Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Một số đặc điểm tư duy tiểu thuyết của Bảo Ninh qua tác phẩm Nỗi buồn chiến tranh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (646.33 KB, 100 trang )




1
Mở đầu

1. Lý do chọn đề tài
1.1. Chiến tranh, cho đến nay, vẫn là một đề tài lớn, mang tầm vóc nhân
loại. Trong nền văn học thế giới cũng nh văn học Việt Nam xuất hiện nhiều
tác phẩm đồ sộ viết về đề tài chiến tranh nh Iliade, Odissée của Homere; bộ
tiểu thuyết đồ sộ Chiến tranh và hoà bình của Tolstoi; Và gần hơn, trong
Chuông nguyện hồn ai của Hemingway, Cái trống thiếc của Gunter Grass
(tác phẩm văn học Đức đạt giải Nobel năm 1999) và một số tác phẩm khác,
ở Việt Nam, vẫn là đề tài có tính thời sự vì nó gắn liền với số phận đau thơng
của dân tộc, Chiến tranh là nỗi ám ảnh, một vết thơng rỉ máu, khó lành,
Đặc biệt, đề tài hậu chiến đã có sức hút, sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với những
nhà văn mặc áo lính. Cùng với những tên tuổi khác nh Chu Lai, Dơng
Hớng, Tạ Duy Anh, Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Bình Phơng, Bảo Ninh đã
góp phần không nhỏ tạo nên diện mạo của tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi
mới. Trong rất nhiều tên tuổi ấy, Bảo Ninh đợc đánh giá là "cây bút quan
trọng góp phần làm nên cuộc cách mạng nghệ thuật tiểu thuyết Việt Nam" [5,
tr. 238]. Ông đợc xem là một tài năng lớn của nền Văn học Việt Nam hiện
đại. Nhà văn cho ra đời hàng loạt các tác phẩm nổi tiếng nh Thời của xe
máy; Bi kịch con khỉ hay trớc nữa; Không đâu vào đâu; hay đó là tập
truyện Chuyện xa kết đi, đợc cha? Nổi bật hơn cả là sự ra đời của tiểu
thuyết Nỗi buồn chiến tranh (ban đầu có tên gọi là Thân phận tình yêu).
Tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh là một tác phẩm có số phận
đặc biệt. Xuất bản lần đầu tiên năm 1990 với tiêu đề do các biên tập viên Nhà
xuất bản Hội nhà văn lựa chọn trao giải- Thân phận tình yêu. Một năm sau
đó, cuốn sách đã đợc tái bản lại với tiêu đề của chính tác giả-Nỗi buồn chiến
tranh và đợc trao giải thởng của Hội nhà văn. Nhng sau đó 10 năm, tác





2
phẩm đã bị cấm, không đợc in lại, có lẽ do quá nhạy cảm. Mặc dù vậy, với
làn sóng đổi mới ở Việt Nam cuốn sách vẫn rất đợc yêu thích. Đến năm
2006, tác phẩm đã đợc xuất bản lại với tiêu đề Nỗi buồn chiến tranh và đã
trở thành "hiện tợng" văn học.
1.2. Nỗi buồn chiến tranh có số phận "chìm nổi" nhng đến nay đã
khẳng định đợc vị trí trên văn đàn. Tác phẩm ra đời đã gây một cú sốc lớn,
làm thay đổi lối tiếp nhận của công chúng yêu văn học bấy lâu. Tác phẩm thể
hiện những đổi mới cả về nội dung cũng nh t tởng nghệ thuật. Tác phẩm
đánh dấu đỉnh cao sự nghiệp của nhà văn Bảo Ninh và vợt lên trên tất cả
những tác phẩm viết về đề tài chiến tranh giai đoạn sau năm 1975. Tác phẩm
đặt ra nhiều vấn đề về đời sống xã hội và con ngời thời hậu chiến. Nhà văn
nhìn cuộc chiến từ mặt sau của tấm huân chơng, nhìn sâu vào những đau
thơng, mất mát của hiện thực lịch sử. Có thể nói, Nỗi buồn chiến tranh là
nỗi đau, nỗi mất mát, nỗi ám ảnh kinh hoàng của ngời lính về sự tàn khốc
của chiến tranh. Lớn hơn nỗi đau thể xác, đó là nỗi đau tinh thần, điều chúng
ta gọi là "Hội chứng chiến tranh". Tác phẩm hiện diện nh một bể chứa ngầm
trong lòng đất khiến cho độc giả muốn khám phá, đào sâu và tìm tòi những
điều mới mẻ, đặc sắc mà tác phẩm đem lại. Chính vì thế, tác phẩm đã dịch ra
nhiều thứ tiếng với nhan đề The Sorrow of War và đợc công bố trên toàn thế
giới.
1.3. ở nớc ngoài, có nhiều công trình nghiên cứu về tác giả cũng nh
tác phẩm Nỗi buồn chiến tranh, nhiều nhà nghiên cứu đã đa ra những nhận
xét sâu sắc về tác phẩm. Một nhà phê bình Mỹ viết trên tờ Philadelphia
Inquirer rằng cuốn tiểu thuyết "đã làm cho những ngời lính Bắc Việt thành ra
con ngời" vì nó "rốt cục đã đặt một bộ mặt ngời khả dĩ chấp nhận đợc lên
một nhóm ngời lâu nay không có mặt"[38]. Một nhà phê bình khác táo bạo

