BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
NGUYỄN THỊ THƠM
NHÂN VẬT TRẺ THƠ TRONG TRUYỆN
CỔ TÍCH VÀ Ý NGHĨA GIÁO DỤC ĐỐI
VỚI HỌC SINH TIỂU HỌC
Chuyên ngành: Giáo dục học Bậc Tiểu học
Mã số: 60 14 01 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THỊ NHÀN
HÀ NỘI, 2013
LỜI CẢM ƠN
Luận văn này được hoàn thành tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2,
đưới sự hướng dẫn của TS. Nguyễn Thị Nhàn.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Nguyễn Thị Nhàn, người đã
luôn quan tâm, động viên và tận tình hướng dẫn tôi trong quá trình thực hiện
luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, các thầy cô giáo và Phòng
Sau Đại học của Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã giúp đỡ và tạo điều
kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Hà Nội, ngày tháng năm 2013
Tác giả
Nguyễn Thị Thơm
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản thân tôi, chưa từng
được công bố ở bất cứ tài liệu nào khác. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách
nhiệm.
Hà Nội, ngày tháng năm 2013
Tác giả
Nguyễn Thị Thơm
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Giới thuyết về truyện cổ tích 10
1.1.1. Khái niệm 10
1.1.2. Đặc điểm thể loại của truyện cổ tích 13
1.1.3. Phân loại truyện cổ tích 20
1.2. Truyện cổ tích về nhân vật trẻ thơ (Trong kho tàng cổ tích của
Nguyễn Đổng Chi và Nguyễn Cừ) 26
1.2.1. Thống Kê 26
1.2.2. Nhận xét chung 27
Chương 2. THẾ GIỚI TRẺ THƠ TRONG TRUYỆN CỔ TÍCH CỦA
NGUYỄN ĐỔNG CHI VÀ NGUYỄN CỪ
2.1. Phân loại nhân vật trẻ thơ 30
2.1.1. Cơ sở phân loại 30
2.1.2. Phân loại nhân vật trẻ thơ 33
2.2. Đặc điểm nhân vật trẻ thơ trong truyện cổ tích 34
2.2.1. Hoàn cảnh xuất thân của nhân vật trẻ thơ 34 2.2.2. Phẩm chất của nhân vật 36
2.2.3. Cuộc đời, số phận của nhân vật 42
2.3. Nghệ thuật thể hiện nhân vật trẻ thơ 48
2.3.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trẻ thơ trong mối quan hệ với hoàn
cảnh 48
2.3.2. Nghệ thuật khắc họa nhân vật qua hành động 52
2.3.3. Nghệ thuật sắp xếp, gắn kết nhân vật 55
Chương 3. HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT TRẺ THƠ TRONG
TRUYỆN CỔ TÍCH Ở SÁCH TIẾNG VIỆT TIỂU HỌC VÀ Ý
NGHĨA GIÁO DỤC ĐỐI VỚI HỌC SINH
3.1. Truyện cổ tích về nhân vật trẻ thơ trong chương trình Tiểu học 59
3.1.1. Thống kê 59
3.1.2. Nhận xét 63
3.2. Ý nghĩa giáo dục đối với học sinh Tiểu học, thông qua việc dạy các
phân môn có truyện cổ tích về nhân vật trẻ thơ 66
3.2.1. Giáo dục nhận thức 67
3.2.2. Giáo dục, bồi dưỡng năng lực văn – Tiếng Việt 75
3.2.3. Giáo dục đạo đức 82
3.2.4. Giáo dục thẩm mỹ 85
KẾT LUẬN 89
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 92
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1. Cùng các thể loại văn học dân gian khác, truyện cổ tích là di sản tinh
thần vô giá của cha ông để lại. Đằng sau những lời kể giản dị là những cuộc
đời, những số phận, những chuyện buồn vui của cuộc đời. Đến với cổ tích ta
còn gặp những ước mơ khát vọng của con người về một cuộc sống tốt đẹp
hơn. Gần gũi chân thực và cũng giàu chất thơ, cổ tích dắt ta đi giữa đôi bờ hư
thực. Con người được an ủi động viên vượt qua những trắc trở, khó khăn để
kiên trì vượt lên trong cuộc sống Những điều như thế khiến cổ tích là người
bạn đường của nhân dân xưa và nay.
Nghệ sĩ dân gian sử dụng phương thức hư cấu những yếu tố thần kì để
kiến tạo nên một thế giới cổ tích với bao điều kì diệu, bao niềm thương cảm.
Học sinh Tiểu học được các nhà tâm lí học gọi bằng một cái tên khác đầy ý
nghĩa: “lứa tuổi cổ tích”. Ở lứa tuổi này, các em nhìn đời bằng đôi mắt trong
trẻo và tin cậy. Các em “suy nghĩ bằng hình ảnh”, sống với thế giới của cái
đẹp. Trẻ cũng rất ưa thích sự phiêu lưu để khám phá và ngạc nhiên trước
những bí mật của xung quanh. Tất cả những điều đó đã đưa các em đến gần
với cổ tích. Chính vì thế mà V.A Xukhômlinxki - nhà giáo dục nổi tiếng
người Nga đã cho rằng: “Truyện cổ tích là môi trường nuôi dưỡng tâm hồn
trẻ, là ngọn gió tươi mát thổi bùng ngọn lửa tư duy và ngôn ngữ của trẻ”. Quả
thực, rất khó tìm thấy một thế giới tràn đầy cái đẹp, những biểu tượng đượm
màu sắc huyền thoại như trong truyện cổ tích. Đến với cổ tích chính là cơ hội
cho trẻ nuôi dưỡng, phát triển cảm xúc thẩm mĩ và phát huy trí tưởng tượng.
