Tải bản đầy đủ (.docx) (66 trang)

Phát triển Bảo hiểm con người tại Bảo Việt Nghệ An

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (447.32 KB, 66 trang )

1
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
MỤC LỤC
SV: Nguyễn Thị Thảo Anh Lớp: Kinh tế Bảo hiểm 53B
2
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Viết tắt Nguyên văn
BHCN Bảo hiểm con người
BVNA Bảo Việt Nghệ An
BHYT Bảo hiểm y tế
BHXH Bảo hiểm xã hội
DNBH Doanh nghiệp bảo hiểm
DT Doanh thu
ĐP & HCTT Đề phòng và hạn chế tổn thất
LN Lợi nhuận
NĐBH Người được bảo hiểm
STBT Số tiền bồi thường
STBH Số tiền bảo hiểm
SV: Nguyễn Thị Thảo Anh Lớp: Kinh tế Bảo hiểm 53B
3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
DANH MỤC CÁC BẢNG
SV: Nguyễn Thị Thảo Anh Lớp: Kinh tế Bảo hiểm 53B
4
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1: Tổng doanh thu của Bảo Việt Nghệ An giai đoạn 2010 - 2014
Biểu đồ 2.2: Tình hình doanh thu mỗi nghiệp vụ tại BVNA giai đoạn năm 2013 -
2014
Biểu đồ 2.3: Tổng doanh thu và tốc độ tăng trưởng doanh thu phí nghiệp vụ


BHCN tại BVNA giai đoạn 2011 - 2014
Biểu đồ 2.4: Biểu hiện mối liên hệ giữa số tiền bồi thường mỗi vụ và tỷ lệ tử
vong/tỷ lệ bị thương
Biểu đồ 2.5: Biểu thị tốc độ tăng của lợi nhuận và tốc độ tăng của doanh thu.
Biều đồ 2.6: Thị phần nghiệp vụ Bảo hiểm con người của BVNA trên thị trường
bảo hiểm Nghệ An năm 2014
SV: Nguyễn Thị Thảo Anh Lớp: Kinh tế Bảo hiểm 53B
5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
LỜI MỞ ĐẦU
“Con người là vốn quý của xã hội”. Mục đích của công cuộc xây dựng và phát
triển xã hội là nhằm nâng cao đời sống về mọi mặt và đáp ứng những nhu cầu
ngày càng tăng của các thành viên trong xã hội. Mặt khác, con người lại chính là
lực lượng sản xuất ra của cải vật chất cho toàn xã hội. Do vậy, đã có những chính
sách và biện pháp kinh tế xã hội đề ra để thực hiện mục tiêu nói trên, một trong
những chính sách đó là chế độ bảo hiễm xã hội của Nhà nước. Song chế độ này
phạm vi và số người được bảo hiểm rất hạn chế. Bên cạnh đó, trợ cấp của bảo
hiểm xã hội chỉ mới đảm bảo chi phí ở mức tối thiểu khi người được bảo hiểm bị
ốm đau, bệnh tật, thai sản, tai nạn lao động vĩnh viễn, mất sức lao động, ngoài ra,
còn có nhiều chi phí khác liên quan. Từ những yêu cầu thực tiễn đó, Bảo hiểm con
người, cụ thể là Bảo hiểm con người Phi nhân thọ ra đời. Đây là một hình thức
lập kế hoạch tài chính độc đáo nhằm hạn chế và khắc phục những rủi ro, tai nạn
bất ngờ đối với con người trong sinh hoạt cũng như trong kinh doanh. Hiện nay,
loại hình bảo hiểm này đang phát triển rất mạnh mẽ trên thị trường bảo hiểm
Việt Nam nói chung và thị trường bảo hiểm Nghệ An nói riêng. Với xu thế đó, dự
báo trong tương lai không xa doanh thu phí Bảo hiểm Con người hứa hẹn sẽ vượt
xa doanh thu phí của các nghiệp vụ bảo hiểm khác.
Xuất phát từ lý luận đó và thời gian thực tập tại Bảo Việt Nghệ An, em chọn
đề tài “ Phát triển Bảo hiểm con người tại Bảo Việt Nghệ An” làm đề tài
chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình. Nghiên cứu đề tài này nhằm thấy được

những mặt đạt được, mặt chưa đạt được của công ty trong hoạt động triển khai
nghiệp vụ Bảo hiểm con người, từ đó tìm ra nguyên nhân và giải pháp, các
phương hướng để nâng cao chất lượng triển khai nghiệp vụ Bảo hiểm con người
tại Bảo Việt Nghệ An.
Chuyên đề được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về Bảo hiểm con người.
Chương 2: Thực trạng triển khai Bảo hiểm con người tại Bảo Việt Nghệ An.
Chương 3: Giải pháp phát triển Bảo hiểm con người tại Bảo Việt Nghệ An
trong thời gian tới.
Trong quá trình nghiên cứu, mặc dù có nhiều cố gắng song không tránh
khỏi những sai lầm thiếu sót nhất định. Vì vậy, em rất mong nhận được những ý
SV: Nguyễn Thị Thảo Anh Lớp: Kinh tế Bảo hiểm 53B
6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
kiến đóng góp của thầy cô giáo, các anh chị cán bộ tại Bảo Việt nhằm hoàn thiện
hơn chuyên đề thực tập của mình.
Em xin chân thành cảm ơn các anh chị cán bộ trong Công ty Bảo hiểm Nghệ
An đã tạo mọi điều kiện để em có thể hoàn thành tốt nhất chuyên đề thực tập.
Em xin chân thành cảm ơn toàn thể các thầy cô giáo trong bộ môn Bảo hiểm
đã trang bị cho em những kiến thức cơ bản về bảo hiểm và đặc biệt giảng viên –
Tiến sĩ Nguyễn Thị Chính đã trực tiếp tận tình hướng dẫn, động viên và giúp đỡ
em thực hiện chuyên đề này.
Hà Nội, ngày 18 tháng 04 năm 2015
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thị Thảo Anh
SV: Nguyễn Thị Thảo Anh Lớp: Kinh tế Bảo hiểm 53B
7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM CON NGƯỜI
1.1. Khái quát về Bảo hiểm con người

