Tải bản đầy đủ (.pdf) (68 trang)

Nghiên cứu ảnh hưởng của thảm thực vật đến tính chất hóa học của môi trường đất xã Ký Phú - huyện Đại Từ - tỉnh Thái Nguyên.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.39 MB, 68 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM



VŨ THỊ THÙY LINH


Tên đề tài:
NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA THẢM THỰC VẬT ĐẾN
TÍNH CHẤT HÓA HỌC CỦA MÔI TRƯỜNG ĐẤT XÃ KÝ PHÚ
HUYỆN ĐẠI TỪ, TỈNH THÁI NGUYÊN



KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC




Hệ đào tạo : Chính quy
Chuyên ngành : Khoa học môi trường
Khoa : Môi trường
Khoá học : 2010 - 2014
Giáo viên hướng dẫn: T.S Hoàng Văn Hùng
Khoa Môi trường - Trường đại học Nông Lâm Thái Nguyên






Thái Nguyên, năm 2014
LỜI CẢM ƠN

Tôi xin tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới TS. Hoàng Văn Hùng đã tận tình
hướng dẫn tôi để có thể hoàn thành khóa luận này.
Tôi xin cảm ơn các thầy cô giáo, cán bộ khoa khoa học môi trường
Trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên đã giúp đỡ, tạo điều kiện cho tôi
trong thời gian học tập và nguyên cứu khoa học tại trường. Tôi xin cảm ơn
các cán bộ môi trường và UBND xã Ký Phú, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên
đã tận tình giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện đề tài này.























DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT

B : Thân bụi
G : Thân gỗ
L : Thân leo
NN : Nông nghiệp
NXB : Nhà xuất bản
OTC : Ô tiêu chuẩn
PTNT : Phát triển Nông thôn
T : Thân thảo
TĐT : Tuyến điều tra
UBND : Ủy ban nhân dân
KVNC : Khu vực nghiên cứu







DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1. Bảng đánh giá số loài thực vật được mô tả trên toàn thế giới 8
- Sự thay đổi chỉ tiêu hóa tính của đất rừng (Phân tích sự thay đổi mùn và
NPK Độ chua và Ca2+, Mg2+ trao đổi…). 23
Bảng 3.1. Ký hiệu độ nhiều của thực bì theo chuẩn của Drude 25
Bảng 4.1. Hiện trạng sử dụng đất xã Ký Phú huyện Đại Từ năm 2011 28
Bảng 4.2. Phân tích đánh giá số dân gia tăng giai đoạn 2005-2011 30

Bảng 4.3. Tổng hợp điểm dân cư các xóm năm 2011 31
Bảng 4.4. Cơ cấu lao động 31
Bảng 4.5 HIỆN TRẠNG NHÀ VĂN HÓA CỦA XÃ VÀ CÁC XÓM 36
Bảng 4.6 HIỆN TRẠNG NGHĨA TRANG 37
Bảng 4.7. Cấu trúc hình thái theo chiều thẳng đứng của các trạng thái 39
thảm cỏ, thảm cây bụi và rừng thứ sinh 39
Bảng 4.8. Hình thái phẫu diện đất trong các giai đoạn phục hồi rừng 42
Bảng 4.9. Hàm lượng chất dinh dưỡng của đất qua các giai đoạn
phục hồi rừng 43
Bảng 4.10. Độ chua & lượng Ca2+, Mg2+ trao đổi trong đất qua các giai đoạn
phục hồi rừng 47

DANH MỤC CÁC HÌNH

Hình 4.1. Hàm lượng đạm tổng số trong đất 44
Hình 4.2. Hàm lượng lân tổng số trong đất 45
Hình 4.3. Sự biến động của hàm lượng lân dễ tiêu trong các tầng đất tại các
điểm nghiên cứu 46
Hình 4.4. Sự biến động hàm lượng kali dễ tiêu ở các thảm thực vật 46
Hình 4.5. Sự biến đổi độ chua PHkcl 48
Hình 4.6. Sự biến biến đổi hàm lượng Mg2+ 48
Hình 4.7. Sự biến biến đổi hàm lượng Ca
2+
49

MỤC LỤC

PHẦN 1. ĐẶT VẤN ĐỀ 1

1.1. Tính cấp thiết của vấn đề 1


1.2. Mục tiêu của đề tài 3

1.2.1. Mục tiêu tổng quát 3

1.2.2 Mục tiêu cụ thể 3

1.3. Ý nghĩa của đề tài 3

1.3.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học 3

+ Nâng cao nhận thức, kỹ năng và rút ra kinh nghiệm thực tế phục vụ cho
công tác sau này. 3

1.3.2. Ý nghĩa trong thực tiễn 3

PHẦN 2. TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 4

2.1. Những nghiên cứu về thảm thực vật trên thế giới và Việt Nam 4

2.1.1. Những nghiên cứu về thảm thực vật 4

2.1.2. Những nghiên cứu về hệ thực vật 7

2.2. Những nghiên cứu về thành phần loài và dạng sống thực vật, cấu trúc 8

2.2.1. Những nghiên cứu về thành phần loài 8

2.2.2. Những nghiên cứu về thành phần dạng sống 11


2.2.3 Những nghiên cứu về cấu trúc rừng 14

2.3. Những nghiên cứu về ảnh hưởng qua lại giữa thực vật rừng và đất 16

2.3.1. Những nghiên cứu về ảnh hưởng của đất tới thảm thực vật trên thế giới
và Việt Nam 16

2.3.2. Những nghiên cứu về ảnh hưởng của thảm thực vật tới đất trên thế giới
và Việt Nam 18

2.3.3. Những ảnh hưởng về tác dụng cải tạo đất của thảm thực vật trên thế
giới và Việt Nam 20

2.4. Những nghiên cứu về thảm thực vật, đa dạng thực vật ở Thái nguyên và
vùng nghiên cứu 21

PHẦN 3. NỘI DUNG, ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 23

3.1. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 23

3.1.1. Đối tượng nghiên cứu 23

3.1.2. Phạm vi nghiên cứu 23

3.1.3. Địa điểm và thời gian nghiên cứu 23

3.2. Nội dung nghiên cứu 23

3.2.1. Điều kiện tự nhiên và xã hội của vùng nghiên cứu 23


3.2.2. Hiện trạng thảm thực vật - Cấu trúc thảm thực vật KVNC 23

3.2.3. Phân loại thảm thực vật và xác định cấu trúc của thảm thực vật tại khu
vực nghiên cứu 23

3.2.4. Đặc điểm của đất qua các giai đoạn phục hồi rừng 23

3.2.5. Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ tài nguyên rừng và
bảo vệ môi trường. 23