hơn lại cho rằng Nỗi buồn chiến tranh "vợt lên trên tất cả những tác phẩm
văn xuôi của Mĩ đã viết về cuộc chiến Việt Nam"[38].



3
Tờ Independent, một trong những nhật báo có uy tín của nớc Anh đã
nhận xét về cuốn tiểu thuyết của Bảo Ninh: "Vợt ra ngoài sức tởng tợng
của ngời Mĩ, Nỗi buồn chiến tranh đi ra từ chiến tranh Việt Nam đã đứng
ngang hàng với cuốn tiểu thuyết chiến tranh vĩ đại của thế kỉ, Mặt trận phía
Tây vẫn yên tĩnh của Êrích Maria Rơmáccơ [ ] Một cuốn sách viết về sự
mất mát của tuổi trẻ, cái đẹp, một câu chuyện tình đau đớn một thành quả
lao động tuyệt đẹp"[38].
Nhận xét của Dennis Mansker, thành viên của Hội cựu chiến binh Việt
Nam chống chiến tranh: "Đây là một bức tranh trung thực và tàn nhẫn đến
kinh ngạc về bi kịch của một ngời lính Bắc Việt bị tê liệt hết nhân tính của
mình sau mời năm tham chiến. Đã đến lúc thế giới phải thức tỉnh trớc nỗi
đau mang tính phổ quát của những ngời lính ở mọi bên xung đột"[38].
Hay đó là nhận xét của nhà báo Anh The Guardian: "Một cuốn tiểu
thuyết không thể đặt xuống. Bất kỳ nhà chính trị nào hoặc nhà hoạch định
cuộc sống nào của Mĩ cũng cần nên đọc cuốn sách này. Nó lẽ ra phải đợc
giải Pulitzer, nhng đã không đợc. Nó quá hấp dẫn để xứng đáng đợc thế
"[38].
Đặc biệt hơn nữa, đó là ý kiến của Leif A. Torkelsen (Columbus, OH
United States) khi ông cho đây là cuốn tiểu thuyết chiến tranh hay nhất thế kỷ
XX. Torkelsen viết: "Đây là một tác phẩm ngoại hạng so với tất cả các tác
phẩm khác cùng lĩnh vực. Liên quan đến văn học chiến tranh thì chỉ có Phía
tây không có gì là lạ may ra có thể so sánh đợc. Bảo Ninh đã viết nên bản
tụng ca đẹp đẽ đầy ám ảnh về sự trong trắng bị mất đi trong dòng xoáy chiến
tranh. Tuổi trẻ, tình yêu và nghệ thuật đều đợc mô tả kỹ lỡng dới ánh sáng

gắt của ẩn dụ tối hậu đối với cuộc sống là chiến tranh. Hỗ trợ cho cách trình
bày chủ đề không có gì so sánh nổi của cuốn sách là thứ văn xuôi tuyệt vời
của tác giả. Cuốn sách đợc viết bằng một văn phong nên thơ nhng súc tích,