Như thế chính là trẻ đã được phát triển về mặt tâm hồn - một trong hai mục
đích chính của giáo dục trẻ ở bậc Tiểu học.
2
2. Trong thế giới cổ tích có những nhân vật, những con người thuộc
những tầng lớp người khác nhau, những lứa tuổi khác nhau. Nhân vật trẻ thơ
đã có mặt trong những lời kể dân gian. Các em cũng tham gia vào đời sống
xã hội.
Trong sách Tiếng Việt bậc Tiểu học, truyện cổ tích chủ yếu có mặt
trong phân môn Tập đọc và Kể chuyện. Cùng với sự thay đổi chương trình
sách giáo khoa theo quan điểm tích hợp, phân môn Tập đọc và Kể chuyện đã
gắn kết chặt chẽ với nhau. Truyện cổ tích đã được người biên soạn triển khai
theo một hệ thống. Có thể nói, đây là những tác phẩm, những bài học cụ thể
sinh động gắn liền với đặc điểm tâm sinh lý, đặc điểm nhận thức của trẻ thơ.
Hơn thế nữa, những bài học ấy có tác dụng to lớn trong việc giáo dục nhân
cách và nhận thức của học sinh.
Xuất phát từ thực tế ấy, sách Tiếng Việt Tiểu học đã bố trí “văn bản”
truyện cổ tích từ lớp 1 đến lớp 5 và được dạy học trong các phân môn: Tập
đọc và Kể chuyện. Điều đó chứng tỏ vị trí của mảng sáng tác này. Và dĩ
nhiên, trong các truyện cổ tích góp mặt trên trang sách Tiếng Việt có những
lời kể về nhân vật trẻ thơ.
Với những lý do như trên, chúng tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Nhân
vật trẻ thơ trong truyện cổ tích và ý nghĩa giáo dục đối với học sinh Tiểu
học”.
2. Lịch sử vấn đề
Với sự tiếp cận hạn hẹp của mình, trong phần Lịch sử vấn đề này,
chúng tôi xin trình bày một số ý kiến tiêu biểu của giới nghiên cứu xoay
quanh truyện cổ tích nói chung và truyện kể có nhân vật trẻ thơ.
Nhìn một cách khái quát, các nhà văn, nhà nghiên cứu phê bình văn học
thường đưa ra nhận định về giá trị của cổ tích. Chúng góp phần mang lại cho
3
người nghe / người đọc những món quà tinh thần vô giá. M. Gorki nhận xét:
“Truyện cổ tích luôn luôn chiếu rọi ánh sáng vào một thế giới khác”. Thế giới
trong truyện cổ tích dường như không thực với những gì đang có và đã có. Vì
vậy, đây chính là thế giới của ước mơ. Thế giới này hoàn toàn phù hợp với
tâm lý thiếu nhi – một lứa tuổi mà trí tưởng tuợng đang hình thành và phát
triển.
Bài viết của nhà nghiên cứu Tạ Phong Châu khi nhận xét về Kho tàng
truyện cổ tích Việt nam của Nguyễn Đổng Chi, đăng trên tạp chí Văn học số 2
– 1975, có nhận xét như sau: “Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam của Nguyễn
Đổng Chi đánh dấu một bước tiến quan trọng trong công tác sưu tầm, giới
thiệu nghiên cứu truyện cổ tích Việt Nam, nó đạt được những thành tựu vững
chắc hơn các truyện cổ tích đã xuất bản từ trước tới nay về cả nội dung và
hình thức” [14, tr.1005]. Bàn về nghệ thuật kể chuyện cổ tích của Nguyễn
Đổng Chi, tác giả viết: “Về mặt ngôn ngữ truyện kể, tác giả đã cố gắng không
rơi vào hai xu hướng lệch lạc khá phổ biến xưa nay là tiểu thuyết hóa hoặc
đơn giản hóa truyện cổ tích tác giả đã cố gắng sử dụng ngôn ngữ của người
bình dân và cách diễn đạt dân gian mà vẫn không làm cho các truyện rơi vào
thô thiển” [14, tr.1005].
PGS Vũ Ngọc Khánh có bài nghiên cứu “Kho tàng truyện cổ tích Việt
Nam, đôi điều suy nghĩ” được đăng trên báo “Kiến thức ngày nay” số 110.
Phần mở đầu bài viết, tác giả nhấn mạnh đặc điểm nổi bật cần lưu ý của bộ
“Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam”: “Đây là một công trình khoa học chứ
không phải là tập sách sưu tầm bình thường” [14, tr.1366]. PGS Vũ Ngọc
Khánh đã chỉ rõ những thành công cơ bản của Kho tàng truyện cổ tích Việt
Nam như: Tác giả Nguyễn Đổng Chi đã đưa ra một cái nhìn truyện cổ tích bớt
phần phiến diện, dân tộc hẹp hòi mà nhiều người trước đó và hiện tại đang
4
mắc phải, đó là cái nhìn đối chiếu so sánh truyện cổ tích; Nguyễn Đổng Chi
phân loại truyện cổ tích như có ý đồ lần theo hướng đi của truyện cổ tích
trong tiến trình chuyển đổi hình thái dần dần của xã hội Việt Nam – Đây là
cách phân loại thỏa đáng và đi trước nhiều người. Bàn về cách kể chuyện của
Nguyễn Đổng Chi, tác giả có lời bình ngắn gọn: “Cách kể chuyện của Nguyễn
Đổng Chi hồn nhiên, ít nhiều có vẻ dân dã và phong cách cổ” [15, tr.1371].
Năm 1968 trong chuyên luận Sơ bộ tìm hiểu những vấn đề của truyện
cổ tích qua truyện Tấm Cám, giáo sư Đinh Gia Khánh cũng đã thể hiện quan
điểm nhận diện truyện cổ tích của mình. Công trình xuất hiện đã có tiếng
vang lớn với những quan điểm của ông về những vấn đề của truyện cổ tích.