3.3. Phương pháp nghiên cứu 23

3.3.1. Phương pháp luận 23

3.3.2 Phương pháp phân chia giai đoạn phục hồi 24

3.3.3. Điều tra thu thập số liệu 24

3.3.4. Phương pháp phân tích 26

PHẦN 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 27

4.1. Điều kiện tự nhiên và xã hội của vùng nghiên cứu 27

4.1.1. Vị trí địa lý và ranh giới hành chính 27

4.1.2 Điều kiện kinh tế - xã hội 30

4.2. Hiện trạng thảm thực vật - Cấu trúc thảm thực vật KVNC 38


4.2.1. Giai đoạn I - Trạng thái thảm cỏ 39

4.2.2. Giai đoạn II - Trạng thái thảm cây bụi 40

4.2.3. Giai đoan III - Trạng thái rừng non thứ sinh 40

4.3. Đặc điểm của đất qua các giai đoạn phục hồi rừng 41

4.3.1. Hình thái phẫu diện đất 41

4.3.2. NPK tổng số và PK dễ tiêu 42

4.4.3. Sự thay đổi độ chua và Ca2+, Mg2+ trao đổi 46

4.5. Các giải pháp bảo vệ môi tường 49

4.5.1. Các giải pháp chung 49

4.5.2 Các giải pháp sử dụng hợp lý và bảo vệ tài nguyên đất 51

PHẦN 5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 54

5.1 Kết luận 54

5.2. Đề nghị 55

1
PHẦN 1
ĐẶT VẤN ĐỀ


1.1. Tính cấp thiết của vấn đề
Rừng - lá phổi của hành tinh, rừng không chỉ là nơi cung cấp nhiều loại
lâm sản quý và là nguồn nguyên liệu cho một số ngành công nghiệp (Trần
Ngũ Phương, 1970)[28]. Vai trò quan trọng nhất của rừng đối với trái đất với
đời sống con người là vai trò điều hòa khí hậu. Rừng có ảnh hưởng đến sự
bốc hơi nước ở môi trường xung quanh và giữ cân bằng nồng độ oxi trong khí
quyển. Rừng không chỉ cung cấp oxi mà còn có tác dụng lọc không khí, làm
cho không khí trong lành. Rừng hấp thụ một lượng lớn khí CO
2
trong khí
quyển, làm giảm các tác nhân gây ra hiệu ứng nhà kính (Thái Văn Trừng,
1998)[31].
Ngoài ra, rừng có vai trò quan trọng trong việc hạn chế xói mòn đất,
nhất là xói mòn trên sườn đất dốc (Nguyễn Tử Xiêm và Thái Phiên,
1999)[34]. Rừng là tài nguyên vô cùng quý giá của mỗi quốc gia, tuy nhiên
rừng lại đang bị khai thác một cách quá mức vì các lợi ích kinh tế. Vì cái lợi
ích trước mắt, con người chúng ta sẵn sàng hủy hoại môi trường sống của
mình (Nguyễn Ngọc Bình, 1996)[6].
Đất là một trong những tài nguyên vô cùng quý giá của con người, điều
kiện sống cho động vật, thực vật và con người trên trái đất.Đất là thành phần
quan trọng của hệ sinh thái và là một trong những yếu tố hình thành quần thể
rừng, đất có quá trình phát sinh và phát triển phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong
đó có khí hậu, đá mẹ, thực vật, tuổi địa chất và hoạt động của con người (
Giacop.A ,1956 )[15]. Đất và quần thể rừng có mối quan hệ hữu cơ chặt chẽ
vì đất vừa là yếu tố hình thành rừng, có vai trò quan trọng trong quá trình sinh
trưởng của rừng, đồng thời ảnh hưởng trực tiếp của thảm thực vật tạo nên độ
phì đất rừng, độ phì đó chính là nhân tố tổng hợp được quy định bởi nhiều
yếu tố như: Thành phần cơ giới, cấu tượng đất, độ ẩm, độ thoáng khí, độ dày
tầng đất, đặc điểm hóa tính. Do đó độ phì ảnh hưởng đến nhiều mặt của hệ
sinh thái rừng nói riêng cũng như thảm thực vật nói chung. Đất càng tốt độ

2
phì càng cao. Ngược lại thảm thực vật có tác dụng trở lại với đất một cách rất
tích cực, nó thúc đẩy cho đất nhanh chóng tăng độ phì nhiêu của đất (Lê Văn
Khoa và cs, 1998)[21].


Trong những năm qua ở nước ta do khai thác quá mức nguồn tài
nguyên rừng, cùng với phong tục tập quán lạc hậu của một số địa phương
như: Du canh du cư, đốt rừng làm nương rẫy và sự phát triển của ngành chăn
nuôi gia súc đã làm cho diện tích rừng nước ta ngày càng bị thu hẹp (Nguyễn
Thế Hưng, 2003
)[17]
. Theo số liệu thống kê năm 1943 độ che phủ rừng ở
nước ta là 43%, đến năm 1993 chỉ còn 26%
(Vũ Thị Liên, 2005)[24]
. Mặc dù
năm 1999 con số này đã tăng lên 33, 2% nhưng vẫn chưa đảm bảo mức an
toàn sinh thái cho sự phát triển bền vững của đất nước
(Đặng Kim Vui và cs,
2013)[36]
, kinh tế xã hội phát triển mạnh, cùng với sự tăng dân số nhanh đã
làm cho mối quan hệ giữa người và đất ngày càng căng thẳng những sai lầm
liên tục của con người trong quá trình sử dụng đất đã dẫn đến huỷ hoại môi
trường đất, một số công năng nào đó của đất đai bị yếu đi, vấn đề sử dụng đất
đai càng trở nên quan trọng và mang tính toàn cầu (Nguyễn Trọng Điều,
1992
)[14]
. Càng ngày xã hội càng phát triển, khoa học kỹ thuật phát triển
mạnh, đời sống của con người đòi hỏi càng cao, các nhu cầu luôn biến đổi,
cùng với những thay đổi đó các chính sách của nhà nước và tình hình


kinh tế
cũng thay đổi theo. Chính vì vậy Đảng và nhà nước ta đã hết sức chú trọng tới
vấn đề bảo vệ, phục hồi lại rừng nói riêng và thảm thực vật nói chung (Lê
Ngọc Công, 2004
)[11]
.
Xã Ký Phú, huyện Đại Từ là một xã có diện tích rừng lớn, cũng như
nhiều địa phương khác trong huyện thời gian qua nhiều diện tích rừng đã suy
giảm. Nhiều diện tích rừng vẫn đang bị khai thác quá mức làm ảnh hưởng tới
môi trường. Xuất phát từ những lý do trên, được sự đồng ý của Ban giám hiệu
Nhà trường, sự giúp đỡ của Ban chủ nhiệm Khoa Môi trường, Trường Đại
học Nông lâm Thái Nguyên, dưới sự hướng dẫn trực tiếp của thầy giáo TS.
Hoàng Văn Hùng, em tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu ảnh hưởng
của thảm thực vật đến tính chất hóa học của môi trường đất xã Ký Phú,
huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên”.
3
1.2. Mục tiêu của đề tài
1.2.1. Mục tiêu tổng quát
- Đánh giá được ảnh hưởng của thảm thực vật đến môi trường đất xã
Ký Phú, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Phân loại thảm thực vật, xác định các giai đoạn phát triển của thảm
thực vật, cấu trúc hình thái các kiểu thảm thực vật tại khu vực nghiên cứu.
- Xác định được những tính chất hóa học của đất dưới các kiểu thảm
thực vật nghiên cứu.
- Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao khả năng phục hồi rừng,
tăng độ che phủ, góp phần vào việc vừa có tác dụng bảo vệ môi trường nói
chung và môi trường đất nói riêng, vừa tạo ra giá trị kinh tế.
1.3. Ý nghĩa của đề tài

1.3.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học
+ Vân dụng và phát huy được kiến thức đã học tập và nghiên cứu
+ Nâng cao nhận thức, kỹ năng và rút ra kinh nghiệm thực tế phục vụ
cho công tác sau này.
1.3.2. Ý nghĩa trong thực tiễn
+ Tăng cường công tác quản lý tài nguyên rừng nhằm phòng, chống xói
mòn, rửa trôi các chất dinh dưỡng trong đất.
+ Tăng cường trách nhiệm bảo vệ rừng, từ đó có hành động tích cực
trong công tác bảo vệ rừng đặc biệt là rừng đầu nguồn.
+ Đánh giá được hiện trạng thảm thực vật và tính chất hóa học của đất
tại xã Ký Phú, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên.

