Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Phật giáo du nhập vào Việt Nam và những ảnh hưởng của triết học Phật giáo đến Việt Nam qua các thời kỳ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.77 KB, 16 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Lời nói đầu
ó thể nói thế kỷ 20 là thế kỷ của những chuyển đổi xã hội quan trọng trong lịch
sử nhân loại. Ngay từ đầu thế kỷ, từ một xã hội công nghiệp, kéo dài không đến
vài thập kỷ, loài ngời lại bắt đầu cho một xã hội với một kỷ nguyên mới " kỷ nguyên
thông tin". Và thật nhanh chóng nó đã tiếp tục chuyển sang giai đoạn mới, giai đoạn
"xã hội nhanh". Thực chất đây là xã hội thông tin hoá cao trong đó công nghệ thông
tin bao gồm hai lĩnh vực tin học và viễn thông đóng vai trò chủ đạo cho sự phát triển
xã hội mà nguồn lực chủ đạo chung là tri thức và khả năng sáng tạo tởng tợng. Một
vài thế kỷ tởng chừng nh rất chậm chạp nhng với sự phát triển mạnh mẽ của trí tuệ và
công nghệ của nhân loại nh ngày nay thì thế kỷ 21 sẽ là thế kỷ gì ? Xã hội tiếp theo
là... ? Chúng ta đã bắt đầu bớc sang thế kỷ 21 và theo dự báo của nhiều nhà khoa
học thì đây sẽ là thế kỷ của nền văn minh tôn giáo.
C
Dù nhận định trên có đúng hay không, song trong thực tế nhân loại từ trớc đến
nay vẫn duy trì và nâng niu những tinh hoa của những giáo lý có từ cổ xa trong đó có
giáo lý của Phật giáo. Giáo lý của Phật giáo rất đồ sộ, theo các đệ tử của Phật giáo
gọi là ba tạng ( Tam Tạng Kinh) gồm: bộ Kinh, bộ Luật, bộ Luận ( Tạng Kinh, Tạng
Luật, Tạng Luận). Trong Tam Tạng Kinh, đạo Phật nói chung, Thích Ca Mâu Ni -
giáo chủ nói riêng- đề cập tới những chân lý và những sự kiện mà tất cả mọi ngời đều
có thể chiêm nghiệm thông qua kinh nghiệm của bản thân. Đạo Phật không truyền
dạy những lý thuyết triết học có tính chất cách mạng cũng không có ý định sáng tác
ra một nền khoa học mà chỉ giải thích những gì có ở bên trong và cái gì có ngay bên
ngoài mỗi một con ngời có liên quan đến sự giải thoát ra khỏi cảnh đau khổ của kiếp
ngời và vạch ra con đờng giải thoát. Mặt khác đạo Phật lại không lấy giáo lý làm
trọng, chỉ coi đó là phơng tiện đến chân lý cuối cùng. Cái cốt của đạo Phật là sự thực
hành của mỗi cá nhân để đạt tới sự tự chứng, sự giác ngộ. Do vậy đạo Phật sâu rộng
vô cùng, không thể lấy cái tri thức và cái phép suy luận ra mà bàn luận cho rõ đợc.
Chữ Phật là tiếng gọi tắt của từ Hán Việt: Phật Đà, từ này cũng dịch từ tiếng Phạn
( Boudha). Phật hay Boudha nếu diễn dịch ra, lấy nghĩa chân đế là cái nghĩa chân
thực tuyệt đối mà xem xét thì Phật hoàn toàn nh không, không sinh, không diệt,


không tởng, không khởi, không hoại, không lu chuyển, không chỉ tức, không thành,
tính không dự tính, không đoạn tận, là không độc nhất vô nhị trong vũ trụ... Cái tính
chất đó của Phật thờng gọi là pháp thân. Pháp thân là phần sáng tỏ kỳ tình mọi vật
nhờ đó mà có, rồi chung quy lại quay về nó. Nhng theo cái nghĩa chân đế này chỉ có
một Phật chứ không có hai. Nhng xét về mặt đời thờng con ngời luôn nhìn vào sự
biến đổi thì lại coi Phật là cái danh hiệu để chỉ những bậc có trí tuệ cực kỳ minh triết
siêu phàm, có thể hiểu thấu hết mọi sự diễn biến trong vũ trụ. Những bậc ấy chứng đ-
ợc cái pháp thân chân thực vợt ra ngoài vòng diễn biến, biến hoá sau đó đem dự biết
1
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
của mình để tuyên truyền cho chúng sinh thoát ra khỏi cái vòng luân chuyển sinh tử
đó.
