Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Đánh giá hiện trạng và đề xuất biện pháp giảm thiểu ô nhiễm môi trường nước tại làng nghề gốm sứ Phù Lãng, Xã Phù Lãng, Huyện Quế Võ, Tỉnh Bắc Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (904.75 KB, 81 trang )


đạI HọC THáI NGUYÊN
TRƯờNG ĐạI HọC NÔNG LÂM





nGuyễn Thị hờng


Tên đề tài:

Đánh giá hiện trạng và đề xuất biện pháp giảm thiểu ô nhiễm
môi trờng nớc tại làng nghề gốm sứ Phù Lãng,
Xã Phù Lãng, Huyện Quế Võ, Tỉnh Bắc Ninh



KhóA LUậN tốt nghiệp đại học
















Hệ đào tạo : Chính quy
Chuyên ngành : Khoa học Môi trờng
Khoa : Môi trờng
Khoá học : 2010 - 2014



Thái Nguyên, 2014

ĐạI HọC THáI NGUYÊN
TRƯờNG ĐạI HọC NÔNG LÂM





nGuyễn Thị hờng


Tên đề tài:

Đánh giá hiện trạng và đề xuất biện pháp giảm thiểu ô nhiễm
môi trờng nớc tại làng nghề gốm sứ Phù Lãng,
Xã Phù Lãng, Huyện Quế Võ, Tỉnh Bắc Ninh




KhóA LUậN tốt nghiệp đại học









Hệ đào tạo : Chính quy
Chuyên ngành : Khoa học Môi trờng
Khoa : Môi trờng
Lớp : 42B - KHMT

Khoá học : 2010 - 2014
Giảng viên hớng dẫn : ThS. Nguyễn Duy Hải



Thái Nguyên, 2014

LỜI CẢM ƠN

Thực tập tốt nghiệp là một trong những giai đoạn quan trọng trong quá
trình đào tạo sinh viên của nhà trường. Đây là khoảng thời gian sinh viên
được tiếp cận thực tế, đồng thời giúp sinh viên củng cố những kiến thức đã
được học trong nhà trường.
Để có thể hoàn thành khóa luận này, bằng tấm lòng biết ơn sâu sắc, em

xin chân thành cảm ơn thầy giáo - ThS. Nguyễn Duy Hải giảng viên trường
Đại học Nông Lâm Thái Nguyên đã tận tình hướng dẫn em trong suốt quá
trình thực hiện khóa luận tốt nghiệp.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo Trường Đại học Nông
Lâm Thái Nguyên; đặc biệt các thầy, cô giáo Khoa Môi trường là những
người đã dạy bảo và hướng dẫn em tận tình trong suốt 4 năm học tập và rèn
luyện tại trường.
Em xin gửi lời cảm ơn tới các cán bộ, nhân viên Trung tâm quan trắc
Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bắc Ninh đã tạo điều kiện và nhiệt tình giúp
đỡ em trong suốt quá trình thực tập tốt nghiệp.
Do thời gian nghiên cứu có hạn, năng lực bản thân, đặc biệt là kinh
nghiệm thực tế còn hạn chế nên đề tài của em không tránh khỏi những sai sót,
em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy, cô giáo và các bạn sinh viên để
khóa luận tốt nghiệp của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

Thái Nguyên, ngày 05 tháng 05 năm 2014
Sinh viên


Nguyễn Thị Hường


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Trang
Bảng 4.1: Hiện trạng sử dụng đất toàn xã Phù Lãng 37

Bảng 4.2: Trong đó dân số của các thôn 41

Bảng 4.3: Tổng hợp các công trình dịch vụ công cộng hiện có 43


Bảng 4.4: Hàm lượng chỉ tiêu trong nước thải của làng nghề gốm sứ 50

Bảng 4.5: Hàm lượng chỉ tiêu trong nước mặt của làng nghề gốm sứ 52

Bảng 4.6: Kết quả phân tích chất lượng nước ngầm tại vùng nghiên cứu 54

Bảng 4.7: Kết quả điều tra phỏng vấn tình hình sức khỏe của người dân làng nghề
gốm Phù Lãng 56



DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ
Trang
Hình 4.1: Bản đồ xã Phù Lãng 35

Hình 4.2: Sơ đồ công nghệ sản xuất gốm sứ 45

Hình 4.3: So sánh hàm lượng chất hữu cơ và vô cơ trong nước thải so với QCVN
40:2011/ BTNVMT - giá trị giới hạn cột B 50

Hình 4.4: So sánh hàm lượng kim loại nặng trong nước thải so với QCVN 40:2011/
BTNVMT - giá trị giới hạn cột B 51

Hình 4.5: So sánh hàm lượng chất hữu cơ và vô cơ trong nước mặt so với QCVN
08:2008/ BTNMT - giá trị giới hạn cột B (mức B1) 53

Hình 4.6: So sánh hàm lượng kim loại nặng trong nước mặt so với QCVN 08:2008/
BTNMT - giá trị giới hạn cột B (mức B1) 53


Hình 4.7: So sánh hàm lượng các chất trong nước ngầm so với QCVN 09:2008 /
BTNVMT - giá trị giới hạn. 55

Hình 4.8: Mô hình xử lý nước ao, hồ trong khu vực làng nghề gốm Phù Lãng bằng
thực vật thủy sinh 59

Hình 4.9: Mô hình thu gom và xử lý nước thải sản xuất 60

Hình 4.10: Mô hình xử lý nước ngầm cho địa phương 61


DANH MỤC CÁC CỤM, TỪ VIẾT TẮT

BOD : Nhu cầu ôxi hóa sinh học
BTNMT : Bộ Tài nguyên và Môi trường
CCN : Cụm công nghiệp
CN
-
: Xyanua
CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
COD : Nhu cầu ôxi hóa hóa học
DO : Oxy hòa tan
HTX : Hợp tác xã
KCN : Khu công nghiệp
PTNMT : Phòng tài nguyên môi trường
QCCP : Quy chuẩn cho phép
TCCP : Tiêu chuẩn cho phép
TCVN : Tiêu chuẩn Việt Nam
TDS : Tổng chất rắn hòa tan
TSS : Tổng rắn lơ lửng