Nhiều năm qua, chuyên luận này đã trở thành cuốn sách quan trọng, phương
pháp luận nghiên cứu văn học dân gian cho các nhà folklore Việt Nam. Trong
công trình này, từ khối tư liệu phong phú về những dị bản của kiểu
truyện Tấm Cám ở trong nước và trên thế giới, tác giả Đinh Gia Khánh đã đề
cập đến những vấn đề đặc trưng cơ bản của thể loại truyện cổ tích: “Đó là tính
dân tộc và tính quốc tế, tính địa phương và tính toàn dân của truyện cổ tích, là
vấn đề hình thái biểu hiện của nội dung đấu tranh xã hội trong thể loại này, là
vấn đề phương pháp nghệ thuật trong truyện cổ tích, là vấn đề tâm lý của
nhân dân khi sáng tác và lưu truyền tác phẩm văn học dân gian”.
Trong bộ giáo trình Văn học dân gian Việt Nam, khi đưa ra định nghĩa
về truyện cổ tích, ông cũng nêu lên khá nhiều đặc điểm quan trọng của truyện
cổ tích cũng như những dấu hiệu nhận biết thể loại này. Trong đó tác giả nhận
định rằng: “Nhân vật chính trong truyện cổ tích là người, lấy nguyên mẫu
trong xã hội loài người. Nếu có một số nhân vật là thần linh hoặc được xây
dựng trên cơ sở nhân cách hóa các hiện tượng thiên nhiên thì đó cũng chỉ là
nhân vật phụ”.
5
Tác giả Nguyễn Thị Huế với bài viết: “Nhân vật xấu xí mà có tài trong
truyện cổ tích các dân tộc Việt Nam” – TCVH, số 5/1991 cho rằng: Yếu tố
thần kỳ nằm ngay trong bản thân nhân vật chính như: Sọ Dừa, con cóc, ếch,
Trong cuốn Những đặc điểm thi pháp của các thể loại văn học dân
gian, Đỗ Bình Trị đã rút ra những kết luận có ý nghĩa khái quát về nghệ thuật
trong truyện cổ tích thần kỳ và truyện cổ tích sinh hoạt nói chung. Ông cũng
có nhận xét về nhân vật, tác giả cho rằng: “Nếu nhân vật trong truyện cổ tích
thần kỳ thường đi qua những không gian rộng lớn, kỳ ảo, từ xứ sở này sang
xứ sở khác: đến nơi cuối đất cùng trời, xuống cõi âm, xuống thủy phủ, lên
tiên, thì “không gian và thời gian “cổ tích” trong truyện cổ tích sinh hoạt
của nhưng câu chuyện kể chẳng những không mấy xa lạ, cách biệt với người
nghe mà còn quen thuộc với họ: khung cảnh nông thôn và gia đình nông dân;
những truyện áp bức bóc lột và đời sống xã hội trong làng xã; kẻ buôn bán và
trong truyện lừa đảo; người học trò và truyện thi cử; chốn cửa quan và truyện
kiện tụng. Câu chuyện như xảy ra không xa, mà cũng chưa lâu trong cuộc đời
hàng ngày” [23, tr.34].
Năm 1974, Cao Huy Đỉnh trong Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian
(Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội), ở chương III, đã đề cập đến một số
truyện cổ tích cụ thể như Sọ Dừa, Tấm Cám, Cây Khế. Xuất phát từ thành
phần xuất thân của nhân vật, tác giả chỉ ra ba loại nhân vật tiêu biểu cho ba
truyện trên, đó là:
- Người mồ côi.
- Người con riêng.
- Người em út.
Phan Đăng Nhật, Nông Quốc Chấn trong cuốn Lịch sử văn học Việt
Nam, tập 1 (Nhà xuất bản Khoa học xã hội – Hà Nội, 1980), ở chương VI, khi
6
đề cập đến truyện cổ tích của các dân tộc ít người, các tác giả chia thành 4
kiểu truyện. Nhìn vào cách chia, ta thấy tác giả chia các kiểu truyện theo
nhân vật trung tâm và tính chất của truyện:
- Truyện những người dũng sĩ tài ba.
- Truyện người hiền lành.
- Truyện người mồ côi.
- Truyện cười.
Năm 1981, trong cuốn Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam (trước
cách mạng tháng 8/1945), Nhà xuất bản văn hóa – Hà Nội, Phan Đăng Nhật
đã tiến hành phân loại truyện cổ tích các dân tộc thiểu số làm ba loại chính
theo các nhân vật trung tâm:
- Truyện về người mồ côi, người em út, người con riêng, người đội lốt
xấu xí.
- Truyện về người xấu xí.
- Truyện về người bị bóc lột.
Nhìn lại những ý kiến trên chúng tôi nhận thấy, mặc dù chưa thực sự
liên quan trực tiếp đến đề tài “ Nhân vật trẻ thơ trong truyện cổ tích (khảo sát
qua kho tàng truyện cổ tích Việt Nam của Nguyễn Đổng Chi và truyện cổ tích
Việt Nam của Nguyễn Cừ)” nhưng những công trình này đã gợi ý và làm nền
tảng cho những hiểu biết của chúng tôi trong việc nghiên cứu đề tài luận văn.
Đặc biệt là sự lưu tâm đến các nhân vật của cổ tích trong đó có nhân vật là
trẻ thơ. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng khẳng định chưa có một đề tài nào đi sâu
nghiên cứu vấn đề này. Đặc biệt những truyện cổ tích có những nhân vật trẻ
thơ trong sách Tiếng Việt Tiểu học cũng chưa được quan tâm. Vì thế chúng
tôi thấy còn có những mảng trống dành cho ý tưởng khoa học của mình,
khuyến khích chúng tôi thực hiện đề tài này.