1.1.1.Sự cần thiết và vai trò của Bảo hiểm con người
1.1.1.1. Sự cần thiết của Bảo hiểm con người
Trong cuộc sống cũng như trong lao động sản xuất loài người thường gặp
nhiều rủi ro gây tổn thất cả về sức khỏe, tinh thần, tài chính. Mặc dù xã hội loài
người đã có rất nhiều biện pháp khác nhau để phòng tránh tuy nhiên ốm đau,
bệnh tật,tai nạn tử vong vẫn xảy ra. Những rủi ro này một phần mang tính tất
yếu theo đúng quy luật tự nhiên, phần còn lại do nhiều nguyên nhân khác nhau.
Khi gặp những rủi ro này, hậu quả thiệt hại về mặt tài chính được các cá nhân,
gia đình và cả xã hội rất quan tâm. Mặc dù BHXH, BHYT, BHTN thực chất cũng là
bảo hiểm con người nhưng nó còn tồn tại khá nhiều hạn chế nên không thể giải
quyết được mọi vấn đề nảy sinh trong cuộc sống. Cụ thể là:
BHXH giới hạn tối đa ở 9 chế độ tương ứng với 9 nhóm rủi ro là chăm sóc y
tế, trợ cấp ốm đau, trợ cấp tàn phế, trợ cấp tai nạn và bệnh nghề nghiệp, trợ cấp
tuổi già, trợ cấp sinh đẻ, trợ cấp gia đình, trợ cấp mất người nuôi dưỡng, trợ cấp
thất nghiệp. Nếu gặp phải các rủi ro hay tai nạn khác ngoài giờ thì người lao
động sẽ không được bảo hiểm. BHXH giới hạn đối tượng hưởng chỉ tập trung ở
người lao động, tùy thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội của từng nước và từng
thời kỳ khác nhau mà giới hạn về phạm vi người lao động là khác nhau. Như vậy,
vẫn có một số lượng lớn những người không được bảo hiểm là những người
không thuộc nhóm người lao động như: trẻ em, người nội trợ,…
Mức hưởng của BHXH còn thấp, đôi khi không đủ để người gặp rủi ro có thể
ổn định lại đời sống.
 Quỹ chi trả BHXH gói gọn trong một quốc gia, không có yếu tố nước ngoài, vì
vậy khi xảy ra những vụ biến cố, tai nạn trên diện rộng thì có khả năng gây vỡ
quỹ. Ví dụ như gần đây xảy ra những vụ tai nạn kinh hoàng làm hàng thiệt mạng
và bị thương hàng trăm người vụ chìm phà ở Hàn Quốc làm 304 người thiệt
mạng vào năm 2014 hay liên tiếp trong 2 năm 2014, 2015 có đến 3 chiếc máy bay
chở hàng trăm hành khách bị rơi. Khi xảy ra những tai nạn với quy mô lớn như
vậy, nếu chỉ có quỹ BHXH chi trả thì khả năng vỡ quỹ là rất lớn.
SV: Nguyễn Thị Thảo Anh Lớp: Kinh tế Bảo hiểm 53B

8
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
Khi xã hội ngày càng phát triển, đời sống được nâng cao thì con người ngày
càng quan tâm đến việc nâng cao chất lượng cuộc sống. Vì vậy BHCN là một
nghiệp vụ của BHTM ra đời nhằm cung cấp các sản phẩm bổ sung cho sự hạn chế
của BHXH, BHYT, BHTN. BHCN có thể triển khai ở tất cả mọi đối tượng quần
chúng, có thể bù đắp thêm những tổn thất mà BHXH không đáp ứng được hoặc
mới khắc phục được một phần, và BHCN còn có thể đáp ứng được nhiều nhu cầu
ngày càng cao của con người.
Chính vì sự cần thiết này mà BHCN đã xuất hiện rất sớm, ngay từ TK XIV, XV
ở Bắc Mỹ và Châu Âu. Và đến nay, nó ngày càng được lan rộng và phát triển.
1.1.1.2. Vai trò của Bảo hiểm con người Phi nhân thọ
Bảo hiểm con người phi nhân thọ ra đời có một vai trò vô cũng to lớn không
chỉ đối với chính người tham gia bảo hiểm mà còn đối với toàn xã hội. Cụ thể
những vai trò to lớn của BHCNPNT như sau:
 Đối với người tham gia: Khi tham gia bảo hiểm họ có quyền yên tâm hơn về
mặt tinh thần trong cuộc sống, yên tâm hoạt động và sản xuất từ đó nâng cao
hiệu quả lao động. Còn nếu trong trường hợp không may rủi ro, tai nạn xảy ra
người tham gia và gia đình họ có được nguồn tài chính cần thiết để nhanh chóng
ổn định lại cuộc sống.
 Đối với các tổ chức, doanh nghiệp tham gia bảo hiểm cho nhân viên vừa thể
hiện sự quan tâm tới người lao động khiên họ yên tâm làm việc từ đó vừa nâng
cao được năng suất, lợi nhuận của công ty; mặt khác, khi có rủi ro xảy ra thì tổ
chức, doanh nghiệp cũng giảm được những khoản bồi thường vì khi đó đã có bảo
hiểm chịu trách nhiệm chi trả. Hơn nữa với việc làm đó, doanh nghiệp cũng nâng
cao được uy tín và thương hiệu trên thị trường.
 Đối với toàn xã hội: BHCNPNT góp phần chăm sóc sức khỏe cho cộng đồng
và cho toàn xã hội, thể hiện sự tương thân tương ái của người tham gia bảo
hiểm. Bên cạnh đó, BHCNPNT còn làm tăng hiệu quả lao động xã hội thông qua
việc tăng hiệu quả cá nhân. Ngoài ra, BHCNPNT cũng góp phần đảm bảo an sinh

xã hội, chính sự bồi thường của các công ty bảo hiểm giúp khách hàng ổn định
cuộc sống khi gặp rủi ro giúp cho nhà nước phải hỗ trợ ít hơn, dành số tiền đó
đầu tư phát triển kinh tế xã hội, quay trở lại đảm bảo cuộc sống ổn định cho
người dân. Đồng thời, cũng là công cụ để huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong
công chúng, tạo việc làm, giải quyết các vấn đề xã hội.
SV: Nguyễn Thị Thảo Anh Lớp: Kinh tế Bảo hiểm 53B
9
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của Bảo hiểm con người Phi nhân thọ
1.1.2.1. Khái niệm
Bảo hiểm con người phi nhân thọ là sự cam kết giữa người được bảo hiểm
và người tham gia bảo hiểm mà trong đó người bảo hiểm sẽ trả cho người tham
gia (hoặc người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm) một số tiền nhất định khi có
những sự kiện đã định trước xảy ra (như ốm đau, tai nạn, ) còn người tham gia
bảo hiểm phải nộp phí bảo hiểm đầy đủ, đúng hạn.
Nói cách khác, bảo hiểm con người phi nhân thọ là quá trính bảo hiểm cho
các rủi ro không liên quan đến sinh mạng, cuộc sống và tuổi thọ của con người.
Dưới đây là một số khái niệm làm liên quan đến Bảo hiểm con người phi
nhân thọ :
 Đối tượng bảo hiểm: Là tình trạng tính mạng, sức khỏe và khả năng lao
động của con người (tính mạng của con người Phi nhân thọ hoàn toàn khác với
khái niệm “sống” và “chết” trong bảo hiểm con người nhân thọ).
 Người được bảo hiểm: Là người có tính mạng, tình trạng sức khỏe được bảo
hiểm, là bên nhận được sự bảo vệ của bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm.
 Người tham gia bảo hiểm: Là người đứng ra ký hợp đồng bảo hiểm và đóng
phí bảo hiểm. Có thể là người được bảo hiểm những cũng có thể là người không
được bảo hiểm.
 Người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm: Là người được chỉ định nhận tiền bảo
hiểm được ghi trước trong hợp đồng bảo hiểm theo yêu cầu của người được bảo
hiểm hoặc thừa hưởng quyền lợi theo pháp luật