4
nó là một mô hình tiết kiệm. Mỗi dòng của cuốn tiểu thuyết tơng đối ngắn
này chất chứa vẻ đẹp thẩm mĩ và chiều sâu tinh thần. Cuốn sách tràn đầy
những suy t thấu suốt về Việt Nam cũng nh tâm hồn con ngời. Đây là một
trải nghiệm đọc không thể bỏ qua"[38]. Còn rất nhiều ý kiến khác nữa của
những nhà nghiên cứu, phê bình cũng nh độc giả nớc ngoài: Tim O'Brien,
Susan, Nhìn chung, tất cả những ý kiến đều đánh giá cao tiểu thuyết Nỗi
buồn chiến tranh của Bảo Ninh.
ở trong nớc, ngay từ khi đợc nhận giải thởng của Hội nhà văn vào
năm 1991, với nhan đề là Thân phận tình yêu đã có rất nhiều công trình
nghiên cứu và ý kiến đánh giá khác nhau về tác phẩm, tạo nên những "cơn
sốt" trên văn đàn. Tác phẩm đợc coi là cuốn tiểu thuyết "khác thờng" của
văn chơng Việt Nam lúc bấy giờ. Vào thời điểm đó, tuần báo Văn nghệ tổ
chức một cuộc thảo luận về tiểu thuyết Thân phận tình yêu đa ra rất nhiều ý
kiến khác nhau của các nhà nghiên cứu văn học có uy tín nh: Trần Đình Sử,
Nguyễn Phan Hách, Cao Tiến Lê, Vũ Quần Phơng, Nguyên Ngọc, Sau đó,
các ý kiến này đợc đăng tải trên báo Văn nghệ số 37 năm 1991. Sự đánh giá
về tác phẩm lại xoay quanh hai trạng thái đối lập nhau: Ngời khen hết mức,
ngời chê hết lời. Giáo s Trần Đình Sử cho rằng: "Tác giả đã trừu tợng bớt
đi cái phần mục đích, chiến công, nhân tố thắng lợi để chỉ kể lại cuộc chiến
tranh với tất cả tính chất chiến tranh của nó Có thể nói tác giả đã lộn
trái cuộc chiến tranh ra để ta nhìn vào cái phía trong bị che khuất lấp một
chỗ trống cha đợc lấp" [56]. Còn Ngô Văn Phú thì khẳng định: "Cuốn tiểu
thuyết đợc giải thởng là cái đợc lớn của văn chơng. Đây đích thực là văn

chơng" [56]. Nhà văn Nguyên Ngọc thì nhận xét: "Đây là một cuốn sách
nghiền ngẫm về hiện thực tác giả với t cách là ngời trong cuộc, không
đứng ngoài, đứng trên, nhìn ngắm, mà đứng trong, thậm chí ở tận đáy cuộc
chiến tranh" [56]. Nguyễn Phan Hách thì lại không tiếc lời khen ngợi: "Nỗi



5
buồn chiến tranh là một tác phẩm văn chơng đích thực, văn đẹp lắm, cực
đẹp lắm, chi tiết tuyệt vời gây ấn tợng không thể nào quên. Những chi tiết gợi
bóng dáng một tác phẩm lớn" [56].
Tác giả Lê Quang Trang lại khẳng định: "Tác giả cố gắng là ngời
không chịu đi trên lối mòn. Có sử dụng kết hợp giữa tính huyền thoại và chân
thực. Thi pháp đồng hiện sử dụng có hiệu quả nối liền hiện thực và quá khứ;
kí ức xa và gần; ý thức và vô thức. Tất cả thông qua dòng ý thức của Kiên làm
nên số phận các nhân vật" [56].
Bên cạnh những ý kiến đánh giá cao thành tựu của tác phẩm, trong
phạm vi cuộc tranh luận này cũng còn rất nhiều ý kiến cha tán đồng hoặc
phủ nhận giá trị của tác phẩm. Từ Sơn cho rằng: "Âm hởng của tác phