Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Lê Lựu thời kỳ đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (684.73 KB, 100 trang )


1
Bộ giáo dục và đào tạo
Trờng đại học s phạm hà nội 2






Phạm thu minh




Thế giới nhân vật trong tiểu
thuyết lê lựu thời kỳ đổi mới


luận văn thạc sĩ văn HọC







Hà nội, 2010




2

Lời cảm ơn
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo TS. Nguyễn Thị
Kiều Anh, ngời đã tận tình hớng dẫn, giúp đỡ tôi hoàn thành luận
văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo đã giảng dạy các
chuyên đề trong thời gian học tập tại trờng, ban chủ nhiệm khoa ngữ
văn, phòng Sau đại học trờng Đại học S phạm Hà Nội 2 đã đóng
góp ý kiến và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập và
nghiên cứu.
Xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ, động viên của bạn bè và gia
đình.


Hà Nội, ngày tháng năm 2010
Tác giả



Phạm Thu Minh

3
Mục lục


Trang

Trang phụ bìa


Lời cảm ơn

Lời cam đoan

Mục lục
Bảng Kí hiệu các chữ viết tắt


Mở đầu
1
1. Lý do chọn đề tài
1
2. Lịch sử vấn đề
3
3. Mục đích nghiên cứu
9
4. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu
9
4.1. Đối tợng nghiên cứu
9
4.2. Phạm vi nghiên cứu
9
5. Phơng pháp nghiên cứu
9
5.1. Phơng pháp thống kê - phân loại
9
5.2. Phơng pháp phân tích
10
5.3. Phơng pháp so sánh
10

Nội dung

11
Chơng 1: Quan niệm nghệ thuật về con ngời trong tiểu thuyết của Lê
Lựu thời kì đổi mới
11
1.1. Khái niệm quan niệm nghệ thuật về con ngời
11
1.2. Quan niệm nghệ thuật về con ngời trong văn học Việt Nam thời kì
đổi mới
12
1.3. Quan niệm nghệ thuật về con ngời trong tiểu thuyết của Lê Lựu
thời kì đổi mới
14
1.3.1. Quan niệm nghệ thuật về con ngời trong tiểu thuyết của Lê
Lựu trớc thời kì đổi mới
14

4
1.3.2. Quan niệm nghệ thuật về con ngời trong tiểu thuyết của Lê
Lựu thời kì đổi mới
17
Chơng 2: Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết của Lê Lựu thời kì đổi
mới
26
2.1. Khái niệm về nhân vật và thế giới nhân vật
26
2.1.1. Khái niệm về nhân vật
26
2.1.2. Khái niệm thế giới nhân vật

28
2.2. Vài nét về nhân vật tiểu thuyết và nhân vật trong văn học Việt Nam
thời kì đổi mới
30
2.2.1. Vài nét về nhân vật tiểu thuyết
30
2.2.2. Nhân vật trong văn học Việt Nam thời kì đổi mới 33
2.3. Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết của Lê Lựu thời kì đổi mới 36
2.3.1. Nhân vật bi kịch 36
2.3.2. Nhân vật tha hóa biến chất 42
2.3.3. Nhân vật hớng thiện 48
2.3.4. Nhân vật lỡng hóa 52
2.3.5. Nhân vật đám đông

56
Chơng 3: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết của Lê Lựu
thời kỳ đổi mới
63
3.1. Nghệ thuật khắc họa tâm lý nhân vật 63
3.2. Nghệ thuật miêu tả tính cách và số phận nhân vật 72
3.3. Ngôn ngữ nghệ thuật 77
3.3.1. Ngôn ngữ đối thoại 78
3.3.2. Ngôn ngữ độc thoại 83
KếT LUậN
93
Danh mục các công trình của tác giả
95
Danh mục các tài liệu tham khảo
96




5
Mở đầu

1. Lý do chọn đề tài
Lê Lựu sinh ngày 12/12/1942 tại thôn Mẫn Hòa, xã Tân Châu, huyện Khoái
Châu, tỉnh Hng Yên trong một gia đình nhà nho nghèo. Năm 1959, Lê Lựu gia
nhập quân đội và chính nơi đây ông đã trở thành một nhà văn nhà báo. Sau giải
phóng, ông về công tác tại tòa soạn Tạp chí Văn nghệ quân đội trong nhiều năm.
Hiện nay, đại tá nhà văn Lê Lựu, ngoài công việc sáng tác, ông còn là giám đốc
trung tâm văn hóa doanh nghiệp.
Mặc dù không nổi bật ngay từ khi mới xuất hiện nh một số nhà văn cùng thời
nhng Lê Lựu đã có đợc những thành tựu nhất định. Ông đã làm nên một khuôn
mặt riêng và tạo dựng đợc cho mình một vị trí khá vững chắc trong nền văn xuôi
đơng đại Việt Nam. Những thể nghiệm đầu tay của ông là hàng loạt truyện ngắn
xuất hiện khá đều đặn trên tạp chí Văn nghệ quân đội và báo Văn nghệ vào những
năm 60: Tết làng Mụa (Văn nghệ quân đội, 2/1964), Những ngời ở lại hậu
phơng (Văn nghệ quân đội,7/1964), Gan góc Bạch Long (Văn nghệ quân đội,
7/1965), Những ngời đi nối mạch cầu (Văn nghệ, 2/1967), Nhng phải đến
truyện Ngời cầm súng, đợc trao giải nhì (không có giải nhất) trong cuộc thi
truyện ngắn do tuần báo Văn nghệ tổ chức năm 1967 - 1968 Lê Lựu mới thực sự
đợc bạn đọc chú ý.
Ngay trong những truyện ngắn đầu tay và đặc biệt với truyện vừa Ngời về
đồng cói, sáng tác của Lê Lựu đã đem đến cho ngời đọc một không khí mới toát ra
từ chất liệu của đời, của hiện thực khách quan. Đúng nh quan niệm của ông: Toàn
bộ những trang viết của tôi chỉ theo đuổi một nguyên tắc là thật. Tôi không thể viết
đợc nếu không bám lấy sự thật [48]. Có ngời đã cho rằng với Ngời về đồng cói
văn của Lê Lựu đã có chất tiểu thuyết. Rồi nh một duyên nghiệp, ngòi bút của
ông đã thâm nhập vào địa hạt của tiểu thuyết nh muốn bộc lộ rõ hơn cái chất tiểu