Ba tạng kinh điển Phật giáo với hàng vạn quyển nhng có hai vấn đề cơ bản và
quan trọng nhất gồm: 4 chân lý giải thích về kiếp sống sinh, trụ, dị, diệt và 12 nhân
duyên giải thích sự tơng quan sinh tồn qua kiếp sống của con ngời nói riêng và các
giai đoạn thành, trụ, hoại, không của muôn vật nói chung ( theo phạm trù triết học
còn gọi là vấn đề nhân sinh và vũ trụ ) đã sớm du nhập vào Việt Nam và có những
ảnh hởng không nhỏ đến văn hoá, kinh tế, chính trị Việt Nam trong nhiều thế kỷ qua.
Không những thế Phật giáo khi du nhập vào Việt Nam đã đợc ngời dân bản xứ tiếp
nhận tự nhiên và khi hoà nhập đã tạo thành một bản sắc rất riêng cho tôn giáo ở Việt
Nam.
Bố cục bài viết nh sau:
Lời nói đầu
Phần I. Những hiểu biết chung về Phật giáo
I. Sự ra đời và sự phát triển của Phật giáo
2. Vài nét về ngời sáng lập ra đạo Phật
3. Con đờng truyền đi của đạo Phật
II. Nội dung của đạo Phật
1. Khổ đế
2. Nhân đế hay tập đế

3. Diệt đế
4. Đạo đế
Phần II. Phật giáo du nhập vào Việt Nam và những ảnh hởng của triết học Phật
giáo đến Việt Nam qua các thời kỳ
I. Sự du nhập của Phật giáo vào Việt Nam
1. Bối cảnh lịch sử
2. Nguồn gốc trung tâm Phật giáo Luy Lâu
II. Những ảnh hởng của triết học Phật giáo đến Việt Nam qua các thời kỳ
1. Hai thế kỷ đầu Tây lịch
2.Phật giáo trong các triều đại Việt Nam
Phần III. Kết luận
2
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Phần I:
Những hiểu biết chung về Phật giáo
I. Sự ra đời và phát triển của Phật giáo
1. Phật giáo ra đời
Trong lịch sử triết học của ấn Độ, mà thực chất là lịch sử phát triển của các hệ
t tởng triết học xen lẫn với tôn giáo, có một thời kỳ là thời kỳ Bàlamôn giáo, Phật
giáo ( từ thế kỷ VI trớc công nguyên đến thế kỷ thứ VI sau công nguyên).
ở thời kỳ này, mặc dù nền kinh tế đã phát triển hơn trớc, nhng nó vẫn bị kìm
hãm bởi tính chất tổ chức kiên cố của công xã nông thôn, bởi sự phân chia đẳng cấp
khắc nghiệt và sự thống trị của nhà nớc trung ơng tập quyền.
Trong lĩnh vực đời sống tinh thần của xã hội, các trào lu triết học, mà thực
chất là các hệ t tởng của các tầng lớp khác nhau trong xã hội, xuất hiện đa dạng nhng
chia thành hai hệ thống chính đối lập nhau: chính thống và không chính thống. Hệ t
tởng chính thống với thế giới quan duy tâm, tôn giáo của kinh Veda và giáo lý
Bàlamôn trở thành hệ t tởng của giai cấp thống trị. Nhng hệ t tởng không chính thống
với đạo Phật, đạo Jaina và phong trào đòi tự do t tởng, đòi bình đẳng xã hội ở vùng
Đông ấn lại ăn sâu vào mọi tầng lớp nhân dân.