TTCN : Tiểu thủ công nghiệp
TTQT : Trung tâm quan trắc
UBND : Ủy ban nhân dân

MỤC LỤC
Trang
Phần 1. MỞ ĐẦU
10

1.1. Đặt vấn đề 10

1.2. Mục đích của đề tài 11

1.3. Mục tiêu của đề tài 11

1.4. Ý nghĩa của đề tài 12

1.4.1. Ý nghĩa học tập 12

1.4.2. Ý nghĩa thực tiễn 12

Phần 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
13

2.1. Cơ sở khoa học 13

2.1.1. Một số khái niệm có liên quan 13

2.1.2. Cơ sở pháp lý 15


2.1.3. Cơ sở lý luận 16

2.2. Tình hình ô nhiễm nước ở Việt Nam và thế giới 17

2.2.1. Tình hình ô nhiễm nước ở thế giới 17

2.2.2. Tình hình ô nhiễm nước ở Việt Nam 19

2.3. Hiện trạng ô nhiễm làng nghề ở Việt Nam 22

2.4. Vài nét về làng nghề và môi trường làng nghề gốm sứ 24

2.4.1. Lịch sử phát triển của các làng nghề Việt Nam 24

2.4.2. Lịch sử phát triển về làng nghề gốm Phù Lãng Bắc Ninh 26

2.4.3. Môi trường và các nguồn gây ô nhiễm nước tại làng nghề gốm sứ Phù
Lãng Bắc Ninh 28

Phần 3. ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
30

3.1. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 30

3.1.1. Đối tượng nghiên cứu 30

3.1.2. Phạm vi nghiên cứu 30

3.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu 30


3.2.1. Địa điểm nghiên cứu 30

3.2.2. Thời gian nghiên cứu 30

3.3. Nội dung nghiên cứu 30


3.3.1. Điều tra thu thập số liệu về điều kiện tự nhiên - kinh tế xã hội tại xã Phù
Lãng - HuyệnQuế Võ - Tỉnh Bắc Ninh. 30

3.3.2. Công nghệ và quy trình sản xuất của làng nghề gốm sứ Phù Lãng. 30

3.3.3. Đánh giá chất lượng nước tại làng nghề gốm sứ Phù Lãng 30

3.3.4. Đánh giá ảnh hưởng của ô nhiễm làng nghề gốm sứ Phù Lãng tới sức khỏe
của người dân 30

3.3.5. Dự báo ảnh hưởng và đề xuất một số biện pháp giảm thiểu ô nhiễm môi
trường làng nghề gốm sứ 31

3.4. Phương pháp nghiên cứu 31

3.4.1. Phương pháp kế thừa 31

3.4.2. Phương pháp thu thập số liệu 31

3.4.3. Phương pháp điều tra và khảo sát 31

3.4.4. Phương pháp tổng hợp so sánh 32


3.4.5. Phương pháp điều tra phỏng vấn 32

3.4.6. Phương pháp bản đồ, biểu đồ 32

3.4.7. Phương pháp lấy mẫu nước 32

3.4.8. Phương pháp phân tích trong phòng thí nghiệm 33

3.4.9. Phương pháp tổng hợp và sử lý số liệu 34

Phần 4. NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
35

4.1. Điều kiện tự nhiên - kinh tế - xã hội 35

4.1.1. Điều kiện tự nhiên 35

4.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội 37

4.2. Công nghệ và quy trình sản xuất của làng nghề gốm sứ Phù Lãng 44

4.2.1. Công nghệ sản xuất 44

4.2.2. Quy trình sản xuất 45

4.3. Đánh giá chất lượng môi trường nước tại làng nghề gốm sứ Phù Lãng 49

4.3.1. Đánh giá chất lượng môi trường nước thải sản xuất của làng nghề 49

4.3.2. Đánh giá chất lượng môi trường nước mặt 51


4.3.3. Đánh giá chất lượng nước ngầm tại làng nghề gốm sứ Phù Lãng 54

4.4. Đánh giá ảnh hưởng của ô nhiễm làng nghề gốm sứ Phù Lãng tới sức khỏe
người dân 56


4.5. Dự báo ảnh hưởng và đề xuất một số biện pháp giảm thiểu ô nhiễm nước
làng nghề gốm sứ Phù Lãng 57

4.5.1. Dự báo ảnh hưởng ô nhiễm nước làng nghề gốm sứ Phù Lãng 57

4.5.2. Đề xuất một số biện pháp giảm thiểu ô nhiễm nước làng nghề gốm sứ 57

Phần 5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
63

5.1. Kết luận 63

5.2. Kiến nghị 64

TÀI LIỆU THAM KHẢO
65



Phần 1
MỞ ĐẦU

1.1. Đặt vấn đề

Làng nghề ở Bắc Ninh có lịch sử tồn tại từ hàng trăm năm nay, được
phân bố rộng khắp trên địa bàn tỉnh và hoạt động hầu hết ở các nghành kinh tế
chủ yếu. Trong những năm qua, nhất là nước ta chuyển sang nền kinh tế thị
trường, hội nhập dần vào nền kinh tế thế giới thì hoạt động làng nghề ở Bắc
Ninh có bước thay đổi lớn. Bắc Ninh là một trong những tỉnh có nhiều làng
nghề ở nước ta. Tỉnh Bắc Ninh hiện có 63 làng nghề, trong đó có 30 làng
nghề truyền thống và 33 làng nghề mới với các sản phẩm nổi tiếng như gỗ mỹ
nghệ Đồng Kỵ, giấy Phong Khê, gốm Phù Lãng, đúc đồng Đại Bái, sắt thép
Đa Hội Với đặc thù công nghệ sản xuất ở các làng nghề trên địa bàn tỉnh
còn lạc hậu, quy mô hộ cá thể, mặt bằng chật hẹp xen kẽ với khu dân cư, thiếu
quy hoạch và thiếu vốn cho đầu tư công nghệ, nên các cơ sở sản xuất chưa
thật sự chú trọng tới công tác bảo vệ môi trường, xử lý ô nhiễm môi trường,
từ đó ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của người dân làng nghề và khu vực
xung quanh.
Hàng năm, các làng nghề đóng góp một phần vào ngân sách nhà nước,
tạo việc làm tại chỗ cho gần 35.000 lao động và thu hút hàng nghìn lao động
nông thôn các vùng phụ cận. Làng nghề đã góp phần tích cực trong chuyển
đổi cơ cấu kinh tế ở địa phương. Tạo ra một khối hàng hóa dồi dào phong phú
và đa dạng, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và sản xuất.
Sự tồn tại và phát triển của làng nghề đã góp phần quan trọng vào sự
phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển đó thì
vấn đề ô nhiễm môi trường do hoạt động làng nghề mang lại càng trở lên
nghiêm trọng, trong đó phải kể đến ô nhiễm môi trường nước và những tác
hại do chúng mang lại.
Quế Võ là một trong những làng nghề tiêu biểu ấy sự phát triển làng
nghề đã mang lại hiệu quả kinh tế cao góp phần vào tăng trưởng kinh tế
của huyện.