4
PHẦN 2
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

2.1. Những nghiên cứu về thảm thực vật trên thế giới và Việt Nam
2.1.1. Những nghiên cứu về thảm thực vật
2.1.1.1. Khái niệm về thảm thực vật
Thảm thực vật mới chỉ là một khái niệm chung,chưa chỉ rõ một
đối tượng cụ thể nào,nó chỉ có ý nghĩa và giá trị cụ thể khi có định ngữ kèm
theo như thảm thực vật cây bụi,thảm thực vật rừng ngập mặn…Đây là một
khái niệm bao gồm nhiều thuật ngữ đã được cụ thể hóa như : Quần hệ,quần
hợp,xã hợp,quần xã,hệ sinh thái,sinh địa quần thể,thực vật địa quyền…được
các nhà nghiên cứu sử dụng từ những năm đầu thế kỷ 20 trở lại đây.
Thành phần chủ yếu của thảm thực vật là cây cỏ,những đối tượng
nghiên cứu về thảm thực vật là tập thể cây cối được hình thành do một số
lượng cá thể của các loài thực vật tập hợp lại.Tuy nhiên không phải tất cả các
nhà nghiên cứu về thảm thực vật đều nhất trí với nhau về đơn vị nghiên cứu
cơ bản.Do đó trên thế giới phân thành nhiều chiều hướng nghiên cứu.

2.1.1.2. Những nghiên cứu thảm thực vật trên thế giới
Trên thế giới, những công trình nghiên cứu về thảm thực vật đã được
công bố nhiều, trong đó tiêu biểu là các tác giả sau đây:
Theo Thái Văn Trừng (1998)
[31]
, hệ thống phân loại đầu tiên về thảm
thực vật rừng nhiệt đới là của A.F.Schimper (1898), ông đã chia thảm thực vật
thành 3 quần hệ: quần hệ khí hậu, quần hệ thổ nhưỡng và quần hệ vùng núi.
H.G.Champion (1936) Khi nghiên cứu các kiểu rừng Ấn Độ- Miến
Điện đã phân chia 4 kiểu thảm thực vật lớn theo nhiệt độ đó là: nhiệt đới, á
nhiệt đới, ôn đới, núi cao
(Lê Trần Chấn, 1990)[8].

J.Beard (1938) đưa ra hệ thống phân loại gồm 3 cấp (quần hệ, quần
hợp, loạt quần hợp). Ông cho răng rừng nhiệt đới có 5 loạt quần hệ: loạt quần
hệ rừng xanh từng mùa, loạt quần hệ khô từng xanh, loạt quần hệ miền núi,
loạt quần hệ ngập từng mùa và loạt quần hệ ngập quang năm
(Lê Trần Chấn,
1990)[8].

5
Maurand (1943) Nghiên cứu thảm thực vật Đông Dương đã chia thảm
thực vật Đông Dương thành 3 vùng:Bắc Đông Dương, Nam Đông Dương và
vùng trung gian đồng thời ông đã liệt kê 8 kiểu quần lạc trong các vùng đó.
Tuy nhiên, nhược điểm lớn nhất của các hệ thống phân loại thảm thực
vật nói trên là không thấy rõ mối quan hệ nhân quả giữa các yếu tố sinh thái
với thảm thực vật, hoặc là không làm nổi bật mối quan hệ qua lại giữa các
nhân tố sinh thái với nhau
(Hoàng Chung, 2005)[9].
Năm 1973, UNESCO đã công bố một khung phân loại thảm thực vật

thế giới dựa trên nguyên tắc ngoại mạo và cấu trúc, chia thảm thực vật thế
giới thành 5 lớp quần hệ (Lớp quần hệ rừng kín, lớp quần hệ rừng thưa, lớp
quần hệ cây bụi, lớp quần hệ cây bụi lùn, lớp quần hệ cây thảo)
2.1.1.3. Những nghiên cứu thảm thực vật Việt Nam
Những nghiên cứu thảm thực vật việt nam đến nay còn rất ít.
Chelavier (1918) là người đầu tiên đưa ra một bảng phân loại thảm thực
vật rừng Bắc Bộ Việt Nam (đây được xem là bảng phân loại rừng nhiệt đới
Châu Á đầu tiên trên thế giới). Theo bảng phân loại rừng ở miền bắc Việt
Nam chia thành 10 kiểu
(Trần Ngũ Phương, 1970)[28].

Năm 1953 ở Việt Nam xuất hiện bảng phân loại thảm thực vật rừng
miền Nam của Maurand khi ông tổng kết các công trình nghiên cứu các quần
thể rừng thưa của Jollet, Lý Văn Hội, Neang sam oil.
Bảng phân loại đầu tiên của ngành Lâm Nghiệp Việt Nam về thảm thực
vật rừng ở Việt Nam là bảng phân loại của Cục điều tra và quy hoạch rừng
(1960). Theo bảng phân loại này thì rừng Việt Nam chia thành 4 loại hình lớn
Loại I: Đất đai hoang trọc, những trảng cỏ và cây bụi, trên loại này cần
phải trồng rừng.
Loại II: Gồm những rừng non mới mọc, cần phải tra dặm thêm cây
hoặc tỉa thưa.
Loại III: Gồm tất cả các loại rừng bị khai thác mạnh trở nên nghèo kiệt
tuy có thể lấy gỗ, trụ mỏ, củi nhưng phải xúc tiến tái sinh, tu bổ, cải tạo.
Loại IV: Gồm những rừng già nguyên sinh còn nhiều nguyên liệu chư
bị phá hủy cần khai thác hợp lý.
6
Năm 1998, Thái Văn Trừng [31] khi nghiên cứu hệ sinh thái rừng nhiệt
đới Việt Nam đã kết hợp 2 hệ thống phân loại (hệ thống phân loại lấy đặc
điểm cấu trúc ngoại mạo làm tiêu chuẩn và hệ thống phân loại thực vật dựa
trên yếu tố hệ thực vật làm tiêu chuẩn) để phân chia thảm thực vật Việt Nam

thành 5 kiểu thảm (5 nhóm quần hệ) với 14 kiểu quần hệ (14 quần hệ). Bảng
phân loại này của ông từ bậc quần hệ trở lên gần phù hợp với hệ thống phân
loại của UNESCO (1973).
Nghiên cứu một số đặc trưng chủ yếu về sinh thái của các quần thể thực
vật tại vùng núi cao Ba Vì đã chia ra 3 kiểu rừng cơ bản: kiểu rừng hỗn giao
ẩm á nhiệt đới; kiểu rừng kín hỗn giao ẩm á nhiệt đới núi cao; kiểu rừng kín
hỗn giao cây hạt kín và hạt trần.
Vũ Tự Lập (1995)[23] cho rằng khí hậu ảnh hưởng đến sự hình thành
và phân bố các kiểu thực bì thông qua nhiệt độ và độ ẩm. Dựa vào mối quan
hệ giữa hình thái thực bì và khí hậu chia ra 15 kiểu thực bì khác nhau: kiểu
rừng rậm nhiệt đới gió mùa rụng lá; kiểu rừng rậm nhiệt đới ẩm thường xanh;
kiểu rừng rậm nhiệt đới gió mùa nửa rụng lá; kiểu rừng khô nhiệt đới gió mùa
khô rụng lá; kiểu rừng thưa nhiệt đới khô lá kim; kiểu sa van nhiệt đới khô;
kiểu truông nhiệt đới khô; kiểu rừng nhiệt đới trên đất đá vôi; kiểu rừng nhiệt
đới trên đất mặn; kiểu rừng nhiệt đới trên đất phèn; kiểu rừng rậm á nhiệt đới
ẩm lá rộng thường xanh; kiểu rừng rậm á nhiệt đới ẩm hỗn giao; kiểu rừng
thưa á nhiệt đới hơi ẩm lá kín; kiểu rừng rêu á nhiệt đới mưa mùa; kiểu rừng
lùn đỉnh cao
.

Nguyễn Thế Hưng (2003)[17] cũng dựa trên nguyên tắc phân loại
UNESCO (1973) đã xây dựng được 8 trạng thái thảm thực vật khác nhau đặc
trưng cho loại hình thảm cây bụi ở huyện Hoành Bồ, thị xã Cẩm Phả, tỉnh
Quảng Ninh.
Năm 2004, Lê Ngọc Công cũng dựa theo khung phân loại của
UNESCO (1973) đã phân chia thảm thực vật của tỉnh Thái Nguyên thành 4
lớp quần hệ: rừng rậm; rừng thưa; trảng cây bụi và trảng cỏ. Ở đây, những
trạng thái thứ sinh (được hình thành do tác động của con người như: Khai
thác gỗ, củi, chặt đốt rừng làm nương rẫy…) bao gồm: Trảng cỏ; trảng cây
bụi và rừng thưa

[11].

7
2.1.2. Những nghiên cứu về hệ thực vật
*Trên thế giới
Tổng số loài thực vật hiện nay trên thế giới có nhiều biến động và chưa
cụ thể, tuỳ từng tác giả do chưa có sự nghiên cứu và điều tra đầy đủ. Các nhà
thực vật học dự đoán số loài thực vật bậc cao hiện có trên thế giới vào khoảng
500.000 - 600.000 loài
(Phạm Hoàng Hộ, 1993)[16].

Năm 1965, Al. A. Phêđôrốp đã dự đoán trên thế giới có khoảng:
300.000 loài thực vật hạt kín; 5.000 - 7.000 loài thực vật hạt trần; 6.000 -
10.000 loài quyết thực vật; 14.000 - 18.000 loài rêu; 19.000 - 40.000 loài tảo;
15.000 - 20.000 loài địa y; 85.000 - 100.000 loài nấm và các loài thực vật bậc
thấp khác.
Năm 1962, G. N. Slucop đã đưa ra số lượng các loài thực vật hạt kín
phân bố ở các châu lục như sau:
Châu Mỹ có khoảng 97.000 loài trong đó: Hoa Kỳ + Canada: 25.000 loài;
Mehico + Trung Mỹ: 17.000 loài; Nam Mỹ: 56.000 loài; Đất lửa + Nam cực:
1.000 loài.
Châu Âu có khoảng 15.000 loài trong đó: Trung và Bắc Âu: 5.000 loài;
Nam Âu, vùng Ban căng và Capcasơ: 10.000 loài.
Châu Phi có khoảng 40.500 loài trong đó: các vùng nhiệt đới ẩm:
15.500 loài; Madagasca: 7.000 loài; Nam Phi: 6.500 loài; Bắc Phi, Angieri,
Ma Rốc và các vùng phụ cận khác: 4.500 loài; Abitxini: 4.000 loài; Tuynidi
và Ai cập: 2.000 loài; Xomali và Eritrea: 1.000 loài.
Châu Á có khoảng 125.000 loài trong đó: Đông Nam Á: 80.000 loài;
các khu vực nhiệt đới Ấn Độ: 26.000 loài; Tiểu Á: 8.000 loài; Viễn đông
thuộc Liên bang Nga, Triều Tiên, Đông bắc Trung Quốc: 6.000 loài; Xibêria

thuộc Liên bang Nga, Mông Cổ và Trung Á: 5.000 loài.
Châu Úc có khoảng 21.000 loài trong đó: Đông Bắc Úc: 6.000 loài;
Tây Nam Úc: 5.500 loài; Lục địa Úc: 5.000 loài; Taxman và Tây tây lan:
4.500 loài
[17],
[34].

Lecointre và Guyader (2001) đã đưa ra bảng đánh giá số loài thực vật
bậc cao được mô tả trên toàn thế giới được trình bày ở bảng 1.1.
Qua số liệu ở bảng 1.1 có thể thấy thực vật ngành Ngọc Lan có số loài
được mô tả nhiều nhất trên thế giới.

8
Bảng 2.1. Bảng đánh giá số loài thực vật được mô tả trên toàn thế giới

Bậc phân loại Tên thường gọi
Số lo
ài
mô tả
% số loài đ
ã
được mô tả
Bậc phân loại
Fungi Nấm 100.800 5, 80 Fungi
Bryophyta Ngành Rêu 15.000 0, 90 Bryophyta
Lycopodiophyta Ngành Thông đất 1.275 0, 07 Lycopodiophyta
Polypodiophyta Ngành Dương xỉ 9.500 0, 50 Polypodiophyta
Pinophyta Ngành Thông 601 0, 03 Pinophyta
Magnoliophyta Ngành Ngọc lan 233.885 13, 40 Magnoliophyta
* Ở Việt Nam

Ở nước ta, trong thực vật chí Đại cương Đông Dương và các tập bổ
sung tiếp theo đã mô tả và ghi nhận có khoảng 240 họ với khoảng 7.000 loài
thực vật bậc cao có mạch. Những năm gần đây, nhiều nhà thực vật dự đoán
con số đó có thể lên tới 10.000 đến 12.000 loài.Trên cơ sở những thông tin
mới nhất và những căn cứ chắc chắn, năm 1997, Nguyễn Tiến Bân
[5]
đã giới
thiệu khái quát những đặc điểm cơ bản của 265 họ và khoảng 2.300 chi thuộc
ngành hạt kín ở nước ta.Gần đây, Phan Kế Lộc (1998) đã kiểm kê và ghi nhận
đến nay trong hệ thực vật Việt Nam đã biết được 9.653 loài thực vật bậc cao
có mạch mọc tự nhiên, thuộc 2.011 chi và 291 họ. Nếu kể cả khoảng 733 loài
cây trồng đã được nhập nội thì tổng số loài thực vật bậc cao có mạch biết
được ở Việt Nam đã lên tới 10.386 loài, thuộc 2.257 chi và 305 họ, chiếm
khoảng 4% tổng số loài, 15% tổng số chi và 57% tổng số họ của toàn thế giới.
Cũng do điều kiện khí hậu và địa hình đa dạng, đặc thù nên hệ thực vật nước
ta có thành phần loài khá phong phú mang cả yếu tố của thực vật nhiệt đới ẩm
Indonesia - Malaisia, yếu tố của thực vật nhiệt đới gió mùa, thực vật ôn đới
nam Trung Hoa và các yếu tố của thực vật Ấn Độ - Trung và Nam Tiểu Á [8].
2.2. Những nghiên cứu về thành phần loài và dạng sống thực vật, cấu trúc
2.2.1. Những nghiên cứu về thành phần loài
Những nghiên cứu về thành phần loài là một trong những nghiên cứu
được tiến hành từ lâu trên thế giới.Ở Liên Xô (cũ) có nhiều công trình nghiên
cứu của Vưsotxki (1915), Alokhin (1904), Craxit (1927), Sennhicốp (1933),
9
Creepva (1978) …Nói chung theo các tác giả thì mỗi vùng sinh thái sẽ hình
thành thảm thực vật đặc trưng, sự khác biệt của thảm này so với thảm khác
biểu thị bởi thành phần loài, thành phần dạng sống, cấu trúc và động thái của
nó.Vì vậy, việc nghiên cứu thành phần loài, thành phần dạng sống là chỉ tiêu
quan trọng trong phân loại loại hình thảm thực vật [5].
Ramakrishman (1981 - 1992) nghiên cứu thảm thực vật sau nương rẫy