 Phạm vi bảo hiểm: Bảo hiểm con người phi nhân thọ có phạm vi bảo hiểm
tùy thuộc vào từng công ty khác nhau với những quy định riêng và khả năng của
mình mà quy định phạm vi bảo hiểm phù hợp với các nghiệp vụ cụ thể theo quy
định của pháp luật.
 Số tiền bảo hiểm: Là số tiền mà bên tham gia yêu cầu được thỏa thuận trong
hợp đồng bảo hiểm. Số tiền bảo hiểm được xác định dựa trên nhu cầu và khả
năng cung cấp dịch vụ của người được bảo hiểm.
 Hợp đồng bảo hiểm: Là văn bản xác nhận việc thỏa thuận giữa người bảo
hiểm và người tham gia bảo hiểm trong đó bao gồm mọi chi tiết về các điều kiện
bảo hiểm, các điều khoản loại trừ, thời hạn bảo hiểm, phí bảo hiểm và các thông
tin có liên quan khác. Hình thức hợp đồng bảo hiểm phổ biến nhất hiện nay là cấp
đơn bảo hiểm hoặc giấy chứng nhận bảo hiểm. Ngoài đơn bảo hiểm chính người
SV: Nguyễn Thị Thảo Anh Lớp: Kinh tế Bảo hiểm 53B
10
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
ta còn sử dụng rất nhiều những phụ lục bảo hiểm, phụ lục chính là một phần của
đơn bảo hiểm.
 Tai nạn: Là sự kiện bất ngờ không nhìn thấy trước, xảy ra ngoài sự kiểm
soát của người được bảo hiểm, gây ra bởi một tác nhận từ bên ngoài, có thể cảm
nhận được và là nguyên nhân trực tiếp làm cho người được bảo hiểm chết hoặc
thương tật.
 Ốm đau, bệnh tật: Là sự biến chất về sức khỏe do bất cứ nguyên nhân nào.
Bao gồm cả sự lây truyền, tai nạn. Công ty bảo hiểm sẽ căn cứ vào nguồn gốc của
bệnh và thời điểm có bệnh để phân loại các bệnh.
 Mất khả năng lao động: Được chia thành hai loại đó là mất khả năng lao
động tạm thời và mất khả năng lao động vĩnh viễn.
 Mất khả năng lao động tạm thời: Là trạng thái người lao động phải ngừng
việc trong một thời gian nhất định, sau khi điều trị sức khỏe phục hồi như ban
đầu và quay trở lại làm việc.
 Mất khả năng lao động vĩnh viễn: Là trạng thái người lao động phải ngừng

việc vĩnh viễn, mặc dù được điều trị phẫu thuật nhưng sức khỏe vẫn không thể
được phục hồi lại như cũ và không thể trở lại làm việc. Trường hợp nà được xác
định thông qua giám định y khoa và được lượng hóa bằng một tỷ lệ phần trăm
suy giảm sức khỏe.
 Chi phí y tế: Là tất cả các khoản chi phí phát sinh liên quan đến người bệnh
bao gồm ba loại sau: Những chi phí phát sinh trực tiếp tại các bệnh viện và cơ sở
điều trị; Những chi phí chuyển viện đưa đón bệnh nhân; Chi phí chăm sóc nuôi
dưỡng bệnh nhân sau khi điều trị.
 Bệnh viện: Là cơ sở khám chữa bệnh được nhà nước công nhận mà ở đó có
khả năng và phương tiện chẩn đoán, điều trị và phẫu thuật, có điều kiện điều trị
nội trú và có phiếu theo dõi sức khỏe hàng ngày cho bệnh nhân.
1.1.2.2. Đặc điểm
Khác với bảo hiểm con người nhân thọ là quá trình bảo hiểm cho các rủi ro
liên quan đến sinh mạng, cuộc sống và tuổi thọ của con người, bảo hiểm con
người phi nhân thọ có những đặc điểm khác sau:
 Hậu quả của những rủi ro mang tính chất thiệt hại vì rủi ro bảo hiểm ở đây
là tai nạn, bệnh tật, ốm đau, thai sản, liên quan đến thân thể và sức khỏe của con
người.
SV: Nguyễn Thị Thảo Anh Lớp: Kinh tế Bảo hiểm 53B
11
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
Ở Bảo hiểm con người phi nhân thọ khác với sự kiện “sống” và “chết” của
bảo hiểm con người nhân thọ chính nên nó chỉ có tính chất rủi ro mà không có
tính tiết kiệm. Cũng chính vì vậy mà mức phí của bảo hiểm con người phi nhân
thọ thường rất thấp, rất phù hợp với các hợp đồng bảo hiểm nhóm.
 Người được bảo hiểm thường được quy định trong một khoảng tuổi nào đó,
các công ty bảo hiểm không chấp nhận bảo hiểm cho những người có độ tuổi quá
thấp hoặc quá cao. Ví dụ như ở Việt Nam các công ty bảo hiểm không chấp nhận
bảo hiểm cho trẻ em dưới 12 tháng tuổi và những người trên 65 tuổi, ở Anh thì
trẻ em dưới 3 tuổi và người trên 65 tuổi không được nhà bảo hiểm chấp nhận.

 Thời hạn bảo hiểm con người phi nhân thọ thường ngắn hơn so với con
người nhân thọ và thường là 1 năm như: Bảo hiểm tai nạn 24/24, bảo hiểm trợ
cấp nằm viện, , ngoài ra còn có những sản phẩm mà thời hạn bảo hiểm chỉ có vài
ngày hoặc vài giờ như: Bảo hiểm du lịch, Bảo hiểm tai nạn hành khách,
 Phí bảo hiểm thường được nộp một lần khi ký kết hợp đồng bảo hiểm.
 Bảo hiểm con người phi nhân thọ được quản lý theo kỹ thuật phân chia đối
với quỹ bảo hiểm. Chính vì vậy, nguồn quỹ này thường được hạch toán ngay
trong năm nghiệp vụ bảo hiểm.
 Các nghiệp vụ bảo hiểm con người phi nhân thọ thường được triển khai kết
hợp với các nghiệp vụ khác trong cùng một hợp đồng bảo hiểm. Ví dụ như Bảo
hiểm tai nạn lái phụ xe được triển khai kết hợp với Bảo hiểm trách nhiệm dân sự
và Bảo hiểm vật chất thân xe trong hợp đồng Bảo hiểm xe cơ giới, Bảo hiểm tai
nạn được lồng ghép trong Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp, Việc kết hợp triển khai
này sẽ làm giảm chi phí khai thác, chi phí quản lý và các chi phí khác của công ty
bảo hiểm từ đó có điều kiện làm giảm phí bảo hiểm.
 Vì thời hạn bảo hiểm ngắn, tính rủi ro thể hiện rất rõ, phí bảo hiểm thấp cho
nên ở trên thế giới loại hình bảo hiểm này thường ra đời sớm hơn loại hình bảo
hiểm con người nhân thọ. Ở Việt Nam, hầu hết các nghiệp vụ bảo hiểm con người
phi nhân thọ được triển khai vào cuối những năm thập 80 và đầu thấp kỷ 90, còn
bảo hiểm con người nhân thọ đến tận năm 1996 mới được tổ chức triển khai.
1.1.3. Phân loại Bảo hiểm con người Phi nhân thọ
Tùy theo từng tiêu chí mà có thể chia bảo hiểm con người phi nhân thọ
thành các loại khác nhau. Nếu phân chi theo tính chất của rủi ro thì có thể chia
sản phẩm bảo hiểm con người phi nhân thọ thành ba loại là:
SV: Nguyễn Thị Thảo Anh Lớp: Kinh tế Bảo hiểm 53B
12
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
 Bảo hiểm tai nạn: Là loại hình bảo hiểm khi một tai nạn bất ngờ xảy ra làm
người được bảo hiểm tử vong hoặc thương tật thân thể, người bảo hiểm sẽ được
thụ hưởng các khoản tiền theo điều khoản của hợp đồng. Các nghiệp vụ bảo hiểm