Xã Phù Lãng và làng nghề gốm sứ Phù Lãng nằm ở vị trí phía Đông
Bắc của huyện Quế Võ, là một trong những xã nằm ở xa trung tâm của huyện,

sâu bên trong giáp với sông Cầu, có nghề gốm truyền thống nổi tiếng (Gốm
Nhung, Gốm Thiều ). Do sự phát triển thiếu bền vững cùng công nghệ sản
xuất lạc hậu đã làm suy giảm chất lượng môi trường làng nghề và khu vực
xung quanh ảnh hưởng xấu đến môi trường sinh thái và sức khỏe người dân.
Môi trường nước tại làng nghề cũng có những thay đổi đáng kể về chất lượng.
Những nước thải phát sinh trong quá trình sản xuất của làng nghề cũng là một
vấn đề lớn gây tác động tới môi trường và mỹ quan thành phố.
Xuất phát từ thực tế này và được sự nhất trí của Ban chủ nhiệm khoa
Môi trường trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên và được sự hướng dẫn
trực tiếp của thầy giáo,ThS. Nguyễn Duy Hải em đã tiến hành nghiên cứu đề
tài: “Đánh giá hiện trạng và đề xuất biện pháp giảm thiểu ô nhiễm môi
trường nước tại làng nghề gốm sứ Phù Lãng, Xã Phù Lãng, Huyện Quế
Võ, Tỉnh Bắc Ninh”
1.2. Mục đích của đề tài
- Tìm hiểu những ảnh hưởng do sản xuất gốm sứ gây ra đối với môi
trường nước và sức khỏe người dân.
- Đánh giá hiện trạng môi trường nước từ hoạt động làm gốm sứ của
làng nghề gốm sứ Phù Lãng.
- Đề xuất các giải pháp giảm thiểu ô nhiễm của nước thải làng nghề
gốm sứ Phù Lãng.
1.3. Mục tiêu của đề tài
- Tìm hiểu những ảnh hưởng của môi trường nước làng nghề gốm sứ tới
sức khỏe của người dân trên địa bàn.
- Đánh giá hiện trạng môi trường nước tại làng nghề gốm sứ Phù Lãng.
- Phân tích được những thuận lợi và khó khăn trong việc bảo vệ chất
lượng môi trường nước làng nghề.
- Đề xuất các giải pháp giảm thiểu ô nhiễm nước phù hợp với thực tế
của địa phương.

1.4. Ý nghĩa của đề tài

1.4.1. Ý nghĩa học tập
- Nâng cao kiến thức kỹ năng và rút ra kinh nghiệm thực tế phục vụ
công tác bảo vệ môi trường.
- Áp dụng kiến thức đã học vào thực tế.
- Quá trình thực hiện đề tài, sinh viên được đóng góp vai trò như một
cán bộ tập sự, làm bước đệm chuẩn bị cho công việc cho tương lai.
- Biết và làm quen việc thực hiện một đề tài nghiên cứu khoa học nhằm
nâng cao kiến thức và kinh nghiệm bản thân, tạo điều kiện cọ xát thực tế để
thuận lợi hơn cho qua trình công tác về sau.
- Hoàn thành khóa luận tốt nghiệp.
1.4.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Đánh giá hiện trạng chất lượng nước thải sản xuất tại làng nghề gốm
sứ Phù Lãng từ đó đưa ra các biện pháp đúng đắn góp phần bảo vệ môi trường
và phát triển kinh xã hội.
- Các số liệu thu thập, tổng hợp, phân tích được phải chính xác có thể
sử dụng làm căn cứ để đề xuất các giải pháp phù hợp với điều kiện thực tế của
địa phương.
- Là cơ sở lý thuyết cho các nhà quản lý môi trường, nhà đầu tư và
nghiên cứu.
- Nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường của người dân trong các
làng nghề nói chung và người dân tại làng nghề gốm sứ Phù Lãng nói riêng.

Phần 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

2.1. Cơ sở khoa học
2.1.1. Một số khái niệm có liên quan
* Khái niệm về tài nguyên nước
Là các nguồn nước mà con người sử dụng hoặc có thể sử dụng vào
những mục đích khác nhau. Nước được dùng trong các hoạt động nông

nghiệp, công nghiệp, dân dụng, giải trí và môi trường. Hầu hết các hoạt động
trên đều cần nước ngọt, bao gồm nước mặt và nước ngầm.
* Khái niệm về ô nhiễm môi trường nước
Hiến chương châu Âu về nước đã định nghĩa:
"Ô nhiễm nước là sự biến đổi nói chung do con người đối với chất
lượng nước, làm nhiễm bẩn nước và gây nguy hiểm cho con người, cho công
nghiệp, nông nghiệp, nuôi cá, nghỉ ngơi, giải trí, cho động vật nuôi và các loài
hoang dã".
* Khái niệm về suy thoái nguồn nước
Là sự thay đổi tính chất của nước theo chiều hướng làm suy giảm chất
lượng nguồn nước, làm thay đổi tính chất ban đầu của nước. Suy thoái nguồn
nước có thể do ô nhiễm từ nguồn gốc tự nhiên (mưa, tuyết tan, lũ lụt…) hay
nhân tạo (do nước thải khu dân cư, bệnh viện, sản xuất nông nghiệp).
* Khái niệm nước mặt
Là nước trong sông, hồ hoặc nước ngọt trong vùng đất ngật nước. Nước
mặt được bổ sung một cách tự nhiên bởi giáng thủy và chúng mất đi khi chảy
vào đại dương, bốc hơi và thấm xuống đất [9].
* Khái niệm nước ngầm
Là nước ngọt được chứa trong các lỗ rỗng của đất hoặc đá. Nó cũng có
thể là nước chứa trong các tầng ngậm nước bên dưới mặt nước ngầm. Đôi khi
người ta còn phân biệt nước ngầm nông, nước ngầm sâu và nước chôn vùi [9].

* Khái niệm về nước thải
Nước thải là chất lỏng được thải ra sau quá trình sử dụng của con người
và dã bị thay đổi tính chất ban đầu của chúng.
Đặc trưng của nước thải.
Nước thải có những biểu hiện đặc trưng sau [3]:
Độ đục, màu sắc, mùi, vị, nhiệt độ, độ dẫn điện, DO (Lượng Ôxy hoà
tan), chỉ tiêu vi sinh vật.
* Khái niệm về môi trường

Theo luật bảo vệ môi trường tại khoản 1 điều 3 luật bảo vệ môi trường
ngày 29 tháng 11 năm 2005 quy định: “ Môi trường bao gồm các yếu tố tự
nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo có quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh
con người, có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con
người và sinh vật” [4].
* Khái niệm về ô nhiễm môi trường
Theo định nghĩa của tổ chức y tế thế giới (WHO) thì “Ô nhiễm môi
trường là sự đưa vào môi trường là các chất thải nguy hại hoặc năng lượng
đến mức ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống sinh vật, sức khỏe con người hoặc
làm suy thoái chất lượng môi trường”.
* Khái niệm về tiêu chuẩn môi trường
Là giới hạn cho phép của các thông số về chất lượng môi trường xung
quanh, về hàm lượng của chất gây ô nhiễm trong chất thải được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền quy định làm căn cứ để quản lý và bảo vệ môi trường
(Luật bảo vệ môi trường Việt Nam, 2005) [4].
* Khái niệm về bảo vệ môi trường
Bảo vệ môi trường là hoạt động giữ cho môi trường trong lành sạch sẽ,
phòng ngừa hạn chế các tác động xấu tới môi trường, ứng phó sự cố môi
tường, khắc phục ô nhiễm, suy thoái, phục hồi và cải thiện môi trường, khai
thác sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ đa dạng sinh
học (Luật bảo vệ môi trường Việt Nam, 2005) [4].

* Khái niệm về làng nghề
Khái niệm làng nghề được hiểu theo nhiều cách thức khác nhau. Các
nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều quan niệm về làng nghề, dưới đây là một số
quan niệm.
Làng nghề là hình thức phân công giữa công nghiệp và nông nghiệp
sớm nhất trong nông thôn. Từ đó phát huy nội lực, huy động tiềm năng các hộ
trong nông thôn để hát triển là ưu thế của làng nghề, là một giải pháp cơ bản
nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn (Đặng Kim Chi, 2005) [2].

Làng nghề là các làng nông thôn Việt Nam đang tồn tại hoạt động của
các nghề tiểu thủ công, phi nông nghiệp có ít nhất 30% so với tổng số hộ và
lao động ở làng nghề có ít nhất 300 lao động nhưng đóng góp ít nhất 50%
tổng giá trị sản xuất và thu nhập chung của làng, doanh thu hàng năm từ
nghành nghề ít nhất 300 triệu đồng (Đặng Kim Chi, 2005) [2].
2.1.2. Cơ sở pháp lý
- Luật bảo vệ môi trường năm 2005 được Quốc hội thông qua ngày
29/11/2005.
- Nghị định số 80/2006/NĐ-CP ngày 9 tháng 8 năm 2006 của Chính
phủ về việc quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật bảo
vệ môi trường.
- Nghị định số 179/1999/NĐ-CP của Chính phủ về quy định việc thi
hành Luật tài nguyên nước và xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường
trầm trọng.
- Nghị định số 120/2008/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý lưu vực.
- Nghị định số 149/2004/NĐ-CP của Chính phủ về quy định cho phép,
thăm dò, khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước.
- Thông tư số 02/2005/TT-BTNMT của Bộ Tài nguyên và Môi trường
về hướng dẫn thực hiện Nghị định số 149/2004/NĐ-CP của Chính phủ về quy
định cho phép, thăm dò, khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào
nguồn nước.

- Thông tư số 25/2009/TT-BTNMT ngày 16 tháng 11 năm 2009 của Bộ
Tài nguyên và Môi trường Quy định quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường.
- Quyết định số 22/2006/QĐ-BTNMT của Bộ Tài nguyên và Môi
trường về việc bắt buộc áp dụng tiêu chuẩn môi trường.
- Quyết định số 16/2008/QĐ-BTNMT của Bộ Tài nguyên và Môi
trường về việc ban hành quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường.
* Các tiêu chuẩn, quy chuẩn của Việt Nam.
- TCVN 5942:1995 Chất lượng nước - Tiêu chuẩn nước mặt.

- TCVN 5992:1995 Chất lượng nước - Lấy mẫu - Hướng dẫn kĩ thuật
lấy mẫu.
- QCVN 08:2008/BTNMT - Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia về chất
lượng nước mặt.
- QCVN 14:2008/BTNMT - Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia nước thải
sinh hoạt.
- QCVN 09:2008/BTNMT - Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia về chất
lượng nước ngầm.
- QCVN 40:2011/BTNMT - Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia về chất lượng
nước thải công nghiệp.
- QCVN 39:2011/BTNMT - QCKTQG về chất lượng nước dùng cho
tưới tiêu.
2.1.3. Cơ sở lý luận
Vấn đề nghiên cứu làng nghề trên thế giới đã có từ những năm đầu của
thế kỉ XX “ Nhà máy làng xã “ của Bành Tử (1922)
Nước là khởi nguồn của sự sống của vi sinh vật trên trái đất, không có
nước thì không có sự sống. Tài nguyên nước là tài nguyên quan trọng hàng
đầu phục vụ cho con người nhưng cùng với đó nước cũng kéo theo mối nguy
hiểm hàng đầu với nhưng thảm họa tự nhiên như lũ lụt, bão, hạn hán
Hiện nay trên phạm vi toàn cầu con người đã sử dụng 8% trong tổng số
nước ngọt được khai thác cho sinh hoạt, 23% cho công nghiệp, 63% cho nông
nghiệp (Sở Tài Nguyên và Môi trường Bắc Ninh, 2014) [6].

Tài nguyên nước là một trong bốn nguồn lực cơ bản và đóng vao trò
quan trọng trong việc phát triển kinh tế xã hội của bất kì quốc gia nào trên thế
gới. Cùng với sự gia tăng dân số và phát triển kinh tế thì nhu cầu về sử dụng
nguồn nước cũng tăng cao kéo theo những vấn đề mới như ô nhiễm môi
trường nước do nước khi thải trực tiếp ra ngoài môi trường phần lớn không
được xử lý làm ảnh hưởng tới con người, ảnh hưởng tới quá trình phát triển
bền vững và môi trường.