6
thuyết tiềm ẩn trong t duy sáng tạo của ông. Và không phải ngẫu nhiên sau đó Lê
Lựu lần luợt trình diện làng văn các tiểu thuyết: Mở rừng (1977), Ranh giới (1979).
Phải đến Thời xa vắng thì vị thế của Lê Lựu trong làng văn mới thực sự đợc
khẳng định một cách chắc chắn. Tác phẩm đợc giải A của Hội nhà văn Việt Nam
năm 1986. Đây không chỉ là tác phẩm để đời trong sự nghiệp văn chơng của nhà
văn mà còn là tác phẩm có ý nghĩa tiền trạm trong tiến trình đổi mới văn xuôi Việt
Nam sau 1975.
Sau tiểu thuyết Thời xa vắng (1986), Lê Lựu tiếp tục cho ra đời: Đại tá không
biết đùa (1989), Chuyện làng Cuội (1993), Sóng ở đáy sông (1994), Hai nhà
(2000). Trong đó tiểu thuyết Sóng ở đáy sông đã đợc chuyển thành phim nhựa
cùng tên.
Ngoài t cách một nhà văn, Lê Lựu còn là một nhà báo có tài. Những bút kí
của ông viết về nớc Mỹ: Một thời lầm lỗi (1989), Trở lại nớc Mỹ (1990) đã thực
sự đem đến cho bạn đọc những trang viết sắc sảo, sinh động và cuốn hút.
Với các thể loại truyện ngắn, truyện vừa, ký, tiểu thuyết Lê Lựu đều gặt hái
đợc những thành công nhất định, đặc biệt với các tiểu thuyết sáng tác trong thời kì
đổi mới. Năm 2001, Lê Lựu là một trong số hiếm hoi những nhà văn của thế hệ
chống Mỹ, vinh dự đợc nhận giải thởng Nhà nớc với cụm tác phẩm: Ngời cầm
súng, Mở rừng, Thời xa vắng.
Qua những trang viết của ông, có thể nhận ra một t duy văn học hết sức sắc
sảo. Lê Lựu có sở trờng nắm bắt những cái mới, thời sự của cuộc sống đơng đại.
Phần lớn tiểu thuyết của ông đều thể hiện cái nhìn nhạy bén, có nhiều phát hiện đối
với hiện thực. Tác phẩm của Lê Lựu chứa đựng nét độc đáo, mới lạ của một cây bút
tiềm tàng khả năng sáng tạo. Đặc biệt thế giới nhân vật trong tiểu thuyết của Lê Lựu
đã làm nên những dấu ấn riêng cho sáng tác của ông trong việc khám phá hiện thực
và thể hiện con ngời. Việc nghiên cứu về nhân vật trong tiểu thuyết của Lê Lựu có
ý nghĩa quan trọng vừa nhằm nhìn nhận, đánh giá những thành công về một trong


7
những phơng diện nghệ thuật viết tiểu thuyết của tác giả vừa thấy đợc những đóng
góp của nhà văn vào quá trình cách tân văn học Việt Nam đơng đại. Đồng thời
nghiên cứu nhân vật trong tiểu thuyết Lê Lựu cũng là cách vận dụng thực tiễn (nghệ
thuật xây dựng nhân vật của một tác giả cụ thể) để nghiên cứu, hiểu sâu thêm về
những kiến thức lý luận văn học: lý thuyết về nhân vật văn học (đặc điểm, vị trí, ý
nghĩa, nghệ thuật xây dựng nhân vật), về thể loại (tiểu thuyết, nhân vật trong tiểu
thuyết),về phong cách nhà văn.
Sự độc đáo, mới lạ của tiểu thuyết Lê Lựu trên thực tế đã đợc d luận quan
tâm. Đã có một số bài viết, một số luận văn khoa học nghiên cứu, đánh giá về tác
phẩm của ông. Nhng cha có bài viết, công trình nào đi sâu vào phơng diện nhân
vật trong sáng tác cũng nh trong tiểu thuyết của Lê Lựu.
Vì những lý do trên, chúng tôi chọn nghiên cứu: Thế giới nhân vật trong tiểu
thuyết Lê Lựu thời kì đổi mới.
2. Lịch sử vấn đề
Lê Lựu là nhà văn có quá trình sáng tác lâu dài, có uy tín và đã đợc khẳng
định trong d luận. Trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại, khi nói đến thành tựu
của văn học chống Mỹ và văn học thời kì đổi mới, giới nghiên cứu văn học không
thể không nhắc đến nhà văn Lê Lựu và đặt ông ở vị trí xứng đáng của thế hệ nhà văn
trởng thành trong kháng chiến chống Mỹ, đồng thời là ngời khơi nguồn cảm hứng
mới cho văn xuôi Việt Nam trong thời kì đổi mới.
Những gặt hái đầu tiên trên hành trình sáng tạo của Lê Lựu là ở thể loại
truyện ngắn. Ngay từ những sáng tác đầu tay của Lê Lựu, giới phê bình đã ghi nhận:
Lê Lựu là một ngời đang tìm tòi. Truyện nào anh cũng tìm đợc những nét tính
cách mới, những hớng khai thác vấn đề mới. Anh có năng lực quan sát khá nhạy
bén, sắc sảo và một bút lực đủ sức cắt rời đợc những mảnh đời bề bộn tơi nguyên
vào trong trang sách, cái khả năng rất đáng quý ở một cây bút trẻ [59].

8
Có thể thấy Lê Lựu là nhà văn giàu tâm huyết với nghề. Ông luôn viết hết

mình nh ông sống. Nói nh nhà thơ Trần Đăng Khoa: Lê Lựu biết cuốn hút ngời
đời bằng thứ văn đọc không nhạt. Ngay cả ở những truyện xoàng xoàng, ngời đọc
vẫn thu lợm đợc một cái gì đó (). Nghĩa là đọc anh không bị lỗ trắng. Cũng bởi
Lê Lựu là nhà văn không chấp nhận sự nhạt nhẽo tầm thờng. Dù ở bất cứ tác phẩm
nào dù lớn hay nhỏ Lê Lựu cũng có vấn đề gì đấy gửi gắm [70].
Tác giả Lê Hồng Lâm chỉ rõ: Quyết liệt - có thể gọi tên cái tính cách đó của
nhà văn Lê Lựu trong cuộc sống đời thờng cũng nh khi ông thể hiện nó trên trang
viết (). Ông luôn viết hết mình nh Ông sống, yêu ghét rạch ròi và đặc biệt đi đến
tận cùng tính cách của nhân vật. [42].
Song điều đáng chú ý đối với ngòi bút Lê Lựu ở giai đoạn này là khả năng
nới rộng dung lợng thể loại trong sáng tác của ông. Phải đến Thời xa vắng, sáng
tác của ông mới thực sự có sức lôi cuốn đối với độc giả cũng nh giới nghiên cứu
phê bình văn học.Và cũng từ Thời xa vắng trở đi, mỗi tiểu thuyết của Lê Lựu đều
tạo đợc sự quan tâm rộng rãi trong d luận.
Khi Thời xa vắng ra đời, các nhà nghiên cứu văn học đã nhận thấy trong tác
phẩm này có cách nhìn hiện thực mới. Giáo s Phong Lê cho rằng: Giang Minh
Sài thất bại, nhng cả xã hội thì thắng lợi, cả xã hội đang vật vã trong những chuẩn
bị cho cái thời xa vắng ấy qua đi. Không còn bi kịch kiểu Giang Minh Sài, cho
những Giang Minh Sài khác đợc sống làm mình ngay từ đầu Thời xa vắng là sự
đón nhận trớc cái yêu cầu nhìn thẳng vào sự thật và nhận thức lại lịch sử đợc đề
ra với Đại hội VI cuối năm 1986 [44].
Tác giả Nguyễn Hoà nhận thấy Thời xa vắng là sự Đi tìm lại những chân
giá trị từng bị đánh mất, từng bị lãng quên. Viên đại bác Thời xa vắng khoan
thủng các tấm màn vô hình che giấu nhiều điều lâu nay chúng ta không nhớ tới. Quá
khứ đâu chỉ là chiếc bánh ngọt ngào mà có cả vị đắng cay [39].

9
Nhà thơ Trần Đăng Khoa cảm nhận đợc Thời xa vắng là sự khái quát lịch
sử bằng số phận bi thảm của anh nông dân Giang Minh Sài [70].
Bởi vậy tác giả Vơng Trí Nhàn đã khẳng định: Thời xa vắng nên đợc xem

là cuốn sách biết làm đúng nhiệm vụ một tác phẩm văn học cần làm [50].
Khẳng định thành công của Lê Lựu trong việc xây dựng nhân vật, tác giả
Ngô Vĩnh Bình cho rằng: Chúng ta đã từng làm quen với Chí Phèo (trong truyện
Chí Phèo) của Nam Cao, Năm Sài Gòn (trong tiểu thuyết Bỉ Vỏ) của Nguyên Hồng,
lại đợc biết Lão Khúng (trong truyện ngắn nổi tiếng Khách ở quê ra) của Nguyễn
Minh Châu. Mấy năm gần đây, sau tiểu thuyết Thời xa vắng (giải thởng Hội nhà
văn Việt Nam 1986) ra mắt, bạn đọc đợc biết thêm một nhân vật văn học nữa là
anh Sài, viết đầy đủ họ và tên là Giang Minh Sài [24].
Trần Đăng Khoa lại nhận thấy tài năng của Lê Lựu bộc lộ ở những nhân vật
phụ rất sống động [70]. Anh khẳng định:Ai hiểu đời t Lê Lựu sẽ có cảm giác
Thời xa vắng nh một cuốn tự truyện của tác giả. Lê Lựu đã in quá đậm bóng dáng
của mình xuống trang giấy đến nỗi ngời ta nhầm anh với Sài còn gọi anh là anh cu
Sài [70].
Thời xa vắng của Lê Lựu ra đời đợc đông đảo d luận xôn xao và hởng
ứng cũng bởi Lê Lựu đã xây dựng một nhân vật Giang Minh Sài anh hùng không
có truyền thuyết, không cần đến truyền thuyết. Tác giả đã không miêu tả Sài nh
một anh hùng kiểu truyền thống, Sài mang tất cả sự biến đổi sâu xa và nỗi đau bất
hạnh của con ngời.
Tâm sự về cuốn Thời xa vắng, nhà văn Lê Lựu đã bộc lộ: Tôi viết Thời xa
vắng trong nỗi day dứt về sự đau đớn và mất mát của con ngời. Đã đến lúc cần
phải viết một cái gì về thân phận con ngời [47].

10
Tiếp nối mạch cảm hứng của Thời xa vắng, Lê Lựu cho ra đời Đại tá không
biết đùa (1989), Chuyện làng cuội (1993), Sóng ở đáy sông (1994), Hai nhà
(2000),đã thêm một lần nữa khẳng định vốn sống và sức viết của nhà văn.
Đại tá không biết đùa (1989) là cuốn tiểu thuyết mang đậm khuynh hớng
triết lí. Tác phẩm đợc tác giả Nguyễn Ngọc Thiện đánh giá: Là một thể nghiệm
của Lê Lựu, không còn là mới khi so sánh với các nớc khác, nhng đã làm phong
phú thêm cách viết tiểu thuyết ở ta, rất đáng hoan nghênh. Vấn đề đặt ra trong

tác phẩm cũng là vấn đề muôn thuở: tình yêu lứa đôi trong những ngời trẻ tuổi và
xung đột về nhận thức, ứng xử giữa hai thế hệ cha - con, già - trẻ. Xung quanh vấn
đề này, kèm theo đó là những hậu qủa mang tính xã hội của nó [61].
Năm 1993, Chuyện làng Cuội ra mắt bạn đọc cũng đợc d luận chú ý. Tuy
nhiên hầu hết độc giả lẫn giới phê bình lại không tìm đợc tiếng nói chung với nhà
văn. Theo tác giả Dơng Trọng Dật tác phẩm này thể hiện Sự kém bản lĩnh của một
phù thuỷ non tay ấn trớc những âm binh mà mình dựng lên [31].
Trớc nhiều ý kiến khen chê của d luận, chúng tôi muốn đa ra một chính
kiến của nhà văn Lê Lựu: Qua cuốn tiểu thuyết Chuyện làng Cuội, tôi muốn đặt
ra một vấn đề nghiêm chỉnh mà lại có ý nghĩa thời sự. Tôi muốn nói lên rằng nhân
dân có thể chịu tất cả mọi sự chà đạp, lừa dối của đế quốc, phong kiến, chịu mọi hi
sinh, mất mát trong bớc thăng trầm của đất nớc và của chính cuộc đời họ. Nhng
đến khi họ bị chính ngời thân yêu ruột thịt chà đạp, lừa dối thì họ đã không sống
nổi. Xã hội ta hiện nay đang có mầm mống anh em ruột thịt chà đạp lừa dối lẫn
nhau. Đây là một hiện tợng đáng báo động cần phải ngăn chặn và lên án [66].
Sau tiểu thuyết Chuyện làng Cuội, Lê Lựu viết Sóng ở đáy sông (1994), Hai
nhà (2000), đó cũng là những thành công mới của nhà văn, khi ông tiếp tục khơi sâu
vào đời sống riêng t, bi kịch hôn nhân gia đình. Hai cuốn tiểu thuyết đợc d luận
cho rằng: Đọc rất vào vì ngòi bút phân tích tâm lí của Lê Lựu đạt đến trình độ lão
luyện. Với Hai nhà Lê Lựu không còn dự báo mà đi thẳng vào phân tích nguyên

11
nhân tan rã của gia đình đuợc coi là tế bào của xã hội, là pháo đài cuối cùng trong
cuộc bắn phá của thói vô cảm, thói đạo đức giả [58, tr717].
Nh vậy có thể thấy trong những tiểu thuyết thời kì đổi mới của Lê Lựu Thời
xa vắng gây đợc sự chú ý của bạn đọc nhiều hơn. Các ý kiến nói chung thống nhất
đánh giá rất cao giá trị của tác phẩm, xem tác phẩm nh là một cột mốc văn học
đáng chú ý của văn học hiện đại Việt Nam. D luận về bốn tiểu thuyết còn lại tha
thớt hơn.
Gần đây, tiểu thuyết Lê Lựu thời kì đổi mới đã đợc đề cập đến trong một số

luận văn tốt nghiệp Đại học và sau Đại học.
- Năm 1999, tại truờng ĐHSP Hà Nội, Nguyễn Thị Hơng Lan bảo vệ thành
công luận văn thạc sĩ với đề tài: Tiểu thuyết viết về nông thôn trong văn xuôi Việt
Nam thời kì đổi mới. Trong đó tác giả luận văn đã khảo sát mảng viết về nông thôn
qua Thời xa vắng, Chuyện làng Cuội.
- Năm 2000, tại ĐHKHXH - NV, Nguyễn Anh Vũ đã bảo vệ thành công
luận văn đại học với đề tài: Truyện và tiểu thuyết luận đề thời kì đổi mới. Tác giả
luận văn đã dành một chơng nghiên cứu về Thời xa vắng và Hai nhà của Lê Lựu.
- Năm 2002, tác giả Trần Thị Kim Soa đã bảo vệ thành công luận văn thạc sĩ
tại trờng Đại học s phạm Hà Nội với đề tài: Tiểu thuyết Lê Lựu thời kì đổi mới.
Luận văn này khái quát tiểu thuyết Lê Lựu trên ba phơng diện:
- Quan niệm nghệ thuật về hiện thực
- Quan niệm nghệ thuật về con ngời
- Nghệ thuật thể hiện
- Năm 2003, tác giả Nguyễn Thị Định đã bảo vệ thành công luận văn thạc sĩ
trờng Đại học s phạm Hà Nội với đề tài: Thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết Lê

12
Lựu thời kì đổi mới. Luận văn này khái quát tiểu thuyết Lê Lựu trên ba phơng
diện:
- Bức tranh hiện thực từ điểm nhìn nhân bản
- Nhân vật trong tiểu thuyết Lê Lựu thời kì đổi mới
- Hình tợng tác giả
- Năm 2005, tác giả Thái Thị Mỹ Bình đã bảo vệ thành công luận văn thạc sĩ
trờng Đại học s phạm Hà Nội với đề tài: Thời xa vắng của Lê Lựu và tiến trình
đổi mới văn xuôi Việt Nam sau 1975. Luận văn này khái quát tiểu thuyết Lê Lựu
trên ba phơng diện:
- Bản chất xã hội thẩm mĩ của văn xuôi Việt Nam sau 1975 và
những bớc phát triển cơ bản của nó.
- Thời xa vắng và sự đổi mới văn xuôi Việt Nam sau 1975 trên bình

diện nội dung.
- Thời xa vắng và sự đổi mới văn xuôi Việt Nam sau 1975 trên bình
diện thi pháp, nghệ thuật.
Nhìn một cách tổng quát, có thể nhận thấy, tiểu thuyết của Lê Lựu nói chung,
thế giới nhân vật trong tiểu thuyết của Lê Lựu nói riêng đã và đang trở thành những
vấn đề đợc quan tâm. Tuy nhiên, trên thực tế, hầu hết các ý kiến nhận xét, đánh giá
mới tồn tại dới dạng một bài viết, một phần nội dung (đối với luận văn thạc sĩ,
khoá luận tốt nghiệp đại học). Cha có một công trình nào đi sâu nghiên cứu một
cách hệ thống, toàn diện vấn đề nhân vật trong tiểu thuyết Lê Lựu. Nhận ra khoảng
trống đó, trong luận văn này, chúng tôi tiến hành đi sâu khảo sát, nghiên cứu về
nhân vật trong tiểu thuyết Lê Lựu một cách khoa học, hệ thống và toàn diện. Những
ý kiến đánh giá nói trên chính là cơ sở khoa học để chúng tôi tiếp tục công trình
nghiên cứu của mình.

13
3. Mục đích nghiên cứu
Chọn đề tài Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Lê Lựu thời kì đổi mới chúng
tôi mong muốn đóng góp một phần nào đó vào tìm hiểu, khám phá thế giới nhân vật
cũng nh nghệ thuật xây dựng nhân vật độc đáo, hấp dẫn trong tiểu thuyết của Lê
Lựu thời kì đổi mới. Qua đó, thấy đợc tài năng nghệ thuật của Lê Lựu trong việc
ghi lại những gì xảy ra xung quanh cuộc sống của con ngời thời hiện đại.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn là chỉ ra các
loại nhân vật và nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết Lê Lựu thời kì đổi
mới ở ba phơng diện: Nghệ thuật khắc họa tâm lý nhân vật, nghệ thuật miêu tả tính
cách và số phận nhân vật, ngôn ngữ nghệ thuật.
5. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tợng nghiên cứu
Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết của Lê Lựu thời kì đổi mới
5.2. Phạm vi nghiên cứu

Những tiểu thuyết của nhà văn Lê Lựu thời kì đổi mới (bao gồm 5 tác phẩm):
- Thời xa vắng (1986)
- Đại tá không biết đùa (1989)
- Chuyện làng Cuội (1993)
- Sóng ở đáy sông (1994)
- Hai nhà (2000)


14
6. Phơng pháp nghiên cứu
6.1. Phơng pháp thống kê - phân loại
Khảo sát, thống kê toàn bộ hệ thống nhân vật trong tiểu thuyết Lê Lựu, từ đó
tiến hành phân loại nhân vật theo những tiêu chí riêng.
6.2. Phơng pháp phân tích
Tiến hành phân tích cụ thể các kiểu nhân vật cơ bản đợc xây dựng trong
tiểu thuyết Lê Lựu.
6.3. Phơng pháp so sánh
Tiến hành so sánh, đối chiếu giữa nhân vật trong truyện ngắn Lê Lựu với
nhân vật trong tiểu thuyết của chính tác giả và một số tác giả cùng thời để thấy đợc
những sáng tạo của Lê Lựu trong nghệ thuật xây dựng nhân vật ở mảng tiểu thuyết,
những kế thừa và cách tân, phong cách sáng tạo độc đáo của nhà văn.
7. Những đóng góp mới của đề tài
Về mặt lí luận: Với luận văn này, ngời viết sẽ làm nổi bật nét đặc sắc về
thế giới nhân vật và nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết Lê Lựu thời kì
đổi mới. Đồng thời luận văn sẽ khẳng định thêm sự đúng đắn tin cậy của con đờng
nghiên cứu văn học hiện nay.
Về mặt thực tiễn: Nghiên cứu đề tài này, chúng tôi muốn tìm hiểu những
đóng góp mới của Lê Lựu trong nghệ thuật tự sự của văn học Việt Nam. Thông qua
đó góp phần khẳng định tài năng và vị trí của Lê Lựu trong nền văn học mới. Đồng
thời sẽ giúp ngời đọc có những kiến giải sâu sắc về nhà văn này.




15
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và phần th mục tham khảo, luận văn
đợc triển khai thành ba chơng nh sau:
Chơng 1: Quan niệm nghệ thuật về con ngời trong tiểu thuyết
của Lê Lựu thời kì đổi mới.
Chơng 2: Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết của Lê Lựu thời kì
đổi mới
Chơng 3: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết của Lê
Lựu thời kỳ đổi mới












16
Nội dung

Chơng 1: Quan niệm nghệ thuật về con ngời trong tiểu thuyết của Lê
Lựu thời kì đổi mới

1.1. Khái niệm quan niệm nghệ thuật về con ngời
Quan niệm nghệ thuật về con ngời là yếu tố cơ bản, then chốt nhất của
một chỉnh thể nghệ thuật, chi phối toàn bộ tính độc đáo và hệ thống nghệ thuật của
chỉnh thể ấy.
Quan niệm nghệ thuật về con ngời biểu hiện trong toàn bộ cấu trúc của tác
phẩm văn học, nhng trớc hết biểu hiện tập trung ở các nhân vật, bởi Nhân vật
văn học là con ngời đợc miêu tả, thể hiện trong tác phẩm bằng phơng tiện văn
học [55, tr61]. Nhân vật văn học nào cũng biểu hiện cách hiểu của nhà văn về con
ngời theo một quan điểm nhất định và qua các đặc điểm mà anh ta lựa chọn. Nhân
vật văn học chính là mô hình về con ngời của tác giả. Tìm hiểu quan niệm nghệ
thuật về con ngời là việc làm hết sức cần thiết, có ý nghĩa để hiểu vấn đề nhân vật
văn học.Và quan niệm nghệ thuật về con ngời vẫn đợc coi là thớc đo sự tiến bộ
nghệ thuật từ xa đến nay.
Văn học là nhân học, là nghệ thuật miêu tả, biểu hiện con ngời. Văn học
có thể miêu tả rất nhiều đối tợng trong tự nhiên và xã hội nh thần linh, ma quỷ, đồ
vật, loài vật nhng nó vẫn lấy con ngời làm đối tợng nhận thức trung tâm
[36, tr402], các đối tợng khác đợc miêu tả cũng đều nhằm thể hiện con ngời.
Con ngời - đối tợng nhận thức trung tâm của văn học - ở đây là Con ngời với
toàn bộ tính tổng hợp, toàn vẹn, sống động trong các mối quan hệ đời sống phong
phú và phức tạp của nó trên phơng diện thẩm mĩ [36, tr402]. Chính vì thế, ngời
ta không thể miêu tả về con ngời nếu nh không hiểu biết, cảm nhận và có các
phơng tiện, biện pháp biểu hiện nhất định. Theo GS.Trần Đình Sử Quan niệm
nghệ thuật về con ngời là sự lí giải, cắt nghĩa, sự cảm thấy con ngời đã đợc hoá
thân thành các nguyên tắc, phơng tiện, biện pháp hình thức thể hiện con ngời

17
trong văn học, tạo nên giá trị nghệ thuật và thẩm mĩ cho các hình tợng nhân vật
trong đó [56].
Vấn đề quan niệm nghệ thuật về con ngời thuộc về lí luận văn học hiện đại.
Đã có một số công trình đề cập đến vấn đề này nh Lý luận văn học- Tập 1 (

Nguyên lý tổng quát); Lý luận văn học - tập 2, Nhng định nghĩa của GS Trần
Đình Sử trên đây có thể đợc coi là khái quát, đầy đủ hơn cả. Nhà nghiên cứu Trần
Đình Sử cho thấy vấn đề quan niệm nghệ thuật về con ngời thực chất là vấn đề: tính
năng động của nghệ thuật, là giới hạn, phạm vi chiếm lĩnh đời sống của một hệ
thống nghệ thuật, là khả năng thâm nhập của nó vào các miền khác nhau của cuộc
đời.
Nghệ sĩ đích thực là ngời suy nghĩ về con ngời, cho con ngời, nêu ra
những t tởng mới để hiểu về con ngời. Do đó, quan niệm nghệ thuật về con
ngời cũng chính là điểm tựa, là hớng dẫn, là thế giới nghệ thuật của nhà văn
Càng khám phá quan niệm nghệ thuật về con ngời thì càng đi sâu vào thực chất
sáng tạo của nhà văn, càng đánh giá đúng thành tựu của họ.
1.2. Quan niệm nghệ thuật về con ngời trong văn học Việt Nam thời kì
đổi mới
Quan niệm nghệ thuật về con ngời trong tác phẩm văn học luôn hớng vào
con ngời trong mọi chiều sâu có thể có, cho nên đây là tiêu chuẩn quan trọng nhất
để đánh giá giá trị nhân văn vốn có của một hiện tợng văn học. Chúng ta có thể
thấy, trớc năm 1975, văn học (mảng văn xuôi) phát triển trong hoàn cảnh đặc biệt
của hai cuộc chiến tranh vệ quốc và những biến cố cách mạng lớn lao. Theo sát
nhiệm vụ chính trị, tự ý thức mình nh một vũ khí t tởng, nó đã tập trung vào xây
dựng con ngời mới , con ngời cộng đồng. Nhà văn muốn thông qua con ngời
để biểu hiện lịch sử. Con ngời trở thành phơng tiện để khám phá lịch sử. Con
đờng giải quyết mọi bi kịch, mọi vớng mắc cá nhân là hớng về cách mạng, cộng
đồng. Quan niệm nghệ thuật về con ngời của văn học giai đoạn này mang đậm chất
sử thi. Sau năm 1975, đặc biệt từ sau Đại hội VI(1986) của Đảng, đất nớc bớc vào
thời kì đổi mới, văn học cũng bắt đầu thời kì phát triển mới, dân chủ hơn, cởi mở
hơn. Văn xuôi sau 1975, một mặt đợc soi sáng bởi t tởng của Đảng, mặt khác

18
đối diện với sự thức tỉnh, nhu cầu thức tỉnh cá nhân đã thực sự quan tâm đến con
ngời, có nhiều khám phá về con ngời. Có thể nói, sự thức tỉnh trở lại ý thức cá

nhân đã mở ra cho văn học nhiều đề tài và chủ đề mới. Văn học ngày càng đi tới
một quan niệm toàn vẹn và sâu sắc hơn về con ngời mà nền tảng triết học và hạt
nhân cơ bản của quan niệm ấy là t tởng nhân bản. Nguyễn Minh Châu khẳng định
một t tởng đầy sáng suốt và nhân hậu về con ngời để định hớng cho ngòi bút:
Cuộc sống trên trái đất này thời nào và ở đâu cũng đầy rẫy những oan khiên, oan
khuất, cái ác bao giờ cũng mạnh mẽ và lẫm liệt, đầy mu ma chớc quỷ, còn cái
thiện thì ngu ngơ và ngây thơ, lại thờng cả tin. Nhà văn tồn tại trên cõi đời có lẽ
trớc hết là vì thế: để làm công việc giống nh kẻ nâng giấc cho những ngời cùng
đờng tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn ngời ta đến chân tờng, những
con ngời cả tâm hồn và thể xác bị hắt hủi và đọa đầy đến ê chề, hoàn toàn mất hết
lòng tin vào con đờng và cuộc đời. Nhà văn tồn tại trên đời để bênh vực cho những
con ngời không còn có ai để bênh vực [25]. Quan niệm nghệ thuật về con ngời
đã có sự thay đổi căn bản. Cảm hứng nghiên cứu về con ngời, lấy con ngời làm
điểm quy chiếu lịch sử đã chi phối ngày càng mạnh mẽ các sáng tác thời kì này. Nhà
văn khao khát kiếm tìm câu trả lời về sự tồn tại của con ngời không phải nh một
nhà đạo đức hay một cán bộ tuyên huấn mà nh một nhà triết học, nhà t tởng,
mong muốn nắm bắt đợc những chân lí phổ quát về con ngời. Và văn xuôi sau
1975 đã thật sự có những phát hiện phong phú về con ngời, tự khẳng định bớc
trởng thành của t duy nghệ thuật bằng một quan niệm nghệ thuật mới về con
ngời. Nó quan tâm con ngời ở t cách cá nhân, xem xét con ngời từ nhiều phía,
nhiều tọa độ. Trong văn học xuất hiện con ngời không trùng khít với chính mình,
con ngời phức tạp, nhiều chiều. Có thể kể đến các tác phẩm tiêu biểu: Sống với
thời gian hai chiều (Vũ Tú Nam), Bức tranh, Ngời đàn bà trên chuyến tàu tốc
hành, Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu), Một cõi nhân gian bé tí
(Nguyễn Khải),Con ngời nh một tiểu vũ trụ đầy bí ẩn, không thể biết trớc,
không thể biết hết. Các nhân vật của Nguyễn Huy Thiệp nh trong Kiếm Sắc, Vàng
lửa, Những bài học nông thôn, Ma Văn Kháng (Chọn chồng, Thanh minh,)
đều có những đột biến tâm lí, tính cách, những hành động bất ngờ không thể đoán
trớc đợc. Con ngời hành động có khi theo sự chỉ huy của ý thức, của lí trí tỉnh
táo, có khi lại bị chi phối bởi tiếng nói của tâm linh, của vô thức, bản năng, thậm chí


19
bị chi phối bởi những khát thèm, những dục vọng tầm thờng (Nhân vật của Nguyễn
Huy Thiệp, Lê Minh Khuê, Ma Văn Kháng, Lê Lựu). Trình bày con ngời nh nó
vốn có, không lí tởng hóa, thần thánh hóa nó là đặc điểm nổi bật trong quan niệm
nghệ thuật về con ngời trong văn xuôi sau 1975. Quan niệm con ngời đời
thờng, con ngời phàm tục, không hoàn hảo vừa giống nh một sự đối thoại
với quá khứ, khớc từ những quy phạm cũ, vừa đề xuất hệ giá trị cũ, vừa đề xuất hệ
giá trị mới để đánh giá con ngời: hệ giá trị nhân bản [22].
1.3. Quan niệm nghệ thuật về con ngời trong tiểu thuyết của Lê Lựu
thời kì đổi mới
1.3.1. Quan niệm nghệ thuật về con ngời trong tiểu thuyết của Lê
Lựu trớc thời kì đổi mới
Trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại, khi nói đến những thành tựu
của văn học chống Mỹ và văn học thời kì đổi mới, giới nghiên cứu văn học không
thể không nhắc tới nhà văn Lê Lựu và đặt ông ở vị trí xứng đáng của thế hệ nhà văn
trởng thành trong kháng chiến chống Mỹ. Những thể nghiệm đầu tay của ông là
hàng loạt truyện ngắn xuất hiện khá đều đặn trên tạp chí Văn nghệ quân đội và báo
Văn nghệ vào những năm 60: Tết làng Mụa (Văn nghệ quân đội, 2/1964), Những
ngời ở lại hậu phơng (Văn nghệ quân đội,7/1964), Gan góc Bạch Long (Văn
nghệ quân đội, 7/1965), Những ngời đi nối mạch cầu (Văn nghệ, 2/1967), ghi
dấu một chặng đờng đã qua của lịch sử dân tộc, với mong muốn góp thêm một
tiếng nói cổ vũ cho chiến thắng. Qua những sáng tác ở chặng đầu ấy, có thể thấy Lê
Lựu quan tâm nhiều đến đề tài nông thôn. Những trang viết về địa phơng trong
trong những năm đánh Mỹ của Lê Lựu thờng chứa đựng phong vị nông thôn đậm
đà, ấm áp [63]. Đó là bức tranh hiện thực mang đầy hào khí của những năm tháng
hăng say sản xuất và sẵn sàng chiến đấu. Cuộc sống qua những trang văn Lê Lựu
tuy còn nhiều khó khăn gian khổ nhng con ngời cần cù, nhẫn nại, đầy ý chí bao
giờ cũng đứng vững và chiến thắng. Con ngời trong các truyện của Lê Lựu thời kì
này là những con ngời gắng quên đi cái riêng nhỏ bé của mình để dồn hết tâm

sức cho công việc chung vô cùng cấp bách của làng xóm. Trên cái nền chung ấy, Lê

20
Lựu đã làm toát lên sự khỏe khoắn, sôi động của cuộc sống con ngời ở những miền
quê không yên tĩnh, sẵn sàng hi sinh chịu đựng vì nghĩa lớn của dân tộc.
Chính vì vậy, ngời chiến sĩ đã trở thành nhân vật trung tâm trong sáng tác
văn học thời kì này. ở tác phẩm của mình, Lê Lựu đã đặt niềm tin tuyệt đối vào
ngời chiến sĩ cả khi anh ta chiến đấu ở chiến trờng lẫn khi anh ta từ mặt trận trở
về, bớc tiếp vào môi trờng thử thách mới, ở đâu anh ta cũng ngời sáng phẩm chất
cao quý của anh bộ đội cụ Hồ. Cuộc sống của ngời chiến sĩ đã tôi rèn thử thách
họ, mỗi ngời đã trởng thành và tự vợt lên mình trong môi trờng chiến đấu hết
sức khó khăn ác liệt. Ta bắt gặp trong sáng tác Lê Lựu thời kì này những con ngời
chân chất, mộc mạc, vui say lý tởng, không quản ngại hi sinh vất vả. Đó là Lu
Hoài Chung với hoài bão của tuổi trẻ, đã thể hiện ý chí chiến đấu mãnh liệt, tinh
thần hi sinh anh dũng trong trạm chiến đấu bảo vệ chốt để cho tiểu đoàn rút lui an
toàn (Chuyện kể từ đêm trớc). Anh lính sinh viên Hoàng, đêm đầu tiên ở chiến
trờng háo hức muốn đợc đi đầu trong trận đánh, nh những chiến sĩ giơng lá cờ
đỏ phần phật trong đoàn quân mà anh đã thấy qua phim ảnh, sách báo (Chính trị
viên và chiến sĩ mới). Có thể nói, truyện ngắn của Lê Lựu thời kì này đã tập trung
xây dựng những hình tợng nhân vật mang lí tởng đẹp đẽ đại diện cho sức mạnh
của cả một tập thể, một cộng đồng.
Dấu hiệu mới trong cách nhìn con ngời của Lê Lựu có lẽ bắt đầu thấp
thoáng ở một cuốn tiểu thuyết viết ngay sau khi chiến tranh kết thúc. Mở rừng
(1977) có một số thể nghiệm mạnh dạn ở hình tợng con ngời. Đó là những số
phận oai hùng và bi thảm, giản đơn và phức tạp [70]. Mỗi con ngời có số
phận riêng không ai giống ai. Nhà văn nh muốn phô bày, muốn diễn tả, muốn cắt
nghĩa, muốn nêu lên thành những vấn đề có ý nghĩa triết lý về chiến tranh, về con
ngời Việt Nam trong những năm kháng chiến chống Mỹ ở nhiều lớp ngời, nhiều
mảng sống. Trong cuộc sống chiến đấu gian khổ và nguy hiểm, mỗi ngời đều bộc
lộ bản chất của mình bằng những cách khác nhau, có những tâm trạng, suy nghĩ

hành động khác nhau. Chính ủy Văn Quang là một cán bộ chính trị xuất sắc có tầm
hiểu biết, tầm nhìn sâu rộng, có tác phong đĩnh đạc và chừng mực. Binh trạm trởng
Lan tận tụy xốc vác sống bằng cảm tính nhiều hơn lí tính, thẳng thắn đến nóng nảy
và thiên vị nhng lại biết phục thiện. Đại đội trởng Tờng rất có năng lực lãnh đạo,

21
có thừa nhiệt tình và dũng cảm, rất bộc trực, bốp chát nhng cũng có lúc phiêu
lu Dờng nh tất cả các nhân vật chính đều nh có hai cuộc sống tồn tại song
song. Một cuộc sống chiến đấu sôi nổi ở chiến trờng và một cuộc sống có phần
riêng t và tình cảm nơi hậu phơng. Điều này cũng giúp ngời đọc hiểu hơn lai lịch
của nhân vật, hiểu sâu hơn tâm trạng, suy nghĩ và phần nào làm nổi rõ tính cách
nhân vật.
Cũng nh thời Ngời cầm súng, cái nhìn của tác giả trong Mở rừng là cái
nhìn tin yêu và tự hào vì trong hiện thực ấy tất cả những con ngời bình thờng đều
trở thành anh hùng làm nên kì tích phi thờng. Tuy nhiên, là một tác phẩm viết về
chiến tranh, cảm hứng bao trùm vẫn là ngợi ca, khẳng định, song điều làm nên thành
công của tác phẩm là nhà văn đã bắt đầu khơi sâu vào thế giới bên trong, vào cõi
miền sâu kín của con ngời.
Sau Mở rừng, Lê Lựu tiếp tục đi vào một vấn đề có ý nghĩa thời sự về số
phận con ngời trong Ranh giới (1979). Với cuốn tiểu thuyết này, ông muốn thoát
ra khỏi quỹ đạo và môi trờng quen thuộc, đến với con ngời và cuộc sống đô thị
miền Nam sau ngày giải phóng.
Với Ranh giới, thông qua phát ngôn của nhân vật Hồng Ngân: Đời không
chớng ngại, không có biển cấm và dừng lại, Lê Lựu đã giới thiệu cho ngời đọc
một lối sống không cần đến lí tởng của một số ngời đã ảnh hởng và mang dấu ấn
của lối sống kiểu Mĩ. Hai tuyến nhân vật chính diện (Xuân, Linh) và phản diện
(Hoa, Cự, Tiềm) có lúc phát triển song song cùng nhân vật chính, có lúc các tính
cách ấy đan chéo vào nhau. Thông qua đó, Lê Lựu muốn bộc lộ một vấn đề cơ bản:
Mỗi con ngời nếu chỉ biết sống cho riêng mình, sống vì mình, buông thả, nghĩa là
sống không có ranh giới, không ý thức đợc việc mình làm thì cuối cùng ngời ấy

sẽ chẳng là gì cả.
Nh vậy, ngay trong những sáng tác trớc thời kì đổi mới, ngòi bút Lê Lựu
đã tỏ ra sắc cạnh khi miêu tả tính cách đa diện của con ngời. Con ngời đợc nhìn
nhận không chỉ ở mặt tốt xấu, đúng sai, mà con ngời phải đối diện trớc bao
biến động vô cùng phức tạp của hoàn cảnh xã hội: chiến tranh và hòa bình. Từ góc
nhìn này bức tranh đời sống đợc tái hiện không phải lúc nào cũng tơi rói màu

22
hồng mà là một hiện thực đa diện, đa chiều với cả những mảng tối sáng đan xen gợi
nhiều bức xúc trong mỗi ngời đọc.
1.3.2. Quan niệm nghệ thuật về con ngời trong tiểu thuyết của Lê Lựu
thời kì đổi mới
Lê Lựu từng quan niệm: Tiểu thuyết của tôi là tiểu thuyết của tính cách,
của số phận con ngời. Mỗi cuốn tiểu thuyết Lê Lựu thời đổi mới là một cuộc
kiếm tìm, dõi theo số phận và quá trình hình thành nhân cách các nhân vật. Nằm
trong tiến trình vận động và phát triển của văn học Việt Nam sau 1975, nhất là thời
kì đổi mới, văn chơng của Lê Lựu đã thể hiện sâu sắc quan điểm sáng tác này. Nhà
văn đặc biệt quan tâm đến vấn đề con ngời và việc thể hiện con ngời trong văn
học với nhận thức đầy đủ về trách nhiệm, bổn phận của ngời nghệ sĩ chân chính:
viết về con ngời, tìm hiểu sự thật về tâm hồn con ngời. Con ngời trong tiểu thuyết
Lê Lựu đợc nhìn nhận ở nhiều vị thế và trong tính đa chiều của mọi mối quan hệ,
đợc khám phá, soi chiếu ở nhiều bình diện, nhiều tầng bậc, thể hiện một quan niệm
nghệ thuật về con ngời mới mẻ, sâu sắc của một nhà văn mẫn cảm với cuộc sống.
Nhu cầu cắt nghĩa con ngời sẽ đợc thực hiện thông qua việc tái hiện bức tranh đời
sống môi trờng xã hội có liên quan trực tiếp đến tâm lí tính cách con ngời. Và
Lê Lựu dẫn chúng ta đến với những hiện thực không giống với cái hiện thực quen
biết nh trong các sáng tác văn học thời trớc. Ông chỉ cho bạn đọc thấy những khía
cạnh nhức nhối, đáng buồn của cuộc sống bên cạnh những vẻ đẹp dân dã hoặc cao
cả. Trong mối tơng quan với môi trờng sống, tính cách con ngời cũng hết sức
phức tạp, bí ẩn, không thể lờng hết.

Lê Lựu và các nhà văn thời kì đổi mới đã phát hiện và bổ sung thêm một
hình thức mới của mối quan hệ con ngời lịch sử, đó là sự lệch pha, bất hòa có
thể có của con ngời với cộng đồng, với phơng diện nào đó của thiết chế xã hội
[22]. Con ngời không chỉ là chủ nhân của lịch sử, sáng tạo và làm thay đổi lịch sử,
con ngời còn có thể là nạn nhân của lịch sử. Vì thế, bức tranh hiện thực đợc tạo
dựng hoàn toàn không thể tơi sáng, rực rỡ nh trớc. Trái lại, đó là một hiện thực
còn nhiều phi lí, bất cập, nhiều màu xám, có những số phận đầy đau khổ, những
điều nhức nhối cần đợc giải quyết.

23
Có thể nói t duy sáng tạo của Lê Lựu trong các tiểu thuyết giai đoạn tiền đổi
mới đã có những bớc chuyển, đến thời kì đổi mới lại càng chín muồi hơn và đạt
đến tầm cao mới nhất là ở phơng diện quan niệm nghệ thuật về con ngời. Con
ngời của đời thờng trở thành một đối tợng trung tâm phản ánh của tác phẩm.
Nhà văn quan tâm đến đờng đời, đến số phận của những con ngời với những
thành bại, đợc mất, bất trắc và đổ vỡ. Tất cả đều trở thành đề tài hết sức hấp dẫn
đối với ngời cầm bút và Lê Lựu không phải là ngoại lệ.
Đọc tiểu thuyết Lê Lựu thời kì đổi mới, độc giả có thể nhận thấy nhà văn là
ngời tâm huyết với vấn đề quyền sống của con ngời. Khái quát hiện thực qua số
phận cá nhân, Lê Lựu muốn khẳng định với độc giả rằng: Mỗi cá nhân đều tồn tại
trong một quan hệ xã hội nhất định, thuộc về một cơ chế nhất định, nhng không
phải vì thế mà đời sống cá nhân có thể quy vào những mẫu số chung đơn giản.
Mỗi cá nhân là một thế giới riêng t, phức tạp, bí ẩn nên mọi sự áp đặt thô bạo,
khiên cỡng lên nó đều là phản nhân văn. Bằng sự tinh tờng và trải nghiệm, Lê Lựu
đã chỉ cho ngời đọc thấy những lí do khiến mối quan hệ của một cá nhân với cộng
đồng xảy ra trục trặc, khi đó có thể có bi kịch, có thể có phản kháng. Mỗi lí do là
một miếng ghép của bức tranh đời sống nhiều màu vẻ.
Chính vì vậy, với những tiểu thuyết thời kì đổi mới, chúng ta nhận thấy nhà
văn đặc biệt quan tâm tới những vấn đề số phận bi kịch của con ngời. Bởi cuộc
sống con ngời luôn tiềm ẩn bi kịch. Con ngời với muôn sắc thái tình cảm trong đó

có vui buồn, không phải lúc nào cũng rạch ròi. Điều may mắn với ngời này lại là sự
bất hạnh với ngời kia. Cái hôm qua đang là cái tốt đẹp cho cuộc sống, hôm nay
bỗng trở thành thảm họa và xã hội phức tạp luôn biến động không ngừng không thể
tránh khỏi bi kịch. Thể hiện con ngời bi kịch là một nét nổi bật trong quan niệm về
con ngời của tiểu thuyết Lê Lựu thời kì đổi mới.
Nhà văn đặc biệt dồn tâm huyết cho những con ngời có thân phận ngang
trái, hẩm hiu giữa cuộc đời đầy biến động khôn lờng. Đó là Sài (Thời xa vắng),
Tùy (Đại tá không biết đùa), bà Đất (Chuyện làng Cuội), Núi (Sóng ở đáy sông),
Tâm (Hai nhà). Họ không xấu xa, ngu dốt, trái lại họ đẹp đẽ, thông minh, chăm chỉ,
tốt bụngnghĩa là họ hội tụ rất nhiều phẩm chất đẹp để có thể ngẩng cao đầu mà
sống và có quyền hởng hạnh phúc. Nhng họ liên tục vấp ngã, liên tục thất bại chỉ

24
vì những trớ trêu của hoàn cảnh, những cái xấu, cái ác đầy rẫy ở quanh mà khả năng
chiến thắng hoàn cảnh hầu nh không thể trở thành hiện thực.
Thời xa vắng là tiếng kêu cứu của những thế hệ thuộc về cái thời xa vắng,
những thế hệ vì không dám là mình, không đợc là mình nên cuộc sống thành vô
nghĩa. Cuộc đời Giang Minh Sài thực sự là một tấn kịch vừa bi vừa hài. Nguyên
nhân trực tiếp dẫn đến bi kịch là do anh thiếu bản lĩnh cá nhân:Giá ngày ấy em cứ
sống với tình cảm của chính mình, mình có thế nào cứ sống nh thế, không sợ ai,
không chiều theo ý ai, sống hộ ý định ngời khác, cốt để cho đẹp mặt mọi ngời chứ
không phải cho hạnh phúc của mình [12, tr331]. Nhng căn nguyên sâu xa chính
là sự áp đặt của cộng đồng lên cá nhân (bao gồm cả cộng đồng nhỏ là gia đình và
cộng đồng lớn là xã hội). Không ai phủ nhận sức mạnh của tập thể. Vấn đề là ở chỗ
nền tảng văn hóa của tập thể nh thế nào Có một thời kì, thời xa vắng ngời ta sống
hào hùng, hồn nhiên, ngời ta quan tâm đến nhau, mong muốn giúp đỡ nhau, có
điều ngời ta đơn giản, ấu trĩ, ngời ta không hiểu rõ cái xấu xa nhất của một con
ngời, tởng đâu sống rất sát, quan tâm đến nhau rất nhiều nhng thật ra chỉ hiểu
và quan tâm đến cái bên ngoài, cái hời hợt, còn cái bên trong của con ngời thì
ngời ta không biết đến. Sống cạnh nhau mà vẫn xa nhau [67]. Cái cộng đồng cả

lớn lẫn nhỏ trong Thời xa vắng ai cũng đinh ninh mình tốt, không ai chịu hiểu rằng
có khi ngời ta làm khổ ngời khác, tàn hại ngời khác bằng chính lòng tốt không
đúng chỗ của mình. Sai lầm nọ nối tiếp sai lầm kia đã đẩy Sài vào tình thế bi kịch:
Đứa con sắp ra đời không phải kết quả của tình yêu, bản thân anh không đợc kết
nạp Đảng vì lai lịch nhà vợ sấu quá, nhng đau khổ hơn cả là tình yêu trong sáng
và tha thiết với Hơng đã không còn cơ cứu vãn. Chính sự áp đặt của cộng đồng lên
cá nhân đã tớc đi quyền sống, khát vọng đích thực của con ngời. Không phải Sài
không có ý thức phản kháng nhng anh đã bị những cộng đồng nhỏ và lớn ấy đè
bẹp. Anh ta làm sao chống nổi cả một hệ thống quan niệm đầy hẹp hòi và định kiến
đang bao vây anh ta? Qua số phận của Giang Minh Sài, ngời đọc rút ra bài học
quan trọng là: không có tập thể nào có quyền ép buộc cá nhân phải sống theo một
thứ khuôn mẫu định sẵn. Thơng yêu con ngời theo kiểu ấy thực chất là lăng nhục
con ngời, chà đạp con ngời. Lê Lựu đã để cho nhân vật chính ủy Đỗ Mạnh nhìn
nhận lại đối với các cấp dới của mình: Tôi rất buồn cái cách sống hộ ngời

25
khác, đợc gọi là tập thể quan tâm nh thế. Hãy đòi hỏi ở mỗi con ngời sự cống
hiến cao nhất khi xã hội cần, tập thể cần. Đến khi tập thể quan tâm đến ngời ta thì
cũng phải quan tâm đến cái ngời ta cần, chính ngời ta đòi, ngời ta khát, chứ
không phải mình quan tâm cái mình muốn ở ngời ta[12, tr132 -134]. Có thể coi
đây chính là t tởng chủ đề của tác phẩm. Ngòi bút của Lê Lựu đã vạch trần và lên
án một cách mạnh mẽ. Xây dựng hình tợng con ngời hai mặt và những bi kịch
của nó Lê Lựu muốn hớng đến một đời sống dung dị, bình thờng, một xã hội có
nhân văn, tôn trọng cá nhân, cá tính. Và ở đó con ngời cần phải ý thức sâu hơn nữa
địa vị của mình trong mối quan hệ hài hòa, thống nhất với tập thể gia đình, cũng nh
phải trung thành và dám chịu trách nhiệm về những lựa chọn của mình.
Bằng tấm lòng và trái tim nhân hậu, nhà văn Lê Lựu đã đến với những con
ngời bất hạnh để chia sẻ với niềm cảm thông sâu sắc. Những con ngời đó có thể là
những con ngời bất hạnh do hoàn cảnh tạo nên. Song hoàn cảnh còn có thể cải tạo
và thoát ra khỏi nó bớc qua nó để rồi từ giã nó còn lòng ngời ích kỉ thì thật đáng

sợ. Ngay trong Thời xa vắng, nửa cuộc đời đầu Sài là điển hình của bi kịch con
ngời do hoàn cảnh tạo nên. Phần nửa đời còn lại Sài bất hạnh, thân tàn ma dại cũng
tại lòng ích kỉ, vô tâm của chính ngời vợ mình. Ra khỏi chiến tranh, Sài li hôn với
ngời vợ cũ. Những tởng cuộc đời anh sẽ sang một trang mới với một mái ấm gia
đình hạnh phúc, nào ngờ anh lại tiếp tục rơi vào bi kịch. Châu lấy Sài không phải vì
tình yêu mà để hợp thức hóa cái bào thai trong bụng. Nhng càng sống chung cô
càng thất vọng. Bởi cô mong muốn chồng cô có t thế chỉ huy nhng hầu nh Sài
không có. Ngợc lại Sài từ bỏ tất cả những việc đại sự để hầu hạ vợ con nh một
ngời hầu không hơn không kém. Rút cuộc Châu vẫn thản nhiên quan hệ với
Toàn. Cái bi kịch nặng nề, đau đớn nhất của anh là mãi đến khi ra tòa ly dị anh mới
biết đứa con đầu lòng mà anh thơng yêu, chăm sóc không phải là con anh. Ngời
đọc không thể không lên án cái cách ứng xử và kiểu sống vô lối, ích kỉ của Châu đối
với chồng, đã gây nên bi kịch gia đình mà cô cũng phải gánh chịu.
Cũng là nạn nhân của lòng ích kỉ nhng gây nên số phận bất hạnh của Tùy
(Đại tá không biết đùa) và Núi (Sóng ở đáy sông) lại chính là những ngời cha của
họ với thứ quyền lực toàn năng của ý chí. Tùy là con trai duy nhất của đại tá Hoàng
Thủy. Theo cách nghĩ của ông, tuổi trẻ nh Tùy phải đợc thử thách và tôi rèn trong

×