7
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Luận văn hướng tới khẳng định giá trị nội dung và nghệ thuật mảng
truyện cổ tích xuất hiện nhân vật trẻ thơ: đặc điểm nhân vật trẻ thơ, nghệ thuật
xây dựng nhân vật (thuộc diện khảo sát của đề tài).
- Tìm hiểu “văn bản” những truyện cổ tích có nhân vật trẻ thơ trong
sách Tiếng Việt Tiểu học và ý nghĩa giáo dục đối với học sinh thông qua các
phân môn cụ thể của Tiếng Việt.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận văn tìm hiểu những kiến thức lí luận chung có liên quan đến một
số khái niệm như: khái niệm truyện cổ tích, đặc điểm thể loại, quan niệm về
nhân vật, các biện pháp xây dựng nghệ thuật nhân vật…
- Luận văn khảo sát và chỉ ra những đặc điểm nhân vật trẻ thơ trong
những truyện cổ tích được khảo sát; những phương diện nghệ thuật cơ bản
xây dựng nhân vật trẻ thơ.
- Khảo sát và thống kê những truyện cổ tích được trích học trong sách
Tiếng Việt Tiểu học, đặc biệt truyện cổ tích về nhân vật trẻ thơ, hình tượng
nhân vật trẻ thơ từ lớp 1 đến lớp 5; giá trị và tính giáo dục của chúng đối với
học sinh.
4. Phạm vi nghiên cứu
4.1. Phạm vi tư liệu khảo sát
Khảo sát khoảng 15 truyện cổ tích kể về nhân vật trẻ thơ trong: Kho
tàng truyện cổ tích Việt Nam (5 tập) của Nguyễn Đổng Chi và Truyện cổ tích
Việt Nam (4 tập) của Nguyễn Cừ sưu tầm, biên soạn.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
8
- Nghiên cứu những đặc điểm nhân vật trẻ thơ, nghệ thuật thể hiện nhân
vật trẻ thơ trong truyện cổ tích (đề tài khảo sát).
- Khảo sát, nghiên cứu những truyện cổ tích trong Sách Tiếng Việt Tiểu
học, đặc biệt là những truyện có nhân vật trẻ thơ, rút ra ý nghĩa, những bài
học giáo dục cho học sinh.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thống kê, khảo sát.
- Phương pháp so sánh.
- Phương pháp hệ thống.
- Các thao tác và phương pháp khác như phân tích, miêu tả
6. Đóng góp của luận văn
- Đóng góp về lí luận
Nghiên cứu nhân vật trẻ thơ trong truyện cổ tích nhằm chỉ ra những đặc
điểm của thế giới nhân vật đó.
- Đóng góp về thực tiễn
Nghiên cứu đề tài này sẽ giúp giáo viên và học sinh Tiểu học hiểu sâu
sắc hơn về mảng truyện cổ tích và tính giáo dục của nó. Đặc biệt thông qua
hình tượng nhân vật trẻ thơ trong lời kể dân gian, hướng tới giáo dục học sinh
những nhận thức về xã hội, về thân phận con người trong xã hội cũ; giáo dục
đạo đức, tình cảm nhân đạo…
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn được triển khai thành 3
chương:
Chương 1. Những vấn đề chung
Chương 2. Thế giới trẻ thơ trong truyện cổ tích của Nguyễn Đổng Chi
và Nguyễn Cừ
9
Chương 3. Truyện cổ tích về nhân vật trẻ thơ trong sách Tiếng Việt
Tiểu học và ý nghĩa giáo dục
10
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Giới thuyết về truyện cổ tích
Trong kho tàng truyện dân gian, truyện cổ tích là bộ phận lớn nhất, có
lịch sử hình thành, phát triển phong phú, đa dạng. Đây cũng chính là loại
truyện khó minh bạch về khái niệm. Tuy vậy, chúng tôi cũng xin trình bày về
khái niệm của cổ tích, đặc điểm thể loại và sự phân loại cổ tích.
1.1.1. Khái niệm
Từ xưa đến nay, các nhà nghiên cứu về văn học dân gian trên thế giới,
cũng như trong nước đã đưa ra những quan niệm khác nhau về truyện cổ tích,
nhưng chưa có cách diễn đạt về khái niệm cổ tích chung nhất. Tuy nhiên, hiện
nay giới nghiên cứu về truyện dân gian cũng đã có những điểm gần gũi nhau
về quan niệm. Chúng ta có thể điểm qua một số quan niệm tiêu biểu như sau:
Theo khuynh hướng thiên về đặc điểm riêng, đặc điểm thi pháp của
truyện cổ tích và làm cơ sở cho việc hình thành khái niệm, anh em Grimm đã
đưa ra khái niệm. Khái niệm này, đã được công chúng ở châu Âu đón nhận:
“Truyện cổ tích là những truyện được xây dựng nên bằng trí tưởng tượng về
thế giới thần kì, những câu chuyện không có quan hệ với những điều kiện của
đời sống thực và làm thỏa mãn người nghe thuộc mọi tầng lớp xã hội ngay cả
dù cho họ tin hay không tin vào những điều được nghe kể”.
Theo ý kiến của V.Propp nhà nghiên cứu về motip, bước đầu ta có thể
định nghĩa truyện cổ tích: “Truyện cổ tích là một thể loại truyện kể, phân biệt
với các loại truyện kể khác do những nét đặc trưng về thi pháp của nó”. Trên
cơ sở những nguyên tắc, nhà nghiên cứu Folklore người Nga này cũng đưa ra
khái niệm như sau: “Truyện cổ tích là những truyện kể truyền miệng, lưu
11
hành trong nhân dân, có mục đích giải trí người nghe, nội dung kể lại những
sự kiện khác thường (những sự kiện tưởng tượng có tính chất thần kỳ hoặc thế
sự) và mang những nét đặc trưng về hình thức cấu tạo và phong cách thể
hiện”.