Như vậy có thể thấy rằng nước là nguồn tài nguyên có vai trò rất lớn
trong cuộc sống của con người và sinh vật. Tuy nhiên hiện nay nguồn nước
cũng đang bị suy thoái và bị ô nhiễm ảnh hưởng tới trữ lượng và chất lượng
nước, ảnh hưởng tới bản thân chúng ta. Vì vậy bảo vệ tài nguyên nước là
nhiệm vụ rất cần thiết, là trách nhiệm chung của toàn thể nhân loại không
phân biệt quốc gia, màu da, lứa tuổi
2.2. Tình hình ô nhiễm nước ở Việt Nam và thế giới
2.2.1. Tình hình ô nhiễm nước ở thế giới
Trên hành tinh chúng ta nước tồn tại ở dưới nhiều dạng khác nhau: Trên
mặt đất, trong biển và đại dương, dưới đất và trong không khí dưới các dạng:
Lỏng (Ao, hồ, sông suối, biển), khí (Hơi nước), rắn (Băng, tuyết).
Lượng nước trong thủy quyển được UNESCO công bố như sau [16]:
Lượng nước trong thủy quyển 1386 triệu km
3
(100%): Lượng nước ngọt
chiếm 35 triệu km
3
(2,5%), lượng nước mặn 1351 triệu km
3
(97,5%).
Trong thành phần nước ngọt thì nước ở dạng rắn chiếm 24,3 triệu km
3
(69,4%), dạng lỏng 10,7 triệu km
3
(30,6%).

Trong thành phần nước lỏng 10,7 triệu km
3
(100%) thì nước ngầm chiếm
đại bộ phận 10,5 triệu km

3
(98,3%); hồ và hồ chứa là 0,102 triệu km
3
(0,95%),
thổ nhưỡng 0,047 triệu km
3
(0,44%); sông ngòi 0,020 triệu km
3
(0,19%), khí
quyển 0,020 triệu km
3
(0,19%) và sinh quyển 0,011 triệu km
3
(0,10%) [16].
Thiếu nước đã làm nghèo thêm những cộng đồng nghèo. Dân nghèo ở
thủ đô Haiti phải chi 20% thu nhập để mua nước, 1/3 dân số Jacarta (Indonesia)
khoảng 2,6 triệu người phải mua nước từ xe bồn với giá 1,5 - 5,2 USD/1m
3
.
Tình trạng tương tự cũng xảy ra ở Pakistan, Mauritania, Bangadesh, Nigeria

và Hondura. Bắc Kinh (Trung Quốc) đang xem xét dự án chuyển tải nước từ
nguồn xa 1.000km để cung cấp cho thành phố. Gần toàn bộ nước sinh hoạt ở
Bỉ phải tải theo đường ống từ vùng biên giới với nước Pháp do toàn bộ hệ
thống nước mặt và nước ngầm bị nhiễm bẩn vì phân súc vật và nhiễm mặn.
Hiện nay, 40% dân số thế giới chung sống trong 250 lưu vực sông [15].
Ô nhiễm nước cũng đang là vấn đáng báo động trên thế giới hiện nay.
Đặc biệt là các nước phát triển, cùng với sự phát triển thì các khu công nghiệp
nhà máy … đã thải ra môi trường hàng loạt các lượng chất thải độc hại làm
cho nguồn nước ở đây bị ô nhiễm trầm trọng. Đây là một số ví dụ điển hình:

Tại Sukinda, Ấn Độ, các nữ công nhân phải tiếp xúc với nước nhiễm bẩn
cực nặng. Hậu quả của nó là tình trạng vô sinh, thai nhi bị dị tật và chết lưu.
Hàm lượng thủy ngân trong nước ngầm ở Vapi, Ấn Độ, cao gần gấp 96
lần so với tiêu chuản sức khỏe do Tổ chức Y tế Thế giới quy định.
Trong thập niên 60, ô nhiễm nước lục địa và đại dương gia tăng với
nhịp độ đáng lo ngại. Tốc độ ô nhiễm nước phản ánh một cách chân thực tốc
độ phát triển kinh tế của các quốc gia. Xã hộ càng phát triển thì càng xuất
hiện nhiều nguy cõ. Ta có thế kể ra đây vài ví dụ điển hình tiêu biểu:
Ô nhiễm nước ngọt lại càng trầm trọng.
Anh Quốc chẳng hạn: Đầu thế kỷ 19, sông Tamise rất sạch. Đến giữa
thế kỷ 20 nó trở thành ống cống lộ thiên. Các sông khác cũng có tình trạng
tương tự trước khi người ta đưa ra các biện pháp bảo vệ nghiêm ngặt
Ở Hoa Kì tình trạng thảm thương do ô nhiễm nước cũng xảy ra ở bờ
phía đông, cũng như nhiều vùng khác. Vùng Đại Hồ bị ô nhiễm nặng, trong
đó hồ Erie, Ontario, ô nhiễm đặc nghiêm trọng.
Ở ngay tại Trung Quốc, hàng năm lượng chất thải và nước thải công
nghiệp thải ra các thành phố và thị trấn của Trung Quốc tăng từ 23,9 tỷ m
3
.
Một lượng lớn nước thải chưa qua xử lý vẫn được thải vào các sông. Hậu quả
là, hầu hết nước ở các sông, hố ngày càng trở lên ô nhiễm. Dựa trên việc đánh
giá 140.000 km sông dọc đất nước Trung Quốc chất lượng nước của 41,7%
chiều dài sông xếp ở loại 4 hoặc thậm chí thấp hơn và 21,8% dưới loại 5.

Theo kozun lượng nước toàn cầu có khoảng 1,386 triệu km
3
trong đó
nước biển và đại dương chiếm 96,5%. Nước trong đất liền và trong khí quyển
chiếm 3,5%. Lượng nước ngọt còn lại mà con người có thể sử dụng được.
2.2.2. Tình hình ô nhiễm nước ở Việt Nam

Hiện nay ở Việt Nam, mặc dù các cấp, các nghành đã có nhiều cố gắng
trong việc thực hiện chính sách và pháp luật về bảo vệ môi trường, nhưng tình
trạng ô nhiễm môi trường nước đang là vấn đề rất đáng lo ngại.
Tốc độ công nghiệp hóa và đô thị hóa khá nhanh và sự gia tăng dân số
gây áp lực ngày càng nặng nề đối với tài nguyên nước trong vùng lãnh thổ. Môi
trường nước ở nhiều đô thị, khu công nghiệp và làng nghề ngày càng bị ô
nhiễm bởi nước thải, khí thải và chất thải rắn. Ở các thành phố lớn, hàng trăm
cơ sở sản xuất công nghiệp đang gây ô nhiễm môi trường nước do không có
công trình và thiết bị xử lý chất thải. Ô nhiễm nước do sản xuất công nghiệp là
rất nặng. Ví dụ: Ở nghành công nghiệp dệt may, nghành công nghiệp giấy và
bột giấy, nước thải thường có độ pH trung bình từ 9 - 11; chỉ số nhu cầu oxy
sinh hóa (BOD), nhu cầu oxy hóa học (COD) có thể lên đến 700mg/1 và
2.500mg/1; hàm lượng chất rắn lơ lửng cao gấp nhiều lần giới hạn cho phép.
Tại cụm công nghiệp Tham Lương, thành phố Hồ Chí Minh, nguồn
nước bị ô nhiễm bẩn bởi nước thải công nghiệp với tổng lượng nước thải ước
tính 500.000m
3
/ngày từ các nhà máy giấy, bột giặt, nhuộm, dệt.
Ở thành phố Thái Nguyên, nước thải công nghiệp thải ra từ các cơ sở sản
xuất giấy, luyện gang thép, luyện kim màu, khai thác than; về mùa cạn tổng
lượng nước thải khu vực thành phố Thái nguyên chiếm khoảng 15% lưu lượng
sông Cầu; nước thải từ sản xuất giấy có pH từ 8,4 - 9 và hàm lượng NH
4

4mg/l, hàm lượng chất hưu cơ cao, nước thải có màu nâu, mùi khó chịu
Khảo sát một số làng nghề sắt thép, đúc đồng, nhôm, chì, giấy, dệt
nhuộm, gốm ở Bắc Ninh cho thấy có hàm lượng nước thải hàng ngàn m
3
/ngày
không qua xử lý, gây ô nhiễm môi trường nước và môi trường khu vực.

Ở thành phố Hà Nội, tổng lượng nước thải của thành phố lên tới
300.000 - 400.000 m
3
/ngày; hiện mới chỉ có 5/31 bệnh viện có hệ thống xử lý
nước thải, chiếm 25% lượng nước thải bệnh viện; 36/400 cơ sở sản xuất có xử

lý nước thải; lượng rác thải sinh hoạt chưa được thu gom khoảng 1.200m
3
/ngày
đang xả vào khu đất ven các hồ, kênh, mương trong nội thành; chỉ số BOD,
oxy hòa tan, các chất NH
4
, NO
2
, NO
3
, ở các sông, hồ, kênh mương nội thành
đều vượt quá quy định cho phép ở thành phố Hồ Chí Minh thì lượng rác thải
lên tới gần 4.000 tấn/ngày; chỉ có 24/142 cơ sở y tế lớn là có xử lý nước thải;
khoảng 3.000 cơ sở sản xuất gây ô nhiễm môi trường thuộc phải di dời.
Về tình trạng ô nhiễm nước ở nông thôn và khu vực sản xuất nông
nghiệp, hiện nay Việt Nam có gần 76% dân số đang sinh sống ở nông thôn là
nơi cơ sở hạ tầng còn lạc hậu, phần lớn các chất thải của con người và gia súc
không được xử lý nên thấm xuống đất hoặc bị rửa trôi, làm cho tình trạng ô
nhiễm môi trường nước về mặt hữu cơ và vi sinh vật ngày càng cao. Theo báo
cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, số vi khuẩn Feca coliform
trung bình biến đổi từ 1.500 - 3.500MNP/100ml ở các vùng ven sông tiền và
sông Hậu, tăng lên tới 3800 - 12.500MNP/100ML ở các kênh tưới tiêu.
Trong sản xuất nông nghiệp, do lạm dụng các thuốc bảo vệ thực vật, các
nguồn nước ở sông, hồ, kênh, mương bị ô nhiễm, ảnh hưởng lớn đến môi

trường nước và sức khỏe nhân dân.
Theo thống kê của Bộ Thủy sản, tổng diện tích mặt nước sử dụng cho
nuôi trồng thủy sản của cả nước là tương đối cao. Do nuôi trồng thủy sản ồ ạt,
thiếu quy hoạch, không tuân theo quy trình kỹ thật nên đã gây nhiều tác động
tiêu cực tới môi trường nước. Cùng với việc sử dụng nhiều và không đúng
cách các loại hóa chất trong nuôi trồng thủy sản, thì các thức ăn dư lắng
xuống đáy ao, hồ, lòng sông làm cho môi trường nước bị ô nhiễm các chất
hưu cơ, làm phát triển một số loài sinh vật gây bệnh và xuất hiện một số tảo
độc; thậm chí đã có dấu hiệu xuất hiện thủy triều đỏ ở một số vùng ven biển ở
Việt Nam.
Nước dùng cho sinh hoạt của cư dân ngày càng tăng nhanh do dân số và
đô thị. Nước cống từ nước thải sinh hoạt cộng nước thải của các cơ sở tiểu thủ
công nghiệp trong khu dân cư là đặc trưng ô nhiễm của các đô thị ở các nước
ta đều đáng nói là các loại nước thải đều được trực tiếp thải ra môi trường
chưa qua xử lý gì cả.

Nước ngầm cũng bị ô nhiễm, do nước sinh hoạt, công nghiệp và nông
nghiệp việc khai thác tràn lan nước ngầm làm cho hiện tượng nhiễm mặn và
nhiễm phèn xảy ra ở những vùng ven biển sông Hồng, sông Cửu long, ven
biển miền Trung.
Có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan dẫn đến tình trạng ô
nhiễm môi trường nước, như sự gia tăng dân số, mặt trái của quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, cơ sở hạ tầng yếu kém, lạc hậu; nhận thức của người
dân về vấn đề môi trường còn chưa cao Đáng chú ý là bất cập trong hoạt
động quản lý, bảo vệ môi trường.
Nhận thức của nhiều cấp chính quyền, cơ quan quản lý, tổ chức và cá
nhân có trách nhiệm về nhiệm vụ bảo vệ môi trường nước chưa sâu sắc và
đầy đủ; chưa thấy rõ ô nhiễm môi trường nước là loại ô nhiễm gây nguy hiểm
trực tiếp, hàng ngày và khó khắc phục đối với đòi sống con người cũng như
sự phát triển bền vững của đất nước.

Các quy định về quản lý và bảo vệ môi trường nước còn thiếu (chẳng
hạn như chưa có các quy định và quy trình kỹ thuật phục vụ cho công tác
quản lý và bảo vệ nguồn nước). Cơ chế phân công và phối hợp giữa các cơ
quan, các ngành và địa phương chưa đồng bộ, còn chồng chéo, chưa quy định
trách nhiệm rõ ràng. Chưa có chiến lược, quy hoạch khai thác, sử dụng và bảo
vệ tài nguyên nước theo lưu vực và các vùng lãnh thổ lớn. Chưa có các quy
định hợp lý trong việc đóng góp tài chính để quản lý vào bảo vệ môi trường
nước, gây lên tình trạng thiếu hụt tài chính, thu không đủ chi cho bảo vệ môi
trường nước.
Ngân sách đầu tư cho bảo vệ môi trường nước còn rất thấp (một số nước
ASEAN đã đầu tư ngân sách cho bảo vệ môi trường là 1% GDP, còn ở Việt
Nam mới chỉ có đạt 0,1%). Các chương trình giáo dục cộng đồng về môi
trường nói chung và môi trường nước nói riêng còn quá ít. Đội ngũ cán bộ
quản lý môi trường nước còn thiếu về số lượng, yếu về chất lượng (Hiện nay ở
Việt Nam trung bình có khoảng 3 cán bộ quản lý môi trường/1 triệu dân, trong
khi đó ở một số nước ASEAN trung bình là 70 người/1 triệu dân) [15].

2.3. Hiện trạng ô nhiễm làng nghề ở Việt Nam
Vấn đề môi trường mà các làng nghề đang phải đối mặt không chỉ giới
hạn ở trong phạm vi các làng nghề mà còn ảnh hưởng đến người dân ở vùng
lân cận. Theo báo cáo môi trường quốc gia năm 2008 với chủ đề “Môi trường
làng nghề Việt Nam”, hiện nay hầu hết các làng nghề ở Việt Nam đều bị ô
nhiễm môi trường (trừ các làng nghề không sản xuất hoặc dùng các nguyên
liệu không gây ô nhiễm như thêu, may ). Chất lượng hầu hết các làng nghề
đều không đạt tiêu chuẩn khiến người lao động phải tiếp xúc với các nguy cơ
gây hại cho sức khỏe, trong đó 95% từ bụi, 85,9% từ hóa chất. Kết quả khảo
sát 52 làng nghề cho thấy: 46% làng nghề có môi trường bị ô nhiễm nặng ở cả
3 dạng, 27% ô nhiễm vừa, 27% ô nhiễm nhẹ.
Tình trạng ô nhiễm môi trường ở các làng nghề xẩy ra ở mấy loại phổ
biến sau:

Ô nhiễm nước: Ở Việt Nam, các làng nghề chưa có hệ thống xử lý nước
thải công nghiệp, nước thải được đổ trực tiếp ra hệ thống kênh rạch chung
hoặc ra sông.
Nguyên nhân gây ra ô nhiễm nước chủ yếu là quá trình xử lý công
nghiệp như: Chế biến lương thực thực phẩm, mây tre, dệt, in, nung nấu kim
loại, tẩy gấy và nhuộm Thường thì nước thải ra bị ô nhiễm màu nặng và gây
ra hiện tượng đổi màu đối với dòng sông nhận nước thải, có mùi rất khó chịu.
Hơn nữa là sự vượt quá TCCP đối với các hàm lượng BOD, COD, SS, và
coliform, các kim loại nặng Ở các nước mặt, nước ngầm, làm chết các sinh
vật thủy sinh và chứa các mầm bệnh gây hại cho con người.
Ô nhiễm không khí gây bụi, ồn và nóng do sử dụng than và củi chủ yếu
trong sản xuất vật liệu xây dựng và sản xuất gốm sứ.
Ô nhiễm chất thải rắn do tái chế nguyên liệu (giấy, nhựa, kim loại, )
hoặc do bã thải của các loại thực phẩm (sắn, dong) các loại rác thải thông
thường: Nhựa, túi ni lông, giấy, hộp, vỏ lon, kim loại và các loại rác thải khác
thường được đổ ra bất kỳ dòng nước hoặc hu đất trống nào. Làm cho nước
ngầm và đất bị ô nhiễm các chất hóa học độc hại, ảnh hưởng tới sức khỏe của
con người.

Hà Nội là một trong những thành phố có nhiều làng nghề nhất cả nước.
Sau khi mở rộng Hà Nội có tổng cộng 1275 làng nghề, trong đó có 226 làng
nghề được UBND thành phố công nhận theo các tiêu chí làng nghề, với nhiều
loại hình sản xuất khác nhau: Từ chế biến lương thực - thực phẩm, chăn nuôi -
giết mổ, dệt nhuộm - ươm tơ - thuộc da đến sản xuất vật liệu xây dựng, khai
thác đá, tái chế phế liệu, thủ công mỹ nghệ. Trong số này, làng nghề thủ công
mỹ nghệ chiếm 53% với 135 làng nghề, tiếp đó là làng nghề dệt nhuộm đồ da
chiếm 23% với 59 làng nghề, làng nghề chế biến lương thực, thực phẩm
chiếm 16,9% với 43 làng nghề. Hiện nay phần lớn lượng nước thải từ các làng
nghề này được xả thẳng ra sông Nhuệ, sông Đáy mà chưa qua xử lý khiến các
con sông này đang bị ô nhiễm nghiêm trọng. Chưa kể đến một lượng rác thải,