Đạo Phật đã hình thành ở ấn Độ vào khoảng thế kỷ thứ VI trớc công nguyên,
ngời sáng lập là thái tử Sidharta ( Tất Đạt Đa) ( Cồ - đăm), với t cách là một trong
những hệ t tởng tiên phong chống phân chia giai cấp, kì thị màu da và đồng cảm với
nỗi khổ của nhân dân ấn Độ nói riêng, với con ngời nói chung.
2. Vài nét về ngời sáng lập đạo Phật:
Thái tử Tất Đạt Đa ( Sidharta) là con vua Tịnh Phạn ( Sudhodana) nớc Ca Tỳ
La Vệ ( Kapila vastu). Truyền kể vào năm 624 trớc công nguyên, hoàng hậu MaDa
(Maya) sinh hạ một hoàng tử tuấn tú tại vờn ngự uyển Lâm Tỳ Ni (Lumbini) dới gốc
cây Ưu Bát La, thờng gọi là cây Vô Ưu ( asokaa) có hoa với sắc màu rực rỡ. Thái tử
sinh vào ngày trăng tròn tháng Vésaka, nhằm ngày rằm tháng t âm lịch và đợc đặt
tên là Tất Đạt Đa. Lớn lên, thái tử văn võ toàn tài, vợ là công chúa Da Du Đà La
( Yasodava) con vua Thiện Giác, cuộc sống rất đầy đủ, sung sớng.
Nhng những điều mắt thấy tai nghe về những nỗi đau khổ của con ngời đã ám
ảnh tâm t thái tử. Một ngày kia, thái tử ra đi, tơng truyền ngài đến dòng A Nô Ma cắt
tóc làm đạo sĩ. Ngài rủ năm ngời đến vùng Uruvela tu khổ hạnh trong 6 năm. Nhng
sau 6 năm học đạo và khổ hạnh, thái tử thấy kẻ hởng lạc sẽ bê tha thối nát, còn tu
hành khổ hạnh chỉ chuốc thêm khổ thân, chỉ có con đờng trung đạo mới mong thành
chính quả. Bởi thế, Thái tử đã bỏ 5 anh em ông Kiều Trần Nh, dùng bát sữa của mục
nữ Tu Xá Đề ( Sajata), xuống sông Ni Liên tắm rửa, rồi lên thiền quán dới gốc cây
pipal ( cây Tất Bát La, xứ Ba La Nại) lớn và ngồi dới gốc cây suy nghĩ. Tơng truyền
3
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
là qua 49 ngày, ngài đã chứng tam minh tức là Túc mạng minh, Thiên nhân minh và
Lậu tận minh, thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni, năm 36 tuổi. Gốc cây chỗ ngài
ngồi gọi là Bồ đề đạo dỡng ( Bodhimanda) hay Kim cơng toạ ( Vadjrasana).
Sau đó, ngài tìm 5 ngời bạn trớc đây, giác ngộ cho họ, rồi cùng họ trong suốt
40 năm còn lại của cuộc đời đi truyền bá t tởng của mình. Có những câu chuyện đã
thành huyền thoại về Phật nh Phật đã dừng chân bên vệ đờng xâu kim cho bà già mù
loà, săn sóc, dọn dẹp ô uế cho ngời bệnh, nhận cơm thừa của một tiện nữ dâng
cúng... Từ những việc nhỏ nhất, tất cả đều thể hiện lòng từ bi bác ái của Ngài và đạo

của Ngài.
3. Con đờng truyền đi của đạo Phật
Sau Phật Niết bàn, các đệ tử Phật kiết tập 4 lần. Qua cuộc kiết tập lần thứ hai,
do quan điểm bất đồng, Phật giáo chia thành hai phái: Thợng toạ bộ và Đại chúng bộ.
Thợng toạ bộ chủ trơng bảo thủ y nguyên Phật giáo ban đầu, đọc kinh bằng tiếng
Pali. Đại chúng bộ có t tởng cấp tiến, phóng khoáng đọc kinh bằng tiếng Sanskrit.