thuộc loại này như: Bảo hiểm tai nạn thuyền viên,Bảo hiểm tai nạn con người
24/24,…
 Bảo hiểm sức khỏe: Có mục đích thanh toán các khoản trợ cấp chi phí y tế
cho người được bảo hiểm trong các trường hợp bị ốm đau, bệnh tật, tai nạn,
phải vào viện điều trị và phẫu thuật hoặc bị chết do bệnh tật thuộc phạm vi bảo
hiểm. Các nghiệp vụ bảo hiểm thuộc loại này như: Bảo hiểm trợ cấp nằm viện
phẫu thuật,
 Loại hình cuối cùng là loại hình bảo hiểm kết hợp: Loại bảo hiểm này sẽ
thanh toán một khoản tiền khi người được bảo hiệm bị thương tật hoặc tử vong
do tai nạn phải nằm viện phẫu và/hoặc phẫu thuật tử vong do ốm đau bệnh tật.
1.1.4. Nội dung cơ bản của một số nghiệp vụ Bảo hiểm con người phi nhân
thọ
Trên thế giới cũng như ở Việt Nam hiện nay đã và đang triển khai rất nhiều
nghiệp vụ BHCN phi nhân thọ mà hiện tại họ đã gán cho nó một cái tên là “Bảo
hiểm Tai nạn & sức khỏe”. Tuy nhiên, khi thiết kế sản phẩm BHCN phi nhân thọ
liên quan đến lĩnh vực này thì có rất nhiều sản phẩm khác nhau ra đời. Có những
sản phẩm chỉ là một sản phẩm cá biệt của nghiệp vụ nào đó. Có thể kể đến một số
nghiệp vụ sau: Bảo hiểm sinh mạng cá nhân, Bảo hiểm tai nạn 24/24, Bảo hiểm
trợ cấp nằm viện phẫu thuật, Bảo hiểm trẻ em, Bảo hiểm du lịch, Bảo hiểm tai
nạn – hành khách, Bảo hiểm con người khác,
Dưới đây là nội dung của một số nghiệp vụ cơ bản:
1.1.4.1. Bảo hiểm sinh mạng cá nhân
 Mục đích: Góp phần ổn định cuộc sống của người thân và gia đình sau cái
chết của người được bảo hiểm. Người tham gia bảo hiểm thường là những người
từ 15 – 65 tuổi không mắc bệnh hiểm nghèo và không phải là người tàn tật.
 Phạm vi bảo hiểm: Thường là chết do nhiều nguyên nhân. Tuy nhiên
những trường hợp chết do tự tử, nhiễm phóng xạ, chiến tranh, nội chiến không
thuộc phạm vi bảo hiểm.
SV: Nguyễn Thị Thảo Anh Lớp: Kinh tế Bảo hiểm 53B
13

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
 Thời gian bảo hiểm: Thường là dưới một năm. Loại hình bảo hiểm này
rất phù hợp với những người làm ở các ngành nghề như khai khoáng, thợ lặn,
tiếp viên hàng không, phi công, lái xe,
 Số tiền bảo hiểm: thường được các nhà bảo hiểm quy định ở rất nhiều
mức khác nhau để thỏa mãn nhu cầu của nhiều đối tượng khách hàng.
 Phí bảo hiểm thường được nộp một lần. Phí được xác định chủ yếu căn cứ
vào: số tiền bảo hiểm; độ tuổi, ngành nghề của người được bảo hiểm; thời gian
bảo hiểm.
Tuy nhiên, tỷ lệ phí ở đây được xác định theo một công thức chung mang
tính tổng quát sau:
P = S
b
x R = S
b
x (R
1
+ R
2
)
Trong đó: R
1
: tỷ lệ phí thuần. Được tính bằng công thức:
R
1
x 100
R
2
: tỷ lệ phụ phí
Công thức trên được tính toán riêng cho từng nhóm người hoặc từng nhóm

độ tuổi. Đồng thời, cũng có thể được tính riêng cho từng hạn mức số tiền bảo
hiểm.
 Vấn đề chi trả, bồi thường: loại hình bảo hiểm này chỉ được chi trả, bồi
thường khi người được bảo hiểm bị chết, khi sự kiện bảo hiểm xảy ra thuộc phạm
vi bảo hiểm.
Số tiền bảo hiểm = Số tiền bồi thường
Tuy nhiên, nếu người được bảo hiểm phải điều trị do ốm đau, bệnh tật,…
người bảo hiểm có thể chi trả toàn bộ chi phí có liên quan sau đó bị chết di những
hiện tượng ốm đau, bệnh tật đó, NBH chi trả nốt phần còn lại (Số tiền bảo hiểm –
chi phí).
1.1.4.2. Bảo hiểm tai nạn 24/24
 Mục đích: Góp phần ổn định cuộc sống gia đình, người thân, cơ quan đơn
vị và doanh nghiệp khi người được bảo hiểm không may bị chết do tai nạn hoặc
bị thương tật tạm thời hay vĩnh viễn do tai nạn.
 Đối tượng tham gia: Thường là những người từ 15-65 tuổi. Loại hình bảo
hiểm này rất phù hợp với những người lao động trong những ngành nghề dễ tai
nạn lao động.
 Phạm vi bảo hiểm: bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn hoặc bị chết do tai nạn
(nếu chết do ốm đau bệnh tật thì không thuộc phạm vi bảo hiểm). Nếu bị tai nạn
SV: Nguyễn Thị Thảo Anh Lớp: Kinh tế Bảo hiểm 53B
14
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
do chiến tranh, khủng bố hay vi phạm pháp luật thì không thuộc phạm vi bảo
hiểm.
 Thời hạn bảo hiểm: thường là dưới 1 năm.
 Số tiền bảo hiểm: được quy định nhiều mức để phù hợp với khách hàng.
 Phí bảo hiểm: thường được xác định theo công thức:
P = f + d
Trong đó: f – phí thuần, được tính theo công thức:
f =

Trong đó: T
i
: Tổng số tiền chi trả cho những người tham gia bảo
hiểm bị tai nạn phải điều trị hoặc phẫu thuật.
C
i
: Tổng chi trả cho những người bị tai nạn sau đó bị chết.
B
i
: Tổng số người tham gia bảo hiểm năm thứ i.
d – phụ phí
Nếu tính f theo công thức nói trên các nhà bảo hiểm cũng thường quy định:
+ Tính riêng cho từng nhóm người.
+ Tính riêng cho từng ngành nghề công tác.
Vấn đề bồi thường, chi trả được tiến hành như sau:
+ Nếu bị tai nạn sau đó chết: Số tiền bồi thường = Số tiền bảo hiểm.
+ Nếu bị tai nạn sau đó phải chữa trị:
Số tiền bồi thường = Chi phí thực tế < Số tiền bảo hiểm.
+ Nếu bị tai nạn nhà bảo hiểm đã bồi thường chi trả nhưng sau một năm
kể từ ngày bị tai nạn người được bảo hiểm bị chết mà nguyên nhân do tai nạn đó
thì nhà bảo hiểm chi trả nốt phần còn lại.
Ngoài ra, nhà bảo hiểm còn thiết kế những bảng barem về bồi thường, chi
trả theo mức độ tai nạn cụ thể liên quan đến thân thể con người.
1.1.4.3. Bảo hiểm học sinh
 Mục đích: Khi rủi ro xảy ra. Bảo hiểm học sinh sẽ giúp học sinh và gia đình
học sinh một khoản tiền nhất định để nhanh chóng khắc phục khó khăn, phục hồi
sức khỏe, sớm trở lại đi học; tạo mối liên hệ chặt chẽ, gắn bó giữa nhà trường, gia
đình và nhà bảo hiểm để từ đó làm tốt hơn công tác phòng, hạn chế, ngăn ngừa
tai nạn nhanh chóng khắc phục hậu quả của tai nạn, rủi ro xảy ro đối với học
sinh; mặt khác, thông qua hoạt động bảo hiểm giúp học sinh nâng cao ý thức