bã thải lớn từ các làng nghề không thể thu gom và xử lý kịp thời, nhiều làng
nghề rác thải đổ bừa bãi ra ven đường đi và các bãi khu đất [16].
Ở Bắc Ninh điển hình như làng nghề Phong Khê, Phú Nông có khoảng
50 xí nghiệp, với 70 phân xưởng, sản xuất được khối lượng hàng hóa từ
18000 đến 20000 tấn trên năm, nhưng đồng thời thỉa vào môi trường 1200 -
1500m
3
nước thải/ngày với hàm lượng Coliform lớn hơn TCCP hơn 100 lần
(nước thải có chứa chủ yếu là xút, thuốc tẩy, phèn kép, nhựa thông, phẩm
màu) [9].
Tình trạng ô nhiễm môi trường như trên đã ảnh hưởng ngày càng
nghiêm trọng đến sức khỏe của cộng động nhất là những người tham gia sản
xuất, sinh sống tại làng nghề và các vùng lân cận. Báo cáo môi trường Quốc
gia 2013 cho thấy, tại nhiều làng nghề tỷ lệ người mắc bệnh (đặc biệt là nhóm
người trong độ tuổi lao động) đang có xu hướng gia tăng. Tuổi thọ trung bình
của người dân tại các làng nghề ngày càng giảm thấp hơn 10 năm so với làng
không làm nghề. Ở các làng tái chế kim loại, tỷ lệ người mắc bệnh ung thư,
thần kinh rất phổ biến, nguyên nhân gây bệnh chủ yếu là do sự phát thải khí
độc, nhiệt cao và bụi kim loại từ các cơ sở sản xuất.
Một trong những nguyên nhân của tình trạng ô nhiễm kể trên là do các
cơ sở sản xuất kinh doanh ở các làng nghề còn manh mún, nhỏ lẻ, phân tán,
phát triển tự phát, không đủ vốn và không có công nghệ xử lý chất thải. Bên

cạnh đó ý thức của chính người dân làm nghề cũng chưa tự giác trong việc
thu gom, xử lý chất thải.
Nếu không có các giải pháp ngăn chặn kịp thời thì tổn thất đối với toàn
xã hội ngày càng lớn, vượt xa giá trị kinh tế mà các làng nghề mang lại như
hiện nay.
Ở Nam Định làng nghề Yên Tiến (Ý Yên) làm nghề thủ công mỹ nghệ
tre nứa, theo số liệu khảo sát của TTQT và PTNMT tỉnh Nam Định năm 2012

tình trạng ô nhiễm môi trường ở đây đã đến mức báo động, hàm lượng COD
trong nước vượt TCVN cho phép từ 1,1 - 2,3 lần, thông số BOD
5
vượt từ 1,24
đến 1,68 lần, chất rắn lơ lửng vượt 1,07 lần, NH
3
vượt từ 1,5 - 6,2 lần,
Coliform vượt từ 1,96-3,3 lần bên cạnh đó các chỉ số về bụi, tiếng ồn ở Yên
Tiến cũng đều vượt quá mức cho phép (, 2010) [17].
2.4. Vài nét về làng nghề và môi trường làng nghề gốm sứ
2.4.1. Lịch sử phát triển của các làng nghề Việt Nam
Sự thành lập và phát triển của làng nghề tại Việt Nam phụ thuộc vào
từng thời kì phát triển kinh tế. Trong lịch sử phát triển của xã hội Việt Nam
sản xuất giấy tại Yên Thái, làng lụa Vạn Phúc, sản xuất gốm sứ Bát Tràng,
Phù Lãng và làng tranh đông hồ đóng vai trò quan trọng trong nền văn minh
của con người Việt Nam.
* Quá trình phát triển làng nghề gồm các giai đoạn sau:
Thời Phùng Nguyên: Khoảng thiên niên kỷ thứ III trước Công nguyên,
người Việt cổ đã phát minh và sáng chế ra hầu hết các kỹ thuật chế tác đá,
gốm mà đến nay vẫn được sử dụng rộng rãi như: Khoan, mài đá,…
Thời Đông Sơn: Từ gần 3000 năm đến 258 trước Công nguyên, người
Việt Đông Sơn đã phát minh ra công thức đồng thau, đồng thanh, và một số
sản phẩm độc đáo của nghề đúc đồng đương thời.
Thời kì Bắc thuộc: Tuy bị cấm đoán, một số yếu tố kỹ thuật vẫn tiếp tục
vươn lên và kinh nghiệm sản xuất của người Hán vẫn được du nhập vào Việt
Nam như nghề làm gốm, rèn sắt, Khi Ngô Quyền chiến thắng quân Nam
Hán, nghề của Việt Nam mới dần dần được khôi phục và phát triển.

Thời kỳ độc lập tự chủ (thế kỷ XI - XIV) dưới triều đại nhà Lý và nhà
Trần, nghề thủ công truyền thống có điều kiện phát triển cả về chất lượng và

chủng loại như nghề gốm, chạm khắc gỗ và đá, giấy dó, làng kim hoàn…
Thời Hậu Lê và thời Mạc (thế kỷ XV - XVIII) làng nghề thủ công tiếp
tục ra đời và sản xuất ổn định.
Thời cận đại (từ 1858 trở về trước), thủ công nghiệp và làng nghề
truyền thống ở nông thôn tiếp tục phát triển. Nghề thủ công có vai trò hết sức
quan trọng, thường được gắn với tên làng tên xã của nông thôn Việt Nam như
gốm Thổ Hà, gạch Bát Tràng, tranh dân gian Đông Hồ,… Sự phát triển của
làng nghề truyền thống thời kì này khá phong phú và đa dạng, thể hiện sự
phân công lao động và chuyên môn hóa theo nghề ngày càng cao.
Thời Pháp thuộc (1945 - 1958) chính quyền Pháp ở Đông Dương đóng
vai trò chủ đạo trong việc sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam.
Chúng cũng đã tiến hành điều tra, khảo sát, đầu tư phát triển các nghành thủ
công của Việt Nam.
Thời kỳ hòa lập lại ở miền Bắc: Đi đôi với chủ trương đẩy mạnh phát
triển sản xuất nông nghiệp, phục hồi và xây dựng công nghiệp, Đảng và nhà
nước ta đã đánh giá đúng vai trò của làng nghề truyền thống trong tiến trình
phát triển của đất nước. Vì vậy đến những năm 1960 các làng nghề ở nông
thôn thực sự được phục hưng, thực sự góp phần vào công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc. Hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam có từng bước
phát triển mới.
Trong giai đoạn đổi mới chuyển từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế
thị trường, đây là giai đoạn phát triển quan trọng nhất của làng nghề. Giai
đoạn này được đánh dấu bằng bước ngoặt chuyển đổi từ cơ chế quản lý bao
cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước. Các chính sách
kinh tế, đặc biệt là chính sách đổi mới quản lý trong nông nghiệp và chính
sách phát triển các thành phần kinh tế đã có tác động trực tiếp và mạnh mẽ
đến sự phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn nói chung và làng nghề nói
riêng. Trong giai đoạn này nhiều làng nghề truyền thống được khôi phục và
phát triển, trong mỗi làng nghề quy mô sản xuất được mở rộng, đầu tư về vốn,
kỹ thuật được tăng cường [16].

×