ở vùng Tây bắc Ấn Độ đã khẳng định:chỉ số đa dạng loài rất thấp, chỉ số loài
ưu thế đạt cao nhất ở pha đầu của quá trình diễn thế và giảm dần theo thời
gian bỏ hoá.
Longchun và cộng sự (1993), nghiên cứu về đa dạng thực vật ở hệ sinh
thái nương rẫy tại Xishuang Bana tỉnh Vân Nam Trung Quốc đã nhận xét: khi
nương rẫy bỏ hoá được 3 năm thì có 17 họ, 21 chi, 21 loài, bỏ hoá 19 năm thì
có 60 họ, 134 chi và 167 loài [16].
Ở Việt Nam, Phan Kế Lộc (1970) đã xác định hệ thực vật miền bắc
Việt Nam có 5609 loài thuộc 1660 chi và 240 họ.
Nguyễn Đăng Khôi (1971) đã bổ sung thêm 26 loài không được
F.Gagnepain ghi nhận ở Miền bắc Việt Nam trong “Thực vật chí đại cương
Đông Dương” [4].
Nguyễn Đăng Khôi và Nguyễn Văn Phú (1975) đã thống kê 39 loài cây
bộ Đậu thân bò và thân leo làm thức ăn giàu protein cho gia súc Miền Bắc
Việt Nam.Thái Văn Trừng (1970) thống kê hệ thực vật Việt Nam có 7004 loài
thực vật bậc cao có mạch thuộc 1850 chi, 289 họ [3].
Phan Kế Lộc (1978) điều tra phát hiện 20 loài cây có tannin thuộc họ
Trinh nữ (Mimosaceae) và giới thiệu 4 loài khác mọc ở Việt Nam có tannin.
Hoàng Chung (1980) khi nghiên cứu đồng cỏ vùng núi Bắc Việt Nam
đã công bố thành phần loài thu được gồm 233 loài thuộc 54 họ và 44 bộ.
Trong công trình tổng kết các kết quả nghiên cứu đồng cỏ Bắc Việt
Nam, Dương Hữu Thời (1981) đã công bố thành phần loài thuộc 5 vùng Bắc
Việt Nam gồm 213 loài [2].
Nguyễn Tiến Bân và cộng sự (1983 ) khi nghiên cứu hệ thực vật Tây
Nguyên đã thống kê được 3210 loài, chiếm gần 1/2 số loài đã biết của toàn
Đông Dương [4].
10
Phạm Hoàng Hộ (1991 - 1993) trong “Cây cỏ Việt Nam” đã thống kê
số loài hiện có của hệ thực vật là 10.500 loài [16].
Phan Nguyên Hồng (1991) lập danh mục cùng với một số chỉ tiêu khác

(dạng sống, môi trường, khu phân bố) của 75 loài thuộc 2 nhóm loài cây
ngập mặn điển hình và cây gia nhập vào rừng ngập mặn [2].
Lê Mộng Chân (1994) điều tra tổ thành vùng núi cao Vườn quốc gia Ba
Vì đã phát hiện được 483 loài thuộc 323 chi, 136 họ thực vật bậc cao có mạch
trong đó gặp 7 loài được mô tả lần đầu tiên [4].
Đỗ Tất Lợi (1995) khi nghiên cứu các loài cây thuốc đã công bố 798
loài thuộc 164 họ có ở hầu hết các tỉnh nước ta.
Trần Đình Đại (2001) căn cứ vào kết quả điều tra thực địa, mẫu vật lưu
giữ tại các phòng tiêu bản đã thống kê danh lục các loài thực vật tại vùng Tây
bắc bộ (Lai Châu, Lào Cai, Sơn La) gồm 226 họ, 1050 chi và 3074 loài thuộc
6 ngành thực vật bậc cao có mạch.
Lê Ngọc Công và Hoàng Chung (1995) nghiên cứu thành phần loài,
dạng sống của sa van bụi và đồi trung du Bắc Thái (cũ) đã phát hiện được 123
loài thuộc 47 họ khác nhau [10].
Nguyễn Thế Hưng, Hoàng Chung (1995) khi nghiên cứu một số đặc
điểm sinh thái, sinh vật học của sa van Quảng Ninh và các mô hình sử dụng
đã phát hiện được 60 họ thực vật khác nhau với 131 loài.
Nguyễn Nghĩa Thìn (1997) đã thống kê thành phần loài của Vườn quốc
gia Tam Đảo có khoảng 2.000 loài thực vật, trong đó có 904 cây có ích thuộc
478 chi, 213 họ thuộc 3 ngành:Dương xỉ, Hạt trần và Hạt kín.Các loài này
được xếp thành 8 nhóm có giá trị khác nhau.Năm 1998, khi nghiên cứu về họ
Thầu Dầu (Euphorbiaceae) ở Việt Nam, ông thu được 156 loài trong tổng số
425 loài của họ Thầu dầu ở Việt Nam chia làm 7 nhóm theo cách sử dụng[3].
Lê Ngọc Công (1998) khi nghiên cứu tác dụng cải tạo môi trường của
một số mô hình rừng trồng ở một số tỉnh miền núi đã công bố thành phần loài
gồm 211 loài thuộc 64 họ [12].
Thái Văn Trừng (1998) khi nghiên cứu về hệ thực vật Việt Nam đã có
nhận xét về tổ thành loài thực vật của tầng cây bụi như sau:trong các trạng
thái thảm khác nhau của rừng nhiệt đới Việt Nam, tổ thành loài của tầng cây
11

bụi chủ yếu có sự đóng góp của các chi Psychotria, Prismatomeris, Pavetta
(họ Cà phê - Rubiaceae) ;chi Tabermontana (họ Trúc đào - Apocynaceae) ;
chi Ardisia, Maesa (họ Đơn nem - Myrsinaceae). Nguyễn Nghĩa Thìn (1998)
khi tổng kết các công trình nghiên cứu về khu hệ thực vật ở Việt Nam đã ghi
nhận có 2393 loài thực vật bậc thấp và 1373 loài thực vật bậc cao thuộc 2524
chi, 378 họ [2].
Lê Trọng Cúc, Phạm Hồng Ban (2000) nghiên cứu sự biến động thành
phần loài thực vật sau nương rẫy ở huyện Con Cuông, Nghệ An nhận xét rằng: do
ảnh hưởng của canh tác nương rẫy nên thành phần loài và số lượng cây gỗ trên
một đơn vị diện tích có xu hướng giảm dần, đơn giản hoá để tái ổn định [4].
Lê Đồng Tấn (2000) khi nghiên cứu quá trình phục hồi rừng tự nhiên
sau nương rẫy ở Sơn La đã kết luận:mật độ cây giảm khi độ dốc tăng, mật độ
cây giảm từ chân lên đỉnh đồi, mức độ thoái hoá đất ảnh hưởng đến mật độ,
số lượng loài cây và tổ thành loài cây.Kết quả cho thấy ở tuổi 4 có 41 loài;
tuổi 10 có 56 loài; tuổi 14 có 53 loài [2].
2.2.2. Những nghiên cứu về thành phần dạng sống
Dạng sống của thực vật là sự biểu hiện về hình thái cấu trúc cơ thể thực
vật thích nghi với điều kiện môi trường của nó, nên đã được nhiều nhà khoa
học quan tâm nghiên cứu từ rất sớm.
I.K.Patsoxki (1915) chia thảm thực vật thành 6 nhóm:thực vật
thườngXanh, thực vật rụng lá vào thời kỳ bất lợi trong năm, thực vật tàn lụi
phần trên mặt đất trong thời kỳ bất lợi, thực vật tàn lụi vào thời kỳ bất lợi,
thực vật có thời kỳ sinh trưởng và phát triển ngắn, thực vật có thời kỳ sinh
trưởng và phát triển lâu năm. G.N.Vưxôxki (1915) chia thực vật thảo nguyên
làm 2 lớp: lớp cây nhiều năm và lớp cây hàng năm [16].
Braun - Blanquet (1951) đánh giá cách mọc của thực vật dựa vào tính
liên tục hay đơn độc của loài đã chia thành 5 thang: mọc lẻ, mọc thành vạt,
mọc thành dải nhỏ, mọc thành vạt lớn và mọc thành khóm lớn [1].
Cho đến nay, khi phân tích bản chất sinh thái của mỗi hệ thực vật, nhất
là hệ thực vật của các vùng ôn đới, người ta vẫn dùng hệ thống của Raunkiaer

