Tải bản đầy đủ (.pdf) (356 trang)

Khóa chuyên đề luyện thi đại học môn văn moon

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (30.08 MB, 356 trang )

Giai đoạn 1930-1945 Kịch - Nghị luận - Văn chính luận
Một thời đại trong thi ca
Tuyên Ngôn Độc Lập
Vĩnh Biệt Cửu Trùng Đài

Giai
đoạn 1930-1945 Thơ Cách mạng
Lai Tân Ho Chi Minh
Mộ (Chiều tối)
Từ

ấy
Giai đoạn 1930-1945 Thơ Lãng mạn
Đây Thôn Vỹ Dạ
Tràng Giang
Tràng Giang
Vội Vàng
Giai đoạn 1930-1945 Truyện ngắn
Chí Phèo
Chữ Người Tử Tù
Đời Thừa
Hai Đứa Trẻ
Hạnh Phúc Của Một Tang Gia
Giai đoạn 1945 đến hết thế kỉ XX Kí - Kịch
Ai Đã Đặt Tên Cho Dòng Sông
Hồn Trương Ba Da Hàng Thịt
Người Lái Đò Sông Đà
Giai đoạn 1945 đến hết thế kỉ XX Thơ

Đàn Ghi ta Của Lorca


Đất nước

Sóng

Tây Tiến

Tiếng Hát Con Tàu

Việt Bắc
Giai đoạn 1945 đến hết thế kỉ XX Truyện
Chiếc Thuyền Ngoài Xa
Một Người Hà Nội
Những Đứa Con Trong Gia Đình
Rừng Xà Nu
Vợ Chồng A Phủ
Vợ Nhặt
Mục Lục
MOON.VN
KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI

- hotline: 04.32.99.98.98




Lời vào bài: Có thể trước khi đến với bài học ngày hôm nay, cái tên Hoài Thanh đối với nhiều em đã
rất quen thuộc. Học văn, có lẽ ai cũng có trong hành trang của mình những lời bình duyên dáng của
ông. Ví như với câu thơ của Xuân Diệu:
Con đường nhỏ nhỏ, gió xiêu xiêu
Lả lả cành hoang, nắng trở chiều

ông viết: “ cảnh như muốn theo lời thơ mà tan ra. Câu thơ chỉ mất đi một tí rõ ràng để được
thêm rất nhiều thơ mộng ”.
Khó có thể kể hết được những lời bình hay của Hoài Thanh mà chúng ta đã được thưởng thức
trong hành trình đi tìm kiếm vẻ đẹp của văn chương. Trong khuôn khổ giờ học hôm nay, chúng ta
cùng đến với một tiểu luận của ông. Từ đó, các em có thể hình dung phần nào diện mạo, dáng hình
của nhà phê bình nổi tiếng này.
Tiểu luận có nhan đề là:
Một thời đại trong thi ca
(Trích)
Hoài Thanh
Có những nhà văn đa tài, sáng tác trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Nhưng với Hoài Thanh, trước
sau ông chỉ đi về trên một thể loại: phê bình văn học. Mà chức năng của văn phê bình là thẩm
bình, đánh giá và lý giải về các hiện tượng văn học. Đặc điểm cơ bản nhất: là một dạng văn nghị
luận, đối tượng là sản phẩm nghệ thuật. Do đó, văn phê bình vừa có tính khoa học, vừa có tính nghệ
thuật.
Đọc – hiểu một tác phẩm phê bình, chúng ta phải rất chú ý đến đặc điểm này.
I. Tìm hiểu chung
1) Tác giả (1909 -1982)
- Hoài Thanh là nhà phê bình văn học xuất sắc nhất của văn học Việt Nam thời kỳ hiện đại. Cả cuộc
đời ông là chuỗi dài những cuộc tìm kiếm đầy thích thú, mê say cái hay và vẻ đẹp của văn chương.
Như một nhà địa chất cần mẫn, yêu nghề, Hoài Thanh đã phát hiện được không ít vàng ngọc của thơ
ẩn trong lớp cát bụi của thời gian hay trong các mạch chìm nổi của cuộc đời.
- Sự nghiệp phê bình của ông khá đồ sộ, nhưng tiêu biểu nhất phải kể đến là công trình Tuyển tập
đầu tiên về Thơ mới: cuốn Thi nhân Việt Nam (1942). Cho đến nay, công trình này vẫn khẳng định
được tác động sâu rộng của nó với đời sống văn học. Từ trước tới nay, ít có công trình nghị luận văn
chương nào được tái bản nhiều lần như vậy (Tính đến năm 2008, nó đã được in lại tới 34 lần).
- Ông là người ý thức sâu sắc về công việc của nhà phê bình. Ông đã từng phát biểu:“Tìm cái đẹp
trong tự nhiên là nghệ thuật. Tìm cái đẹp trong nghệ thuật là phê bình” và chọn cho mình lối phê
bình “Lấy hồn tôi để hiểu hồn người”.
- Ông đã in dấu được phong cách riêng của mình trên từng trang viết. Đó là lối phê bình thiên về

thưởng thức và ghi nhận ấn tượng, với giọng văn nhẹ nhàng, tinh tế mà tài hoa, hóm hỉnh. Điều đó có
lẽ được thể hiện đầy đủ và sinh động hơn cả trong “áng văn phê bình bất hủ” (Nguyễn Đăng Mạnh)
mà chúng ta sẽ tìm hiểu ngay sau đây.
2) Đoạn trích
a) Xuất xứ và vị trí
MỘT THỜI ĐẠI TRONG THI CA - HOÀI THANH (tiết 1)

MOON.VN
KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI

- hotline: 04.32.99.98.98
- Bài tiểu luận thuộc phần đầu của tuyển thơ Thi nhân Việt Nam, nó có ý nghĩa quan trọng trong
việc định hướng cho độc giả đón nhận tuyển thơ này.
- Đoạn trích thuộc phần cuối bài tiểu luận. Nó đã thâu tóm vấn đề cốt tuỷ nhất là Tinh thần thơ
mới và kết tinh tất cả những tinh hoa của ngòi bút phê bình này.
b) Nội dung và bố cục
- Nội dung: Vấn đề “Tinh thần thơ mới”.
- Bố cục: 2 phần
+ Phần 1: Nguyên tắc để xác định Tinh thần thơ mới
+ Phần 2: Thâu tóm Tinh thần thơ mới trong khuôn khổ “chữ tôi” và sự vận động của thơ mới
xung quanh cái “tôi” và bi kịch của nó
Có thể nói, thơ mới là một hiện tượng hấp dẫn nhưng phức tạp. Đánh giá về nó đã có bao
công trình đồ sộ, công phu, nhưng cho đến nay chưa có ai vượt được Hoài Thanh về sự khúc
chiết, giản dị mà tinh tế, tài hoa. Để hiểu rõ hơn, chúng ta đi vào đọc hiểu văn bản cụ thể .
II. Đọc – hiểu văn bản:
Đứng trước một văn bản nghị luận nói chung, chúng ta có thể tìm hiểu theo hai cách:
+ Theo mạch lập luận của tác giả (lối cắt ngang)
+ Theo đặc trưng của thể loại văn nghị luận: cách lập luận, hệ thống luận điểm, luận cứ, luận
chứng (lối bổ dọc). Ở đây, chúng ta chọn cách tìm hiểu theo mạch lập luận của tác giả để dễ theo
dõi.

1. Nguyên tắc để xác định Tinh thần thơ mới
- Mục đích của việc nêu lên nguyên tắc này là Để giới hạn và thống nhất về đối tượng phê bình.
- Việc này rất cần thiết. Nếu không giới hạn và thống nhất được đối tượng phê bình, có thể sẽ có
hiện tượng:
+ Người bênh thơ cũ: chỉ đề cập đến tinh hoa của mấy nghìn năm văn học
+ Người bênh thơ mới: chỉ nhắc đến những bài thơ Đường luật vô vị, nhạt nhẽo, “những cặn
bã của một lối thơ đã đến lúc tàn”.
* Như thế, cuộc tranh luận sẽ thiếu tính khoa học và không đi đến đâu cả. Vậy đây là công việc
rất cần thiết và quan trọng, là nền tảng khoa học cho tác phẩm.
Nhà phê bình không nêu lên nguyên tắc ngay. Ông đã trình bày theo trật tự:
- Bắt đầu từ việc trích dẫn thơ.
+ Hai câu của Xuân Diệu: nặng tính ước lệ, cổ điển
+ Hai câu của một nhà thơ cũ nổi tiếng: giọng điệu trẻ trung, hiện đại.
- Tiếp theo là quá trình lập luận:
+ Mỗi nhà thơ nổi danh đều có thể có những câu thơ hay nhưng không tiêu biểu
+ Mỗi thời đại đều có những bài thơ dở, những tác giả kém cỏi, bất tài
+ Đã không tiêu biểu thì không thể đại diện cho thời đại, đã tầm thường, lố lăng thì
không có tinh thần để mà tìm hiểu
- Cuối cùng: Nêu lên hai nguyên tắc cần triệt để tuân theo về đối tượng phê bình
+ Căn cứ vào cái hay
+ Căn cứ vào đại thể
- Nhận xét về cách lập luận của tác giả:
+ Nhà phê bình không áp đặt suy nghĩ chủ quan của mình. Ông đã chọn cách lập luận theo lối quy
nạp để thuyết phục người đọc bằng luận chứng tiêu biểu, luận cứ xác đáng và luận điểm rõ ràng. Do
đó, vấn đề được trình bày giản dị, sinh động mà biện chứng, khách quan.
2. Tinh thần thơ mới: cái tôi
MOON.VN
KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI

- hotline: 04.32.99.98.98

- Nhận xét về cách dùng từ “Tinh thần thơ mới”. Thực chất của việc xác định tinh thần thơ mới là
gì? Tinh thần (hay linh hồn) cùng với hình xác là hai phương diện trong sự tồn tại của một cá thể. Để
nhận biết và đánh giá, người ta có thể căn cứ vào hình xác bên ngoài, nhưng có thể căn cứ vào tinh
thần bên trong của nó. Cách dùng từ này cho thấy quan niệm biện chứng của tác giả về đối tượng, lối
nói gợi cảm mà chính xác của ông. Thực chất, việc xác định tinh thần thơ mới là xác định bản chất,
đặc trưng của nó.
Việc xác định đặc trưng của thơ mới – “một thời đại trong thơ ca”, “một cuộc cách
mạng trong thơ ca” - là công việc lớn lao, phức tạp, khó khăn. Một thời đại kéo dài 10 năm, hàng
nghìn bài thơ, hàng trăm tác giả, phân hoá theo hàng chục trường phái khác nhau. Vấn đề Tinh thần,
bản chất mang tính trừu tượng, khó hình dung. Nó ngang tầm với một đề tài khoa học lớn.
Vấn đề lớn lao, phức tạp ấy đã được tác giả thâu tóm bằng cách đối sánh thơ mới và thơ cũ ở
phương diện chủ thể sáng tạo.
Cách nói: Vừa hàm súc, vừa ấn tượng, vừa lạ lại vừa hay. Lạ vì từ xưa tới nay chưa ai thâu tóm
vấn đề ngắn gọn mà giản đơn như thế. Hay vì nó đã bắt trúng mạch hai dòng chảy thi ca của hai
thời đại này.
- Cách khẳng định vấn đề: hai cách: Hoặc là chứng minh cái tôi chỉ có ở thơ nay. Hoặc chứng minh
cái tôi không có ở thơ xưa. Tác giả đã chọn cách thứ hai.
+ Trên đại thể: Xã hội Việt Nam xưa không có cái tôi. Cá nhân, bản sắc cá nhân chìm đắm trong
gia đình, trong quốc gia như giọt nước trong biển cả. Cách nói giàu hình ảnh, giúp người đọc
hình dung ý thức cá nhân trong thơ xưa mờ nhạt như thế nào.
+ Cá biệt: Vẫn có những bậc kỳ tài ghi hình ảnh của họ vào trong thơ. Nhưng đó không phải là
cái tôi với ý nghĩa tuyệt đối của nó.
- Giọng điệu tranh biện như đang đối thoại cùng người đọc, lôi kéo sự nhập cuộc của họ. Cách dùng
từ xưng hô đặc biệt: dùng từ “họ” để chỉ những bậc kỳ tài của thơ cũ. Từ họ được lặp lại với mật độ
dày đặc (10 lần trên 9 dòng văn) không chỉ là đại từ thay thế, tạo tính liên kết mà còn phản ánh sự
khác biệt cũng như khoảng cách giữa người thời đại sau (nhà phê bình) với người thời đại trước (các
thi nhân thơ cũ). Hệ thống ngôn từ có tính chất biểu cảm, chứa đựng một cách nhìn chưa từng có về
những Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Tú Xương Cũng như hầu hết
mọi người, nhà phê bình nhìn về họ với đôi mắt kính nể (vì tài năng của họ), nhưng khác mọi người,
ông còn nhìn họ với đôi mắt thương cảm (vì sự nhút nhát của họ). Đây không phải là thái độ phạm

thượng, vì bao bọc câu chữ là niềm cảm thông sâu xa với những bậc kỳ tài đã nhìn thấy giới hạn
của thời đại, đã cố gắng vượt qua nhưng không thể có sự vươn mình trọn vẹn.
Nhận xét:
Với lập luận chặt chẽ, sắc sảo, cách nói giàu hình ảnh, cảm xúc, giọng điệu tranh biện sôi nổi mà tha
thiết, ngôn từ gần với cách nói hàng ngày, giản dị, hóm hỉnh mà chứa đựng một trí tuệ sáng suốt, một
học vấn uyên bác, một tâm hồn giàu rung cảm, đây là áng văn vừa có tính khoa học, vừa mang tính
nghệ thuật. Phẩm chất khoa học bộc lộ ở những luận điểm mới mẻ, sâu sắc, phản ánh được bản chất
của sự vật, được luận giải một cách chặt chẽ khúc chiết, có tính thuyết phục cao. Còn phẩm chất
nghệ thuật được bộc lộ ở những cảm xúc thẩm mĩ tinh tế, hoá thân thành giọng điệu riêng của tác
giả, thành hình ảnh diễn đạt, thành lối dẫn dắt, thành thứ ngôn ngữ vừa chính xác, hàm súc vừa uyển
chuyển gợi cảm. Cả hai bình diện khoa học và nghệ thuật cùng hoà hợp với nhau nhuần nhuyễn và
sống động. Không phải ngòi bút phê bình nào cũng đạt được sự nhuần nhuyễn như vậy.


MOON.VN
KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI

- hotline: 04.32.99.98.98




Giờ trước, chúng ta đã tìm hiểu chung về tác giả, tác phẩm, nguyên tắc xác định tinh thần thơ mới -
sự xuất hiện của cái Tôi và phản ứng của xã hội trong quá trình tiếp nhận nó. Vậy, cái tôi ấy có đặc
điểm như thế nào? Bi kịch của nó ra sao? Giờ học này, chúng ta sẽ tiếp tục tìm hiểu những nội dung
này trên cơ sở tiếp nối hệ thống kiến thức của giờ học trước:
I. Tìm hiểu chung
II. Đọc hiểu văn bản
1. Nguyên tắc xác định tinh thần thơ mới.
2. Tinh thần thơ mới: cái tôi- Sự vận động của thơ mới xung quanh cái “tôi” và bi kịch của nó

2.1. Tinh thần thơ mới: cái Tôi (so sánh với cái Ta)
+ Nội dung của chữ "Tôi" là ý thức cá nhân cá thể trong đời sống tinh thần con người.
+ Nội dung của chữ "Ta" là phần ý thức cộng đồng (chữ dùng của Hoài Thanh là "đoàn thể") trong
đời sống tinh thần của con người
- Hai ý thức này là hai tiếng nói tồn tại trong mỗi người. Ở thời trước, cái Ta lấn át hoàn toàn, cái
Tôi không có cơ hội để nảy nở. Còn thời đại này, cái Tôi trỗi dậy giành quyền sống. Phong trào Thơ
mới nảy sinh từ sự trỗi dậy của cái Tôi đó.
Tác giả nhìn nhận, đánh giá đối tượng không phải bằng con mắt giản đơn, tĩnh tại, ở đây, nhà phê
bình đã giúp ta chú ý đến sự xuất hiện làm xôn xao dư luận của chữ tôi cá nhân, khắc hoạ sự vận
động của một sinh thể đẹp đẽ nhưng rất mong manh trên hành trình chiếm lĩnh vị trí của nó trong đời
sống văn học.
2.2. Sự vận động của cái tôi thơ mới
+ Ban đầu: “Ngày thứ nhất”: Xuất hiện với vẻ ngoài khác lạ, dáng điệu bỡ ngỡ.
Mọi người đón nhận với thái độ khó chịu, xét nét đầy ác cảm. Ta có thể liên tưởng đến tình cảnh của
một người khách không mời, có người cho rằng đó là cảnh ngộ của một cô dâu mới. Lại có ý kiến
cho rằng đó là tình cảnh của kẻ ngụ cư.
+ Về sau: “Ngày một ngày hai”, cái tôi đã được quen dần. Mọi người có một thái độ khác: nhìn
bằng đôi mắt thương cảm và có sự đồng cảm.
Nhà phê bình đã giúp chúng ta hình dung về chữ tôi trong thơ mới như bằng lối nói hình tượng đặc
sắc: chữ tôi như một con người có diện mạo, cảnh ngộ, số phận, cũng phải chịu áp lực của dư luận
như một con người. Nhưng bi kịch của nó không chỉ là thế. Thậm chí, ngay cả khi thái độ của mọi
người đã thân thiện hơn, bi kịch của nó cũng không vì thế mà giảm bớt.
2.3. Bi kịch của cái tôi: đáng thương, tội nghiệp.
- Đáng thương vì nó nhỏ bé và cô đơn. Tội nghiệp vì nó mang thể trạng yếu đuối và có cuộc sống
bế tắc. Những câu văn sau đây có thể giúp ta hình dung về điều đó:
- Tâm hồn của họ chỉ vừa thu trong khuôn khổ chữ tôi.
Đời chúng ta đã nằm trong vòng chữ tôi.
Chữ ta với họ to rộng quá.
So sánh mang tính hình tượng, trong sự đối lập chữ tôi với chữ ta để thấy vóc hình nhỏ bé, lại bị
ràng buộc chật chội nên tù túng, bế tắc. Phải chăng, đó cũng là một thứ giường chiếu hẹp của

những cuộc đời con mà ta được gợi liên tưởng từ đoạn thơ của nhà thơ Chế Lan Viên:
“ Lũ chúng ta ngủ trong giường chiếu hẹp
MỘT THỜI ĐẠI TRONG THI CA - HOÀI THANH (tiết 2)

MOON.VN
KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI

- hotline: 04.32.99.98.98
Giấc mơ con đè nát cuộc đời con
Hạnh phúc đựng trong một tà áo đẹp
Một mái nhà yên rủ bóng xuống tâm hồn ”
- Vẻ tội nghiệp của cái tôi còn được gợi ra qua so sánh: cùng viết về cái nghèo, nếu Nguyễn Công
Trứ cười cợt với cảnh nghèo, Xuân Diệu lại rên rỉ khóc than. Qua đó, có thể thấy thi nhân ta cơ hồ đã
mất hết cốt cách hiên ngang thuở trước; họ yếu đuối đến khổ sở, thảm hại. Đến đây, ta chợt nhớ đến
những lời tự bạch, tự thương của những cái tôi trong thơ mới: họ thấy mình như con nai bị chiều
đánh lưới, không biết đi đâu đứng sầu bóng tối; họ thấy mình như ở giữa tinh cầu giá lạnh; một vì
sao trơ trọi cuối trời xa; thấy mình là hoa trong rừng thẳm nở trong vô tình; mình khờ khạo lắm ngu
ngơ quá…Rõ ràng, so với những vần thơ khí cốt cách của Tú Xương, Nguyễn Khuyến, Nguyễn
Công Trứ, Cao Bá Quát, cái tôi thơ mới tội nghiệp hơn hẳn. Có ý kiến cho rằng: trích thơ Nguyễn
Công Trứ ở đây không thật hợp, vì cảnh nghèo của Nguyễn Công Trứ là cái nghèo có phần nhếch
nhác, tiếng cười ở đây mang sắc thái chua chát. Nên trích thơ Nguyễn Khuyến, vì cảnh nghèo trong
thơ ông đẹp và sang, tiếng cười của ông hóm nhẹ, thanh thản. Nhưng thực ra, không phải bao giờ
Nguyễn Khuyến cũng có thể vui trước cảnh nghèo như vậy. Một số bài cũng cay đắng và chua chát
không kém.
- Trở lại với sự so sánh Nguyễn Công Trứ với Xuân Diệu, như thế không phải Hoài Thanh hạ thấp
thơ mới, mà là một cách bênh vực có tình của tác giả. Bởi lẽ con người ấy là sản phẩm của thời đại,
là tiếng nói của thời đại. Ta có thể nhận thấy rất rõ điều này qua cách xưng hô của tác giả ở phần
tiếp theo, nói về các hướng lớn của Thơ mới khi đào sâu vào cái Tôi (hay là những biểu hiện
của cái tôi thơ mới:
“Đời chúng ta nằm trong vòng chữ tôi. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng

lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên
cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình
yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn, trở về hồn ta cùng Huy
Cận ”
+ Từ “ta” ở đây không giống với từ “ta” khi nói về tinh thần thơ cũ. Cách xưng hô của tác giả
đã thay đổi: từ TA và HỌ sang CHÚNG TA, TA. Chữ “HỌ” hoàn toàn biến mất, ở đây là chữ TA
nặng trĩu ý thức cá nhân của các nhà thơ mới, trong đó có tác giả. Dường như khoảng cách giữa nhà
phê bình với các thi nhân thơ mới đã bị xoá bỏ hoàn toàn. Từ việc lấy hồn ta để hiểu hồn người, nhà
phê bình đã đồng cảm, hoá thân vào người, nói về nỗi niềm, tình cảnh của người cũng là của chính
mình. “Nếu các nhà thơ trong phong trào Thơ mới là Bá Nha thì họ đã có một Tử Kỳ chính là Hoài
Thanh” (Ngô Văn Phú). Là con đẻ của một thời đại trong thi ca, sống hết mình với lịch sử dân tộc,
ông không thể bặm miệng (lời Hoài Thanh) mà không trải hết mọi vui buồn trên trang giấy. Điều đó
làm nên một hình tượng cái tôi khá hấp dẫn trong những trang văn.
Nhận xét về đoạn văn:
- Đặc sắc của đoạn này là những khái quát rất chính xác, súc tích, lại được viết bằng một lối văn giàu
nhịp điệu khiến cho văn phê bình mang đậm chất thơ.
+ Về ý tứ: chủ đề bao trùm là nỗ lực đào sâu vào ý thức cá nhân của Thơ mới. Chủ đề được triển
khai thành hai phần chính: một là, khái quát về hướng tìm tòi và hệ quả chung; hai là, điểm qua
những gương mặt điển hình cùng những lãnh địa cá nhân điển hình của Thơ mới để thấy được sự
phân hoá đa dạng cùng sự quẩn quanh bế tắc của ý thức cá nhân.
+ Về văn phong: có dạng ngôn từ phi khái niệm (không phải là những khái niệm trừu tượng) dung dị
dễ hiểu mà vẫn súc tích, diễn đạt được bản chất của đối tượng.
+ Cách cấu tứ: tạo ra hình ảnh một độc giả cứ theo chân của những nhà thơ tiêu biểu bước vào cõi
thơ riêng của mỗi vị.
MOON.VN
KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI

- hotline: 04.32.99.98.98
+ Đặc biệt, nhịp điệu của đoạn văn hết sức dồi dào. Những câu văn dài, gồm nhiều vế nhịp nhàng, có
sự đắp đổi luân phiên về bằng trắc, tạo giọng điệu du dương, tha thiết như tác giả đang nói về chính

mình. Hệ thống các vế câu có cùng cấu trúc ngữ pháp, với chủ thể được lặp lại liên tiếp, kết hợp hệ
thống cụm từ chỉ cảm xúc, cảm giác, tâm trạng , diễn tả sự khao khát, đắm say dạt dào của chủ thể
sáng tạo trong nỗ lực tự giải thoát và của nhà phê bình trong sự nhập cuộc. Hệ thống từ ngữ giàu
hình ảnh, kết hợp với một loạt tên tuổi các thi nhân thơ mới đã diễn tả hàm súc, chính xác sự phân
hoá của thơ mới gắn với những phong cách và tên tuổi tiêu biểu. Nhà nghiên cứu phê bình Lê Bá Hán
có nhận xét : “Anh có thể nắm bắt bén nhạy cái “thần” của một tác giả, khái quát được khá tập trung
phần tinh túy nhất của một hồn thơ. Có khi, chỉ với vài từ hoặc một câu ngắn gọn, Hoài Thanh đã diễn
đạt được cái cốt cách của một “nhà”.
- Đây quả là những câu văn đầy chất trí tuệ và cảm xúc. Nhạc tính của nó không chỉ ở sự du dương
trầm bổng của âm điệu mà còn ở sự sôi nổi tha thiết của tâm hồn. Những câu văn được chia thành
nhiều vế đối thanh, đối ý, đối lời, đối nhịp, tạo nên tầng tầng lớp lớp những hình ảnh “lời lời châu
ngọc, hàng hàng gấm thêu”. Cảm xúc cứ căng tràn để rồi lại chùng xuống thẫn thờ ở câu cuối đoạn.
Đây là đoạn văn thể hiện rõ nhất chất thơ trong văn phê bình của Hoài Thanh. Nó đã giúp người đọc
cùng đồng cảm, thương cảm cho bi kịch của cái Tôi thơ mới.
- Đồng thời, tác giả cũng chỉ ra điểm thiếu hụt trong ý thức của cái Tôi. “Thời trước, dầu bị oan
khuất như Cao Bá Nhạ, dầu bị khinh bỉ như cô phụ trên bến Tầm Dương, vẫn còn có thể nương tựa vào
một cái gì không di dịch. Ngày nay lớp thành kiến phủ trên linh hồn đã tiêu tan cùng lớp hoa hòe phủ
trên thi tứ. Phương Tây đã giao trả hồn ta lại cho ta. Nhưng ta bàng hoàng vì nhìn vào đó ta thấy thiếu
một điều : một điều cần hơn trăm nghìn điều khác : một lòng tin đầy đủ”. Bằng sự giản dị và cô đọng
trong bút pháp mà vẫn không làm mất đi sự mềm mại, quyến rũ của nghệ thuật văn chương với những
câu văn thật trang nhã, đầy chất thơ, tác giả cũng chỉ ra điểm thiếu hụt trong ý thức của cái Tôi một
cách nghệ thuật.
- Tuy nhiên cái tôi thơ mới không chỉ tội nghiệp, đáng thương, nhà phê bình không chỉ nhìn nó
không chỉ với đôi mắt tràn đầy thương cảm. Nhan đề “Một thời đại trong thi ca” đã phần nào hé mở
cho chúng ta câu trả lời cho giải pháp của bi kịch.
2.4. Giải pháp cho bi kịch: dồn tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt Trên cơ sở giá trị
truyện Kiều, tác giả đã khái quát về vấn đề dân tộc. Theo tác giả, khi gửi tình yêu nước vào tình yêu
tiếng Việt thì trong thất vọng sẽ nảy mầm hi vọng, thấy tinh thần nói giống chỉ có biến thiên chứ
không thay đổi. Dân tộc, ngôn ngữ không bị mất đi. Tìm về tiếng Việt, họ vin vào những gì bất diệt,
cần tìm về dĩ vãng đủ để đảm bảo cho ngày mai. Lòng yêu nước có thể biểu hiện phong phú đa dạng,

trong lao động, trong chiến đấu, yêu giang san, tự hào trước nền văn hóa dân tộc. Ở đây, lòng yêu
nước biểu hiện qua tình yêu ngôn ngữ Nhìn chung, lòng yêu nước trong văn học lãng mạn được thể
hiện gián tiếp, thầm kín, không trực tiếp, sôi nổi, mạnh mẽ như trong văn học cách mạng.
3. Những thành công về nghệ thuật của bài tiểu luận
3.1. Kết cấu chặt chẽ, lập luận khoa học.
3.2. Trình tự lập luận: nêu những biểu hiện khái quát, sau đó, đi vào những dẫn chứng cụ thể. Ví
dụ, đoạn văn nhận định về sự bế tắc của cái tôi. Đời chúng ta khái quát, sau đó chỉ ra biểu hiện cụ
thể của từng nhà thơ, làm sáng tỏ bằng những dẫn chứng ngay trong nhận định về từng nhà thơ
cũng khái quát
3.3. Sự cảm nhận tinh tế bằng văn chương giàu chất nghệ thuật, giàu chất thơ
+ Lời văn giàu cảm xúc, viết văn nghị luận bằng giọng của người trong cuộc, chia sẻ, đồng cảm. Lấy
hồn tôi để hiểu hồn người.
MOON.VN
KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI

- hotline: 04.32.99.98.98
+ Lời văn giàu hình ảnh: những khái niệm được diễn đạt bằng hình ảnh dễ hiểu. Ở người nghệ sĩ
Hoài Thanh, sự tinh tế, sâu sắc trong phong cách phê bình lại được chắp cánh bởi tư duy hình tượng,
bởi những liên tưởng sinh động. Có cảm giác trong tay ông, cây đũa thần – phê bình chạm tới đâu là
ở đấy tất cả sống dậy, có hồn, khơi gợi tưởng tượng và cảm xúc. Một khái niệm trừu tượng như thơ
ca, dưới ngòi bút Hoài Thanh cũng trở nên sống động: “thơ phải là một tia sáng nối cõi thực và cõi
mộng, mặt đất với các vì sao”.
+ Lời văn giàu nhịp điệu, cách ngắt nhịp câu tạo nên sự cân xứng, nhịp nhàng.
III. Kết luận
- “Một thời đại trong thi ca” là cuốn sách góp phần quyết định tạo nên tên tuổi Hoài Thanh. Nếu
những bài thẩm bình của Hoài Thanh với từng nhà thơ được coi là những bài thơ thì bài tổng kết
phong trào Thơ Mới mang tên Một thời đại trong thi ca thực sự là một bản trường ca, “khúc tuyệt
xướng” về Thơ Mới. “Đọc Thi nhân Việt Nam, trước hết ta gặp một nhà thơ ở giữa các nhà thơ”
(Hoàng Trinh). Hoài Thanh đã xây nên “lâu đài kiến trúc hài hòa, đầy chất thơ” (Đỗ Đức Hiểu). Thi
nhân Việt Nam là “một công trình của thế kỉ” (Nguyễn Văn Hạnh). “Rồi người đời sẽ quên dần và

quên hết các chức tước, các trọng trách mà ông giữ, để chỉ còn và còn mãi mãi tác giả Thi nhân Việt
Nam (Phong Lê). Vâng, chỉ qua phần hướng dẫn đọc hiểu phần cuối bài tiểu luận này thôi, phần nào
ta đã thấy được quan niệm đúng đắn của tác giả trong việc định nghĩa Thơ mới xung quanh vấn đề
cốt yếu là tinh thần Thơ mới, cách luận giải sắc sảo, cách diễn đạt tài hoa, hóm hỉnh, đầy sức thuyết
phục của tác giả.
MOON.VN
KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI

- hotline: 04.32.99.98.98




Nhà văn Nga K.Pautôpxki có câu nói nổi tiếng : “Niềm vui của nhà văn chân chính là niềm vui của
người dẫn đường vào xứ sở của cái đẹp” – Với bài tiểu luận này, phải chăng Hoài Thanh cũng đã dẫn
ta trở về với vẻ đẹp của cuộc sống, vẻ đẹp của tâm hồn, cái đẹp trong nội dung miêu tả, cái đẹp ở
phương thức biểu hiện của những tác phẩm đã làm nên Một thời đại trong thi ca.
Để khắc sâu kiến thức trọng tâm này, chúng ta hãy cùng thực hiện một số bài luyện tập:
Câu hỏi 1.
Vẻ đẹp của văn nghị luận trước hết ở hệ thống lập luận. Anh/chị hãy xác định luận điểm, luận
cứ và cách thức lập luận của văn bản, cách dẫn dắt mạch văn của tác giả?
- Luận điểm bao trùm cả đoạn trích này là vấn đề Tinh thần Thơ mới. Nó được triển khai thành ba
luận cứ:
1 - Giới thuyết nguyên tắc để xác định tinh thần của hai thời đại thơ :
+ không căn cứ vào cục bộ và cái dở
+ mà phải căn cứ vào đại thể và vào cái hay.
2 - Xác định tinh thần Thơ mới là chữ "Tôi", tinh thần thơ xưa là chữ "Ta" :
+ giới thuyết chung về điểm giống và khác của chữ "Ta" và chữ "Tôi"
+ Xác định bản chất Ta là ý thức đoàn thể, Tôi là ý thức cá nhân.
+ Điểm qua về sự xuất hiện của chữ Tôi và phản ứng của xã hội trong quá trình tiếp nhận nó.

3- Nhìn nhận sự vận động của Thơ mới xung quanh cái Tôi và bi kịch của nó :
+ Chỉ ra tính chất tội nghiệp của cái Tôi trong thời đại mình.
+ Các hướng lớn của Thơ mới đào sâu vào cái Tôi.
+ Điểm thiếu hụt trong ý thức của cái Tôi.
+ Bi kịch thời đại cái Tôi và giải pháp cho bi kịch bằng lòng yêu Tiếng Việt.
- Cách thức lập luận: từ cụ thể đến khái quát (phần 1); từ những biểu hiện khái quát, đi vào những
dẫn chứng cụ thể (phần 2).
- Cách dẫn dắt mạch văn rất tự nhiên, linh hoạt và độc đáo. Tác giả không dùng lý để dẫn dắt ý, mà
dùng tình để dẫn dắt ý. Mạch văn dược dẫn dắt không phải bằng ngôn ngữ khái niệm với những
phương tiện liên kết của lôgic hình thức, nặng tính tư biện ta vẫn quen gặp trong các bài phê bình
văn học nghiêng về khoa học thuần tuý. Trái lại, ông dẫn dắt ý chủ yếu bằng ngôn ngữ đời sống,
nương theo mạch liên kết của cảm xúc thẩm mĩ. Có thể tìm hiểu cách chuyển từ những ý lớn sang ý
lớn, và từ những ý nhỏ sang ý nhỏ, với hệ thống các phương tiện liên kết biến hoá mà tự nhiên như
thế nào.
- Diễn đạt bằng hình ảnh, bằng thứ ngôn ngữ ít mang tính khái niệm, bằng ấn tượng với cảm giác,
cảm xúc rất tinh tế uyển chuyển.
Câu hỏi 2.
Tinh thần Thơ mới là chữ "Tôi", tinh thần thơ xưa là chữ "Ta". Vậy, nội dung của chữ Tôi và
chữ Ta là gì?
- Nội dung của chữ "Tôi" là ý thức cá nhân cá thể trong đời sống tinh thần con người.
- Nội dung của chữ "Ta" là phần ý thức cộng đồng (chữ dùng của Hoài Thanh là "đoàn thể") trong
đời sống tinh thần của con người
MỘT THỜI ĐẠI TRONG THI CA - HOÀI THANH (tiết 3)

MOON.VN
KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI

- hotline: 04.32.99.98.98
- Hai ý thức này là hai tiếng nói tồn tại trong mỗi người. Ở thời trước, cái Ta lấn át hoàn toàn, cái
Tôi không có cơ để nảy nở. Còn thời đại này, cái Tôi trỗi dậy giành quyền sống. Phong trào Thơ mới

nảy sinh từ sự trỗi dậy của cái Tôi đó.
Câu hỏi 3.
Hãy phân tích để làm nổi bật những đặc sắc trong đoạn văn:
"Đời chúng ta nằm trong vòng chữ tôi. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng
lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên
cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép,
tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng
Huy Cận" .
- Đặc sắc của đoạn này là những khái quát chính xác, súc tích, lại được viết bằng một lối văn giàu
nhịp điệu khiến cho văn phê bình mang đậm chất thơ.
- Có thể phân tích trên hai bình diện :
+ Về ý tứ: chủ đề bao trùm là nỗ lực đào sâu vào ý thức cá nhân của Thơ mới. Chủ đề được
triển khai thành hai phần chính: một là, khái quát về hướng tìm tòi và hệ quả chung; hai là, điểm qua
những gương mặt điển hình cùng những lãnh địa cá nhân điển hình của Thơ mới để thấy được sự
phân hoá đa dạng cùng sự quẩn quanh bế tắc của ý thức cá nhân.
+ Về văn phong: chú ý đến dạng ngôn từ phi khái niệm (không phải là những khái niệm trừu
tượng) dung dị dễ hiểu mà vẫn súc tích, diễn đạt được bản chất của đối tượng. Chú ý đến cách cấu tứ:
tạo ra hình ảnh một độc giả cứ theo chân của những nhà thơ tiêu biểu bước vào cõi thơ riêng của mỗi
vị. Đặc biệt chú ý đến nhịp điệu hết sức dồi dào của đoạn thơ này.
Câu hỏi 4. Lòng yêu nước của các nhà Thơ mới và của tác giả Thi nhân Việt nam thể hiện
tập trung nhất ở điểm nào ?
- Lòng yêu tổ quốc của con người có những biểu hiện vô cùng phong phú. Có lòng yêu nước gắn
liền với đấu tranh. Có lòng yêu nước gắn liền với lao đông sản xuất. Lại có lòng yêu nước biểu hiện
ở sự thiết tha với những giá trị văn hoá, ở nỗ lực sáng tạo ra những giá trị văn hoá.
- Lòng yêu nước của các nhà Thơ mới nghiêng về dạng thứ ba. Tình yêu của họ thể hiện tập trung
nhất ở lòng yêu tiếng Việt và nên thơ ca dân tộc, ở niềm say mê sáng tạo ra những giá trị văn hoá,
trước hết là thơ ca. Họ muốn làm cho tiếng nói của nòi giống đẹp hơn, giàu hơn, càng ngày càng
trường tồn bất diệt. Đó cũng là một lòng yêu nước rất đáng trân trọng và ghi nhận.
Câu hỏi 5. So sánh văn phong của Hoài Thanh trong đoạn trích trên đây với văn phong của
Thế Lữ trong bài "Tựa" viết cho tập Thơ thơ của Xuân Diệu.

- Mục đích: bài tập này giúp cho những bạn yêu văn chương có dịp tìm hiểu sâu sắc những vẻ đẹp
thật phong phú và độc đáo của mỗi dạng văn phê bình văn học khác nhau, đồng thời giúp ta rèn
luyện kĩ năng so sánh trong nghiên cứu văn học.
- Nội dung: trên cơ sở nhận ra những điểm gần gũi (về thể phê bình văn học, đối tượng chung đều là
thơ, lối viết đều nghiêng về ấn tượng, cảm xúc, đậm chất nghệ sĩ…), cần tìm ra những điểm khác
biệt, độc đáo của mỗi lối viết ( một đằng là công trình tổng kết cả một phong trào, một đằng là bài
tựa cho một tập thơ của một tác giả ; một đằng nghiêng về những khái quát, lý giải, một đằng
nghiêng về những cảm thụ, thưởng ngoạn, dựng chân dung v.v )
Câu hỏi 6: “Người ta phân biệt thơ mới, thơ cũ không ở phần xác mà ở phần hồn. Đó là sự xuất
hiện của cái tôi cá nhân thể hiện rất phong phú trên thi đàn, nhưng chung quy lại, ấy là cái tôi
nhìn đời bằng cặp mắt tươi trẻ xanh non và cái tôi cô đơn trước vũ trụ, cuộc đời” (Sgk Ngữ văn
11, chương trình Nâng cao) Anh chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Dựa vào một số bài thơ mới
đã học, hãy làm rõ nhận định trên.
1. Giải thích nhận định:
MOON.VN
KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI

- hotline: 04.32.99.98.98
- Thơ Mới khác biệt thơ cũ ở phần xác (hình thức): phá bỏ ước lệ, khuôn mẫu gò bó cứng nhắc
trong thơ xưa để thể hiện mọi cảm xúc, biến thái tinh vi phức tạp nhất của tâm hồn.
- Điều quan trọng hơn là ở phần hồn (nội dung)- tinh thần Thơ mới “ngày trước là chữ ta, bây
giờ là chữ tôi”.
+ Con người cá nhân trong thơ xưa phải ẩn mình sau cái Ta của cộng đồng, có những tài năng muốn
vượt thoát…nhưng chưa bao giờ dám phô diễn cái tôi.
+ Đến thời hiện đại, cùng với sự chuyển mình của ý thức xã hội, ý thức cá nhân bùng phát mạnh mẽ
thành nguồn cảm hứng chủ đạo.
+ Cái tôi trong thơ thể hiện rất phong phú trên thi đàn, nhưng chung quy nó là cái tôi nhìn đời bằng
cặp mắt tươi trẻ xanh non và cái tôi cô đơn trước vũ trụ, cuộc sống.
+ Nhận định này rất đúng với các nhà thơ mới. Nhưng cũng cần thấy sự phân cực không phải bao giờ
cũng rõ ràng, ở một số nhà thơ có sự kết hợp.

2. Phân tích, chứng minh:
A. Cái tôi nhìn đời bằng cặp mắt tươi trẻ xanh non
- Với cái tôi nhìn đời bằng cặp mắt tươi trẻ xanh non nên Xuân Diệu mới thấy:
+ Phát hiện ra bức tranh trần thế là một mâm cỗ thịnh soạn với vô số thực đơn: gần gũi thân quen
như nắng gió hoa lá…tràn đầy sức sống, tươi đẹp, đầy niềm vui như đồng nội xanh rì, cảnh tơ phơ
phất, thần vui gõ ửa…tình tứ quyến rũ như ong bướm, tuần tháng mật, cặp môi gần…
+ Thay đổi cách nhìn về chuẩn mực cái đẹp (nhìn qua lăng kính tình yêu)
+ Bộc lộ những ham muốn khác thường đoạt quyền tạo hóa…
+ Cảm nhận thế giới bằng mọi giác quan…
- Ta cũng bắt gặp cái tôi ấy trong thơ Hàn. Vẻ đẹp trần thế thôn Vĩ qua hồi tưởng thật:
+ Đẹp tinh khôi, thanh khiết, sống động: nắng mới, vườn mướt, xanh như ngọc.
+ Hữu tình: lá trúc che ngang mặt chữ điền…
B. Cái tôi cô đơn trước vũ trụ, cuộc đời.
- Mặc dù với Xuân Diệu, cái tôi chủ đạo là cái tôi nhìn đời bằng cặp mắt tươi trẻ xanh non, thiết tha
giao cảm với đời, khát khao hưởng thụ nhưng người đọc vẫn nhận ra cái buồn cố hữu mang đặc
trưng thơ mới.
+ Buồn vì sự hữu han của đời người…
+ Buồn vì quy luật cuộc đời có sinh có tử, có tàn phai (một loạt động từ thể hiện sự tiêu tan, mất mát)
+ Cũng như Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, sau cái tôi say mê với cuộc sống thôn dã là cái buồn chia lìa,
hụt hẫng, nuối tiếc…càng về cuối, nỗi buồn càng đong đầy bởi ảo ảnh nhạt nhòa ngoài tầm tay
với…Kết thúc là câu hỏi nhưng thực chất là tiếng than…Cái buồn của Hàn Mặc Tử còn thể hiện qua
dòng hồi tưởng đứt nối chập chờn vô định.
- Trong ba nhà thơ, cái tôi cô đơn nhất không ai khac là Huy Cận
+ Cảm thức trong thơ Huy Cận là cảm thức về thân phận con người trước vũ trụ lớn lao:
+ Tràng giang có hai đối cực: cái lớn lao rợn ngợp mênh mông vô tận…biểu tượng cho cuộc đời,
dòng đời; cái nhỏ bé lạc loài … biểu tượng cho kiếp người lạc lõng cô đơn bơ vơ…
+ Cuộc đời và con người mất liên lạc: thuyền về nước lại, nắng xuống trời lên,
+ Không tín hiệu: không tiếng, không cầu, không đò…
+ Huy Cận tìm ra đối cực để diễn tả nỗi buồn, sự mất phương hướng của con người trước cảnh nước
mất nhà tan…

- Đánh giá: Sự ra đời của thơ mới, sự xuất hiện của cái tôi là bước chuyển mình của văn học…


MOON.VN
KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI

- hotline: 04.32.99.98.98




MỞ: Việt Nam, dải đất mảnh mai gầy guộc nằm bên bờ biển Đông suốt lịch sử 4000 năm luôn
phải gồng mình lên để sớm chắn bão giông chiều ngăn nắng lửa; gần hai ngàn năm phải chống ngoại
bang xâm lược, đô hộ, đồng hoá; độc lập, tự do cho dân tộc, chủ quyền quốc gia đã trở thành lẽ sống
còn truyền từ đời này sang đời khác. Hơn 1000 năm trước, khi quân xâm lược Tống (Trung Quốc)
kéo sang giày xéo bờ cõi, chúng ta đã tuyên bố "Sông núi nước Nam vua Nam ở ". Hơn năm trăm
năm sau, sau thắng lợi của sự nghiệp giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ nhà Minh, trong bài Cáo
bình Ngô, chúng ta lại một lần nữa tuyên bố nền độc lập trong không khí hào sảng: "Như nước Đại
Việt ta hùng cứ một phương ". Vẫn với một tinh thần ấy và hơn cả như thế, Tuyên ngôn độc lập
của Bác đã trở thành đỉnh mốc đánh dấu bước phát triển lớn nhất trong lịch sử phát triển quốc gia
dân tộc.
I. Tìm hiểu chung
1. Tác giả
2. Tác phẩm
2.1. Hoàn cảnh ra đời của bản tuyên ngôn
- Ngày 19/8/45 chính quyền về tay nhân dân.
- Ngày 26/8 tại Hàng Ngang – Hà Nội người soạn thảo bản tuyên ngôn độc lập.
- Ngày 2/9/45 tại quảng trường Ba Đình, người thay mặt chính phủ đọc bản tuyên ngôn độc lập khai
sinh ra nước VNDCCH.
2.2. Đối tượng và mục đích sáng tác của bản tuyên ngôn

. Đối tượng:
+ Tuyên ngôn độc lập huớng tới không chỉ đồng bào trong cả nuớc.
+ Nhân dân trên thế giới, trước hết là nhân dân tiến bộ ở Pháp và Mỹ.
+ Đặc biệt là các lực lượng thù địch và cơ hội quốc tế đang mang dã tâm một lần nữa nô dịch đất
nước ta.
Mục đích:
+ Khẳng định quyền tự do độc lập của dân tộc Việt Nam.
+ Bao hàm một cuộc tranh luận ngầm nhằm bác bỏ luận điệu xảo trá của kẻ thù truớc dư luận thế
giới.
Lời văn:
- Ngày 19 tháng 8 năm 1945, chính quyền ở Hà Nội về tay nhân dân. Ngày 26 tháng 8 năm 1945,
Chủ tịch Hồ Chí Minh từ chiến khu cách mạng Việt Bắc về tới Hà Nội. Tại căn nhà số 48, phố Hàng
Ngang, Người biên soạn bản Tuyên ngôn Độc lập. Ngày 2.9.1945, tại quảng trường Ba Đình, Hà
Nội, Người thay mặt Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đọc bản Tuyên ngôn
Độc lập trước hàng chục vạn đồng bào: “Hôm nay sáng mồng 2 tháng 9/ Thủ đô hoa vàng nắng Ba
Đình/ Muôn triệu tim chờ, chim cũng nín/ Bỗng vang lên tiếng hát ân tình/ Hồ Chí Minh, Hồ Chí
Minh/ Người đứng trên đài, lặng phút giây/ Trông đàn con đó, vẫy hai tay/ Cao cao vầng trán, ngời
đôi mắt/ Độc lập bây giờ mới thấy đây”. Cả đất nước ngây ngất trong niềm hạnh phúc được sống
TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP – HỒ CHÍ MINH (tiết 1)

MOON.VN
KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI

- hotline: 04.32.99.98.98
trong kỉ nguyên mới, chấm dứt bao năm sống trong nô lệ tủi nhục dưới ách thống trị của thực dân
phong kiến.
- Tuyên ngôn độc lập được viết trong một hoàn cảnh đặc biệt khác thường: đất nước đã giành đuợc
độc lập nhưng bọn đế quốc thực dân - đặc biệt là thực dân Pháp đang lăm le quay trở lại nhằm nô
dịch đất nước ta một lần nữa. Nấp sau quân Đồng minh vào tước khí giới quân đội Nhật: tiến vào từ
phía Bắc là quân đội Tưởng Giới Thạch, sau lưng là đế quốc Mĩ; tiến vào từ phía Nam là quân đội

Anh, sau lưng là quân viễn chinh Pháp. Chúng nhân danh phe Đồng minh với chiêu bài: lấy lại mảnh
đất bảo hộ đã bị bọn Phát xít Nhật chiếm đóng trong chiến tranh. Chúng ta phải chống thực dân Pháp
- một thành viên chủ chốt của phe Đồng minh nhưng lại nhất thiết không thể chống Đồng minh. Đây
là một vấn đề trọng yếu và cũng vô cùng tinh tế, đòi hỏi sự khôn khéo, sáng suốt và bản lĩnh của ng-
ười lãnh đạo.
2.5. Bố cục
- Đoạn 1: Từ đầu đến “đó là lẽ phải không ai có thể chối cãi được” cơ sở pháp lí của bản tuyên ngôn.
- Đoạn 2: Tiếp đó đến “Dân tộc đó phải được độc lập”- Tố cáo tội ác của thực dân Pháp và khẳng
định thực tế lịch sử là nhân dân ta kiên trì đấu tranh và nổi dậy giành chính quyền, lập nên nước
VNDCCH.
- Đoạn 3: Còn lại: Lời tuyên ngôn và những tuyên bố về ý chí bảo vệ nền độc lập tự do của dân tộc.
II. Đọc hiểu văn bản
1. Cơ sở pháp lí của bản tuyên ngôn
- Bác dẫn hai bản tuyên ngôn: Tuyên ngôn Độc lập của nước Mĩ (1776); Tuyên ngôn Nhân quyền và
Dân quyền của cách mạng Pháp (1791) -> Hai bản tuyên ngôn được cả thế giới thừa nhận nội dung
phù hợp với mơ ước và quyền lợi của con người. Đó là chân lí không ai có thể chối cãi. Việc trích
dẫn ấy có giá trị sâu sắc. Bác tỏ ra trân trọng những danh ngôn bất hủ để chặn đứng âm mưu trở lại
xâm lược nước ta của thực dân Pháp.
- Người trích dẫn lời bản Tuyên ngôn độc lập của nước Mĩ: “Tất cả mọi người…hạnh phúc”. Bác rất
linh hoạt khi kết hợp với ý kiến của mình “suy rộng ra câu ấy có nghĩa là” từ khẳng định quyền
con người, Bác đã chuyển nhanh sang quyền của các dân tộc “tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh
ra bình đẳng, daâ tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”
- Người trích dẫn bản Tuyên ngôn Nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp: “Người ta sinh
ra….quyền lợi”. Người khẳng định: “ đó là lẽ phải không ai có thể chối cãi được”. Bác xoáy sâu vào
quyền bình đẳng mọi mặt của con người. Con người hiểu theo nghĩa không phân biệt chủng tộc,
màu da, tổ quốc. Con người nhân loại . Vậy có lí do gì Pháp xâm lược Việt Nam?
- Bác dẫn lời cha ông họ. Ông cha họ đã từng khẳng định, từng tuyên ngôn hùng hồn đanh thép. Có
lẽ nào chúng lại vô tình đi ngược lại và phản bội lời lẽ của ông cha chúng? Đây chính là phương
pháp luận của Bác, là nghệ thuật “gậy ông đập lưng ông” khôn khéo và tế nhị.
Lời văn: Phần mở đầu bản tuyên ngôn có giá trị nổi bật về tư tưởng và nghệ thuật lập luận, tiêu biểu

cho phong cách chính luận HCM. Tác giả đã khẳng định độc lập dân tộc trên cơ sở những lí lẽ không
thể chối cãi.
- Ngay từ những dòng đầu tiên, Hồ Chí Minh nêu lên những chân lý vĩnh cửu về quyền tự do của
dân tộc, quyền sống của mỗi con người đã được thừa nhận qua nhiều thời kỳ lịch sử ở ngay chính
những quốc gia mà bấy giờ chính quyền của họ đang đi ngược lại nguyên tắc đó.
Bác đã dẫn lời hai bản tuyên ngôn nổi tiếng của Mỹ và của Pháp, chứa đựng những tư tưởng lớn, đã
được thừa nhận của nhân loại, để làm cơ sở pháp lí cho bản tuyên ngôn của VN. Cách lập luận của
tác giả vừa khôn khéo vừa kiên quyết
MOON.VN
KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI

- hotline: 04.32.99.98.98
+ Cách lập luận ấy khôn khéo bởi vì:
@ Thu hút sự chú ý của dư luận. Dẫn Tuyên ngôn độc lập của nước Mĩ, Tuyên ngôn Nhân quyền
và dân quyền của cách mạng Pháp chính là biểu hiện của sự mở ra, hoà vào đời sống cộng đồng thế
giới của dân tộc. Chỉ mới đây thôi, dân tộc còn nô lệ, đất nước còn chưa có tên riêng (mang tên xứ
An Nam thuộc Pháp), xã hội còn là xã hội phong kiến thuộc địa cũ kĩ, tù đọng. Hôm nay chúng ta đã
là nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đứng giữa nhân loại trên thế giới. Những nội dung, khí phách
như thế đã cất lên, vang động khắp hoàn cầu.
@ Gợi lại cho người Mĩ và người Pháp nhớ lại những hoàn cảnh tương tự như Việt Nam. Cách đó
200 năm, người Mĩ cũng bị áp bức, bị làm nhục như Việt Nam, cũng bị những người Âu châu sang
khai thác. Câu nói nổi tiếng của thủ tướng Anh Uy-liêm: “Hễ Mĩ làm ra dù một sợi len, một miếng
sắt móng ngựa là bản chức sẽ cho lĩnh sang đóng đầy xứ ngay lập tức”. 1775, dưới sự lãnh đạo của
người anh hùng Oa sinh tơn, lãnh đạo nhân dân nổi dậy chống đế quốc Anh đã thống trị họ từ đầu thế
kỉ XVII. 4-7-1776, họ tuyên bố Độc lạp và thành lập Liên bang Bắc Mĩ Hoa kì (quen gọi là nước
Mĩ). 15 năm sau bản tuyên ngôn của Mĩ là tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp không
chịu được cảnh phải cõng trên lưng, đội trên đầu quyền lực tối cao của chế độ quân chủ, trong đó luật
pháp là do ý thích của nhà vua đặt ra. Như vậy mấy trăm năm trước người Pháp lật đổ chế độ quân
chủ, người Mĩ đánh đuổi thực dân, mấy trăm năm sau, người Việt cùng một lúc đánh đổ cả chế độ
phong kiến và chế độ thực dân, cùng chung khát vọng độc lập tự do như người Mĩ người Pháp Vừa

nhắc nhớ, vừa có ý đặt ngang hàng cuộc cách mạng tháng Tám của ta với hai cuộc cách mạng của
Pháp và Mỹ. Quả thật hai cuộc cách mạng nói trên mở ra một giai đoạn mới trong sự phát triển của
lịch sử xã hội loài người thì cuộc cách mạng tháng Tám của ta cũng mở ra một kỷ nguyên mới. Đó là
kỷ nguyên dành độc lập dân tộc ở các nuớc thuộc địa, là kỷ nguyên sụp đổ của chủ nghĩa thực dân.
Với những trích dẫn hai câu nổi tiếng trong bản Tuyên ngôn của Mĩ và Pháp, Hồ Chí Minh muốn
khẳng định chân lí lịch sử và niềm tự hào dân tộc, khẳng định tầm vóc thời đại của cuộc Cách
mạng tháng Tám.
@ Người đã thể hiện sự tôn trọng những danh ngôn bất hủ đã được cả thế giới thừa nhận, những
chân lý dù đó là của Mỹ hay của Pháp. Ở đây không hề có sự lầm lẫn giữa nhân dân Mỹ, dân tộc
Pháp với bọn xâm lược Mỹ, Pháp.
@ Từ quyền bình đẳng và tự do của con người mà tác giả suy rộng ra về quyền bình đẳng tự do của
các dân tộc trên thế giới. Đây là một cách vân dụng khéo léo và đầy sáng tạo nhưng vẫn đảm bảo
tính chặt chẽ trong lập luận. Tư tưởng về ''Quyền của các dân tộc '' là một đóng góp lớn của TNĐL:
''cống hiến nổi tiếng của cụ HCM vào kho tàng tinh hoa tư tưởng nhân loại. Bởi vì tư tưởng này là sự
nâng cao giá trị, tầm vóc nhân bản của tư tưởng, của nguyên tắc về quyền của con người '' (Giáo sư
Singô Sibita). Nghĩa là con người phải biết vươn tới quyền lợi của cộng đồng. Mặt khác, tư tưởng
nguyên tắc ''Quyền của các dân tộc '' còn là cơ sở để nhân loại thấy rằng giai cấp tư sản trong khi nêu
cao nhân quyền, dân quyền lại mở rộng quyền xâm phạm tàn bạo, bóc lột dã man các dân tộc khác.
Đó là vô nhân đạo và phi nghĩa. Thế là từ phạm trù nhân quyền - nền móng tư tưởng của cách mạng
tư sản - Bác đã chuyển sang phạm trù chống thực dân - nền móng của phong trào giải phóng dân tộc,
phong trào rồi sẽ trở thành một trong ba dòng thác cách mạng trên thế giới. Chỉ trong một câu văn
ngắn gọn, ta vẫn nhận ra một Hồ Chí Minh như nguời giương cao bó đuốc sáng ngời của tư tưởng
giải phóng dân tộc.
@ Việc trích dẫn hai bản tuyên ngôn vừa nhằm đề cao những giá trị hiển nhiên của tư tưởng nhân
đạo và văn minh của nhân loại, vừa tạo tiền đề cho lập luận sẽ nêu ở mệnh đề tiếp theo.
MOON.VN
KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI

- hotline: 04.32.99.98.98
+ Khôn khéo nhưng vẫn kiên quyết: Bác đã dùng lời lẽ bản tuyên ngôn của Mỹ, Pháp để phủ nhận

chính âm mưu xâm lược của hai cường quốc này. Qua thủ pháp nghệ thuật “gậy ông đập lưng ông”,
dường như tác giả đã ngầm cảnh cáo nếu Pháp xâm lược Việt Nam thì chính họ đã phản bội lại
truyền thống tốt đẹp của dân tộc họ đã đúc kết thành chân lý ghi trong bản tuyên ngôn. Họ sẽ vấy bẩn
lên lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái mà cha ông họ từng giương cao.
Kết tiết 1: Tuyên ngôn độc lập là đỉnh cao của văn học yêu nước, đỉnh cao của văn chính luận.
Trong cả cuộc đời làm văn viết văn của Bác thì hai lần nguời cảm thấy sung sướng và sảng khoái
nhất khi đặt bút viết đó là lần viết “Bản án chế độ thực dân Pháp” để lại bản cáo trạng đanh thép kết
tội chúng” và lần viết Tuyên ngôn độc lập để tuyên bố cáo chung chế độ thực dân ấy. Tác phẩm đã
xây dựng được một kết cấu chặt chẽ, lí lẽ hùng hồn, lập luận đanh thép, lời văn hàm súc, trong sáng.
Nếu người Mĩ tự hào vì có bản tuyên ngôn độc lập 1776, người Pháp có Tuyên ngôn nhân quyền và
dân quyền 1791 thì dân tộc Việt Nam có quyền kiêu hãnh vì có Tuyên ngôn độc lập, tác phẩm kết
tinh tâm hồn, ý chí, khát vọng của con người Việt Nam.
- Chỉ bằng đoạn văn ngắn mở đầu, TNĐL đã đưa ra căn cứ, lí lẽ xác đáng cho lập luận. Quá trình dẫn
dắt tới căn cứ, lập luận này hết sức chính xác, chặt chẽ, thể hiện độ nhạy bén chính trị, sự sắc sảo trí
tuệ cao độ. Với đoạn mở đầu, tác giả đã tạo cơ sở lý luận vững chắc để triển khai lập luận ở phần
sau.
- Chúng ta đã từng biết đến chất trí tuệ sắc sảo của Nguyễn Ái Quốc qua truyện Những trò lố hay Va
ren và Phan Bội Châu hiện đại bằng tiếng Pháp, chất cổ điển hài hòa với tinh thần hiện đại của HCM
qua Nhật kí trong tù bằng chữ Hán, thì đến với Tuyên ngôn độc lập, ta còn biết đến một áng văn
chính luận mẫu mực giàu tính luận chiến của nhà Cách mạng HCM. Đây cũng là tác phẩm mà HCM
cảm thấy hài lòng nhất trong cuộc đời viết văn, làm báo dày dạn kinh nghiệm của mình.

MOON.VN
KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI

- hotline: 04.32.99.98.98





2. Bác vạch tội cũng là tranh luận ngầm với thực dân Pháp.
- Bác hạ từ “ thế mà”, hai từ ấy như đảo ngược lại hoàn toàn, phủ nhận hoàn toàn thái độ của thực
dân Pháp. Nghĩa là chúng đã phản bội lại lời lẽ của cha ông chúng.
- Từ đây bản tuyên ngôn đã đưa ra những chứng cứ sự thật. Thực chất, Bác đã ngầm tranh luận với
Pháp và công bố trước dư luận.
+ Chúng kể công ''bảo hộ '' Việt Nam nhưng thực chất là chúng đã dâng Đông dương hai lần
cho Nhật .
+ Chúng kể công ''khai hoá'' Việt Nam nhưng thực chất là chúng bóc lột, áp bức đẩy dân tộc ta
tới nguy cơ diệt chủng trong nạn đói 1945 .
+ Chúng nhân danh Đồng minh trở lại Việt Nam >< thực chất chúng phản bội Đồng minh, đầu
hàng Nhật, khủng bố Việt minh là lực lượng đứng trong phe Đồng minh đánh Nhật .
+ Chúng nêu lên những ràng buộc về mặt pháp lí của Việt Nam với Pháp bởi những hiệp ước
này khác thì bản tuyên ngôn khẳng định từ 1940, Việt Nam là thuộc địa của Nhật và Việt minh đã
giành lại chủ quyền cho dân tộc mình từ tay Nhật chứ không phải từ tay Pháp. Như thế mọi ràng
buộc có tính pháp lí trên đã bị huỷ bỏ .
-> Lời lẽ của Bác cụ thể, dẫn chứng rõ ràng, văn viết có hình ảnh (tắm các cuộc khởi nghĩa của ta
trong các biển máu), tác động mạnh mẽ tới người đọc, người nghe.
- Bác tuyên bố thoát li hẳn mọi quan hệ thực dân với Pháp.
+ Xoá bỏ mọi hiệp ước mà Pháp đã kí ở VN.
+ Khai sinh ra nước VNDCCH.
+ Thể hiện quyết tâm chống mọi âm mưu của thực dân Pháp.
+ Bày tỏ niềm tin với Đồng minh.
Lời văn:
Lòng yêu nước, nguyện vọng độc lập dân tộc của nhân dân ta đuợc khẳng định chắc chắn trên cơ sở
thực tiễn. Tác phẩm là cuộc tranh luận ngầm về chủ nhân đích thực của đất nước Việt Nam, phủ
nhận quyền của Pháp, khẳng định quyền tự do của Việt Nam.
Nghệ thuật lập luận trong cuộc “tranh luận ngầm” nhằm bác bỏ những luận địệu xảo trá của thực
dân, đế quốc đã được thể hiện sáng rõ:
a) Bản Tuyên ngôn đã dựng lên bản cáo trạng đanh thép về tội ác của thực dân Pháp.
+ Nếu Pháp nêu chiêu bài có công khai hoá đối với Việt Nam, Việt Nam vốn là thuộc địa của Pháp

thì bản Tuyên ngôn vạch rõ: Pháp chính là kẻ xâm lược, gây bao tội ác, và đã bán đứng Vn cho Nhật.
Bản Tuyên ngôn tố cáo một cách toàn diện tội ác này về chính trị, kinh tế.
Về chính trị: Chúng tuyệt đối không cho dân tộc ta chút quyền tự do dân chủ nào, chúng chia nuớc ta
thành ba kỳ với ba chế độ khác nhau. Mục đích là chia rẽ tình đoàn kết dân tộc, ngăn cản sự nghiệp
thống nhất đất nuớc của nhân dân ta. Chúng đàn áp những nguời yêu nuớc thương nòi, tắm các cuộc
khởi nghĩa của ta trong những bể máu. Chúng thực hiện chính sách ngu dân, lập nhà tù nhiều hơn tr-
uờng học. Chúng đầu độc nhân dân ta bằng ruợu cồn và thuốc phiện để ta suy kiệt giống nòi.
Về kinh tế: Chúng cuớp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu, bóc lột sức lao động, chúng thực
hiện chính sách thuế hà khắc, vô nhân đạo khiến mọi tầng lớp nhân dân không ngóc đầu lên đuợc.
Tội ác lớn nhất của thực dân Pháp và phát xít Nhật là đã gây ra thảm hoạ nạn đói năm 1945 khiến
hai triệu nguời chết đói. (Thơ Tố Hữu: Con đói lả ôm chân mẹ khóc/ Mẹ đợ con đấu thóc cầm hơi/
TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP – HỒ CHÍ MINH (tiết 2)