Dị biệt tiếp tục phát triển, về sau giáo đoàn Phật giáo cho làm hai hệ là Nam
truyền và Bắc truyền. Thợng toạ bộ chi phối Nam ấn và Phật giáo Nam truyền liên
tục hng thịnh. Đại chúng bộ chi phối Bắc ấn, nhng mãi đến thời Bồ Tát Mã Minh
( Asvaghosha) 5 thế kỷ sau Phật niết bàn, mới mở màn hng thịnh và sáng rỡ nhất là
thời kỳ Bồ Tát Long Thọ ( Nagarjuna) đầu thế kỷ II sau công nguyên.
Phật giáo Nam truyền lan đến các nớc phía Nam ấn: Tích Lan, Thái Lan,
Miến Điện, Lào, Campuchia và đa số trở thành quốc giáo. Phật giáo Bắc truyền lan
đến các vùng phía Bắc ấn ( Tây Tạng, Trung Quốc, Nhật Bản... ) mà mỗi nớc lại có
màu sắc riêng. Trung Hoa đã làm cho Phật giáo Bắc truyền thêm rực sáng. Sau này
còn gọi Phật giáo Nam truyền là Phật giáo Tiểu Thừa, còn Phật giáo Bắc truyền là
Phật giáo Đại Thừa.
Với hai con đờng thuỷ và bộ Phật giáo cũng vào Việt Nam những thế kỷ đầu
công nguyên.
II. Nội dung của đạo Phật
Thực chất của đạo Phật là một học thuyết về "nỗi khổ " và sự giải thoát. Cốt
lõi của học thuyết này là " Tứ diệu đế " ( bốn chân lý kì diệu ) hay " Tứ thánh đế "
(bốn chân lý thánh ):
- Khổ đế
- Nhân đế hay Tập đế
- Diệt đế
- Đạo đế
1. Khổ đế
Khổ đế là chân lý về bản chất của nỗi khổ.
4

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Nỗi khổ là gì ? Giáo lý đạo Phật nói khổ có khổ khổ, hoại khổ và hành khổ.
Cụ thể là khổ gồm có tám thứ: sinh. già, bệnh, ân ái chia lìa ( thụ biệt ly), oan thù
gặp gỡ ( oán tăng hội), cầu không đợc ( sở cầu bất đắc) và năm ấm không điều hoà
( thụ ngũ uẩn ).
2. Nhân đế hay Tập đế
Tập đế là chân lý về nguyên nhân của nỗi khổ.
Khổ là do đâu? Phật giáo cho rằng nguyên nhân trực tiếp dẫn đến nỗi khổ đau
của con ngời là do lòng tham, sân si, vô độ. Không có cái gì là ta, của ta, nên con ng-
ời khát ái, tham dục, hành động để chiếm đoạt để thoả mãn những ham muốn, dục
vọng đó. Chính những hành động chiếm đoạt ấy dẫn đến sự khổ ải, gây nên nghiệp
báo, đẩy con ngời vào bể khổ triền miên.
Giải thích cụ thể các căn nguyên ấy, Phật nên ra thuyết " Thập nhị nhân duyên
", tức 12 nguyên nhân dẫn đến khổ:
(1) Vô minh ( avidya) là không sáng suốt, ngu tối nên thế giới là ảo, là giả mà
lại cho là thực.
(2) Hành ( Samskara) là ý muốn thúc đẩy hoạt động .
(3) Thức ( Vijnana) là nhận thức, phân biệt cái tâm trong sáng cân bằng với cái
tâm không trong sáng, mất cân bằng.
(4) Danh - Sắc ( Namarupa) là sự thống nhất, kết hợp các vật chất ( sắc) và các
tinh thần ( danh). Đối với các loại hình thì sự phối hợp Danh - Sắc sẽ sinh ra 6 cơ
quan cảm giác: mắt ( nhãn cầu), tai ( nhĩ căn), mũi ( tỵ căn), lỡi ( thiệt căn), thân thể
( thân căn) và ý thức ( ý căn).