cộng đồng ngay từ khi còn nhỏ tuổi.
 Người được bảo hiểm: Là tất cả mọi học sinh từ nhà trẻ, mẫu giáo đến
sinh viên đại học.
SV: Nguyễn Thị Thảo Anh Lớp: Kinh tế Bảo hiểm 53B
15
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
 Phạm vi bảo hiểm: Bị chết trong mọi trường hợp; bị tai nạn thương tật;
ốm đau, bệnh tật phải nằm viện điều trị và phẫu thuật.
 Không thuộc phạm vi bảo hiểm: Học sinh đến tuổi thành niên bị chết do
tự tủ, tiêm chích ma túy; do hành động cố ý của người được bảo hiểm, người
tham gia bảo hiểm hay người được thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm (trừ những
người được bảo hiểm ở tuổi vị thành niên); điều trị hoặc phẫu thuật các bệnh
bẩm sinh, chỉnh hình, thẩm mỹ, làm chân tay giả; chiến tranh, phóng xạ,…
 Thời hạn bảo hiểm: Thường thị ở nghiệp vụ này thời hạn bảo hiểm có thể
là một năm học hoặc năm dương lịch.
 Số tiền bảo hiểm: Được ấn định thành nhiều mức để người tham gia dễ
dàng lựa chọn cho phù hợp với khả năng tài chính của họ.
 Phí bảo hiểm và chi trả tiền bảo hiểm: Vì đây là nghiệp vụ hỗ hợp của cả
tai nạn và sức khỏe nên về nguyên tắc được thực hiện giống như nghiệp vụ bảo
hiểm tai nạn con người 24/24 và bảo hiểm trợ cấp nằm viện phẫu thuật.
1.1.4.4. Bảo hiểm tai nạn hành khách
 Mục đích: Triển khai nghiệp vụ bảo hiểm tai nạn hành khách góp phần ổn
định cuộc sống và người thân sau cái chết của người bị tai nạn trên các phương
tiện giao thông công cộng (bởi vì theo thống kê hàng năm trên thế giới, có hơn
70% hành khách trên các phương tiện công cộng đều là chủ chốt của gia đình, cơ
quan doanh nghiệp). Ngoài ra, triển khai nghiệp vụ này còn giúp chính quyền địa
phương nơi xảy ra tai nạn kịp thời khắc phục hậu quả của các vụ tai nạn xảy ra.
 Đối tượng Bảo hiểm: Tất cả hành khách đi trên các phương tiện công
cộng có vé và được miễn giảm giá vé (ở Việt Nam cũng như trên thế giới quy định
5 loại phương tiện công cộng sau: máy bay chở khách, tàu hỏa, tàu biển, phà, ô tô

chở khách các loại)
 Phạm vi bảo hiểm của nghiệp vụ bảo hiểm này được quy định khá rõ:
+ Các phương tiện công cộng bị đâm va hoặc lật đổ.
+ Trục trặc kỹ thuật, thời tiết xấu, mưa bão, úng lụt.
+ Hành khách bị tai nạn trên các phương tiện công cộng (trường hợp ốm đau,
ngộ độc, trúng gió, không thuộc phạm vi bảo hiểm)
Ngoài ra, nếu bị tai nạn do nội chiến, khủng bố, chiến tranh, phóng xạ,… cũng
không thuộc phạm vi bảo hiểm.
SV: Nguyễn Thị Thảo Anh Lớp: Kinh tế Bảo hiểm 53B
16
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
 Thời hạn bảo hiểm: Tính từ lúc hành khách bước lên phương tiện công
cộng đến bến, ga, sân bay được ghi trên vé. Thời gian này bao gồm cả thời gian
hành khách chờ để thay đổi phương tiện theo như quy định.
 Số tiền bảo hiểm: thường do cơ quan quản lý nhà nước về bảo hiểm quy
định vì nghiệp vụ này mang tính chất bắt buộc theo luật quy định. Hơn nữa
nghiệp vụ này cũng có tính công cộng và tính xã hội rất cao. Thông thường, số
tiền bảo hiểm liên quan đến vận tải hàng không Việt Nam cũng như các nước
trên thế giới thường áp dụng theo tiêu chuẩn quốc tế (tối thiểu 20.000$ / hành
khách). Còn lại cơ quan nhà nước chủ động xác định. Tuy nhiên số tiền này còn
phụ thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội từng kỳ.
 Phí bảo hiểm: P = f + d
F =
Trong đó: V
i
– Tổng số tiền bồi thường cho những hành khách tham gia bảo hiểm
phải nằm viện điều trị phẫu thuật
C
i
– Tổng số tiền bồi thường cho những hành khách bị chết

L
ij
– Độ dài quãng đường j năm thứ i
K
ij
– Số lượng hành khách năm thứ I đi trên quãng đường j
Do loại hình bảo hiểm này là bắt buộc nên phí tính ngay vào giá vé. Vì vậy
ngành bảo hiểm cuối năm quyết toán với nhà vận tải nói riêng về số phí này cũng
như số tiền chi trả.
 Vấn đề bồi thường và chi trả trong nghiệp vụ này được quy định như sau:
+ Nếu xảy ra tai nạn và hành khách tử vong: STBT = STBH.
+ Nếu xảy ra tai nạn và hành khách phải nằm viện điều trị phẫu thuật thì
STBT = Chi trả thực tế < STBH
+ Nếu xảy ra tai nạn thuộc phạm vi bảo hiểm nhà bảo hiểm đã bồi thường
nhưng sau 1 năm đó lại bị chết do chính vụ tai nạn đó thì nhà bảo hiểm bồi
thường nốt phần còn lại.
1.1.4.5. Bảo hiểm du lịch
Đối tượng bảo hiểm của bảo hiểm du lịch: thường là sức khỏe, tài sản (tư
trang, hành lý), trách nhiệm dân sự khi sử dụng các phương tiện, trách nhiệm
pháp lý, trách nhiệm cung cấp thông tin, trách nhiệm xử lý những vấn đề liên
quan đến quốc gia…
Đối tượng tham gia của bảo hiểm du lịch thường là các cá nhân và tập thể
(nếu tập thể phải có đại diện), hộ gia đình, khách hàng VIP.
SV: Nguyễn Thị Thảo Anh Lớp: Kinh tế Bảo hiểm 53B
17
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
Phạm vi của bảo hiểm du lịch có thể được phân loại theo nhiều tiêu thức.
Cụ thể như: phạm vi quốc gia hay phạm vi toàn cầu; phạm vi theo tua, theo
chuyến hay tại địa điểm du lịch; thương tật toàn bộ vĩnh viễn hay tử vong, v.v.
Tuy nhiên, những trường hợp sau đây nhà bảo hiểm thường không chịu trách

nhiệm: tai nạn, ốm đau do khủng bố, chiến tranh, tự tử; vi phạm pháp luật, quy
định của ban tổ chức; bị mất cắp hoặc thất lạc tài sản nhưng không nằm trong
quy định của nhà bảo hiểm (trong thời gian chờ bay khi máy bay trễ)
Thời hạn của bảo hiểm du lịch tùy theo đối tượng khách du lịch, vì vậy các
nhà bảo hiểm thiết kế rất đa dạng. Thông thường đối với khách du lịch nước
ngoài, thời hạn bảo hiểm có thể tính từ lúc bước xuống sân bay, ga, bến xe, cho
đến khi lên bến xe, ga, sân bay về nước. Đối với khách nội địa đi du lịch trong
nước, thời hạn bảo hiểm thường tính theo thời gian tua hoặc thời hạn tại một
đại điểm du lịch nào đó hoặc tính từ lúc hành khách lên máy bay ra tàu và để đi
du lịch (công tác) nước ngoài đến khi bước lên ga, bến xe, sân bay để về nước.
Công tác giám định, bồi thường: vì sản phẩm bảo hiểm du lịch rất phong
phú, đa dạng và dễ xảy ra khiếu kiện đặc biệt là có yếu tố nước ngoài nên nhà bảo
hiểm đưa ra một số nguyên tắc như sau:
+ Nộp phí bằng đồng tiền nào thì bồi thường bằng đồng tiền đó.
+ Chỉ nhận bồi thường tiền, không bồi thường bằng hiện vật.
+ Khi xem xét tình tiết bồi thường, nhà bảo hiểm cũng phải đối chiếu chi
tiết với nhà bảo hiểm mà mình đã cam kết với khách hàng.
+ Tùy từng nghiệp vụ, nhà bảo hiểm phải đưa ra hạn mức trách nhiệm
nhất định.
+ Việc thông báo bồi thường trong bảo hiểm du lịch cần phải giới hạn rất
rõ thời gian (càng ngắn càng tốt)
1.2. Chỉ tiêu đánh giá sự phát triển của Bảo hiểm con người
1.2.1. Kết quả kinh doanh
1.2.1.1. Khái niệm
Kết quả kinh doanh của DNBH nói chung cũng như nghiệp vụ BHCN phi
nhân thọ nói riêng được thể hiện chủ yếu ở hai chỉ tiêu là: Doanh thu và lợi
nhuận trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm). Đó là cơ sở để tính toán
các chỉ tiêu khác có liên quan phục vụ phân tích hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp. Doanh thu của doanh nghiệp bảo hiểm phản ánh tổng hợp kết quả kinh
doanh. Chỉ tiêu này bao gồm các bộ phận cấu thành sau: doanh thu về hoạt động

SV: Nguyễn Thị Thảo Anh Lớp: Kinh tế Bảo hiểm 53B
18
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
kinh doanh bảo hiểm và tái bảo hiểm, thu nhập từ hoạt động đầu tư và các khoản
thu nhập khác. Để xác định kết quả kinh doanh của doanh nghiệp đạt được trong
kỳ tốt hay không tacó thể căn cứ vào doanh thu bao gồm doanh thu thực hiện,
doanh thu kế hoạch, từ đó xác định được chỉ tiêu phần trăm hoàn thành kế
hoạch. Chỉ tiêu này cho thấy doanh nghiệp hoàn thành vượt bao nhiêu phần trăm
kế hoạch đề ra. Từ đó phản ánh kết quả kinh doanh trong kỳ tốt hay không để
sớm đưa ra các giải pháp phù hợp khắc phục nhằm đẩy mạnh hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp.
% hoàn thành kế hoạch =
Bên cạnh đó, để xác định kết quả kinh doanh của doanh nghiệp ta còn có thể
căn cứ vào chỉ tiêu lợi nhuận đạt được trong kỳ. Chỉ tiêu là một số tuyệt đối được
tính thông qua doanh thu và chi phí. Chi phí của doanh nghiệp bảo hiểm là toàn
bộ số tiền doanh nghiệp bảo hiểm chi ra trong kỳ phục vụ cho quá trình hoạt
động kinh doanh trong vòng một năm như: chi phí khai thác, chi phí giám định,
chi phí chi trả bồi thường,…
Dựa vào các kết quả thu, chi sẽ tính được lợi nhuận trong kỳ mà doanh
nghiệp bảo hiểm thu được trong một năm. Có hai chỉ tiêu lợi nhuận(LN):
LN trước thuế = Tổng doanh thu - Tổng chi phí
LN sau thuế = LN trước thuế - Thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp
1.2.1.2. Phân tích kết quả kinh doanh nghiệp vụ.
Khi phân tích kết quả kinh doanh nghiệp vụ của doanh nghiệp có thể phân
các hướng sau:
 Phân tích theo cơ cấu doanh thu chi phí. Theo cách này, kết quả kinh
doanh thể hiện ở sự chênh lệch tuyệt đối giữa mức thu và mức chi. Nếu thu vượt
chi thì kinh doanh trong kỳ có lợi nhuận tức là doanh nghiệp đạt hiệu quả và
ngược lại. Đây là chỉ tiêu đơn giản, dễ tính, dễ hiểu nhất để phản ánh kết quả
hoạt động kinh doanh.

 Phân tích sự biến động của doanh thu, chi phí và lợi nhuận theo thời
gian. Theo hướng phân tích này, kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
được xem là có hiệu quả nếu doanh thu, lợi nhuận đạt được của doanh nghiệp
tăng theo thời gian còn chi phí bỏ ra giảm theo thời gian trong điều kiện quy mô
doanh nghiệp và cạnh tranh trên thị trường ít biến động.
 Phân tích tình hình thực hiện kế hoạch doanh thu và lợi nhuận. Nếu
doanh thu, lợi nhuận thực tế đạt được trong kỳ vượt mức kế hoạch đề ra thì hoạt
SV: Nguyễn Thị Thảo Anh Lớp: Kinh tế Bảo hiểm 53B
19
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
động kinh doanh của doanh nghiệp đã đạt hiệu quả tốt còn nếu ngược lại, hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp đã không đạt được hiệu quả như mong muốn.
Từ con số thống kê về doanh thu và lợi nhuận, doanh nghiệp phân tích
các yếu tố ảnh hưởng đến doanh thu và lợi nhuận. Các yếu tố này bao gồm: tính
cạnh tranh trên thị trường, quy mô doanh nghiệp, thị phần doanh nghiệp đạt
được trong kỳ, các hoạt động quảng bá hình ảnh…
1.2.2. Hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ BHCN của doanh nghiệp
1.2.2.1. Khái niệm
Hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ của DNBH là thước đo sự phát triển nghiệp
vụ đó của DNBH và phản ánh trình độ sử dụng chi phí trong việc tạo ra những kết
quả kinh doanh nhất định, nhằm đạt được những mục tiêu đã đề ra.
Với tư cách là thước đo sự phát triển của DNBH, hiệu quả kinh doanh được
thể hiện ở các chỉ tiêu đặc trưng kinh tế, xã hội khác nhau. Hiệu quả kinh doanh
nghiệp vụ của DNBH luôn gắn với các mục tiêu kinh tế - xã hội. Trước hết là
những mục tiêu của doanh nghiệp, sau đó là của ngành bảo hiểm và toàn bộ nền
kinh tế - xã hội. Bởi kinh doanh bảo hiểm mà đặc biệt là kinh doanh BHCN không
chỉ mang tính kinh tế mà còn mang tính xã hội. Cho nên khi đánh giá hiệu quả
của một DNBH không chỉ xét trên góc độ kinh tế mà còn phải xét trên góc độ phục
vụ xã hội.
1.2.2.2. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh

Xét trên phương diện thống kế, để biểu hiện và đo lường hiệu quả kinh
doanh nghiệp vụ của DNBH không thể dùng một chỉ tiêu mà phải có hệ thống các
chỉ tiêu. Bởi vì nội dung của phạm trù hiệu quả kinh doanh rất rộng và rất phức
tạp nên phải dùng hệ thống các chỉ tiêu, mỗi chỉ tiêu phản ánh một mặt, một quá
trình kinh tế nào đó.
Nếu ký hiệu một chỉ tiêu chi phí nào đó là C và một chỉ kiêu kết quả kinh
doanh nào đó là K thì chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh được tính theo hai chỉ tiêu
trên là:
H = K/C hoặc H = C/K
Do đó, về nguyên tắc cứ mỗi chỉ tiêu phản ánh kết quả kinh doanh so sánh
với một chỉ tiêu chi phí nào đó sẽ tạo thành một chỉ tiêu phản ánh kết quả kinh
SV: Nguyễn Thị Thảo Anh Lớp: Kinh tế Bảo hiểm 53B
20
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
doanh tính theo chiều thuận hoặc chiều nghịch. Nếu có n chỉ tiêu kết quả và m chỉ
tiêu chi phí thì số lượng chỉ tiêu hiệu quả sẽ là 2*m*n.
a, Nếu đứng trên góc độ kinh tế:
Hiệu quả kinh doanh của DNBH được đo bằng tỷ số giữa doanh thu hoặc lợi
nhuận với tổng chi phí chi ra trong kỳ:
1, H
d
= D/C
2, H
c
= L/C
Trong đó:
D: Doanh thu của doanh nghiệp bảo hiểm
C: Chi phí bỏ ra kinh doanh
H
d,

H
c
: Hiệu quả kinh doanh doanh nghiệp bảo hiểm theo chỉ tiêu doanh
thu và lợi nhuận.
b, Nếu xét trên góc độ xã hội.
Hiệu quả kinh tế xã hội của DNBH thể hiện ở hai chỉ tiêu sau:
H
X1
= K
TG
/C
BH
H
X2
= K
BT
/C
BH.
Trong đó:
H
X
: Hiệu quả xã hội của công ty bảo hiểm.
C
BH
: Tổng chi phí cho hoạt động kinh doanh nghiệp vụ BHCN.
K
TG
: Số khách hàng tham gia BHCN trong kỳ.
K
BT

: Số khách hàng được bồi thường BHCN trong kỳ.
1.2.2.3. Phân tích hiệu quả kinh doanh theo các khâu công việc đối với
BHCN
Cũng như các nghiệp vụ bảo hiểm khác quá trình triển khai nghiệp vụ BHCN
bao gồm các khâu công việc: khâu khai thác, khâu đè phòng hạn chế tổn thất,
khâu giám định, khâu bồi thường tổn thất… để nâng cao hiệu quả nghiệp vụ, đòi
hỏi phải nâng cao hiệu quả của từng khâu. Điều đó có nghĩa là phải xác định hiệu
quả từng khâu. Sau đó đánh giá xem xét khâu nào chưa mang lại hiệu quả để tìm
ra nguyên nhân và cách khắc phục.
a, Hiệu quả khâu khai thác.
Hiệu quả khai thác trong kỳ =
Kết quả khai thác trong kỳ có thể là doanh thu phí bảo hiểm từ nghiệp vụ
BHCN cũng có thể là số người tham gia bảo hiểm trong kỳ… còn chi phí khai thác
có thể là tổng chi phí trong khâu khai thác hoặc là tổng số đại lý khai thác trong
kỳ.
SV: Nguyễn Thị Thảo Anh Lớp: Kinh tế Bảo hiểm 53B
21
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
b, Hiệu quả hoạt động giám định.
Hiệu quả giám định bảo hiểm =
Tử số của chỉ tiêu này có thể là số vụ rủi ro xảy ra đã được giám định hoặc
số người tham gia đã được bồi thường trong kỳ. Mẫu số là tổng chi phí giám
định.
c, Hiệu quả công tác đề phòng hạn chế tổn thất.
Hiệu quả công tác đề phòng hạn chế tổn thất =
Hiệu quả của công tác đề phòng hạn chế tổn thất phản ánh cứ một đồng chi
phí đề phòng hạn chế tổn thất bỏ ra trong kỳ thì sẽ tham gia tạo ra bao nhiêu
đồng lợi nhuận cho nghiệp vụ này. Chỉ tiêu này có tác dụng rất lớn khi đưa vào
phân tích nghiệp vụ BHCN.
Như vậy, thông qua các chỉ tiêu này có thể đánh giá được toàn bộ kết quả và

hoạt động kinh doanh nghiệp vụ BHCN của doanh nghiệp. Từ đó thấy được các
ưu, nhược điểm và tìm ra các giải pháp nhanh chóng khắc phục nằhm đưa hoạt
động kinh doanh của DNBH nói chung cũng như hoạt động kinh doanh nghiệp vụ
BHCN nói riêng ngày càng phát triển.
SV: Nguyễn Thị Thảo Anh Lớp: Kinh tế Bảo hiểm 53B
22
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI BẢO HIỂM CON NGƯỜI TẠI BẢO
VIỆT NGHỆ AN
2.1. Vài nét về Bảo Việt Nghệ An
2.1.1 Sự ra đời và phát triển
Bảo hiểm là một ngành dịch vụ tài chính có phạm vi hoạt động rộng liên quan
đến mọi lĩnh vực trong cuộc sống hàng nganỳ cũng như trong các hoạt động rộng
liên quan đến mọi lĩnh vực trong cuộc sống hàng ngày cũng như trong các hoạt
động sản xuất kinh doanh khác. Đặc điểm tạo nên sự khác biệt của ngành bảo
hiểm so với các ngành khác là bảo hiểm cung cấp một cơ chế tài chính tốt nhất
cho các cá nhân và tổ chức – một nhu cầu không thể thiếu trong cuộc sống hiện
đại. Thực tế trên thị trường thế gới, bảo hiểm đã được ra đời rất lâu nhưng do
điều kiện kinh tế nước ta còn lạc hậu lại bị chiến tranh tàn phá nên thị trường
bảo hiểm nước ta được hình thành khá muộn. Ngày 17/12/1964 Chính phủ mới
quyết định thành lập Công ty bảo hiểm Việt Nam và ngày 15/01/1965 Bảo Việt
mới chính thức đi vào hoạt động.
Ngày 18/04/1981, Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An ra quyết định thành lập
Phòng bảo hiểm Nghệ Tĩnh nằm trong Sở Tài chính Nghệ Tĩnh là tiền thân của
Bảo Việt Nghệ An ngày nay. Trong những năm đầu mới thành lập, phòng bảo
hiểm Nghệ Tĩnh chủ yếu thực hiện một số nghiệp vụ bảo hiểm hành khách, bảo
hiểm tàu biển viễn dương, bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới.
Năm 1986, với sự đổi mới của Đảng, hoạt động bảo hiểm trên địa bàn ngày
càng phát triển, ngoài việc phát triển các nghiệp vụ tuyền thống nhiều nghiệp vụ
bảo hiểm mới được triển khai và phát triển như bảo hiẻm tai nạn lao động, bảo