(1934) [11] để sắp xếp các loài của hệ thực vật nghiên cứu vào một trong các
dạng sống đó.Cơ sở phân chia dạng sống của ông là sự khác nhau về khả năng
12
thích nghi của thực vật qua thời gian bất lợi trong năm. Từ tổ hợp các dấu
hiệu thích nghi, Raunkiaer chỉ chọn dấu hiệu là vị trí của chồi nằm ở đâu trên
mặt đất trong suốt thời gian bất lợi trong năm.
Raunkiaer đã chia 5 nhóm dạng sống cơ bản:
1. Phanerophytes (Ph) : nhóm cây có chồi trên mặt đất
2. Chamaetophytes (Ch) : nhóm cây có chồi sát mặt đất
3. Hemicryptophytes (He) : nhóm cây có chồi nửa ẩn
4. Cryptophytes (Cr) : nhóm cây có chồi ẩn
5. Therophytes (Th) : nhóm cây sống 1 năm
Ông đã xây dựng phổ chuẩn của các dạng sống ở các vùng khác nhau
trên trái đất (SB) :
SB = 46Ph + 9Ch + 26He + 6Cr + 13
Th

Hệ thống phân chia dạng sống của Raunkiaer có ý nghĩa quan trọng,
đảm bảo tính khoa học, dễ áp dụng.Phân chia dạng sống của Raunkiaer dựa
trên những đặc điểm cơ bản của thực vật, nghĩa là dựa trên đặc điểm cấu tạo,
phương thức sống của thực vật, đó là kết quả tác động tổng hợp của các yếu
tố môi trường tạo nên.Thuộc về những đặc điểm này có hình dạng ngoài của
thực vật, đặc điểm qua đông, sinh sản…
Xêrêbriacốp (1964) đưa ra bảng phân loại dạng sống mang tính chất
sinh thái học hơn của Raunkiaer.Trong bảng phân loại này, ngoài những dấu
hiệu hình thái sinh thái Xêrêbriacốp sử dụng cả những dấu hiệu như ra quả
nhiều lần hay một lần trong cả đời của cá thể bao gồm:ngành, kiểu, lớp và lớp
phụ.Trong bảng phân loại này không bao gồm những cây thuỷ sinh.Trong
bảng phân loại này ông còn chia ra các đơn vị nhỏ hơn là nhóm phụ, tổ và các
dạng đặc thù.

Bảng phân loại dạng sống cây thuộc thảo đã được lập ra lần đầu tiên
bởi Canon (1911), sau đó hàng loạt bảng đã được đưa ra. Với cây thảo, đặc
điểm phần dưới đất đóng vai trò rất quan trọng trong phân chia dạng sống, nó
biểu thị mức độ khắc nghiệt khác nhau của môi trường sống, là phần sống lâu
năm của cây. Vì thế việc sử dụng phần dưới đất để làm tiêu chuẩn phân chia
dạng sống sẽ giúp cho ta đánh giá đúng hơn kiểu thảm, những đặc điểm đặc
trưng của môi trường [11].
13
Một số công trình nghiên cứu về dạng sống ở Việt Nam như: Doãn
Ngọc Chất (1969) nghiên cứu dạng sống của một số loài thực vật thuộc họ
Hoà thảo. Hoàng Chung (1980) thống kê thành phần dạng sống cho loại hình
đồng cỏ Bắc Việt Nam, đã đưa ra 18 kiểu dạng sống cơ bản và bảng phân loại
kiểu đồng cỏ sa van, thảo nguyên [10].
Thái Văn Trừng (1978) cũng áp dụng nguyên tắc của Raunkiaer khi
phân chia dạng sống của hệ thực vật ở Việt Nam [4].
Lê Trần Chấn (1990) khi nghiên cứu hệ thực vật Lâm Sơn tỉnh Hoà
Bình cũng phân chia hệ thực vật thành 5 nhóm dạng sống chính theo phương
pháp của Raunkiaer. Tuy nhiên tác giả đã dùng thêm ký hiệu để chi tiết hoá
một số dạng sống (a: ký sinh; b. bì sinh; c. dây leo; d. cây chồi trên thân thảo).
Tác giả không xếp phương thức sống ký sinh, bì sinh vào dạng sống cơ bản
mà chỉ coi đây là những dạng phụ [8].
Hoàng Chung (2008) khi nghiên cứu thực vật trong đồng cỏ vùng núi
bắc Việt Nam, đã phân chia 8 kiểu dạng sống chính là: kiểu cây gỗ, kiểu cây
bụi, kiểu cây bụi thân bò, kiểu cây bụi nhỏ, kiểu cây bụi nhỏ bò, kiểu nửa bụi,
kiểu thực vật có khả năng tạo chồi mới từ rễ, kiểu cây thảo có hệ rễ cái sống
lâu năm [9].
Phan Nguyên Hồng (1991) [24] khi nghiên cứu hình thái thảm thực vật
rừng ngập mặn Việt Nam đã chia thành 7 dạng sống cơ bản: cây gỗ (G), cây
bụi (B), cây thân thảo (T), dây leo (L), cây gỗ thấp hoặc dạng cây bụi (G/B),
ký sinh (K), bì sinh (B).