Theo Hoàng Tiến Tựu trong cuốn Văn học dân gian Việt Nam, thì
“Truyện cổ tích là một loại truyện kể dân gian ra đời từ thời cổ đại, gắn liền
với quá trình tan rã của chế độ công xã nguyên thủy, hình thành của giai cấp
phụ quyền và phân hóa giai cấp trong xã hội; nó hướng vào những vấn đề cơ
bản, những hiện tượng có tính chất phổ biến trong đời sống nhân dân, đặc biệt
là những xung đột có tính chất riêng tư giữa người với người trong phạm vi
gia đình và xã hội. Nó dùng một thứ tưởng tượng và hư cấu riêng (có thể gọi
là “Tưởng tượng và hư cấu cổ tích”), kết hợp với các thủ pháp nghệ thuật đặc
thù khác để phản ánh đời sống và ước mơ của nhân dân đáp ứng nhu cầu nhận
thức, thẩm mỹ, giáo dục và giải trí của nhân dân trong những thời kỳ, những
hoàn cảnh lịch sử khác nhau của xã hội có giai cấp (ở Việt Nam chủ yếu là xã
hội phong kiến)” [28, tr.61].
Tác giả Chu Xuân Diên trong cuốn Tuyển tập truyện cổ tích Việt Nam
cho rằng, trong hàng loạt định nghĩa đã có về truyện cổ tích, có thể nêu lên
mấy nội dung chung ít nhiều có sự thống nhất như sau:
“Truyện cổ tích nảy sinh từ xã hội nguyên thủy, do đó có những yếu tố
phản ánh quan niệm thần thoại của nhân dân về các hiện tượng tự nhiên và xã
hội có ý nghĩa ma thuật. Song, truyện cổ tích phát triển chủ yếu trong xã hội
có giai cấp nên chủ đề chủ yếu của nó là chủ đề xã hội, phản ánh nhận thức
của nhân dân về cuộc sống xã hội muôn màu muôn vẻ với những xung đột
đặc trưng cho các thời kỳ lịch sử khi đã có tư hữu tài sản, có gia đình riêng, có
mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp.
12
Truyện cổ tích biểu hiện cách nhìn hiện thực của nhân dân đối với thực
tại, đồng thời nói lên những quan niệm đạo đức, những quan niệm về công lý
xã hội và mơ ước về cuộc sống tốt đẹp hơn cuộc sống hiện tại.
Truyện cổ tích là sản phẩm của trí tưởng tượng phong phú của nhân
dân, và ở một bộ phận chủ yếu, yếu tố tưởng tượng thần kỳ tạo nên một đặc
trưng nổi bật trong phương thức phản ánh hiện thực và ước mơ” [3, tr.4].
Theo Nguyễn Đổng Chi trong Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, thì
“Truyện cổ tích là loại sáng tác văn nghệ của nhân dân. Nó có đặc trưng nghệ
thuật riêng biệt không giống với các loại truyện ngụ ngôn, khôi hài, tiếu lâm,
cũng như có phần khác với thần thoại, truyện tôn giáo và truyện thời sự. Do
tính chất truyền miệng, nó mang hình thức truyện kể chứ không mang hình
thức truyện tả, và do đó cũng không đồng nhất với tiểu thuyết. Nhưng với khả
năng hấp dẫn không kém gì tiểu thuyết, trong một thời kỳ mà tiểu thuyết chưa
phải là thứ nghệ thuật phổ cập, thì nó là một trong những loại hình nghệ thuật
quan trọng, làm nhiệm vụ giải trí cho dân chúng, đồng thời cũng thỏa mãn
nhu cầu cảm thụ thẩm mỹ, nhu cầu giáo dục và đấu tranh trong xã hội” [14,
tr.58].
Theo Từ điển văn học : “Truyện cổ tích là một loại truyện dân gian nảy
sinh từ xã hội nguyên thủy, nhưng chủ yếu phát triển trong xã hội có giai cấp
với chức năng chủ yếu là phản ánh và lí giải những vấn đề xã hội, những số
phận khác nhau của con người trong cuộc sống muôn màu, muôn vẻ khi đã có
chế độ tư hữu tài sản, có gia đình riêng (chủ yếu là gia đình phụ quyền, có
mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh xã hội quyết liệt)” [26, tr368 – 369].
Thống nhất với các quan niệm trên, có ý kiến thì cho rằng, cổ tích là
một thể loại dân gian có tính chất phổ biến, hình thành từ thời cổ đại, phát
triển, tồn tại qua nhiều thời kì xã hội khác nhau, gắn chặt với quá trình tan rã
của công xã nguyên thủy, hình thành gia đình phụ quyền và phân hóa giai cấp
13
trong xã hội. Nó hướng vào những vấn đề cơ bản, những số phận, những quan
hệ và xung đột có tính chất riêng tư và phổ biến trong xã hội có giai cấp. Nó
dùng một kiểu tưởng tượng và hư cấu riêng, có thể coi là “tư tưởng và hư cấu
cổ tích” kết hợp với các thủ pháp nghệ thuật đặc thù để phản ánh đời sống và
khát vọng của nhân dân, đáp ứng nhu cầu nhận thức, giáo dục, thẩm mỹ và
tiêu khiển của nhân dân.
Tóm lại: Từ các ý kiến trên - các quan niệm khác nhau của các nhà
khoa học trong và ngoài nước về truyện cổ tích, ta có thể rút ra mấy vấn đề
cần quan tâm sau:
- Truyện cổ tích là một loại truyện kể chứ không phải truyện tả. Truyện
mang tính chất truyền miệng, nó là loại sáng tác có tính tập thể của nhân dân.
- Truyện cổ tích ra đời vào giai đoạn cuối của thể loại thần thoại, nó
ứng với quá trình tan rã của công xã nguyên thủy, sự hình thành của gia đình
phụ quyền và quá trình phân hóa giai cấp trong xã hội. Nó làm nhiệm vụ giải
trí cho dân chúng, đồng thời cũng thỏa mãn nhu cầu cảm thụ thẩm mỹ, nhu
cầu giáo dục và đấu tranh trong xã hội.
- Trong truyện cổ tích, “yếu tố thần kỳ” không những mang ước mơ
mãnh liệt, mà còn lưu giữ dấu tích khắc họa lại những thời kỳ lịch sử trong
quá khứ xa xăm của dân tộ.
1.1.2. Đặc điểm thể loại của truyện cổ tích
Thuộc loại hình tự sự dân gian, cổ tích có những đặc điểm riêng so với
các thể loại tự sự khác. Xét trên đại thể, chúng tôi trình bày một số đặc điểm
cơ bản thuộc về đề tài, cốt truyện và nhân vật của cổ tích.
1.1.2.1. Đề tài
Phần lớn truyện cổ tích ra đời khi xã hội đã phân chia giai cấp. Điều đó
quyết định lớn tới vấn đề người kể chuyện quan tâm. Nếu thần thoại chủ yếu
14
phản ánh mối quan hệ con người – thiên nhiên, truyền thuyết phản ánh mối
quan hệ con người và cộng đồng, dân tộc, quốc gia thì cổ tích hướng tới mối
quan hệ giữa con người và con người trong xã hội. Sáng tạo cổ tích, người
nghệ sĩ dân gian nhìn sâu vào những quan hệ trong đời sống con người. Có
thể là quan hệ của những thành viên trong gia đình (anh chị và em út, cô và
cháu, dì ghẻ và con chồng ); quan hệ của những người trong xã hội (địa chủ
và nông dân, người giàu và người nghèo, vua quan và nhân dân ).
Từ những mối quan hệ như thế, con người bộc lộ những phẩm chất,
những “tính cách” khác nhau. Những số phận con người khác nhau trong xã
hội bị chìm nổi hay được hạnh phúc cũng được khắc họa rõ.
Truyện cổ tích khai thác những mảng đề tài khác nhau trong đời sống
nhân sinh.
Truyện cổ tích Việt Nam là những truyện truyền miệng dân gian kể lại
những câu chuyện tưởng tượng xoay quanh một số chủ đề như nhân vật tài
giỏi, nhân vật dũng sĩ, người mồ côi, người em út, người con riêng, người
nghèo khổ, người có hình dạng xấu xí, người thông minh, người ngốc nghếch
và cả những câu chuyện kể về các con vật nói năng và hoạt động như con
người.
Những đề tài, chủ đề trong truyện cổ tích thường đề cập tới những vấn
đề sau phổ biến như sau:
+ Phản ánh và lý giải những xung đột, mâu thuẫn trong gia đình và xã
hội: Ăn khế trả vàng hay Sự tích cây khế, Hà rầm hà rạc, Sọ Dừa, Chàng Dê,
Tấm Cám, Thạch Sanh, Trầu cau, Ba ông Bếp, Sao hôm – Sao mai, Đá vọng
phu. Những xung đột xã hội bên ngoài gia đình được phản ánh muộn hơn, ít
tập trung hơn như: Của trời trời lại lấy đi, Diệt mãng xà, Lọ nước thần …
15
+ Lý tưởng xã hội thẩm mỹ của nhân dân: Truyện cổ tích cho thấy sự
bế tắc của tầng lớp nghèo khổ trong xã hội cũ. Trong cổ tích tác giả dân gian
đã giải quyết vấn đề bằng tưởng tượng, họ nhờ vào lực lượng thần kỳ và
nhân vật đế vương.
+ Triết lý sống, đạo lý làm người và ước mơ công lý của nhân dân:
Tinh thần lạc quan trong cổ tích chính là lòng yêu thương quý trọng con
người, từ đó mà yêu đời, tin vào cuộc đời. Hầu hết truyện cổ tích đều gián tiếp
hoặc trực tiếp nêu lên vấn đề đạo đức. Đạo đức luôn gắn với tình thương, lấy
tình thương làm nền tảng: Đứa con trời đánh, Giết chó khuyên chồng, …
Dù đề cập tới những nội dung khác nhau, song cổ tích luôn phản ánh
hiện thực cuộc sống của nhân dân và những ước mơ của họ. Làm nên sức
sống của cổ tích cũng chính vì hai mảng màu đó. Truyện cổ tích không chỉ
phản ánh những “cái đang có, hiện có mà còn những cái có thể có”.
1.1.2.2. Kết cấu truyện
Nói đến truyện không thể không lưu tâm đến kết cấu cốt truyện ra sao.
Kết cấu cốt truyện bao gồm chuỗi các sự kiện, hành động của nhân vật được
sắp xếp, gắn kết theo một ý tưởng nghệ thuật của người nghệ sĩ. Nó là
phương tiện cơ bản, tất yếu của khái quát nghệ thuật, đảm nhiệm nội dung
chức năng như bộc lộ tốt chủ đề và tư tưởng của tác phẩm.
Truyện cổ tích thường được xây dựng theo một sơ đồ chung nhất định
nào đó và số lượng sơ đồ này là rất ít. Mọi vấn đề nội dung, nghệ thuật của
truyện cổ tích thường tập trung làm nổi bật và bám sát những diễn biến số
phận của nhân vật chính. Kết cấu cốt truyện cổ tích góp phần bộc lộ số phận
của nhân vật chính, những chi tiết phụ không liên quan đến nhân vật chính
nếu có cũng rất ít hoặc bị cắt bỏ.
16
Nhìn một cách khái quát, các truyện cổ tích được Nguyễn Đổng Chi và
Nguyễn Cừ sưu tầm, biên soạn có dạng thức kết cấu của những truyện cổ tích
truyền thống.
Dựa trên kết cấu của những truyện cổ tích truyền thống giới nghiên cứu
phác họa những kiểu sơ đồ phổ biến. Trong cuốn Văn học tập II (Giáo trình
đào tạo giáo viên Tiểu học hệ cao đẳng sư phạm và sư phạm 12+2, NXB Giáo
dục, 1988), tác giả Đỗ Bình Trị đã giới thiệu những kiểu sơ đồ phổ biến làm
nên kết cấu của truyện cổ tích thần kỳ.
Ở dạng thức phổ biến nhất, cổ tích thần kỳ thường có mô hình kết cấu
truyện như sau:
Lai lịch nhân vật (Trung tâm) Hoàn cảnh thử thách
Gặp tai họa Được lực lượng thần kỳ giúp đỡ Kết thúc
có hậu.
Tuy vậy, ở biến thể cổ tích sinh hoạt hay cổ tích loài vật, dạng thức kết
cấu truyện thường diễn tả “đa dạng” hơn. Đặc biệt là phần kết của truyện
không phải lúc nào cũng “có hậu”, vui vẻ. Thậm chí còn là những câu chuyện
buồn. Ví như Làm theo lời vợ dặn, Sự tích chim quốc, Sự tích chim đa đa, Sự
tích chim Hít cô Ở đó, nhân vật trung tâm đều chết.
Ở cổ tích loài vật, thường có lời kể ngắn, ít sự kiện nhưng phần kết khá
linh hoạt. Nhằm mục đích lý giải những đặc điểm, thói quen, tính tình của
các loài nên truyện cổ tích loài vật thường “lựa” theo mục đích đó. Trên cái
nhìn chung nhất truyện cổ tích loài vật thường có dạng thức sau:
Giới thiệu nhân vật (là con vật) Tình huống xảy ra với nhân vật
Nhân vật hành động Kết quả của hành động.
Ví như truyện Lươn và cá gáy có thể tóm tắt như sau: Ngày xưa, Lươn
và cá gáy vốn là đôi bạn thân. Một lần vào đêm trăng, cả hai đi dạo. Chúng
17
gặp một cái lờ thả cá, lươn chui vào đó rồi lại chui ra vẻ thích thú. Lươn rủ cá
gáy cùng vào cho vui. Cá ngần ngại. Lươn khích bạn mãi. Và thế là cá gáy
cũng chui vào lờ. Tuy vậy, nó không chui ra dễ dàng như lươn được. Cá cố
hết sức mà không thể thoát ra được ra. Nó quẫy xây sát cả vây, giập cả đuôi,
khóc mãi cá đỏ cả mắt. Lươn ta thích chí vì lừa được bạn, cười đến nỗi híp cả
mắt. Mặc dù trước đó mắt nó cũng to.
Như thế là đã rõ, kết cấu của cổ tích loài vật như dạng thức chúng tôi
đã phác thảo bên trên.
Kết cấu của truyện cổ tích truyền thống không nhiều sự kiện, đơn giản.
Đây cũng là dạng thức khá phổ biến trong truyện viết cho thiếu nhi. Đặc biệt
hơn, là không gian, thời gian trong truyện cổ tích không được miêu tả thành
dòng chảy mà nó được tạo thành từ các thời điểm khác nhau và các điểm cách
quãng (hôm sau, năm sau, …). Thời gian được tính bằng ngày đêm hoặc bằng
vật thể (thời gian may áo, khâu áo, ăn uống, …). V.Prôpp cũng xác nhận,
trong truyện cổ tích không có quan niệm thời gian. “Nó chỉ có thời gian kinh
nghiệm được đo bằng hành động của nhân vật, không gian trong truyện cổ
tích được mở ra vô hạn nhưng luôn gắn với hành động của con người, hành
động tới đâu không gian mở rộng tới đó, nhưng không gian này không có
quan hệ với không gian thực tại. Đó là không gian khép kín”.
Ngoài nhân vật, kết cấu cốt truyện, truyện cổ tích viết cho thiếu nhi còn
có những yếu tố khác thuộc về hình thức như: Ngôn ngữ, các biện pháp nghệ
thuật (miêu tả, so sánh, …). Điều đó giúp tác giả thể hiện tốt những nội dung
muốn chuyển tới độc giả.
1.1.2.3. Nhân vật
a) Quan niệm về nhân vật văn học
18
Có nhiều cách diễn đạt khác nhau về khái niệm nhân vật, chúng tôi
trích một vài ý kiến sau:
- Lại Nguyên Ân trong cuốn 150 thuật ngữ văn học cho rằng, đó là
“Hình tượng nghệ thuật về con người, một trong những biểu hiệm về sự tồn
tại toàn vẹn của con người trong nghệ thuật ngôn từ. Bên cạnh con người,
nhân vật văn học có khi còn là các con vật, các loài cây, các sinh thể hoang
đường được gắn cho những đặc điểm giống với con người” [tr 249]. Định
nghĩa này của tác giả Lại Nguyên Ân cũng được in trong mục từ “Nhân vật”
của Từ điển văn học (Bộ mới) [tr. 1254].
- Theo Từ điển Tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên): “Nhân vật là đối
tượng (thường là con người) được miêu tả thể hiện trong tác phẩm nghệ thuật
[tr. 711].