hiểm tai nạn học sinh, bảo hiểm tàu thuyền đánh cá, bảo hiểm thí điểm vật nuôi,
cây trồng.
Năm 1987, Phòng Bảo hiểm Nghệ tĩnh đạt tốc độ phát triển mạnh mẽ của
nhiều nghiệp vụ mới như bảo hiểm tai nạn học sinh, bảo hiểm tai nạn con người,
bảo hiểm tàu cá, bảo hiểm nông nghiệp và nhằm đáp ứng cho sự phát triển đó,
Bộ Tài chính đã ra quyết định chuyển Phòng bảo hiểm thành Chi nhánh bảo hiểm
Nghệ Tĩnh, điều này thể hiện sự lớn mạnh về cơ cấu tổ chức cũng như phát trinể
kinh doanh của Bảo Việt trên địa bàn.
SV: Nguyễn Thị Thảo Anh Lớp: Kinh tế Bảo hiểm 53B
23
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
Năm 1989, với quy mô phát triển lớn mạnh của Bảo Việt, thấy rõ tầm quan
trọng của hoạt động bảo hiểm trong giai đoạn mới, Bộ Tài Chính đã quyết định
thành lập lại Bảo Việt, chuyển Công ty Bảo hiểm Việt Nam thành Tổng công ty
bảo hiểm Việt Nam, các chi nhánh tại các Tỉnh, thành phố đều được chuyển thành
công ty. Công ty Bảo hiểm Nghệ Tĩnh ra đời từ đây.
Tháng 9/1991, thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước, tỉnh Nghệ Tĩnh
được tách ra làm 2 tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh. Để đáp ứng được nhu cầu phát triển
bảo hiểm trên địa bàn và chính sách của nhà nước , Công ty bảo hiểm Nghệ Tĩnh
tách thành 2 công ty: Công ty bảo hiểm Hà tĩnh và Công ty bảo hiểm Nghệ An
chính là tiền thân của Bảo Việt Nghệ An ngày nay.
Từ năm 1996, thị trường bảo hiểm bắt đầu có thay đổi với sự tham gia hoạt
động của các Doanh nghiệp bảo hiểm tạo nên sự cạnh tranh quyết liệt. Nhưng với
sự đổi mới mạnh mẽ với tổ chức bộ máy, phong cách phục vụ, xác định yếu tố con
người là quyết định, Công ty tổ chức phân loại cán bộ, tuyển dụng, đào tạo va đào
tạo lại cán bộ theo phong cách làm việc hiện đại. Được sự giúp đỡ của Tổng công
ty bảo hiểm Việt Nam, Cong ty mở rộng mạng lưới phục vụ xuống tận các huyện,
xã bằng việc thành lập các phòng bảo hiểm khu vực 2, 3, 4, 5 tại các huyện Diễn
Châu, Đô Lương, Quỳnh Lưu, Nghĩa Đàn, tuyển dụng và đào tạo hàng trăm đại lý
chuyên nghiệp, bán chuyên nghiệp nhằm phục vụ khách hàng tốt nhất. Bên cạnh

những sản phẩm bảo hiểm truyền thống như bảo hiểm tàu thuyền, bảo hiểm
hàng hóa XNK, bảo hiểm ô tô, xe máy, Công ty đã triển khai nhiều sản phẩm bảo
hiểm mới như: bảo hiểm con người, bảo hiểm học sinh- sinh viên, bảo hiểm xây
dựng – lắp đặt… Đặc biệt là các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ được công ty bắt
đầu triển khai từ năm 1996 và đã phát triển với tốc độ rất nhanh.
Tính đến năm 2000, thực hiện Luật kinh doanh Bảo hiểm do Quốc hội khóa X
thông qua và nhằm đáp ứng nhu cầu các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ, một bộ
phận cán bộ của Công ty Bảo hiểm Nghệ An được tách ra thành lập Công ty bảo
hiểm nhân thọ Nghệ An. Đánh dấu một mốc quan trọng là từ năm 2000, trên đại
bàn Nghệ An có hai đơn vị thành viên của Bảo Việt cùng hoạt động, trong đó
Công ty bảo hiểm nhân thọ Nghệ An chuyên kinh doanh các sản phẩm bảo hiểm
nhân thọ, Công ty bảo hiểm Nghệ An chuyên kinh doanh các sản phẩm bảo hiểm
phi nhân thọ.
Từ năm 2001 – 2006 mức độ cạnh tranh trên thị trường bảo hiểm ngày càng
gay gắt, quyết liệt. Thực hiện chiến lược phát triển của Tổng công ty Bảo hiểm
SV: Nguyễn Thị Thảo Anh Lớp: Kinh tế Bảo hiểm 53B
24
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
Việt Nam “đổi mới, hiệu quả và phát triển bền vững” với phương châm hoạt động
là “phục vụ khách hàng tốt nhất để phát triển”, Công ty Bảo hiểm Nghệ An xác
định hướng hành động là “Lấy khách hàng làm trung tâm hoạt động”. Công ty đã
thực hiện đổi mới phong cách phục vụ, mở rộng mạng lưới phục vụ khác tới tận
vùng dân cư, tới tận địa chỉ khách hàng. Đưa đến cho khách hàng nhiều tiện ích
như: Tổ chức trực hỗ trợ giải quyết tai nạn 24/24 giờ; thành lập Trung tâm cứu
hộ miễn phí xe cơ giới; đơn giản hóa thủ tục hồ sơ và rút ngắn thời gian giải
quyết quyền lợi bảo hiểm… Những cải tiến mạnh mẽ và nâng cao chất lượng
phục vụ của công ty được khách hàng đánh giá cao. Nhờ đó, khách hàng truyền
thống của công ty ổn định và các có nhiều khách hàng mới đến với công ty.
Ngày 23/11/2007, Bộ Tài chính có quyết định số 45/GP?KDBH đổi tên Tổng
công ty Bảo hiểm Việt Nam thành Tổng Công ty bảo hiểm Bảo Việt. Từ đó, Công ty

bảo hiểm Nghệ An được đổi tên thành Công ty Bảo Việt Nghệ An.
Nhờ đạt được nhiều thành tựu to lớn trong hoạt động phát triển kinh doanh,
theo quyết định số 151/2008/QĐ/HĐTV-BHBV, ngày 18/01/2008 của chủ tịch hội
đồng thành viên Tổng Công ty Bảo hiểm Bảo Việt, Công ty Bảo Việt Nghệ an đã
được xếp hạng doanh nghiệp hạng nhất.
Từ đó đến nay, Bảo Việt Nghệ An luôn đứng trong top 5 chi nhánh hoạt động
hiệu quả nhất trong toàn hệ thống Bảo Việt.
2.1.2. Cơ cấu tổ chức
Hiện nay, trong Công ty Bảo Việt Nghệ An có tất cả 14 phòng, gồm 4 phòng
nghiệp vụ, 7 phòng bảo hiểm khu vực, 3 phòng quản lý. Lực lượng lao động gồm
57 cán bộ, 1075 đại lý. Trong số cán bộ: trình độ trên đại học có 1 người; đại học
48 người, trung cấp, công nhân kỹ thuật 7 người; khác 1 người.
SƠ ĐỒ CƠ CẤU TỔ CHỨC
SV: Nguyễn Thị Thảo Anh Lớp: Kinh tế Bảo hiểm 53B
25
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
SV: Nguyễn Thị Thảo Anh Lớp: Kinh tế Bảo hiểm 53B

×