(5) Lục nhập ( Sadayatana) là quá trình xâm nhập của thế giới xung quanh của
lục trần ( sắc, thanh, hơng, vị, xúc, pháp ) và các giác quan.
(6) Xúc ( Sparsa) là sự tiếp xúc, phối hợp giữa lục căn với lục trần, hay là giữa
các giác quan với thế giới bên ngoài.
(7) Thụ ( Vedana) là sự cảm thụ, nhận thức trớc sự tác động của thế giới bên
ngoài.
(8) ái ( Trsna) là sự yêu thích mà nảy sinh ham muốn dục vọng do cảm thụ

thế giới bên ngoài.
(9) Thủ ( Upadana) là giữ lấy, chiếm đoạt cái mà mình ham muốn, yêu thích.
(10) Hữu ( Bhava) là sự tồn tại để tận hởng cái đã chiếm đợc.
(11) Sinh ( Jati) là sự ra đời, sinh thành do phải tồn tại.
(12) Lão tử ( Jaramarana) già và chết do có sự sinh thành.
Đó là 12 nguyên nhân tạo ra các vòng luẩn quẩn của nỗi khổ đau của con ng-
ời, trong đó " vô minh" ( không hiểu lẽ tử sinh là nguyên nhân trớc hết, cần diệt trừ.
3. Diệt đế
5
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Diệt đế là chân lý về cảnh giới diệt khổ.
Nỗi khổ sẽ đợc tiêu diệt nếu nguyên nhân gây ra khổ bị loại trừ. Sự tiêu diệt
khổ đau đợc gọi là niết bàn. Niết bàn là thế giới của sự giác ngộ và giải thoát.
4. Đạo đế
Đạo đế là chân lý chỉ ra con đờng diệt khổ.
Làm thế nào để diệt khổ ? Phật đã vạch ra rằng đó là con đờng tu luyện, suy t,
chiêm nghiệm nội tâm, thực nghiệm tâm linh theo phơng và hớng chủ yếu gọi là Bát
chính đạo. Nói rõ ràng hơn, Bát chính đạo chính là con đờng tu luyện đạo đức
( giới ), t tởng ( định ) và khai sáng trí tuệ ( tuệ ).
Bát chính đạo đó là:
(1) Chính kiên ( Samyak - Dristi) là hiểu biết đúng đắn từ diệu đế.
(2) Chính t duy ( Samyak - Samkalpa) là suy nghĩ đúng đắn.
(3) Chính ngữ (Samyak - Vaca) là nói năng phải đúng đắn.
(4) Chính nghiệp (Samyak - Karmata) giữ nghiệp một cách đúng đắn, không
làm việc xấu, độc ác.
(5) Chính mệnh (Samyak - Ajiva) giữ ngăn dục vọng một cách đúng đắn.
(6) Chính tịnh tiến (Samayak - Vyayama) là cố gắng nỗ lực đúng hớng, không
biết mệt mỏi.
(7) Chính niệm (Samayak - Suritisati) là luôn tâm niệm, tin tởng vững chắc
vào sự giải thoát.

(8) Chính định (Samayak - Samadhi) là kiên định, tập trung t tởng cao độ vào
một chỗ.
Trong 8 con đờng giải thoát đó, thì chính kiến và chính t duy thuộc về Tuệ
( Panna); chính ngữ, chính nghiệp, chính mệnh thuộc về Giới ( Sila); chính tịnh tiến,
chính niệm, chính định thuộc về Định ( Samadhi).
Với nội dung nh vậy, đạo Phật đã nêu lên nỗi khát vọng giải thoát con ngời
khỏi những bi kịch của cuộc đời, khuyên con ngời sống lơng thiện, từ bi, bác ái.
Chính vì thế mà ngay từ đầu, học thuyết của Phật giáo đã đi sâu vào lòng ngời,
truyền bá một cách nhanh chóng và rộng rãi không chỉ ở ấn Độ mà còn tới nhiều dân
tộc khác, trong đó có Việt Nam.
Phần II.