- Cuốn Lý luận văn học tập 2 (Trần Đình Sử chủ biên) quan niệm nhân
vật văn học “là nhân vật dùng để chỉ hình tượng các cá thể con người trong
tác phẩm văn học – cái đã được nhà văn nhận thức, tái tạo thể hiện bằng các
phương tiện riêng của nghệ thuật ngôn từ” [tr. 114].
Từ những ý kiến trên, chúng tôi hiểu về nhân vật văn học như sau:
Nhân vật văn học là đối tượng được miêu tả, thể hiện trong tác phẩm nghệ
thuật ngôn từ. Nhân vật văn học thường là con người, cũng có thể được thể
hiện bằng các con vật, các loài cỏ cây hoặc các nhân vật hoang đường khác.
b) Nhân vật truyện cổ tích
- Đối với truyện cổ tích, thế giới nhân vật thường được sáng tạo “phụ
thuộc” chủ yếu vào chủ quan người kể chuyện.
Nếu xét theo kiểu loại nhân vật thuộc hệ tư tưởng thì cổ tích có hai loại:
chính diện và phản diện. Ví như trong Lươn thần và cậu bé nghèo khổ, ông
cậu giàu có là nhân vật phản diện, cậu bé nghèo là chính diện; trong Sự tích
19
chim đa đa thì người bố dượng là nhân vật phản diện, chú bé là nhân vật
chính diện…
- Nếu xét theo tiêu chí đạo đức hay loại tính, thì cổ tích thường có các
kiểu nhân vật như: ác và thiện, tốt và xấu, gian tham và trung thực, hiếu thảo;
ngốc khờ hay thông minh. Chẳng hạn, trong Sự tích chim hít cô, người cô
tham lam, đứa cháu hiếu thảo. Trong truyện Sự tích bàn chân người bị lõm thì
đứa bé (người con) hiếu thảo, dân làng lại nhẫn tâm. Ở Cây khế hay Hà rầm
hà rạc, người anh gian tham, người em thật thà thơm thảo. Ở truyện Làm theo
lời vợ dặn, người vợ thông minh, người chồng ngốc nghếch…
Kho tàng cổ tích có các kiểu truyện như: Kiểu truyện người em út (em
út là nhân vật chính); kiểu truyện người con côi (nhân vật mồ côi là nhân vật
chính); kiểu truyện nhân vật đội lốt xấu xí mà tài ba (nhân vật đội lốt xấu xí
mà tài ba là nhân vật chính); kiểu truyện chàng ngốc (chàng ngốc là nhân vật
chính)…
Nhân vật có thể được nhìn từ góc độ xã hội, phương diện giai cấp. Ở đó
sẽ có nhân vật thuộc giai tầng trên (giai cấp thống trị) và giai tầng bị thống trị.
Phổ biến nhất là kiểu nhân vật địa chủ và nông dân (kẻ đi ở làm thuê và ông
chủ giàu có). Cũng có những lời kể xuất hiện vua chúa, quan lại (thuộc giai
cấp thống trị) và nhân dân. Ví như Lọ nước thần, Thạch Sanh…
Nhân vật trong cổ tích thường được chia làm hai tuyến tương phản như
vậy. Tuy nhiên, ở các lời kể của cổ tích thần kì thường xuất hiện lực lượng
siêu nhiên (lực lượng phù trợ). Đó là lực lượng giúp nhân vật trung tâm đi đến
với kết thúc có hậu. Đó có thể là Tiên, Bụt, loài chim, Lươn… Không có lực
lượng này, nhân vật trung tâm bế tắc và khó có thể đổi đời, đi về phía cuộc
đời tốt đẹp.
20
Nhân vật cổ tích có thể thuộc các lứa tuổi: già, trẻ thơ và thiếu nữ,
chàng trai. Họ có mặt trong các lời kể tùy theo cốt truyện. Các nhân vật trẻ
thơ đề tài luận văn khảo sát là một loại nhân vật như thế.
Nhân vật cổ tích có thể không phải là con người mà là loài vật: con vật
hay hoa lá cỏ cây. Loại nhân vật này làm nên một biến thể sinh động của cổ
tích: Cổ tích loài vật.
Trong các truyện cổ tích, nhân vật trung tâm còn giúp nghệ sĩ dân gian
triển khai mạch kể và bộc lộ chủ đề truyện, thái độ tình cảm của người sáng
tác.
1.1.3. Phân loại truyện cổ tích
Lâu nay, việc phân loại các biến thể (các tiểu loại) truyện cổ tích là một
trong những vấn đề quan tâm của các nhà khoa học trên thế giới. Ở Việt Nam,
giới nghiên cứu đưa ra được một số cách phân loại.
Nguyễn Đổng Chi, trong Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, có đề cập:
“Phân loại truyện cổ tích, một vấn đề đặt ra từ lâu, nhưng vẫn còn mới mẻ”.
Ông cũng trao đổi thêm, khi nói đến mấy tiếng “truyện cổ tích” hay “truyện
đời xưa”, chúng ta sẵn có quan niệm rằng, đấy là một danh từ chung bao gồm
hết thảy các loại truyện do quần chúng vô danh sáng tác và lưu truyền qua các
thời đại. Chính vì đứng trước một kho tàng truyện cổ tích đồ sộ, nên việc xác
định đặc trưng từng loại truyện khác nhau để đi đến phân loại chúng là việc
làm hết sức khó khăn, nhưng lại vô cùng cần thiết, nhất là trong việc giảng
dạy thể loại này ở nhà trường. Trên cơ sở này, ông đã đưa ra cách phân loại
truyện cổ tích thành 3 loại:
1. Truyện cổ tích thần kỳ
2. Truyện cổ tích thế sự (sinh hoạt)
3. Truyện cổ tích lịch sử