này những nhà đầu tư có tầm nhìn xa đều nhận thấy rằng
doanh thu của những công ty mà họ đang nắm giữ cổ phiếu đều đang đạt mức
cao không bình thường và họ muốn nhanh chóng thoát khỏi cổ phiếu của các
công ty này. Khối lượng giao dịch vẫn rất cao mặc dù đã có những dấu hiệu của
xu hướng giảm, công chúng vẫn rất “năng động” nhưng cũng bắt đầu có dấu
hiệu lo lắng và cũng không còn nhiều kỳ vọng kiếm lợi nhuận.
 Thời kỳ thứ 2 được gọi là thời kỳ hỗn loạn.
Số lượng người mua bắt đầu giảm dần và những người bán bắt đầu trở
nên vội vã bán đi những cổ phiếu mình đang nắm giữ. Xu thế giảm giá bắt đầu
tăng mạnh làm đồ thị giá gần như dốc thẳng xuống và khối lượng giao dịch đạt
đến mức đỉnh điểm. Giai đoạn này được gọi là hỗn loạn vì sự sụt giảm thường
xảy ra rất trầm trọng thậm chí là thái quá với mức độ vượt quá cả thực trạng của
các doanh nghiệp. Sau giai đoạn hỗn loạn có thể có giai đoạn hồi phục (một

dạng xu thế cấp 2) hoặc một giai đoạn dao động ngang của thị trường (các dao
động không có hướng đi lên hay đi xuống mà là dao động trong một khoảng cố
định theo chiều ngang của thị trường) trong một thời gian tương đối dài. Giai
đoạn này thể hiện tâm lý chán nản của một bộ phận nhà đầu tư,họ cũng chính là
những người đã cố gắng nắm giữ cổ phiếu qua thời kỳ hỗn loạn trước đó hoặc
cũng có thể là những người đã mua cổ phiếu trong thời kỳ đó bởi vì lúc đó giá
của cổ phiếu rõ ràng là rẻ hơn rất nhiều so với trước đó vài tháng. Thông tin về
các doanh nghiệp ngày càng xấu đi. Kết thúc giai đoạn này mới bước vào thời
kỳ thứ 3.
 Thời kỳ thứ 3, xu thế đi xuống trên thị trường đã yếu dần
Tuy nhiên, thị trương được duy trì bởi những lệnh bán nhiều và liên tục,
thể hiện “nỗi buồn” và sự lo lắng của những nhà đầu tư đang rất cần tiền cho
những nhu cầu riêng của họ. Các cổ phiếu đều giảm đến mức thấp nhất, thậm
chí gần như mất hoàn toàn giá trị. Những cổ phiếu có chất lượng cao hầu như
24
không được giao dịch vì những người sở hữu chúng đều muốn nắm giữ đến
cùng. Ở giai đoạn cuối của thị trường giá xuống, như một kết quả của toàn bộ
thời kỳ giảm giá trước,cả thị trường chỉ tập trung vào giao dịch một số loại cổ
phiếu. Thị trường giá xuống kết thúc tất cả với những tin xấu về các doanh
nghiệp, thị trường ở mức có thể coi là tồi tệ nhất đã thể hiện ra.
- Hai đường chỉ số bình quân của thị trường phải cùng xác nhận xu thế của thị
trường
Đây là câu hỏi thường xuyên đặt ra nhất và cũng khó giải thích nhất đối
với hệ thống các nguyên lý của lý thuyết Dow.Tuy nhiên từ khi được đưa ra cho
đến nay nó đã được thời gian chứng minh tính đúng đắn và vẫn được vận dụng
cho đến ngày nay và bất kì một ai khi xem xét những số liệu ghi lại thì đều
không thể có ý kiến phản đối với nguyên lý này.Còn với những người ít quan
tâm hay bỏ qua nguyên lý này thì trong thực tế kinh doanh sẽ phải xem xét lại.
Điều nguyên lý này muốn nói đến đó là không thể có một dấu hiệu chính xác
nào về sự thay đổi xu thế thị trường có thể được ra chỉ thông qua xem xét biến

động của duy nhất một loại chỉ số bình quân
Hình 1.2.2.1: Chỉ số bình quân biểu thị trên thị trường.
Chỉ số bình quân bên dưới chỉ ra thị trường đi xuống. Chỉ số bình quân
phía trên chỉ ra thị trường đi lên. Như vậy thị trường vẫn sẽ đi xuống do cả hai
Chỉ số bình quân biểu thị thị
trường đi xuống
Chỉ số bình quân biểu thị
thị !rường đi lên.
25
không cùng xác nhận một sự đảo chiều trong xu thế hiện tại của thị trường. Chỉ
khi nào cả chỉ số bình quân cũng chỉ ra là thị trường đang có xu thế đi lên thì ta
mới xác nhận một dấu hiệu về sự đổi chiều của xu thế chính. Trong hình vẽ
1.2.2.1 , trừ khi có một biến động nào khác nếu không chỉ duy nhất chỉ số bình
quân bên dưới sẽ không thể chuyển hướng chung của thị trường thậm chí còn bị
kéo xuống. Xu thế cấp 1 của thị trường vẫn chưa rõ ràng. Đây là một ví dụ áp
dụng nguyên lý về sự xác nhận. Không cần thiết cả hai chỉ số bình quân phải
cùng xác nhận vào 1 ngày. Thường thì cả 2 chỉ số này sẽ cùng chuyển động đến
cùng 1 khoảng đỉnh hoặc đáy mới. Tuy nhiên có nhiều trường hợp mà một trong
hai chỉ số trễ hơn chỉ số kia vài ngày, vài tuần thậm chí một tới hai tháng. Trong
những tình huống như vậy, nhà đầu tư phải kiên nhẫn và đợi cho đến khi thị
trường thật sự thể hiện ra bản chất của nó.
- Khối lượng giao dịch áp dụng kèm với xu thế thị trường
Điều này thể hiện một thực tế là khi giá biến động theo đúng xu thế cấp 1
thì các họat động kinh doanh trên có xu hướng mở rộng hơn. Do vậy, với thị
trường giá lên, khối lượng giao dịch sẽ tăng nếu giá tăng,và sẽ giảm nếu giá
giảm; với thị trường giá xuống, giá trị giao dịch sẽ tăng nếu giá giảm và ít khi
giá có dấu hiệu phục hồi. Điều này vẫn đúng ở mức độ thấp hơn tức là với
những xu thế cấp 2, đặc biệt là trong giai đoạn đầu của một xu thế hồi phục cấp
2 trong một thị trường giá xuống, khi mà các diễn biến của thị trường chỉ ra rằng
giá sé tăng lên theo một số đợt tăng giá nhỏ, còn các biến động kéo giá xuống

giảm đi. Các kết luận ở đây thường không có giá trị nếu chỉ dựa trên diễn biến
trong vài ngày và càng không có giá trị với những kết luận dựa trên một phiên
giao dịch đơn lẻ. Nguyên lý này chỉ phát huy hiệu quả nếu dựa trên những diễn
biến của khối lượng giao dịch chung trong thời gian giao dịch tương đối dài .
Hơn nữa, theo Lý thuyết Dow thì chỉ dựa trên những phân tích về giá mới có thể
đưa ra được những dấu hiệu mang tính quyết định về xu thế thị trường,ccòn khối
lượng giao dịch chỉ có thể cung cấp thêm những chứng cứ phụ để giải thích rõ
hơn biến động của thị trường và sử dụng vào những tình huống khi dấu hiệu
chính có những dấu hiệu chưa chắc chắn.

×