Áp dụng theo nguyên tắc của Raunkiaer, Nguyễn Bá Thụ, Phùng Ngọc
Lan, Nguyễn Nghĩa Thìn (1995) đã xây dựng phổ dạng sống của hệ thực vật
Vườn quốc gia Cúc Phương [3] là:
SB = 57, 8Ph + 10, 5Ch + 12, 4He + 8, 3Cr + 11, 0Th
Phạm Hồng Ban (1999) [2] nghiên cứu tính đa dạng sinh học của hệ
sinh thái tái sinh sau nương rẫy vùng Tây Nam Nghệ An, áp dụng khung phân
loại của Raunkiaer để phân chia dạng sống, phổ dạng sống là:
SB = 67, 40Ph + 7, 33Ch + 12, 62He + 8, 53Cr + 4, 09
Th

Đặng Kim Vui (2013) [36] nghiên cứu đặc điểm cấu trúc rừng phục hồi
sau nương rẫy ở huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên đã phân chia dạng sống
14
thực vật dựa vào hình thái cây: cây gỗ, cây bụi, cây leo và cây cỏ, đồng thời
ông đã xác định được có 17 kiểu dạng sống, trong đó có 5 kiểu dạng cây bụi
(cây bụi; cây bụi thân bò; cây bụi nhỏ; cây bụi nhỏ thân bò; cây nửa bụi).
Nguyễn Thế Hưng (2003) khi nghiên cứu dạng sống thực vật trong các
trạng thái thảm thực vật tại Hoành Bồ (Quảng Ninh) đã kết luận: nhóm cây
chồi trên đất có 196 loài chiếm 60, 49% tổng số loài của toàn hệ thực vật,
nhóm cây chồi sát đất có 26 loài chiếm 8, 02%; nhóm cây chồi nửa ẩn có 43
loài chiếm 13, 27%; nhóm cây chồi ẩn có 24 loài chiếm 7, 47%; nhóm cây 1
năm có 35 loài chiếm 10, 80% [17].
Phạm Ngọc Thường (2003) [2] khi nghiên cứu thảm thực vật sau
nương rẫy ở Thái Nguyên và Bắc Kạn đã cho kết quả phổ dạng sống của hệ
thực vật là:
SB = 56, 37Ph + 12, 73Ch + 14, 23He +8, 80Cr + 7, 87Th
Lê Ngọc Công (2004) [15] khi nghiên cứu quá trình phục hồi rừng
bằng khoanh nuôi trên một số thảm thực vật ở Thái Nguyên đã phân chia thực
vật thành các nhóm dạng sống sau: cây gỗ; cây bụi; cây cỏ và dây leo.
Ngô Tiến Dũng (2004) [18] nghiên cứu tính đa dạng thực vật ở Vườn

quốc gia Yok Don đã lập được phổ dạng sống của thực vật Yok Don là:
SB = 71, 73Ph + 1, 41Ch + 7, 77He + 4, 59Cr + 6Th
Vũ Thị Liên (2005) [29] phân chia dạng sống thực vật trong thảm thực
vật sau nương rẫy ở Sơn La theo thang phân loại của Raunkiaer. Kết
quả phổ dạng sống như sau:
SB = 69, 69Ph + 3, 76Ch + 9, 29He + 10, 84Cr + 6, 42Th
Dương Hữu Thời (1961) đã lập phổ dạng sống của các quần xã cỏ trên
bãi cát sông Hồng [2].
2.2.3 Những nghiên cứu về cấu trúc rừng
Cấu trúc rừng là sự sắp xếp tổ chức nội bộ của các thành phần sinh vật
trọng hệ sinh thái rừng mà qua đó các loài có đặc điểm sinh thái khác nhau có
thể chung sống hài hoà và đạt tới sự ổn định tương đối trong một giai đoạn
phát triển nhất định của tự nhiên. Cấu trúc của rừng vừa là kết quả, vừa là sự
thể hiện quan hệ đấu tranh và thích ứng lẫn nhau giữa các sinh vật rừng với
môi trường sinh thái và giữa các sinh vật với nhau. Các nhân tố trong cấu trúc
15
rừng là: cấu trúc tổ thành, cấu trúc tầng (trên mặt đất và dưới mặt đất), cấu
trúc tuổi…
Những nghiên cứu về cấu trúc rừng của nước ta có một số tác giả như:
đưa ra những tiêu chuẩn về một cấu trúc rừng cần được quan tâm khi tiến
hành chặt tu bổ. Cấu trúc thích hợp tức là mọi tầng cây đều phát triển tốt.Tầng
cây trên cung cấp nguyên vật liệu cho kinh doanh nhưng cũng tạo ra các điều
kiện khác cho cây rừng phát triển cân đối nhịp nhàng.Tầng trung bình bổ sung
độ tàn che tạo điều kiện sinh thái thuận lợi cho cây rừng và cung cấp một số
nguyên liệu.Tầng cây tái sinh mọc xen giữa thảm tươi cây bụi, dây leo là tiềm
lực của rừng tạo điều kiện tái sinh lâu dài.
Nguyễn Văn Trương (1982) đưa ra một số cấu trúc tiêu chuẩn cần được
đảm bảo điều chế rừng theo phương pháp chặt chọn.Ông cho rằng nếu áp
dụng chặt chọn như hiện nay thì không thể tạo lại vốn rừng như trước khi chặt
nên dùng thuật ngữ khai thác nuôi dưỡng rừng.

Vũ Đình Phương (1987) trong vấn đề thâm canh rừng tự nhiên ở nước
ta, ông cho rằng muốn xác định được hướng kỹ thuật thâm canh rừng tự nhiên
cần phải hiểu biết về rừng, nắm bắt được quy luật tự nhiên của rừng. Những
quy luật tự nhiên của rừng có liên quan đến cấu trúc rừng, nghiên cứu về cấu
trúc rừng hỗn loài thường xanh (cấu trúc tổ thành, cấu trúc tầng, cấu trúc theo
thời gian…) là cơ sở cho việc đề xuất biện pháp thâm canh rừng[3].Nguyễn
Hải Tuất (1991), nghiên cứu quy luật cấu trúc quần thể cây rừng (Ba Vì) cho
rằng, điều kiện sinh thái ở đây đảm bảo tính ổn định của một hệ sinh thái núi
cao thể hiện qua các quy luật cấu trúc rừng [4].
Trần Văn Con (1992) ứng dụng mô phỏng toán học trong nghiên cứu
động thái rừng tự nhiên tại lâm trường Nam Phú Nhơn (Gia Lai Kon Tum) đã
cho rằng, sự biến đổi cấu trúc lâm phần (động thái) là kết quả tổng hợp của ba
quá trình: tái sinh, sinh trưởng và đào thải (chết tự nhiên và tỉa thưa). Mô
phỏng toán học có thể rút ngắn thời gian nghiên cứu để dự báo sự thay đổi
cấu trúc khi biết hiện trạng rừng và các tương quan nhất định [24].
Võ Đại Hải (1996), đưa ra khái niệm chức năng phòng hộ nguồn nước
của thảm thực vật. Theo tác giả mô hình cấu trúc hợp lý của rừng phòng hộ
đầu nguồn là mô hình cấu trúc rừng đáp ứng được yêu cầu phòng hộ về điều
16
tiết nước và xói mòn. Trong mô hình cấu trúc, ông đề cập tổ thành loài cây và
điều kiện sinh trưởng phát triển của chúng [30].
* Nhận xét chung
Những nghiên cứu về thành phần loài của các tác giả trên thế giới và ở
Việt Nam đều tập trung nghiên cứu và đánh giá thành phần loài ở một vùng
và khu vực cụ thể, phản ánh hệ thực vật đặc trưng trong mối tương quan với
điều kiện địa hình và khí hậu. Tuy vậy, số lượng các công trình nghiên cứu
còn chưa nhiều, cần có những nghiên cứu cụ thể hơn rộng rãi hơn nhằm mục
đích có thể đánh giá chính xác thành phần loài thực vật đặc trưng của một khu
vực hoặc một quốc gia.
Về thành phần dạng sống : khi nghiên cứu hệ thực vật ở một khu vực

