Tải bản đầy đủ (.pdf) (61 trang)

Đánh giá hi ện trạng ô nhiễm môi trường nước từ hoạt động buôn bán thủy hải sản tại chợ Túc Duyên – Phường Túc Duyên – Thành phố Thái Nguyên.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.26 MB, 61 trang )


1
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM



ĐOÀN ĐÌNH KHÁNH


Tên đề tài:

ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG NƯỚC TỪ
HOẠT ĐỘNG BUÔN BÁN THỦY HẢI SẢN TẠI CHỢ TÚC DUYÊN –
PHƯỜNG TÚC DUYÊN – THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN




khãa luËn tèt nghiÖp ®¹i häc




Hệ đào tạo : Chính quy
Chuyên ngành : Khoa học Môi trường
Khoa : Tài nguyên & Môi trường
Khoá học : 2009-2013






Thái Nguyên, năm 2013

1
PHẦN I
MỞ ĐẦU
1.1.Đặt vấn đề
Đất nước ta đang bước vào thời kỳ hội nhập, sự phát triển của công
nghiệp, khoa học kỹ thuật kéo theo sự phát triển của nền kinh tế và nhu cầu
xã hội. Nhu cầu cuộc sống của con người trong giai đoạn hiện nay đang
ngày càng được cải thiện. Sự hình thành các trung tâm thương mại, dịch vụ
ngày càng nhiều nhằm đáp ứng nhu cầu nâng cao chất lượng cuộc sống của
người dân. Vì vậy, việc xây dựng các khu chợ mới nhằm phục vụ nhu cầu
mua bán, trao đổi của người dân trong khu vực cũng như đẩy mạnh các dịch
vụ thương mại với khu vực bên ngoài là hết sức cần thiết. Hơn nữa, một khu
chợ mới, đẹp, khang trang, rộng rãi, vệ sinh sẽ góp phần tạo diện mạo mới
cho khu vực, đồng thời cũng đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cho người
tiêu dùng. Tuy nhiên, hoạt động của các khu chợ, ngoài tính tích cực là đáp
ứng nhu cầu mua bán của người dân, thúc đẩy giao lưu kinh tế, phát triển
thương mại dịch vụ khu vực, song song với đó còn có những vấn đề môi
trường liên quan và hiện đang là nỗi bức xúc của chính quyền và người dân.
Túc Duyên là một phường trung tâm của thành phố Thái Nguyên, trước
đây có phần lớn diện tích là ruộng lúa và rau màu, người dân sống chủ yếu
bằng nông nghiệp. Từ lâu đã đóng một vai trò rất quan trọng cung cấp nguồn
nông sản lớn đáp ứng nhu cầu cho người dân trong thành phố Nhưng đến
nay cùng với sự phát triển mạnh mẽ của thành phố, phường Túc Duyên đã
và đang trở thành điểm đến của các nhà đầu tư hạ tầng đô thị. Với dân số
đông, đang ngày càng gia tăng do quá trình đô thị hóa thì nhu cầu trao đổi và
mua bán hàng hóa ngày càng lớn.Việc thành phố quy hoạch xây dựng chợ

đầu mối nông sản ở phường Túc Duyên đã đáp ứng được nhu cầu cấp thiết
của người dân. Không những là chợ đầu mối rau, củ, quả lớn nhất, chợ Túc

2
Duyên còn là nơi cung cấp hơn một nửa lượng thủy sản tiêu thụ hàng ngày
của thành phố. Lượng hàng hóa là rất lớn nhưng cơ sở vật chất của chợ Túc
Duyên rất tạm bợ, không có hệ thống mương rãnh tiêu thoát nước và tập
trung rác thải. Hàng ngày, hoạt động buôn bán thủy sản đã thải ra một lượng
lớn nước thải, thải trực tiếp ra môi trường xung quanh gây ô nhiễm nghiêm
trọng, ảnh hưởng lớn tới sức khỏe của các hộ kinh doanh và người dân trong
khu vực.
Xuất phát từ thực tế trên, cùng với sự hướng dẫn của thầy cô trong
trường, khoa Tài Nguyên và Môi Trường, tôi đã lựa chọn chuyên đề:”Đánh
giá hiện trạng ô nhiễm môi trường nước từ hoạt động buôn bán thủy
hải sản tại chợ Túc Duyên – Phường Túc Duyên – Thành phố Thái
Nguyên”
1.2.Mục đích
- Đánh giá hiện trạng môi trường nước xung quanh chợ Túc Duyên-
P.Túc Duyên.
- Xác định được mức độ ô nhiễm môi trường nước do hoạt động buôn
bán thủy hải sản chợ Túc Duyên.
- Tìm hiểu những ảnh hưởng của môi trường nước bị ô nhiễm xung
quanh chợ Túc Duyên đến sức khỏe người dân.
- Đề xuất một số giải pháp giảm thiểu ô nhiễm môi trường nước do hoạt
động buôn bán thủy hải sản tại chợ Túc Duyên.
1.3.Yêu cầu của chuyên đề
- Công tác điều tra thu thập thông tin, phân tích chất lượng nước quanh
chợ Túc Duyên cần:
+ Đánh giá đầy đủ, chính xác chất lượng nước của khu vực nghiên cứu.
+ Các kết quả phân tích phải so sánh với tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật

môi trường Việt Nam.

3
- Giải pháp kiến nghị đưa ra phải thực tế, có tính khả thi và phù hợp với
điều kiện của địa phương và các hộ kinh doanh, buôn bán.
1.4.Ý nghĩa của chuyên đề
- Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học: Giúp bản thân em có
cơ hội tiếp cận với cách thức thực hiện một đề tài nghiên cứu khoa học.
Giúp em vận dụng kiến thức đã học vào thưc tế và rèn luyện về kỹ năng tổng
hợp, phân tích số liệu, tiếp thu và học hỏi những kinh nghiệm từ thực tế.
- Ý nghĩa thực tiễn:
+ Tăng cường trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước về môi
trường, trách nhiệm của các tiểu thương và người dân trong việc bảo vệ và
giữu gìn môi trường nước nói riêng và môi trường sống nói chung.
+ Cảnh báo nguy cơ tiềm tàng về ô nhiễm, suy thoái môi trường nước
do nước thải gây ra.
+ Ngăn ngừa và giảm thiểu ảnh hưởng của nước thải đến môi trường,
bảo vệ sức khỏe người dân trong chợ và khu vực xung quanh chợ Túc
Duyên.













4
PHẦN II
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1.Cơ sở của đề tài
2.1.1.Cơ sở khoa học của đề tài
2.1.1.1. Khái niệm về môi trường, ô nhiễm môi trường.
Khái niệm về môi trường đã được thảo luận rất nhiều và từ lâu.
Nhìn chung có những quan niệm về môi trường như sau:
- Môi trường bao gồm các vật chất hữu cơ và vô cơ quanh sinh vật. Theo
định nghĩa này thì không thể nào xác định được môi trường một
cách cụ thể, vì mỗi cá thể, mỗi loài, mỗi chi vẫn có một môi trường và một
quần thể, một quần xã lại có một môi trường rộng lớn hơn.
- Môi trường là những gì cần thiết cho điều kiện sinh tồn của sinh vật.
Theo định nghĩa này thì rất hẹp, bởi vì trong thực tế có yếu tố này là cần
thiết cho loài này nhưng không cần thiết cho loài kia dù cùng sống
chung một nơi, hơn nữa cũng có những yếu tố có hại hoặc không có lợi vẫn
tồn tại và tác động lên cơ thể và ta không thể loại trừ nó ra khỏi môi trường
tự nhiên.
Đối với con người, môi trường chứa đựng nội dung rộng hơn.
Theo định nghĩa của UNESCO (1981) thì môi trường của con người bao
gồm toàn bộ các hệ thống tự nhiên và các hệ thống do con người tạo ra,
những cái hữu hình (đô thị, hồ chứa ) và những cái vô hình (tập quán,
niềm tin, nghệ thuật ), trong đó con người sống bằng lao động của mình, họ
khai thác các tài nguyên thiên nhiên và nhân tạo nhằm thoả mãn những nhu
cầu của mình. Như vậy, môi trường sống đối với con người không chỉ là nơi
tồn tại, sinh trưởng và phát triển cho một thực thể sinh vật là con người mà
còn là “khung cảnh của cuộc sống, của lao động và sự nghỉ ngơi của con
người”.


5
Để thống nhất vè mặt nhận thức, chúng ta đã sử dụng định nghĩa trong
“Luật bảo vệ môi trường” đã được quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam khóa IX, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 27/12/1993, định nghĩa
khái niệm môi trường như sau:
“Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo
quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống,
sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và thiên nhiên”.
2.1.1.2. Khái niệm ô nhiễm môi trường
Ngày nay, thuật ngữ ô nhiễm môi trường được sử dụng rất nhiều để diễn
tả các hành động phá hoại môi trường tự nhiên.
“Ô nhiễm môi trường là sự làm thay đổi tính chất của môi trường, vi
phạm tiêu chuẩn môi trường”. (Luật Bảo vệ Môi trường của Việt Nam,
2005) [7].
- Chất gây ô nhiễm môi trường là chất hoặc yếu tố vật lý khi xuất hiện
trong môi trường thì làm môi trường bị ô nhiễm.
2.1.1.3. Khái niệm về ô nhiễm môi trường nước
Hiến chương châu Âu về nước đã định nghĩa:
"Ô nhiễm nước là sự biến đổi nói chung do con người đối với chất lượng
nước, làm nhiễm bẩn nước và gây nguy hiểm cho con người, cho công
nghiệp, nông nghiệp, nuôi cá, nghỉ ngơi, giải trí, cho động vật nuôi và các
loài hoang dã".
Ngoài ra còn định nghĩa sau: “Ô nhiễm nước là sự thay đổi theo chiều
xấu đi các tính chất vật lý – hoá học – sinh học của nước, với sự xuất hiện
các chất lạ ở thể lỏng, rắn làm cho nguồn nước trở nên độc hại với con người
và sinh vật. Làm giảm độ đa dạng sinh vật trong nước. Xét về tốc độ lan
truyền và quy mô ảnh hưởng thì ô nhiễm nước là vấn đề đáng lo ngại hơn ô
nhiễm đất”(Hoàng Văn Hùng, 2008) [3].

6

* Các nguồn gây ô nhiễm nước
- Ô nhiễm nước có nguồn gốc tự nhiên: do mưa, tuyết tan, gió bão, lũ lụt
đưa vào môi trường nước các chất thải bẩn, các sinh vật kể cả xác chết của
chúng.
- Ô nhiễm nước có nguồn gốc nhân tạo: quá trình thải các chất độc hại
chủ yếu dưới dạng lỏng như các chất thải sinh hoạt, công nghiệp, nông
nghiệp, giao thông vào môi trường nước.
Có nhiều cách phân loại ô nhiễm nước. Theo bản chất các tác nhân gây ô
nhiễm, người ta phân ra các loại ô nhiễm nước: ô nhiễm vô cơ, hữu cơ, ô
nhiễm hóa chất, ô nhiễm sinh học, ô nhiễm bởi các tác nhân vật lý. Theo vị
trí không gian như ô nhiễm nước mặt, ô nhiễm nước ngầm và biển. Tùy vào
mục đích và hoàn cảnh mà ta áp dụng cách phân loại ô nhiễm nước.
2.1.1.4. Khái niệm về nước thải và nguồn nước thải.
- Nước thải sinh hoạt là nước thải từ hoạt động sinh hoạt của con người
như ăn uống, tắm giặt, vệ sinh cá nhân. (QCVN 14/2008/ BTNMT quy
chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước thải).
- Nguồn nước tiếp nhận nước thải là nguồn nước mặt hoặc vùng nước
ven biển, ven bờ, có mục đích sử dụng xác định, nơi mà nước thải sinh hoạt
thải vào. (QCVN 14/2008/ BTNMT quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất
lượng nước thải).
- Nguồn nước thải là nguồn phát sinh ra nước thải và là nguồn gây ô
nhiễm môi trường chủ yếu.
Có nhiều cách phân loại nguồn nước thải. Phân loại theo nguồn gốc phát
sinh thì có 4 nguồn nước thải là nguồn nước thải sinh hoạt, nước thải công
nghiệp, nước thải nông nghiệp và nguồn nước thải tự nhiên.
Phân loại theo nguồn thải thì có 2 loại là nguồn gây ô nhiễm xác định và
nguồn gây ô nhiễm không xác định:

7
+ Nguồn gây ô nhiễm xác định (nguồn điểm): Là nguồn gây ô nhiễm có

thể xác định được vị trí, bản chất, lưu lượng xả thải và tác nhân gây ô nhiễm.
+ Nguồn không xác định: Là nguồn gây ô nhiễm không có điểm cố định,
không xác định được vị trí, bản chất, lưu lượng và tác nhân gây ô nhiễm.
Nguồn này rất khó để quản lý.
2.1.1.5. Khái niệm về chợ
- Theo Nghị định số 02/2003/NĐ-CP ngày 14/01/2003 của Chính Phủ về
phát triển và quản lý chợ :
"Chợ là loại hình kinh doanh thương mại được hình thành và phát triển
mang tính truyền thống, được tổ chức tại một địa điểm theo quy hoạch, đáp
ứng nhu cầu mua bán, trao đổi hàng hoá và nhu cầu tiêu dùng của khu vực
dân cư.”
- Phạm vi chợ: là khu vực được quy hoạch dành cho hoạt động chợ, bao
gồm diện tích để bố trí các điểm kinh doanh, khu vực dịch vụ (như: bãi để
xe, kho hàng, khu ăn uống, vui chơi giải trí và các dịch vụ khác) và đường
bao quanh chợ.
- Điểm kinh doanh tại chợ: bao gồm quầy hàng, sạp hàng, ki-ốt, cửa hàng
được bố trí cố định trong phạm vi chợ theo thiết kế xây dựng chợ, có diện
tích quy chuẩn tối thiểu là 3 m2/điểm.
2.1.2.Cơ sở pháp lý
- Luật BVMT do Quốc Hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
thông qua ngày 29/11/2005.
- Luật tài nguyên nước số 08/1998/QH10 của Quốc Hội nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành ngày 20/05/1998, có hiệu lực từ ngày
01/01/1999.
- Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ huật do Quốc Hội nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 29/06/2006.

8
- Nghị định số 179/1999/NĐ-CP của Chính Phủ quy định việc thi hành
Luật Tài nguyên nước.

- Nghị định số 80/2006/NĐ-CP ngày 09/08/2006 của Chính phủ về việc
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo vệ môi
trường.
- Nghị định số 21/2008/NĐ-CP sủa đổi bổ sung nghị định 80/2006/NĐ-
CP về việc qy định chi tiết hướng dẫn thi hành một số điều của luật bảo vệ
môi trường.
- Nghị định số 117/2009.NĐ-CP ngày 31/12/2009 của Thủ Tướng Cính
Phủ về việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
- Nghị định số 127/2007/NĐ-CP ngày 01/08/2007 của Chính phủ về việc
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật tiêu chuẩn và
Quy chuẩn kỹ thuật.
- Nghị định số 34/2005/NĐ-CP của Chính phủ quy định về xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực tài nguyên nước.
- Quyết định số 22/2006/QĐ-BTNMT ngày 18/08/2006 của Bộ Tài
Nguyên và Môi trường về việc áp dụng các tiêu chuẩn Việt Nam về môi
trường.
- Quyết định số 16/2008/QĐ-BTNMT ngày 31/12/2008 của Bộ Tài
Nguyên và Môi trường về việc ban hành Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia về
môi trường.
* Các Tiêu chuẩn, Quy chuẩn của Việt Nam
- QCVN 07:2009/BTNMT Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về ngưỡng chất
thải nguy hại trong nước.
- QCVN 08:2008/BTNMT Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng
nước mặt.

9
- QCVN 09:2008/BTNMT Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng
nước ngầm.
- QCVN 14:2008/BTNMT Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng
nước thải sinh hoạt.

- TCVN 6663-1:2011 Chất lượng nước. Lấy mẫu. Hướng dẫn kỹ thuật
lấy mẫu.
- TCVN 6663-3:2011 Chất lượng nước. Lấy mẫu. Hướng dẫn bảo quản
và xử lý mẫu.
- TCVN 5994: 1995 Chất lượng nước. Lấy mẫu. Hướng dẫn lấy mẫu ở hồ
a tự nhiên và nhân tạo.
- TCVN 5999: 1995 Chất lượng nước. Lấy mẫu. Hướng dẫn lấy mẫu
nước thải.
- TCVN 6663-11: 2011 Chất lượng nước. Lấy mẫu. Hướng dẫn lấy mẫu
nước ngầm.
2.2.Hiện trạng ô nhiễm môi trường nước ở Việt Nam và tỉnh Thái
Nguyên
2.2.1. Hiện trạng ô nhiễm môi trường nước ở Việt Nam
Hiện nay ở Việt Nam, mặc dù các cấp, các ngành đã có nhiều cố gắng
trong việc thực hiện chính sách và pháp luật về bảo vệ môi trường, nhưng
tình trạng ô nhiễm nước là vấn đề rất đáng lo ngại.
Tốc độ công nghiệp hoá và đô thị hoá khá nhanh và sự gia tăng dân số
gây áp lực ngày càng nặng nề đối với tài nguyên nước trong vùng lãnh thổ.
Môi trường nước ở nhiều đô thị, khu công nghiệp và làng nghề ngày càng bị
ô nhiễm bởi nước thải, khí thải và chất thải rắn. ở các thành phố lớn, hàng
trăm cơ sở sản xuất công nghiệp đang gây ô nhiễm môi trường nước do
không có công trình và thiết bị xử lý chất thải. Ô nhiễm nước do sản xuất
công nghiệp là rất nặng. Ví dụ: ở ngành công nghiệp dệt may, ngành công
10
nghiệp giấy và bột giấy, nước thải thường có độ pH trung bình từ 9-11; chỉ
số nhu cầu ô xy sinh hoá (BOD), nhu cầu ô xy hoá học (COD) có thể lên đến
700mg/1 và 2.500mg/1; hàm lượng chất rắn lơ lửng cao gấp nhiều lần giới
hạn cho phép.
Hàm lượng nước thải của các ngành này có chứa xyanua (CN-) vượt đến
84 lần, H2S vượt 4,2 lần, hàm lượng NH3 vượt 84 lần tiêu chuẩn cho phép

nên đã gây ô nhiễm nặng nề các nguồn nước mặt trong vùng dân cư.
Mức độ ô nhiễm nước ở các khu công nghiệp, khu chế xuất, cụm công
nghiệp tập trung là rất lớn.
Tình trạng ô nhiễm nước ở các đô thị thấy rõ nhất là ở thành phố Hà Nội
và thành phố Hồ Chí Minh. ở các thành phố này, nước thải sinh hoạt không
có hệ thống xử lý tập trung mà trực tiếp xả ra nguồn tiếp nhận (sông, hồ,
kênh, mương). Mặt khác, còn rất nhiều cơ sở sản xuất không xử lý nước
thải, phần lớn các bệnh viện và cơ sở y tế lớn chưa có hệ thống xử lý nước
thải; một lượng rác thải rắn lớn trong thành phố không thu gom hết được…
là những nguồn quan trọng gây ra ô nhiễm nước.
Về tình trạng ô nhiễm nước ở nông thôn và khu vực sản xuất nông
nghiệp, hiện nay Việt Nam có gần 76% dân số đang sinh sống ở nông thôn
là nơi cơ sở hạ tầng còn lạc hậu, phần lớn các chất thải của con người và gia
súc không được xử lý nên thấm xuống đất hoặc bị rửa trôi, làm cho tình
trạng ô nhiễm nguồn nước về mặt hữu cơ và vi sinh vật ngày càng cao. Theo
báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, số vi khuẩn Feca
coliform trung bình biến đổi từ 1.500-3.500MNP/100ml ở các vùng ven
sông Tiền và sông Hậu, tăng lên tới 3800-12.500MNP/100ml ở các kênh
tưới tiêu.
11
Trong sản xuất nông nghiệp, do lạm dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật,
các nguồn nước ở sông, hồ, kênh, mương bị ô nhiễm, ảnh hưởng lớn đến
môi trường nước và sức khoẻ nhân dân.
Theo thống kê của Bộ Thuỷ sản, tổng diện tích mặt nước sử dụng cho
nuôi trồng thuỷ sản đến năm 2001 của cả nước là 751.999 ha. Do nuôi trồng
thuỷ sản ồ ạt, thiếu quy hoạch, không tuân theo quy trình kỹ thuật nên đã
gây nhiều tác động tiêu cực tới môi trường nước. Cùng với việc sử dụng
nhiều và không đúng cách các loại hoá chất trong nuôi trồng thuỷ sản, thì
các thức ăn dư lắng xuống đáy ao, hồ, lòng sông làm cho môi trường nước bị
ô nhiễm các chất hữu cơ, làm phát triển một số loài sinh vật gây bệnh và

xuất hiện một số tảo độc; thậm chí đã có dấu hiệu xuất hiện thuỷ triều đỏ ở
một số vùng ven biển Việt Nam.
Có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan dẫn đến tình trạng ô
nhiễm môi trường nước, như sự gia tăng dân số, mặt trái của quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, cơ sở hạ tầng yếu kém, lạc hậu: nhận thức của
người dân về vấn đề môi trường còn chưa cao… Đáng chú ý là sự bất cập
trong hoạt động quản lý, bảo vệ môi trường. Nhận thức của nhiều cấp chính
quyền, cơ quan quản lý, tổ chức và cá nhân có trách nhiệm về nhiệm vụ bảo
vệ môi trường nước chưa sâu sắc và đầy đủ; chưa thấy rõ ô nhiễm môi
trường nước là loại ô nhiễm gây nguy hiểm trực tiếp, hàng ngày và khó khắc
phục đối với đời sống con người cũng như sự phát triển bền vững của đất
nước. Các quy định về quản lý và bảo vệ môi trường nước còn thiếu (chẳng
hạn như chưa có các quy định và quy trình kỹ thuật phục vụ cho công tác
quản lý và bảo vệ nguồn nước). Cơ chế phân công và phối hợp giữa các cơ
quan, các ngành và địa phương chưa đồng bộ, còn chồng chéo, chưa quy
định trách nhiệm rõ ràng. Chưa có chiến lược, quy hoạch khai thác, sử dụng
và bảo vệ tài nguyên nước theo lưu vực và các vùng lãnh thổ lớn. Chưa có
12
các quy định hợp lý trong việc đóng góp tài chính để quản lý và bảo vệ môi
trường nước, gây nên tình trạng thiếu hụt tài chính, thu không đủ chi cho bảo
vệ môi trường nước.
Ngân sách đầu tư cho bảo vệ môi trường nước còn rất thấp (một số nước
ASEAN đã đầu tư ngân sách cho bảo vệ môi trường là 1% GDP, còn ở Việt
Nam mới chỉ đạt 0,1%). Các chương trình giáo dục cộng đồng về môi
trường nói chung và môi trường nước nói riêng còn quá ít. Đội ngũ cán bộ
quản lý môi trường nước còn thiếu về số lượng, yếu về chất lượng (Hiện nay
ở Việt Nam trung bình có khoảng 3 cán bộ quản lý môi trường/1 triệu dân,
trong khi đó ở một số nước ASEAN trung bình là 70 người/1 triệu dân)
2.2.2. Hiện trạng ô nhiễm môi trường nước ở Thái Nguyên
Ở thành phố Thái Nguyên, nước thải công nghiệp thải ra chủ yếu từ các

cơ sở sản xuất giấy, luyện gang thép, luyện kim màu, khai thác than.Về mùa
cạn tổng lượng nước thải khu vực thành phố Thái Nguyên chiếm khoảng
15% lưu lượng sông Cầu. Nước thải từ sản xuất giấy có pH từ 8,4-9 và hàm
lượng NH4 là 4mg/1, hàm lượng chất hữu cơ cao, nước thải có màu nâu,
mùi khó chịu…
Theo đánh giá của Trung tâm Quan trắc và Công nghệ môi trường Thái
Nguyên, chất lượng nước sông Cầu ở hầu hết các địa phương đều không đạt
tiêu chuẩn chất lượng là nguồn nước cấp cho mục đích sinh hoạt (QCVN
08:2008/BTNMT (A)). Tuy nhiên, chất lượng nước tại khu vực thượng lưu
tốt hơn so với hạ lưu, đặc biệt đoạn Sông Cầu chảy qua khu vực thành phố
Thái Nguyên.
Nguyên nhân có nhiều, do yếu tố tự nhiên và cả phát triển kinh tế xã hội.
Đó là những trận lũ ống, lũ quét đã xảy ra ở các xã ven sông, suối nhỏ ở các
huyện miền núi (Võ Nhai, Đại Từ, Định Hoá). Những trận mưa lớn gây ngập
úng cục bộ tại khu vực trũng, các cụm dân cư, cuốn theo các chất ô nhiễm
13
trên bề mặt gây ô nhiễm nguồn nước mặt tiếp nhận. Đặc biệt, tại các khu vực
khai thác khoáng sản, mưa cuốn theo một lượng lớn chất thải rắn, gây đục
bồi lắng các sông suối tiếp nhận.
Đó là chưa kể, trên 2 triệu m3 nước thải của khoảng 1600 cơ sở công
nghiệp từ các ngành nghề khai khoáng, luyện kim, chế biến thực phẩm, sản
xuất vật liệu xây dựng thải ra khi chưa được xử lý đạt Quy chuẩn môi
trường. Bên cạnh đó là nguồn nước thải sinh hoạt với khối lượng khổng lồ
với hơn 100.000 m3/ngày trong đó nước thải tại các khu vực đô thị chiếm
gần 50%. Và rồi gần 3000 m3/ngày nước thải y tế chưa qua xử lý, thải trực
tiếp vào nguồn nước mang theo nhiều hoá chất độc hại, các chất hữu cơ,
dinh dưỡng và vi khuẩn gây bệnh.
Ngoài ra, các hoạt động nông nghiệp, chăn nuôi gia súc, gia cầm, chất
thải rắn không được thu gom và xử lý thải thẳng xuống nguồn nước mặt.
Bởi thế, nguồn nước sông Cầu trước vốn xanh trong in hình trên mặt

nước nay mỗi ngày một đen đến lạ thường mà ít ai dám đến gần bởi mùi hôi
thối bốc lên bất cứ lúc nào.
Hiện nay, tại các suối tiếp nhận trực tiếp nước thải từ các hoạt động đô
thị, công nghiệp, khai khoáng, mức độ ô nhiễm tại các suối là rất lớn. Đặc
biệt, các suối tiếp nhận nước thải của thành phố Thái Nguyên, mức độ ô
nhiễm hữu cơ, dinh dưỡng là rất cao, so với QCVN 08:2008 cột B1, hàm
lượng BOD vượt trên 2 lần, hàm lượng amoni vượt 16 lần, hàm lượng tổng
dầu mỡ vượt gần 8 lần), đặc biệt, tại suối Cam Giá (suối tiếp nhận nước thải
của khu công nghiệp gang thép Lưu Xá), suối Văn Dương (suối tiếp nhận
nước thải của khu công nghiệp Sông Công), hàm lượng Cd vượt so với
QCVN 08:2008/BTNMT cột B1, B2.
Theo báo cáo hiện trạng môi trường Thái Nguyên năm 2005, một vụ lúa,
ngô hoặc chè trung bình người nông dân dùng thuốc bảo vệ thực vật từ 3-3,5
14
kg/ha đất nông nghiệp. Đặc biệt là cây chè, người dân phun thuốc diệt sâu từ
3 đến 5 lần và phun tổng hợp rất nhiều loại thuốc khác nhau để đề phòng sâu
bệnh kháng thuốc. Lượng thuốc bảo vệ thực vật dùng trong 1 vụ lúa lên tới
hàng trăm tấn và một phần trong số đó được thẩm thấu vào nước sông Cầu.
Hiện tại tất cả các vùng sản xuất nông nghiệp trong lưu vực sông Cầu đều sử
dụng rộng rãi các loại phân hoá học khoảng 500.000 tấn/năm, lượng dư thừa
đổ vào lưu vực khoảng 33%. Tại các vùng thâm canh rau, tỷ lệ lượng thuốc
bảo vệ thực vật và phân hoá học được sử dụng cao gấp 3 - 5 lần các vùng
trồng lúa.
Mặc dù hoạt động chăn nuôi gia súc, gia cầm của tỉnh tăng đều qua các
năm nhưng các biện pháp xử lý chất thải rắn, nước thải từ các chuồng trại
chăn nuôi còn rất hạn chế. Do đó, hầu hết các chất thải này, đặc biệt là nước
thải đều được đổ xuống các nguồn nước mặt gây ô nhiễm nghiêm trọng.
* Hiện trạng ô nhiễm môi trường nước ở phường Túc Duyên
Phường Túc Duyên là một trong những phường trung tâm của thành phố
Thái Nguyên, có vị trí rất thuận lợi trong giao thương hàng hóa và phát triển

kinh tế.
2.3.Hệ thống chợ ở nước ta và vai trò của chợ.
Với tổng số gần 8.300 chợ vào thời điểm hiện tại, có thể nói bình quân
mỗi xã, phường ở nước ta có một chợ. Bức tranh chợ Việt Nam khá đa dạng,
tạo thêm một kênh giao thông cả ở hai thị trường nội và ngoại địa.
Trong những năm qua, mạng lưới chợ ở nước ta đóng vai trò rất quan
trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là từ thập niên 80 và
những năm đầu của thập niên 90. Đây là giai đoạn mà mạng lưới siêu thị và
trung tâm thương mại chưa hình thành và phát triển, chợ vẫn là nơi tiêu thụ
hàng hóa chủ yếu của các doanh nghiệp sản xuất cũng như là nơi mua sắm
15
chủ yếu của người dân. Tuy nhiên, hiện nay chợ vẫn giữ một vai trò rất quan
trọng thể hiện trên các mặt sau:
*Về mặt kinh tế
Chợ là một bộ phận quan trọng trong cấu thành mạng lưới thương nghiệp
xã hội :
+ Đối với vùng nông thôn: Chợ vừa là nơi tiêu thụ nông sản hàng hoá,
tập trung thu gom các sản phẩm, hàng hoá phân tán, nhỏ lẻ để cung ứng cho
các thị trường tiêu thụ lớn trong và ngoài nước, vừa là nơi cung ứng hàng
công nghiệp tiêu dùng cho nông dân và một số loại vật tư cho sản xuất nông
nghiệp ở nông thôn.
+ Ở khu vực thành thị: Chợ cũng là nơi cung cấp hàng hoá tiêu dùng,
lương thực thực phẩm chủ yếu cho các khu vực dân cư.
Tuy nhiên hiện nay đã xuất hiện khá nhiều hình thức thương mại cạnh
tranh trực tiếp với chợ, vì thế bên cạnh việc mở rộng hay tăng thêm số lượng
chợ chúng ta sẽ đầu tư nâng cấp chất lượng hoạt động của chợ và đầu tư
nâng cấp chất lượng dịch vụ của chợ.Hoạt động của các chợ làm tăng ý thức
về kinh tế hàng hoá của người dân, rõ nét nhất là ở miền núi, vùng cao từ đó
thúc đẩy sản xuất phát triển, góp phần tích cực vào công cuộc xoá đói giảm
nghèo ở nông thôn, miền núi. Trong các phiên chợ, các buổi chợ là cơ hội

của người dân giao lưu trao đổi, mua bán, lưu thông hàng hoá của mình, cập
nhật thông tin, ý thức xã hội, nó làm tăng khả năng phản ứng của người dân
với thị trường, với thời thế và tự mình có thể ý thức được công việc làm ăn
buôn bán của mình trong công cuộc đổi mới.
Chợ là một nguồn thu quan trọng của Ngân sách Nhà nước. Mặc dù Nhà
nước chưa có thể nâng cấp đủ hệ thống chợ ở nước ta, chưa đặc biệt quan
tâm đầu tư phát triển, nhưng các chợ trong cả nước đã đem lại cho Ngân
sách Nhà nước khoảng 3000 tỷ đồng mỗi năm (chưa kể các nguồn thu từ
16
thuế trực tiếp).Sự hình thành chợ kéo theo sự hình thành và phát triển các
ngành nghề sản xuất. Đây chính là tiền đề hội tụ các dòng người từ mọi miền
đất nước tập trung để làm ăn, buôn bán. Chính quá trình này làm xuất hiện
các trung tâm thương mại và không ít số đó trở thành những đô thị sầm uất.
* Về giải quyết việc làm:
Chợ ở nước ta đã giải quyết được một số lượng lớn việc làm cho người
lao động. Hiện nay trên toàn quốc có hơn 2,3 triệu người lao động buôn bán
trong các chợ và số người tăng thêm có thể tới 10%/năm.Nếu mỗi người trực
tiếp buôn bán có thêm 1 đến 2 người giúp việc (phụ việc bán hàng, tổ chức
nguồn hàng để đưa về chợ, đưa hàng tới các mối tiêu thụ theo yêu cầu của
khách…) thì số người lao động có việc tại chợ sẽ gấp đôi, gấp ba lần số
lượng người chỉ buôn bán ở chợ, và như thế chợ giải quyết được một số
lượng lớn công việc cho người lao động khi hoạt động.
*Về việc giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc:
Có thể nói, chợ là một bộ mặt kinh tế - xã hội của một địa phương và là
nơi phản ánh trình độ phát triển kinh tế - xã hội, phong tục tập quán của một
vùng dân cư. Tính văn hoá ở chợ được thể hiện rõ nhất là ở miền núi, vùng
cao, vùng sâu, vùng xa. Đồng bào đến chợ ngoài mục tiêu mua bán còn lấy
chợ làm nơi giao tiếp, gặp gỡ, thăm hỏi người thân, trao đổi công việc, kể cả
việc dựng vợ gả chồng cho con cái. Chợ còn là nơi hò hẹn của lứa đôi, vì
vậy người dân miền núi thường gọi là đi "chơi chợ" thay cho từ đi chợ mua

sắm như là người dưới xuôi thường gọi. Các phiên chợ này thường tồn tại từ
rất lâu đời, và nó là những bản sắc văn hoá vô cùng đặc trưng của các dân
tộc ở nước ta.
Đối với chính quyền: ở miền núi, vùng cao, vùng sâu, vùng xa chợ là địa
điểm duy nhất hội tụ đông người. Tại chợ có đại diện của các lứa tuổi, tất cả
các thôn bản và các dân tộc. Vì thế, đã từ lâu, Chính quyền địa phương đã
17
biết lấy chợ là nơi phổ biến chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và
pháp luật của Nhà nước, là nơi tuyên truyền cảnh giác và đấu tranh với
những phần tử xuyên tạc đường lối của Đảng. Từ phong trào kế hoạch hoá
gia đình đến kỹ thuật chăm sóc cây trồng vật nuôi, vệ sinh phòng dịch… đều
có thể được phổ biến một cách hiệu quả ở đây. Chính vì lý do đó, chợ miền
núi hay miền xuôi đều được bố trí ở trung tâm cụm, xã (nhất là miền núi).
Trong mỗi chợ đều giành vị trí trung tâm làm công tác tuyên truyền. Trên
thực tế, một số chợ truyền thống có từ rất lâu đời đang trở thành một địa
điểm thu hút khách du lịch (như Chợ Tình Sa Pa, chợ Cầu Mây ở Nam
Định…). Nếu được đầu tư thoả đáng cả về cở sở vật chất cũng như sự quan
tâm quản lý của Nhà nước, đây sẽ là các địa danh hấp dẫn đối với khách du
lịch trong và ngoài nước, và nó sẽ là tiềm năng về kinh tế du lịch quốc gia
*Phân loại chợ
- Theo địa giới hành chính: Có hai loại chợ tồn tại theo tiêu thức này là
chợ đô thị và chợ nông thôn.
+ Chợ đô thị: Là các loại chợ được tổ chức, tụ họp ở thành phố, thị xã, thị
trấn. Do ở đây, đời sống và trình độ văn hoá có phần cao hơn ở nông thôn,
cho nên các chợ thành phố có tốc độ hiện đại hoá nhanh hơn, văn minh
thương mại trong chợ cũng được chú trọng, cơ sở vật chất ngày càng được
tăng cường, bổ sung và hoàn chỉnh. Phương tiện phục vụ mua bán, hệ thống
phương tiện truyền thông và dịch vụ ở các chợ này thường tốt hơn các chợ ở
khu vực nông thôn.
+ Chợ nông thôn: Là chợ thường được tổ chức tại trung tâm xã, trung

tâm cụm xã. Hình thức mua bán ở chợ đơn giản, dân dã (có nơi, như ở một
số vùng núi, người dân tộc thiểu số vẫn còn hoạt động trao đổi bằng hiện vật
tại chợ), các quầy, sạp có quy mô nhỏ lẻ, manh mún. Nhưng ở các chợ nông
18
thôn thể hiện đậm đà bản sắc truyền thống đặc trưng ở mỗi địa phương, của
các vùng lãnh thổ khác nhau.
- Theo tính chất mua bán: Dựa theo tiêu thức này, ta có thể phân chia
thành hai loại là chợ bán buôn và bán lẻ.
+ Chợ bán buôn: Là các chợ lớn, chợ trung tâm, chợ có vị trí là cửa ngõ
của thành phố, thị xã, thị trấn, có phạm vi hoạt động rộng, tập trung vói khối
lượng hàng hoá lớn. Hoạt động mua bán chủ yếu là thu gom và phân luồng
hàng hoá đi các nơi. Các chợ này thường là nơi cung cấp hàng hoá cho các
trung tâm bán lẻ, các chợ bán lẻ trong và ngoài khu vực, nhiều chợ còn là
nơi thu gom hàng cho xuất khẩu. Các chợ này có doanh số bán buôn chiếm
tỷ trọng cao (trên 60%), đồng thời vẫn có bản lẻ nhưng tỷ trọng nhỏ.
+ Chợ bán lẻ: Là những chợ thuộc phạm vi xã, phường (liên xã, liên
phường), cụm dân cư, hàng hoá qua chợ chủ yếu để bán lẻ, phục vụ trực tiếp
cho người tiêu dùng.
- Theo đặc điểm mặt hàng kinh doanh: Có chợ tổng hợp và chợ chuyên
doanh.
+ Chợ tổng hợp: Là chợ kinh doanh nhiều loại hàng hoá thuộc nhiều
ngành hàng khác nhau. Trong chợ tồn tại nhiều loại mặt hàng như: hàng tiêu
dùng (quần áo, giày dép, các mặt hàng lương thực thực phẩm, hàng gia
dụng…), công cụ lao động nông nghiệp (cuốc, xẻng, liềm búa…), cây trồng,
vật nuôi…, chợ đáp ứng toàn bộ các nhu cầu của khách hàng. Hình thức chợ
tổng hợp này thể hiện khái quát những đặc trưng của chợ truyền thống, và ở
nước ta hiện nay loại hình này vẫn chiếm ưu thế về số lượng cũng như về
thời gian hình thành và phát triển.
+ Chợ chuyên doanh: Là loại chợ chuyên kinh doanh một mặt hàng chính
yếu, mặt hàng này thường chiếm doanh số trên 60% đồng thời vẫn có bán

một số mặt hàng khác, các loại hàng này có doanh số dưới 40% tổng doanh
19
thu. Hình thức chợ này cũng tồn tại ở nước ta như chợ vải, chợ hoa tươi, chợ
vật liệu xây dựng, chợ rau quả, chợ giống cây trồng…
- Theo số lượng hộ kinh doanh, vị trí và mặt bằng của chợ: Dựa theo cách
phân loại trong Điều 3 Nghị định số 02/2003/NĐ-CP của Chính phủ về phát
triển và quản lý chợ thì chợ được chia thành 3 loại: chợ loại 1, chợ loại 2 và
chợ loại 3.
+ Chợ loại 1 là chợ phải đảm bảo các tiêu chuẩn sau: Là chợ có trên 400
điểm kinh doanh, được đầu tư xây dựng kiên cố, hiện đại theo quy hoạch;
Được đặt ở các vị trí trung tâm kinh tế thương mại quan trọng của tỉnh,
thành phố hoặc là chợ đầu mối của ngành hàng, của khu vực kinh tế và được
tổ chức họp thường xuyên; Có mặt bằng phạm vi chợ phù hợp với quy mô
hoạt động của chợ và tổ chức đầy đủ các dịch vụ tại chợ: trông giữ xe, bốc
xếp hàng hoá, kho bảo quản hàng hoá, dịch vụ đo lường, dịch vụ kiểm tra
chất lượng hàng hoá, vệ sinh an toàn thực phẩm và các dịch vụ khác.
+ Chợ loại 2 là chợ thoả mãn các tiêu chuẩn sau: Là chợ có trên 200 diểm
kinh doanh, được đầu tư xây dựng kiên cố hoặc là bán kiên cố theo quy
hoạch; Được đặt ở trung tâm giao lưu kinh tế của khu vực và được tổ chức
họp thường xuyên hay không thường xuyên; Có mặt bằng phạm vi chợ phù
hợp với quy mô hoạt động của chợ và tổ chức các dịch vụ tối thiểu tại chợ:
trông giữ xe, bốc xếp hàng hoá, kho bảo quản hàng hoá, dịch vụ đo lường.
+ Chợ loại 3 là chợ thoả mãn các tiêu chuẩn sau: Là chợ có dưới 200
điểm kinh doanh hoặc các chợ chưa được đầu tư xây dựng kiên cố hoặc bán
kiên cố; Chủ yếu phục vụ nhu cầu mua bán hàng hoá của nhân dân trong xã,
phường và địa bàn phụ cận.
- Theo tính chất và quy mô xây dựng: Theo tiêu chí này, chợ được chia
thành chợ kiên cố, chợ bán kiên cố và chợ tạm.
20
+ Chợ kiên cố: Là chợ được xây dựng hoàn chỉnh với đủ các yếu tố của

một công trình kiến trúc, có độ bền sử dụng cao (thời gian sử dụng trên 10
năm). Chợ kiên cố thường là chợ loại 1 có diện tích đất hơn 10.000 m2 và
chợ loại 2 có diện tích đất từ 6000-9000 m2. Các chợ kiên cố lớn thường
nằm ở các tỉnh, thành phố lớn, các huyện lỵ, trị trấn và có thời gian tồn tại
lâu đời, trong một thời kỳ dài và là trung tâm mua bán của cả vùng rộng lớn.
+ Chợ bán kiên cố: Là chợ chưa được xây dựng hoàn chỉnh. Bên cạnh
những hạng mục xây dựng kiên cố (tầng lầu, cửa hàng, sạp hàng) còn có
những hạng mục xây dựng tạm như lán, mái che, quầy bán hàng…, độ bền
sử dụng không cao (dưới 10 năm) và thiếu tiện nghi. Chợ bán kiên cố
thường là chợ loại 3, có điện tích đất 3000-50000 m2. Chợ này chủ yếu phân
bổ ở các huyện nhỏ, khu vực thị trấn xa xôi, chợ liên xã, liên làng, các khu
vực ngoài thành phố lớn.
+ Chợ tạm: Là chợ mà những quầy, sạp bán hàng là những lều quán được
làm có tính chất tạm thời, không ổn định, khi cần thiết có thể dỡ bỏ nhanh
chóng và ít tốn kém. Loại chợ này thường hay tồn tại ở các vùng quê, các xã,
các thôn, có chợ được dựng lên để phục vụ trong một thời gian nhất định
(như tết, lễ hội…).








21
Phần III
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng, địa điểm và thời gian nghiên cứu
- Đối tượng: Nước thải của hoạt động buôn bán thủy hải sản chợ Túc

Duyên, Phường Túc Duyên-TP.Thái Nguyên.
- Địa Điểm: UBND Phường Túc Duyên-TP Thái Nguyên.
- Thời gian nghiên cứu: Từ 31-12-2013 đến 16-4-2013
3.2. Nội dung nghiên cứu
3.2.1. Điều kiện tự nhiên-kinh tế-xã hội Phường Túc Duyên-TP Thái
Nguyên.
- Vị trí địa lý
- Điều kiện tự nhiên - kinh tế - xã hội
3.2.2. Chợ Túc Duyên
a) Giới thiệu về Chợ Túc Duyên.
b) Đặc điểm Chợ Túc Duyên:
- Các hoạt động kinh doanh, buôn bán chính của chợ.
- Các hoạt động có phát sinh nước thải.
- Quy trình thu gom, xử lý chất thải.
3.2.3. Hiện trạng môi trường nước xung quanh chợ Túc Duyên.
3.2.3.1. Hiện trạng môi trường nước thải.
3.2.3.2. Hiện trạng môi trường nước ngầm.
3.2.4. Ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường tới sức khỏe người dân.
3.2.5. Ảnh hưởng của ô nhiễm nguồn nước tới hệ sinh thái khu vực.
3.2.6. Đề xuất giải pháp giảm thiểu ô nhiễm và bảo vệ sức khỏe người
dân.
3.3. Phương pháp nghiên cứu.
3.3.1. Phương pháp thu thập, phân tích và tổng hợp số liệu thứ cấp.
22
Phương pháp thu thập, phân tích và tổng hợp số liệu thứ cấp là phương
pháp phổ biến thường được dùng khi nghiên cứu một đề tài của Bộ TNMT.
Đây là phương pháp tham khảo tài liệu có sẵn liên quan đến vấn đề nghiên
cứu. Phương pháp này là phương pháp truyền thống nhanh và hiệu quả. Với
phương pháp này có thể áp dụng nghiên cứu các nội dung sau:
- Điều kiện tự nhiên-kinh tế-xã hội của địa bàn nghiên cứu.

- Hoạt động sản xuất, kinh doanh của chợ.
- Các tài liệu khác có liên quan.
3.3.2. Phương pháp thu thập số liệu sơ cấp.
- Phỏng vấn 30 hộ dân sống quanh chợ Túc Duyên.
- Phỏng vấn các hộ kinh doanh buôn bán thủy sản trong chợ.
- Hình thức phỏng vấn: Phát phiếu điều tra.
3.3.3. Phương pháp lấy mẫu nước.
- Dụng cụ lấy mẫu sạch, được đánh dấu để tránh sự nhầm lẫn.
- Mẫu nước được lấy phía dưới mặt nước ở độ sâu 0,25m.
- Mẫu nước thải được lấy vào thời gian buổi sáng.
- Lấy mẫu nước thải của khu chợ thủy sản tại 3 vị trí:
+ Vị trí 1: đầu nguồn nước thải, ngay sau ống thoát nước thải của các
tiểu thương.
+ Vị Trí 2: khu vực giữa dòng chảy thải, cách nguồn thải 200 mét.
+ Vị trí 3: Cuối dòng chảy thải, cách nguồn thải 400 mét.
3.3.4.Phương pháp bảo quản mẫu nước.
Đối với tất cả các mẫu nước sau khi lấy được đựng trong bình
polietylen, tránh ánh sáng trực tiếp và bảo quản ở 4 Độ C, ngoài ra tùy từng
trường hợp cụ thể mà ta có thể bảo quản với các mẫu như sau:
23
Do chỉ tiêu pH biến đổi rất nhanh nên chúng ta xác định ngay tại hiện
trường lấy mẫu. Mẫu nước cần phân tichs chỉ tiêu TSS và BOD được bảo
quản lạnh ở nhiệt độ từ 2- 5 C.
Mẫu nước thải cần phân tích chỉ tiêu COD được axit hóa đến pH < 2
bằng H2SO4, làm lạnh ở nhiệt độ từ 2-5 C.
3.3.5. Phương pháp phân tích mẫu nước.
Các thông số môi trường : pH, BOD, COD, Coliform phân tích theo
các phương pháp trong phòng thí nghiệm.
Bảng 3.1. Các phương pháp phân tích mẫu nước
STT Tên chỉ tiêu Phương pháp Đơn vị

1 pH TCVN 6492:2011 -
2 BOD
5
TCVN 6001:2008 mg/l
3 COD TCVN 4565:1988 mg/l
4 TSS TCVN 6625:2000 mg/l
5 N tổng TCVN 5987:1995 mg/l
6 P tổng TCVN 6202:2008 mg/l
7 Coliform TCVN 6187:1996 MPN/100ml

3.3.6. So sánh kết quả phân tích với quy chuẩn và tiêu chuẩn nước thải
Việt Nam.
Từ các số liệu thứ cấp cộng với số liệu đo đạc, khảo sát thực tế, kết quả
phân tích trong phòng thí nghiệm, tính toán được tải lượng ô nhiễm và so
sánh với các tiêu chuẩn, quy chuẩn để đưa ra được mức độ ô nhiễm môi
trường nước. Từ đó dự báo được những ảnh hưởng xấu tới môi trường nước,
đưa ra các giải pháp quản lý và bảo vệ môi trường khu vực, nhằm phát triển
một cách bền vững.
24
3.3.7. Tổng hợp, viết báo cáo
Các số liệu sau khi thu thập, phân tích… được đánh giá tổng hợp, xử lý
và tổng kết thành một bản kết quả cô đọng nhất làm nổi bật vấn đề cần
nghiên cứu.
























×