MOON.VN
KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI

- hotline: 04.32.99.98.98
Kiếp người cơm vãi cơm rơi/ biết đâu nẻo đất phương trời mà đi. Hay “Nửa đêm thuế thúc trống
dồn/ Sân đình máu chảy đường thôn lính đầy)
+ Để phủ nhận chiêu bài của Pháp rêu rao rằng Pháp có công đứng về phe Đồng minh chống phát xít
bảo vệ Việt Nam, tác giả đã tố cáo tội ác của Pháp là đã đầu hàng Nhật một cách nhục nhã, bán rẻ
nuớc ta cho Nhật Bản. Tuyên ngôn chỉ rõ: chỉ trong vòng 5 năm mà đã hai lần Pháp quỳ gối mở cửa
nuớc ta rước Nhật. Tố cáo hành động này của Pháp, một lần nữa bản tuyên ngôn đã phủ nhận quyền
của Pháp đối với Việt Nam.
- Trong phần thứ hai của Tuyên ngôn độc lập, đoạn tố cáo tội ác về chính trị và về kinh tế của thực
dân Pháp trong hơn 80 năm đô hộ Việt Nam đuợc viết ngắn gọn, cô đúc, trong khi đoạn văn nói về
việc Pháp bán nuớc ta cho Nhật, về việc ta giành lại nuớc từ tay Nhật lại được viết khá tỉ mỉ, kỹ
càng. Vì sao vậy ?
- Vì vào lúc ấy, trước công luận trong nước ta và trên thế giới, tội ác của bọn thực dân ở thuộc địa đã
là một thực tế quá hiển nhiên. Trong khuôn khổ một bản Tuyên ngôn - một loại hình văn bản rất cần

sức mạnh của sự nén dồn, cô đúc, những tội ác này hoàn toàn có thể nêu dưới dạng những lời kết án
gọn gàng, đanh thép.
- Nhưng những điều Bác nói đến trong đoạn văn sau lại khác. Bác Hồ đã sáng suốt lường trước được
rằng, sẽ không ít nguời vô tình hoặc hữu ý cho rằng chúng ta giành độc lập từ tay thực dân Pháp.
Thiếu một chút sáng suốt, một chút khôn khéo ở đây, ta dễ có thể bị quy là chống lại một thành viên
chủ chốt của đồng minh, chống lại những điều ước cho những nước thắng trận có quyền thu lại
những mảnh đất cũ của mình.
- Một điều có tầm quan trọng sống còn đối với nền độc lập của đất nước như thế, không thể nào coi
nhẹ. Nên dù là Tuyên ngôn, Bác Hồ vẫn phải dụng công phân giải, bằng hàng loạt câu văn chia thành
các vế phân biệt với nhau, với sự nhấn rất mạnh trong ngữ điệu. Ví như:
“Thế là chẳng những chúng không “bảo hộ” đuợc ta, trái lại, trong 5 năm, chúng đã bán nuớc ta
hai lần cho Nhật”.
“Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nuớc ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa
của Pháp nữa”.
“Sự thật là dân ta đã lấy lại nuớc Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp”.
Đó là những câu văn mang ý nghĩa sinh tử trong một bản tuyên ngôn.
- Về nghệ thuật: Đoạn văn tố cáo tội ác thực dân Pháp là một điển hình mẫu mực về văn chương
chính luận. Những dẫn chứng đưa ra đều có sự chọn lọc. Đặc biệt lời văn vừa súc tích vừa truyền
cảm. Bác không viết “chúng đàn áp các cuộc khởi nghĩa của ta một cách dã man” mà viết: “chúng
tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong bể máu”. Hành động đàn áp đã được diễn đạt bằng hình tuợng
“tắm”. Mức độ dã man đã được hình tượng hoá thành “bể máu”. Cách diễn đạt hình tượng này vừa
lột trần đuợc bộ mặt quỷ sứ khát máu nguời của bọn thực dân, vừa diễn tả được nỗi đau thê thảm của
nhân dân ta, những nguời dân vô tội đang quằn quại trong “vòng tử địa” (Đuờng Kách mệnh). Đúng
là tư tưởng chính trị đã đuợc thể hiện bằng một câu văn miêu tả tuyệt vời có sức lay động mạnh mẽ
cả nhận thức và tình cảm của người đọc.
3. Bản tuyên ngôn thể hiện quyết tâm lớn.
- Khép lại bản tuyên ngôn Bác trịnh trọng tuyên bố:
“ Nước VN có quyền …ấy”đoạn văn ngắn, lời gọn và ý sâu.
- Độc lập dân tộc còn đuợc khẳng định trên cơ sở thực tiễn về phía Việt Nam. Ở đây, Tuyên ngôn đã
khẳng định “Việt Nam có quyền và thực tế đã là một nước giành được tự do độc lập”.

+ Thực tế Việt Nam có quyền hưởng tự do độc lập bởi vì chính nhân dân Việt Nam chứ không phải
ai đã đứng về phe đồng minh chống phát xít: “Một dân tộc đã gan góc chống ách đô hộ của thực dân
Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe đồng minh chống phát xít Nhật suốt mấy
năm nay, dân tộc đó phải được tự do, dân tộc đó phải đuợc độc lập”. Trong một đoạn văn ngắn hai
lần xuất hiện từ gan góc, bốn lần dùng từ dân tộc. Hai đoạn văn của bản Tuyên ngôn lặp lại như hai
MOON.VN
KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI

- hotline: 04.32.99.98.98
nhát dao chém xuống mỗi lúc một mạnh hơn. Nguời đòi quyền cho dân tộc nên 20 lần nhắc tới chữ
quyền trong những câu văn hào hùng đanh thép.
+ Không những khẳng định quyền mà bản Tuyên ngôn còn khẳng định thực tế Việt Nam đã giành đ-
ược độc lập. Cách lập luận của tác giả ở đây cũng thật chặt chẽ, sắc sảo. Bác chỉ rõ Việt Nam không
còn là thuộc địa của Pháp vì Pháp đã bán rẻ Việt Nam cho Nhật. Nước ta cũng không còn là thuộc
địa của Nhật vì sau khi Nhật đầu hàng đồng minh thì nhân dân ta đã giành lại nước từ tay Nhật. Hơn
nữa Việt Nam đã có Chính phủ lâm thời đại diện chân chính cho nhân dân Việt Nam. Để khẳng định
sự thật này, Nguời viết Tuyên ngôn độc lập láy đi láy lại hai lần chữ “sự thật”. “Sự thật là, sự thật
là” và cuối cùng thì “Nuớc Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước
tự do độc lập”. Đây là những điệp khúc tiếp nối nhau tăng thêm âm huởng hùng biện của bản tuyên
ngôn.
+ Một câu hỏi đặt ra đối với dư luận quốc tế lúc bấy giờ là “dân tộc VN có khả năng làm chủ vận
mệnh của mình hay không? HCM đã đưa ra những lí lẽ sắc bén để khẳng định: Nếu TD Pháp phản
bội đồng mình, dâng Đông Dương hai lần cho Nhật thì thì dân tộc VN đã anh dũng chống Nhật,
giành lại độc lập. Nếu thực dân Pháp tàn bạo, vô nhân đạo trong hành động thẳng tay khủng bố Việt
Minh, giết tù chính trị trước khi bỏ chạy, thì nhân dân VN vẫn giữ thái độ khoan hồng, nhân đạo.
Một dân tộc bất khuất, kiên cường và nhân nghĩa như thế hoàn toàn xứng đáng và đầy đủ khả năng
để có thể bảo vệ quyền tự quyết của mình.
+ Người khẳng định: “ Nước VN có quyền”, “và sự thật đã thành một nước tự do độc lập”. Bác vừa
khẳng định vừa tuyên bố công khai. Mấy tiếng “có quyền”, và “sự thật” mạnh mẽ rắn chắc như chân
lí.

+ Người bày tỏ quyết tâm: “Toàn thể dân tộc VN quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng
và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Bác vừa thể hiện quyết tâm lớn lại vừa như kêu gọi
đồng bào cả nước đồng lòng, chung sức để giữ gìn độc lập, tự do đã giành được.
- Vị trí của những câu kết
“Chúng tôi tin rằng các nuớc Đồng minh đã công nhận những nguyên tắc dân tộc bình đẳng ở các
Hội nghị Têhêrăng và Cựu kim sơn, quyết không thể công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam.
Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng
về phe Đồng minh chống Phát xít mấy năm, dân tộc đó phải đuợc tự do! Dân tộc đó phải đuợc độc
lập!”
- Những câu văn được diễn đạt giống như định luật, định lí với đầy đủ giả thiết và kết luận. Một
cách đặt câu như thế giúp rất nhiều cho câu văn và cho sự lập luận trở nên đanh thép, hùng hồn,
không thể nào bác bỏ.
- Nếu cần phải tìm trong bản Tuyên ngôn này một câu văn chứa đựng đầy đủ hơn cả nội dung của
toàn tác phẩm thì cần phải chọn câu: “Nước Việt Nam có quyền huởng tự do và độc lập, và sự thật
đã thành một nước tự độc lập”.
- Như vậy, phần kết thúc bản tuyên ngôn, tác giả tiếp tục khẳng định lòng yêu nước, nguyện vọng
độc lập dân tộc của nhân dân ta vừa trên cơ sở công lý vừa trên cơ sở thực tiễn. Về mặt công lý, nếu
họ đã công nhận quyền độc lập dân tộc tự quyết tại hai hội nghị: Tê hê răng (1943) và Cựu Kim Sơn
(1945) thì họ nhất định sẽ phải công nhận quyền độc lập của dân tộc Việt Nam. Nhân dân ta sẽ phát
huy truyền thống yêu nước bất khuất để giữ vững quyền tự do độc lập ấy: “Toàn thể dân tộc Việt
Nam… quyền tự do độc lập ấy”.
- Bản Tuyên ngôn đã kết thúc bằng câu văn khẳng định lòng yêu nước giống như một lời thề quyết
tử cho tổ quốc quyết sinh. Đặt trong quá trình phát triển của văn học Việt Nam, Tuyên ngôn độc lập
là đỉnh cao của văn học yêu nước. Từ “Nam quốc sơn hà”, “Bình ngô đại cáo” đến Tuyên ngôn độc
lập là những chặng đường khác nhau của cùng một chân lý “Không có gì quý hơn độc lập tự do”.

MOON.VN
KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI

- hotline: 04.32.99.98.98





III. Kết luận
1. Giá trị của bản tuyên ngôn
- Tuyên ngôn Độc lập là một văn kiện lịch sử, chính trị hết sức quan trọng và có ý nghĩa vô cùng to
lớn:
+ Văn kiện ấy đã trang trọng tuyên ngôn về nền độc lập của tổ quốc Việt Nam sau ngót trăm năm
phải sống dưới xiềng xích thực dân.
+ Văn kiện ấy còn tuyên bố sự cáo chung của chế độ quân chủ đã tồn tại mấy mươi thế kỉ.
+ Văn kiện ấy còn là phát súng mở màn cho phong trào đấu tranh giải phóng ở các nước thuộc địa
trên toàn thế giới.
- Tuyên ngôn Độc lập là một bài văn chính luận mẫu mực: văn phong khúc chiết, ngắn gọn, lập luận
chặt chẽ đanh thép, lời lẽ hùng hồn và đầy sức thuyết phục.
2. Nghệ thuật
- Là áng văn chính luận mẫu mực.
- Lập luận chặt chẽ thống nhất trong toàn bài.
- Cách sử dụng từ ngữ phù hợp, văn giàu hình ảnh, khắc sâu ấn tượng, kết hợp cảm xúc…
2.1. Bản Tuyên ngôn độc lập có kết cấu chặt chẽ lập luận đanh thép
Tác phẩm gồm 3 phần có mối quan hệ hữu cơ bổ sung cho nhau:
+ Phần 1 nêu cơ sở pháp lý, đặt cơ sở lý luận:
+ Phần 2 soi sáng chứng minh bằng thực tiễn:
+ Phần cuối rút ra kết luận.
Các phần lại liên hệ với nhau bằng những liên từ, những cụm quan hệ từ chặt chẽ như những mắt
xích.
- Phần thứ nhất - phần nêu chân lí – đã nêu được nguyên lí làm cơ sở cho bản tuyên ngôn, đó là
“quyền được hưởng độc lập, tự do, bình đẳng, hạnh phúc” của mọi dân tộc trên thế giới”, kết thúc ở
câu: “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi đuợc”.
+ Kết thúc phần đầu chuyển sang phần hai, tác giả sử dụng liên từ “Thế mà” như để báo truớc những

hành động Pháp đuợc dẫn ra tiếp theo sẽ trái hẳn lẽ phải và nhân đạo, chứng tỏ rằng chúng đã phản
bội chính ngay những điều đuợc nêu lên trong các bản Tuyên ngôn của chúng
+ Kết thúc phần II chuyển sang phần 3 tác giả sử dụng cụm liên từ “bởi thế cho nên” như để khẳng
định hai phần trên là nguyên nhân còn phần cuối là kết quả. Đã coi quyền tự do, bình đẳng giữa các
dân tộc là lẽ phải không thể chối cãi, đã coi việc chúng ta giành lại được đất nuớc từ tay Nhật chứ
không phải từ tay Pháp là thực tế không thể nào bác bỏ, thì việc chúng ta thoát li hẳn các mối quan
hệ thực dân với Pháp để trở thành một nước tự do độc lập phải là một sự đương nhiên, chính đại
quang minh như trời đất, sáng tỏ như nhật nguyệt. Rõ ràng, Tuyên ngôn độc lập là một chỉnh thể
thống nhất, với các yếu tố quan hệ hết sức chặt chẽ với nhau. Cách lập luận của tác giả là dùng lời lẽ
của đối phuơng để bác bỏ đối phương và luôn có sự kết hợp giữa lý luận và thực tiễn.
2.2. Giọng văn thay đổi linh hoạt phù hợp với đối tuợng và nội dung
- Nói với công luận quốc tế thì giọng văn uyên bác, thể hiện một trí tuệ sắc sảo, dẫn những lời tuyên
ngôn nổi tiếng làm cơ sở cho lập luận.
- Viết với đồng bào cả nước thì lời văn tình cảm thiết tha. Về điều này Chế Lan Viên đã nhận xét thật
chính xác: “Vì nói với đồng bào lời văn của bản Tuyên ngôn xiết bao xúc động…sau 13 chữ “quyền”
là 14 câu, câu nào cũng có chữ “chúng” mở đầu nặng như búa tạ: “Chúng tuyệt đối không cho”,
“chúng thi hành những luật pháp dã man”, “chúng cuớp không ruộng đất” và mỗi chữ chúng ấy
TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP – HỒ CHÍ MINH (tiết 3)

MOON.VN
KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI

- hotline: 04.32.99.98.98
nhuư xiết xuống chữ “ta” làm xúc động lòng ngời: “chúng cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta,
tuyệt đối không cho nhân dân ta chút quyền tự do dân chủ nào”.
- Khi khẳng định độc lập, tự do thì lời văn trang trọng thiêng liêng. “Chúng tôi trịnh trọng tuyên bố”
- Khi tố cáo tội ác kẻ thù thì giọng văn bi thiết.
- Khi nêu cao truyền thống yêu nuớc thì giọng văn hào hùng sảng khoái.
2.3. Ngôn ngữ vừa chính xác vừa gợi cảm, truyền cảm. Vì là văn kiện chính trị nên mỗi chữ mỗi
lời cần phải chính xác tuyệt đối. Vì là tác phẩm văn học nên mỗi chữ mỗi lời lại có sức mạnh gợi

cảm truyền cảm lớn lao.
- Khi tác giả viết: “chúng tuyệt đối không cho dân ta chút quyền tự do dân chủ nào” thì hai chữ
“tuyệt đối” vừa nhấn mạnh vừa làm chính xác thêm ý văn. Chỉ bằng chín chữ : “Pháp chạy, Nhật
hàng, Vua Bảo Đại thoái vị” mà câu văn đã khái quát đuợc những sự kiên chính trị, những biến cố
quan trọng nhất của lịch sử lúc bấy giờ. Những sự kiện này đặt liên tiếp cạnh nhau trong câu văn
ngắn gọn đem đến sự cảm nhận về sự thất bại thảm hại, nhanh chóng của kẻ thù và khí thế thần tốc
của cách mạng tháng Tám.
Những tư tuởng chính trị đuợc diễn đạt bằng những hình tượng vừa gợi cảm vừa truyền cảm: tác giả
không viết: Pháp đầu hàng Nhật một cách nhục nhã mà viết “thực dân Pháp quỳ gối mở cửa nước
ta ruớc Nhật”. Câu văn hình tuợng đã diễn tả được thái độ hèn nhát và tự ti nô lệ của Pháp trước
Nhật.

ĐỀ LUYỆN TẬP

ĐỀ 1:
- "Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể
xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh
phúc". Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mĩ. Suy rộng ra, câu nói
ấy có ý nghĩa là: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền
sống, quyền sung sướng và quyền tự do. Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách
mạng Pháp năm 1791 cũng nói" Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn
được tự do và bình đẳng về quyền lợi".
Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được.
Thế mà hơn 80 năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất
nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa”
- "Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng
về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được
độc lập!
Vì những lẽ trên, chúng tôi, Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, trịnh trọng
tuyên bố với thế giới rằng:

Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã trở thành một nước tự do, độc lập.
Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững
quyền tự do độc lập ấy".
a, Hai đoạn trích trên thuộc tác phẩm nào? Vị trí của đoạn trích trong tác phẩm? Tác giả nào?
Tác phẩm được soạn thảo năm nào và được công bố ở đâu?
b, Hãy phân tích ngắn gọn nội dung, ý nghĩa và văn phong hai đoạn trích trên.
Gợi ý:
I. Hai đoạn trích trên trong tác phẩm “Tuyên ngôn Độc lập”
- Đoạn trích thứ nhất là phần mở đầu tuyên ngôn, đoạn trích thứ hai là đoạn kết.
- Tác giả: Hồ Chí Minh.
- Tác phẩm được soạn thảo vào năm 1945, ở căn gác số 48, phố Hàng Ngang, Hà Nội.
- Ngày 02/09/1945 tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt chính phủ
lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đọc bản Tuyên ngôn Độc lập trước hàng chục vạn đồng
bào.
II. Nội dung, ý nghĩa
MOON.VN
KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI

- hotline: 04.32.99.98.98
1. Nội dung
- Khẳng định quyền con người (nhân quyền và dân quyền), quyền bình đẳng, quyền sống, quyền tự
do mưu cầu hạnh phúc.
- Quyền dân tộc, bình đẳng, quyền sống, quyền được sung sướng, quyền tự do, độc lập. Mở rộng
quyền con người thành quyền dân tộc, đây là sáng tạo, là cống hiến của Hồ Chí Minh.
- Với những trích dẫn hai câu nổi tiếng trong bản Tuyên ngôn của Mĩ và Pháp, Hồ Chí Minh muốn
khẳng định chân lí lịch sử và niềm tự hào dân tộc, khẳng định tầm vóc thời đại của cuộc Cách mạng
tháng Tám.
- Khẳng định tinh thần đấu tranh anh dũng, gan góc và quyền được hưởng tự do, độc lập của dân tộc
Việt Nam.
2. Ý nghĩa: Vạch trần dã tâm của thực dân Pháp chà đạp lên lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái của Cách

mạng Pháp. Đề cao tư tưởng nhân đạo và tính pháp lí của văn kiện lịch sử, tranh thủ sự ủng hộ của
các nước phe đồng minh, của nhân dân thế giới.
III. Văn phong
- Đây là một văn bản chính luận thể hiện phong cách chính luận của Hồ Chí Minh. Đặc điểm
của văn chính luận là lập luận chặt chẽ, lý lẽ đanh thép và những bằng chứng không ai chối cãi được.
- Lý lẽ của bản Tuyên ngôn sắc bén, lí luận chặt chẽ, hùng hồn, có sức thuyết phục. Tác giả
xây dựng luận chứng phát triển lí lẽ trên cơ sở những lẽ phải, những tư tưởng về nhân quyền, dân
quyền, quyền tự quyết của dân tộc.
ĐỀ 3: Kết thúc bản Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trịnh trọng tuyên bố rằng:
"Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã trở thành một nước tự do,
độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để
giữ vững quyền tự do, độc lập ấy".
Dựa vào những hiểu biết về tác phẩm Tuyên ngôn Độc lập, anh (chị) hay phân tích đoạn
văn trên để làm sáng tỏ những tư tưởng lớn của người.
Gợi ý:
1. Tuyên ngôn độc lập là một văn kiện lịch sử vĩ đại, đồng thời là một tác phẩm văn học bất hủ của
dân tộc ta. Nó kết tinh những quyền lợi cơ bản, những nguyện vọng tha thiết của dân tộc Việt Nam
và khí phách hào hùng của nhân dân ta.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chính thức tuyên bố trước quốc dân, trước thế giới sự thành lập nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, khẳng định quyền độc lập, tự do và ý trí bảo vệ nền độc lập, tự do của
dân tộc Việt Nam. Kết thúc bản Tuyên ngôn Độc lập, Người đã trịnh trọng tuyên bố "Nước Việt
Nam ( ) giữ vững quyền tự do, độc lập ấy".
2. " Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã trở thành một nước tự do, độc
lập". - Tuyên ngôn khẳng định quyền độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam trên cơ sở pháp lý và thực
tế.
Thực dân Pháp tuyên bố Đông Dương là thuộc địa của chúng nên chúng có quyền trở lại
Đông Dương. Nhưng Đông Dương đã không còn là thuộc địa của Pháp. Bản tuyên ngôn đã nêu rõ:
"Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa
của Pháp nữa. Khi Nhật hàng Đồng minh thì nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền, lập
nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.

Sự thật là nhân dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp".
- Từ sự thật trên, Tuyên ngôn tiếp tục khẳng định về mặt pháp lí: "chúng tôi, Lâm thời Chính
phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn dân tộc Việt Nam, tuyên bố thoát li hẳn quan hệ thực
dân với Pháp, xoá bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã kí về nước Việt Nam, xoá bỏ tất cả mọi đặc
quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam”.
- Vậy là Việt Nam "Sự thật đã thành một nước tự do, độc lập".
3. Tuyên ngôn khẳng định quyết tâm của dân tộc Việt Nam bảo vệ độc lập, tự do bằng mọi giá, bằng
tất cả tinh thần và lực lược, tính mạng và của cải của toàn dân tộc Việt Nam.
4. Tư tưởng lớn nổi bật lên ở đây: Việt Nam có quyền hưởng độc lập, tự do và sự thật đã trở thành
một nước tự do, độc lập. Vì vậy cả dân tộc quyết tâm giữ vững quyền tự do, độc lập ấy.
MOON.VN
KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI

- hotline: 04.32.99.98.98
2- Tuyên ngôn độc lập - sự tiếp tục truyền thống và sự phát triển ở thời hiện đại
Chỉ ra sự tiếp nối giữa thơ Thần, Bình Ngô Đại Cáo và Tuyên ngôn độc lập ?
Với đất nước ta, một quốc gia dân tộc có lịch sử 4000 năm nhưng gần hai ngàn năm phải chống
ngoại bang xâm lược, đô hộ, đồng hoá để bảo vệ độc lập dân tộc chủ quyền quốc gia, đây không phải
là lần Tuyên ngôn độc lập thứ nhất.
Hơn 1000 năm trước, khi quân xâm lược Tống (Trung Quốc) kéo sang giày xéo bờ cõi, dưới dạng
một bài thơ, vẫn quen gọi là thơ Thần, chúng ta đã tuyên bố "Sông núi nước Nam vua Nam ở ". Hơn
năm trăm năm trước, sau thắng lợi của sự nghiệp giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ nhà Minh, cùng
phong kiến Trung Quốc trong bài Cáo bình Ngô, chúng ta lại một lần nữa tuyên bố nền độc lập trong
không khí hào sảng: "Như nước Đại Việt ta hùng cứ một phương ".
Và bây giờ là Tuyên ngôn độc lập vẫn với một tinh thần như vậy. Độc lập, tự do cho dân tộc chủ
quyền quốc gia đã trở thành lẽ sống còn, trước hết và trên hết mọi lẽ truyền từ đời này sang đời khác
của dân tộc chúng ta.
- Tuy nhiên, nếu nhìn lại lịch sử so với thơ Thần và Bình Ngô Đại Cáo, ta thấy rất rõ điều này: Tuyên
ngôn độc lập là đỉnh mốc cao nhất đánh dấu bước phát triển lớn lao nhất của lịch sử phát triển quốc
gia dân tộc bởi mấy lẽ chính:

+ Thứ nhất: Tuyên ngôn độc lập không phải chỉ thuần tuý là tuyên ngôn về quyền độc lập dân tộc,
chủ quyền quốc gia mà còn là một tuyên ngôn cách mạng, là lời tuyên bố xoá bỏ chế độ quân chủ
phong kiến mấy mươi thế kỷ lập nên chế độ dân chủ cộng hoà, cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc
thắng lợi, làm cuộc cách mạng, xã hội thành công; Từ đó khẳng định con đường đi mới của dân tộc.
Tuyên ngôn độc lập đã đồng thời tuyên bố hai sự nghiệp: bước kế tục truyền thống của cha ông;
bước đi vĩ đại của con cháu ở thời hiện đại. Mang cả hai nội dung, hoà âm của cả hai âm hưởng này
là điều mà các bản tuyên ngôn trước chưa kịp có được.
+ Thứ hai: Đây không còn là tuyên ngôn trong môi trường phương Đông, thực chất là "Môi trường
Trung Hoa" hạn hẹp ở thế tay đôi giữa ta với Trung Quốc như một thời đã qua. Tuyên ngôn độc lập
là sự hiện diện của dân tộc ta giữa thế giới rộng lớn, với những lời "tuyên bố trịnh trọng" trước toàn
thế giới. Dẫn Tuyên ngôn độc lập của nước Mĩ, Tuyên ngôn Nhân quyền và dân quyền của cách
mạng Pháp chính là biểu hiện của sự mở ra, hoà vào đời sống cộng đồng thế giới của dân tộc chúng
ta so với cái đời sống quẩn quanh trong các giáo lí, điển chương Nho giáo ngày hôm trước => Cho
nên, tầm thế giới tầm nhân loại của Tuyên ngôn độc lập cũng là điều mà các áng hùng văn xưa chưa
kịp có được. Vậy là chỉ mới đây, dân tộc còn nô lệ, đất nước còn chưa có tên riêng (nó mang tên xứ
An Nam thuộc Pháp), xã hội còn là xã hội phong kiến thuộc địa cũ kĩ, tù đọng. Hôm nay chúng ta đã
là nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đứng giữa nhân loại trên thế giới. Những nội dung, khí phách
như thế đã cất vang lên, vang động khắp hoàn cầu bằng Tuyên ngôn độc lập.
- Tuyên ngôn độc lập là kết quả của một quá trình vận động hoàn toàn mới của dân tộc. Từ Tuyên
ngôn độc lập, một âm hưởng mới, một kỷ nguyên mới của đất nước bắt đầu => Tạo nên vẻ đẹp của
bản hùng văn.
3- Tuyên ngôn độc lập toát lên vẻ đẹp của lập luận, diện mạo nội dung, tư tưởng chính trị,
pháp lí
- Tuyên ngôn độc lập là văn bản tuyên bố về quyền độc lập tự do thiêng liêng của dân tộc, về chủ
quyền quốc gia. Kết tinh trong nó quyền lợi và nguyện vọng tha thiết của dân tộc, đồng thời thể hiện
khí phách của dân tộc ấy được hun đúc trong cả một lịch sử hình thành, phát triển. Nó là những dự
kiến tương lai xán lạn khi một dân tộc, một nhân dân, đất nước đã làm chủ được vận mệnh của mình
và quyết tâm bảo vệ quyền lợi ấy trước bất cứ thế lực ngoại xâm đô hộ nào. Nội dung tư tưởng ấy đã
được thể hiện tài tình bằng những lý lẽ đanh thép, lập luận chặt chẽ, dẫn chứng đầy sức thuyết phục .
Em có nhận xét gì về phần mở đầu?

MOON.VN
KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI

- hotline: 04.32.99.98.98
- Mở đầu tuyên ngôn đưa ra một chân lý đã được ghi nhận qua thử thách của lịch sử tiến hoá
nhân loại .
a Phần một: Chân lý về quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của con người. Từ
chân lý ấy dẫn tới một chân lý khác. Đó là chân lý về quyền của các dân tộc: ''Tất cả các dân tộc
tự do ''. Đã thừa nhận chân lý này ắt phải thừa nhận chân lý kia bởi chân lý sau là hệ quả tất yếu của
chân lý thứ nhất, và phủ nhận những gì vi phạm nó .
=> Như vậy bằng sự dẫn dắt, mở rộng tất yếu từ "quyền con người" đến "quyền dân tộc", TNĐL đã
xác lập được căn cứ vững chắc, đã nêu lên một lẽ phải ''không ai chối cãi được'' để khẳng định quyền
độc lập tự do của dân tộc ta. Nêu lên căn cứ để lên án mọi âm mưu, hành động xâm phạm đến chủ
quyền ấy .
- Về góc độ tư tưởng : Tư tưởng về ''Quyền của các dân tộc '' là một đóng góp lớn của TNĐL: ''cống
hiến nổi tiếng của cụ HCM vào kho tàng tinh hoa tư tưởng nhân loại. Bởi vì tư tưởng này là sự nâng
cao giá trị, tầm vóc nhân bản của tư tưởng, của nguyên tắc về quyền của con người ''(Giáo sư Singô
Sibita). Nghĩa là con người phải biết vươn tới quyền lợi của cộng đồng. Mặt khác, tư tưởng nguyên
tắc ''Quyền của các dân tộc '' còn là cơ sở để nhân loại thấy rằng giai cấp tư sản trong khi nêu cao
nhân quyền, dân quyền lại mở rộng quyền xâm phạm tàn bạo, bóc lột dã man các dân tộc khác. Đó là
vô nhân đạo và phi nghĩa.
- Cả hai mặt đạo lý và pháp lý đều hết sức sáng tỏ trong nguyên tắc về “quyền dân tộc '' mà tuyên
ngôn độc lập xây dựng làm căn cứ lập luận của mình .
- Trong bối cảnh lịch sử của nước ta, việc xác lập căn cứ lập luận này còn thể hiện một sự sắc sảo và
khôn khéo. Thời bấy giờ, những tư tưởng tiến bộ của chủ nghĩa tư bản còn có ma lực thuyết phục,
quyến rũ lí trí, tình cảm của con người. Hai bản tuyên ngôn nổi tiếng của Pháp và Mỹ đang ảnh
hưởng rộng rãi. Thế giới còn chưa biết nhiều đến Luận cương dân tộc của Lê Nin, tư tưởng nhân văn
của cách mạng XHCN tháng Mười vì những tư tưởng này bị bao bọc bởi lớp sương mù của tư tưởng
tư sản. Trích dẫn tư tưởng về quyền con người trong hai bản tuyên ngôn của Mỹ và Pháp lập tức tạo
được sự công nhận tối đa, sự thông suốt. Trong tranh luận, để bác bỏ luận điệu của một đối thủ nào

đó không gì thú vị và đích đáng hơn là dùng chính lí lẽ của đối thủ ấy. Dẫn các lẽ phải do chính họ
đã phải đổ máu xương, trí não mới có được cũng là cách lấy ''gậy ông đập lưng ông ''. Như để cho
thiên hạ thấy rằng: nếu chúng lăm le xâm lược nước ta là chúng đã phản bội truyền thống tổ tiên.
Điều mà những người có lương tâm, phẩm cách không bao giờ làm .
=> Chỉ bằng đoạn văn ngắn mở đầu, TNĐL đã đưa ra căn cứ, lí lẽ xác đáng cho lập luận. Quá trình
dẫn dắt tới căn cứ, lập luận này hết sức chính xác, chặt chẽ, thể hiện độ nhạy bén chính trị, sự sắc sảo
trí tuệ cao độ .
b. Phần hai
Tiếp theo, đối chiếu với nguyên lí rõ ràng trên, TNĐL đã đưa ra một thực tế: “ Thế mà hơn đồng
bào ta ''. Đưa như vậy là đưa dưới dạng một phản đề. Phản đề này cùng chính đề đã nêu có nghĩa là:
những lẽ phải không ai chối cãi được, những lẽ phải do chính nước Pháp và Mỹ đưa ra trong lịch sử
đấu tranh cho những tiến bộ của xã hội mình đã bị chà đạp, vi phạm trắng trợn. => Kết luận lên án,
phản đối sự vi phạm hành động chà đạp ấy tất yếu sẽ được dấy lên trong dư luận .
- Tuyên ngôn độc lập tạo ra mạch hệ thống xương cốt giữa chính đề, phản đề => thuyết phục về mặt
lý trí, là lí luận để chứng minh rằng quyền độc lập, tự do, hạnh phúc của dân tộc ta là chân chính. Nó
là bức thành lí lẽ mà mọi luận điệu có dã tâm dù biện bác đến đâu cũng bị đánh đổ.
Quá trình diễn biến lịch sử được trình bày tập trung trong 5 năm từ mùa thu 1940 đến khi dân tộc ta
giành được độc lập bằng Cách mạng tháng Tám có một ý nghĩa vô cùng quan trọng. Cả một thực tế
lịch sử được trình bày từ hai góc độ:
Góc độ 1:
MOON.VN
KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI

- hotline: 04.32.99.98.98
+ Tổng hợp, tóm tắt tội ác của Pháp trong toàn bộ lịch sử đô hộ của chúng bằng những kết luận rút
ra từ thực trạng đô hộ ở hai mặt bao quát là chính trị và kinh tế .
Góc độ 2:
+ Phân tích sâu, cụ thể khoảng thời gian điển hình 5 năm .
=> Chính hai góc độ này đã giúp mọi người và thế giới nhận ra vấn đề của đất nước, dân tộc ta một
cách đúng đắn. Nó vạch rõ cả một lịch sử ''khai hoá, ''bảo hộ '' thực chất đã diễn ra như thế nào đối

với dân tộc ta. Nó vạch trần rằng thực dân Pháp không còn một chút quyền lợi, quyền lực nào đối với
Việt Nam vì nước ta không còn là thuộc địa Pháp nữa.
* HCM đã vạch trần luận điệu điêu trá của thực dân Pháp nhằm chuẩn bị chiếm lại Việt Nam.
+ Chúng kể công ''bảo hộ '' Việt Nam nhưng thực chất là chúng đã dâng Đông dương hai lần cho
Nhật .
+ Chúng kể công ''khai hoá'' Việt Nam nhưng thực chất là chúng bóc lột, áp bức đẩy dân tộc ta tới
nguy cơ diệt chủng trong nạn đói 1945 .
+ Chúng nhân danh Đồng minh trở lại Việt Nam ><chúng phản bội đồng minh, đầu hàng Nhật,
khủng bố Việt minh là lực lượng đứng trong phe Đồng minh đánh Nhật .
+ Chúng nêu lên những ràng buộc về mặt pháp lí của Việt Nam với Pháp bởi những hiệp ước này
khác thì bản tuyên ngôn khẳng định từ 1940, Việt Nam là thuộc địa của Nhật và Việt minh đã giành
lại chủ quyền cho dân tộc mình từ tay Nhật chứ không phải từ tay Pháp. Như thế mọi ràng buộc có
tính pháp lí trên đã bị huỷ bỏ .
c Phần 3
Trên cơ sở pháp lí, đạo lí, thực tế này, TNĐL đã tuyên bố dõng dạc, hùng hồn, trịnh
trọng trước toàn thế giới xoá bỏ mọi đặc quyền, đặc lợi của Pháp trên đất nước ta, thoát li hẳn quan
hệ với Pháp. Tuyên bố: ''Nước Việt Nam có quyền độc lập ''. Tất cả dẫn tới một chân lí ''Thế giới,
nhân loại đã công nhận quyền con người, đã công nhận quyền dân tộc bình đẳng, các nước Đồng
minh dù là tư bản đế quốc đã thông qua nguyên tắc này tại hội nghị Têhêrăng và Cựu Kim Sơn mới
đây không thể không công nhận quyền độc lập của dân tộc Việt Nam ''. Mọi sự xâm phạm chủ quyền
ấy đều trái với nhân đạo và chính nghĩa là xâm phạm một dân tộc đã độc lập, là xâm lược một nhân
dân đất nước đứng trong hàng ngũ Đồng minh chống phát xít.
- TNĐL còn bộc lộ quyết tâm mạnh mẽ bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia của dân tộc Việt
Nam. Thể hiện tinh thần và dũng khí dám hi sinh xả thân cho quyền lợi quốc gia, dân tộc ở thời điểm
lịch sử, ở kỷ nguyên mới đã bắt đầu mở ra => Nó thể hiện tư thế bản lĩnh của dân tộc. Đó là hai mặt
tạo thành chỉnh thể của TNĐL gồm lí lẽ (khẳng định chủ quyền quốc gia ) phủ định mọi mưu toan
hành động xâm phạm và mặt trữ tình (trong lập luận vững chắc). Những tuyên bố, những lí lẽ đều
chất chứa phong thái điềm tĩnh, mực thước và cao thượng hai mặt thống nhất ấy bao giờ cũng thống
nhất và phân định rõ ràng: Ta và chúng. Ta và nhân loại, thế giới => để vừa lập luận với ''mọi
người'', '' với công luận '' vừa khẳng định, thể hiện mình. Bởi thế TNĐL như có người đã nhận xét là

''một văn kiện chính trị pháp lí có giá trị thời đại và vượt ra khỏi Việt Nam, có giá trị thế giới, vượt
khỏi phạm vi thời gian, có giá trị lịch sử "(luật sư Ngô Bá Thành ).
4- TNĐL - vẻ đẹp của nghệ thuật văn chương chính luận
- Ngoài cái tài tình của lập luận, cái sắc sảo của trí tuệ, TNĐL còn có vẻ đẹp của tâm hồn; Tình cảm
tác giả hoà đồng trong từng nỗi đau hay khí phách hào hùng, đức hy sinh cao cả của dân tộc mà theo
đó ngôn từ tuôn chảy, tạo nên vẻ đẹp của nghệ thuật văn chương .
- Trong TNĐL có thể nhận ra hai cung bậc của giọng văn: Một cung bậc của giọng văn dứt khoát,
mạnh mẽ. Một cung bậc với một từ chuyển tiếp ''Thế mà ''đã trầm lắng hẳn xuống đưa người đọc trở
lại với hiện thực, dẫn người đọc đi vào cõi sâu xa của nỗi niềm. Sau khi đối chiếu chân lí đương
nhiên về quyền con người, quyền của các dân tộc nhìn lại thực trạng trải qua của dân tộc mình trong
MOON.VN
KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI

- hotline: 04.32.99.98.98
hơn 80 năm đô hộ, dường như người viết đã bị một xung động tình cảm lớn. Cảnh ngộ trầm luân của
dân tộc hiện ra trước mắt Bác. Bác viết tiếp phần này trong nỗi niềm xót xa thương cảm: ''Thế mà
hơn 80 ''như một tiếng thở dài uất hận .
Kết cấu của ngôn từ cũng bộc lộ rõ cái tình của tác giả. Điểm lại lịch sử đất nước bị đô hộ như một
bản án đối với chế độ thực dân Pháp tóm tắt, các đoạn, câu được bố trí .
+ Đoạn về chính trị: là trật tự (dài - ngắn - dài)
+ Đoạn về kinh tế : là trật tự (ngắn - dài - ngắn )
=> Cả phần lên xuống phập phồng, thổn thức theo đau thương và căm giận .
+ Trong một câu cũng vậy, chúng đứng tách bạch và dứt khoát không kéo liền nhau vì yêu cầu rõ
ràng, nhấn mạnh từng ý từng điểm. Mỗi câu thường có hai vế. Vế một lên án đanh thép, vế hai nêu
hậu quả nỗi khổ nhục mà dân tộc ta phải gánh chịu giọng trầm lắng xót xa .
- Là luận văn chính trị nhưng lối diễn đạt của TNĐL rất giầu hình ảnh, góp phần tạo dựng hình hài
của những nội dung .
VD: Tội ác của thực dân Pháp: ''Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu ''. Miêu
tả kẻ thù, cái thảm hại của Pháp trước phát xít Nhật thì dùng những hình ảnh ''quì gối đầu hàng '',
"mở cửa nước ta rước Nhật”

- Ngôn từ chọn lọc, chính xác, phản ánh đúng nội dung ý nghĩa, bản chất sự việc, hiện tượng thể hiện
sâu sắc tư tưởng và tình cảm .
- Lời tuyên bố giản dị nhưng có sức thuyết phục cao. Trí tuệ sắc sảo nhưng đầy tâm huyết. Sức
thuyết phục cao xuất phát từ lý lẽ sự thật. Sức mạnh của chính nghĩa bao giờ cũng đồng thời là sức
mạnh của sự thật. Bởi vậy tác giả láy đi láy lại hai chữ ''sự thật'' ''sự thật là'' và cuối cùng thì: “Nước
Việt Nam và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập ,,. Đấy là những điệp khúc nối tiếp nhau tăng
thêm âm hưởng hùng biện của bản Tuyên ngôn.
- TNĐL đã đáp ứng được tất cả yêu cầu mà lịch sử dân tộc và thời thế lúc bấy giờ đòi hỏi. Đáp ứng
bằng một nghệ thuật chính luận cao, với những lời lẽ dễ hiểu mộc mạc, lối diễn đạt bình dị, những lí
lẽ, lập luận vững chắc đanh thép .
+ Đáp ứng bằng những dẫn chứng tiêu biểu giầu tiếng nói tự thân .
+ Đáp ứng bằng phong cách ngôn ngữ kết hợp hài hoà giữa trữ tình và chính luận, châm biếm sắc
sảo giàu chất trí tuệ trên cái nền của một phong thái điềm tĩnh nhưng tha thiết mạnh mẽ, kiên quyết
nhưng khiêm nhường, đúng mực .
- TNĐL là bài thơ Thần, là Bình Ngô Đại Cáo của thời đại mới. Tuyên ngôn độc lập rửa cái nhục
ngàn năm, tiếp bước tiên tổ tiến vào tương lai .

×