6
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Phật giáo du nhập vào Việt Nam và những ảnh h-
ởng của triết học Phật giáo đến Việt Nam qua các
thời kỳ
I. Sự du nhập của Phật giáo vào Việt Nam
1. Bối cảnh Việt Nam
Nớc Việt Nam có hình thể chữ S, thuộc bán đảo Đông Dơng, thờng gọi là ấn
Độ Chi Na. Việt Nam chiếm vị thế bảy phần mời bán đảo Đông Dơng, tiếp giáp với
biển Trung Quốc và vịnh Bengale, đợc cấu thành bởi các dãy núi chạy từ Tây Tạng
đến phía Đông và xoè ra biển nh hình rẻ quạt. Giữa các rặng núi là những thung
lũng, tạo thành các miền cao nguyên, bình nguyên và các dòng sông lớn. Sông
Menam tạo thành đồng bằng Thái Lan, sông Mekong tạo thành đồng bằng
Campuchia và Nam Việt Nam, sông Hồng tạo thành đồng bằng Bắc Việt Nam. Địa
thế Việt Nam còn nằm giữa hai lục địa lớn và đông dân nhất thế giới là Trung Quốc
và ấn Độ. Hai quốc gia lớn này cũng đã có nền văn hoá rất sớm đối với nhân loại.
Việt Nam do ở địa thế nh vậy nên chịu rất nhiều ảnh hởng của hai nền văn minh đó.
Theo các nhà sử học, dân tộc Việt Nam đợc hình thành có những thuyết sau:
a- Tổ tiên Việt Nam gốc ở Tây Tạng.Vì đời sống, một bộ lạc theo lu vực sông

Hồng, dần hồi tràn xuống Trung Châu Bắc Việt.
b- Theo Aurousseau, tổ tiên Việt Nam là ngời nớc Việt, miền hạ lu sông Dơng
Tử, bị ngời nớc Sở (đời Xuân Thu) đánh đuổi. Để lánh nạn, ngời Việt chạy về phía
Nam, miền Quảng Đông, Quảng Tây, rồi từ từ đến Bắc Việt và Bắc Trung Việt. Từ
đó, cho biết xa kia địa thế Việt Nam có thể bao gồm Quảng Đông, Quảng Tây đến
Bắc Trung Việt. Cũng từ đó, ngời Việt có truyền thống nam tiến, giống loài chim
Việt lúc nào cũng sống theo hớng mặt trời. Mùa đông, chim bay xuống phía Nam để
đợc sởi nắng ấm, tránh lạnh lẽo ở phơng Bắc.
c- Theo các nhà nhân chủng học, thời thợng cổ, giống ngời Indonesian bị
giống dân Aryan đánh đuổi, bỏ ấn Độ chạy đến bán đảo ấn Độ Chi Na. Số ngời tràn
về phía Nam lập thành nớc Campuchia, Chiêm Thành, theo văn hoá ấn Độ. Còn số
ngời ở phía Bắc kết hợp với giống Mông Cổ trở thành ngời Việt Nam.
d- Theo các nhà dân tộc học, Việt Nam ở giữa khu vực nối liền ấn Độ Dơng
và Thái Bình Dơng, chịu ảnh hởng hai nền văn hoá cổ nhất là ấn Độ và Trung
Quốc... Vì thế, Việt Nam là vùng qui tụ thành phần dân tộc khác nhau với 8 nhóm
ngôn ngữ nh: Mờng, Thái, Dao, Miến, Khmer, Hán, Chàm, Nam á... Nhng thành
phần ngời Việt (Kinh ) chiếm phần lớn, có u thế hơn, cùng nói một thứ tiếng, hình
thành một cộng đồng dân tộc chung cội nguồn để dựng nớc và giữ nớc.
2. Nguồn gốc trung tâm Phật giáo Luy Lâu
Luy Lâu là kinh đô của Giao Chỉ, ở trung tâm đồng bằng sông Hồng, thuộc
huyện Thuận Thành, tỉnh Hà Bắc, Việt Nam. Xa còn gọi Luy Lâu là Dâu. Luy Lâu là
7

×