cụ thể, các tác giả đều phân chia và sắp xếp các loài thực vật thành các nhóm
dựa vào các tiêu chuẩn cụ thể tuỳ từng tác giả. Tuy nhiên có thể nhận thấy
rằng, hầu hết các tác giả đều sử dụng cách phân chia dạng sống của Raunkiaer
trong những nghiên cứu của mình.Hệ thống phân chia của ông có ý nghĩa
quan trọng, đảm bảo tính khoa học và dễ áp dụng.Ông chỉ chọn một dấu hiệu
là vị trí của chồi nằm ở đâu trên mặt đất trong suốt thời gian bất lợi trong năm
làm tiêu chuẩn để phân chia các kiểu dạng sống.Vì lẽ đó, trong nghiên cứu
của mình, tôi cũng chọn lựa cách phân chia dạng sống này của Raunkiaer.
Những nghiên cứu về cấu trúc rừng còn tương đối ít, mỗi tác giả đều
đưa ra những tiêu chuẩn riêng để xây dựng một cấu trúc rừng thích hợp.Cấu
trúc thích hợp tức là mọi tầng cây đều phát triển tốt. Tuỳ từng giai đoạn mà
cấu trúc rừng có thể thay đổi, phụ thuộc vào nhiều yếu tố.
2.3. Những nghiên cứu về ảnh hưởng qua lại giữa thực vật rừng và đất
2.3.1. Những nghiên cứu về ảnh hưởng của đất tới thảm thực vật trên thế
giới và Việt Nam
Đất là một hệ thống động trong đó dung dịch đất là môi trường của các
quá trình vật lý, hoá học và sinh học trong môi trường đất.Dung dịch đất tồn
tại ở trạng thái cân bằng động với các chất vô cơ, chất hữu cơ, vi sinh vật và
không khí đất.Đất được hình thành từ đá mẹ do sự biến đổi của nó theo thời
gian dưới tác động của thực vật, động vật, vi sinh vật trong các điều kiện khác
nhau của địa hình và khí hậu.Tính chất quan trọng của đất chính là độ phì của
17
đất vì độ phì có ảnh hưởng tới sự phân bố, sự sinh trưởng và phát triển của
cây rừng và hệ sinh thái rừng.
* Trên thế giới
Một số nhà nghiên cứu như Alêkhin (1904), Graxits (1927), Sennhicop
(1938) đã thống nhất và đưa ra kết luận từ rất sớm là mỗi vùng sinh thái xác
định sẽ hình thành một kiểu thảm thực vật đặc trưng khi các tác giả này
nghiên cứu trên loại hình đồng cỏ và thảo nguyên ở Liên Xô.
Hađi (1936), Baur (1946) và P. W Richards (1952), khi nghiên cứu hệ

sinh thái rừng nhiệt đới thì lại cho rằng các đặc tính lí hóa của đất ảnh hưởng
đến khả năng cung cấp nước, tình hình không khí và độ sâu tầng đất có tác
dụng tạo ra sự phân hóa trong thành phần của hệ sinh thái rừng mưa hơn tính
chất hóa học của đất.
A.Giacốp (1956), khi nghiên cứu về vai trò của mùn trong đất đối với
cây, ông đã kết luận: Ngoài khả năng cung cấp chất dinh dưỡng cải tạo đất
nâng cao độ phì, trong mùn còn có chất quynon có tác dụng kích thích sự tăng
trưởng của rễ, do đó ảnh hưởng lớn đến sự sinh trưởng và phát triển cây rừng.
Khi phân chia các kiểu rừng trong mối quan hệ với thổ nhưỡng ở
Inđônêxia và Malaixia, P.W Richards và Braming đã cho rằng: Trong vùng
nhiệt đới dù chỉ khác biệt rất ít về đất đai cũng dẫn đến sự khác nhau về thành
phần thực vật.
* Ở Việt Nam
Cũng có rất nhiều công trình nghiên cứu về ảnh hưởng của đất đến
thảm thực vật. A.Chavalier (1918) là người đầu tiên đưa ra bảng phân loại
rừng Bắc Bộ Việt Nam với 10 kiểu thảm khác nhau và cho rằng đất là yếu tố
hình thành các kiểu thảm.
Trên cơ sở tổng hợp các nghiên cứu của P.Maurand (1943), Dương
Hàm Hy (1956) cũng đưa ra bản phân loại các kiểu rừng Việt Nam dựa trên
nhiều yếu tố trong đó thổ nhưỡng là yếu tố phát sinh ra các kiểu thảm thực vật
(Theo Thái Văn Trừng, 1978. Nhiều tác giả như: Trần Ngũ Phương (1970),
Nguyễn Ngọc Bình (1996), Vũ Tự Lập (1995) cũng có nhận xét tương tự).
Đặng Ngọc Anh (1993)
[1]
đã có nhận xét là hàm lượng chất dinh
dưỡng trong đất, độ sâu tầng đất đã ảnh hưởng tới khả năng tái sinh rừng Dẻ ở
18
Hà Bắc. Như vậy điều kiện đất và loại đất có ảnh hưởng lớn tới khả năng tái
sinh của cây rừng. Đặc điểm lí, hóa học của đất (đặc biệt là thành phần dinh
dưỡng, độ pH, thành phần cơ giới và độ ẩm của đất) có ảnh hưởng rất lớn đến

tổ thành rừng. Đất phát triển trên loại đá mẹ nào thì sẽ có loại đất ấy tương
ứng phù hợp với thành phần khoáng của loại đá mẹ đó.
Trần Đình Lý, Đỗ Hữu Thư, Lê Đồng Tấn (1995)
[27]
, khi nghiên cứu
quá trình tái sinh phục hồi thảm thực vật sau nương rẫy tại Sapa đã nhận định:
đất thoái hóa nhẹ thì quá trình diễn thế thứ sinh phục hồi thảm thực vật diễn ra
nhanh, nếu đất xấu (đất thoái hóa trung bình, nặng và rất nặng) thì quá trình
diễn ra ngược lại.
2.3.2. Những nghiên cứu về ảnh hưởng của thảm thực vật tới đất trên thế
giới và Việt Nam
Trong quá trình phát triển của thảm thực vật đã có những ảnh hưởng rất
lớn tới hệ sinh thái đất, thảm thực vật phát triển làm cho đất rừng giảm thoái
hóa, giảm xói mòn, tác động đến hệ sinh thái đất đất làm thay đổi tính chất lý,
hóa học, hệ vi sinh vật trong đất từ đó có tác dụng cải tạo đất.
*Trên thế giới.
Năm 1937, Monin đã đưa ra kết luận: Rừng mưa nhiệt đới, chất rơi
rụng hàng năm là 10 - 20 tấn/ha, rừng ôn đới là 5 - 7 tấn/ha, thảm cỏ và thảo
nguyên là 1 - 3 tấn/ha. Như vậy, mỗi kiểu thảm thực vật khác nhau thì lượng
vật chất rơi rụng trả lại cho đất cũng khác nhau.Trong đó kiểu rừng mưa nhiệt
đới có lượng vật chất cung cấp cho đất là lớn nhất [34].
Năm 1964, theo P.W.Richards đất rừng nhiệt đới càng thành thục thì
hàm lượng chất khoáng hòa tan càng giảm do quá trình rửa trôi và thảm thực
vật rừng nhiệt đới là nhân tố tích cực chống lại quá trình đó [35].
Năm 1979, Dokuchaev người sáng lập ra môn thổ nhưỡng học đã định
nghĩa đất (hay thổ nhưỡng) là một thể tự nhiên hình thành từ lớp trên của vỏ
trái đất dưới ảnh hưởng tổng hợp của các yếu tố: Khí hậu, đá mẹ, địa hình,
sinh vật và tuổi địa chất của từng địa phương [21]. Như vậy sinh vật nói
chung và thực vật nói riêng là một trong các yếu tố ảnh hưởng rất lớn tới sự
hình thành của đất.

×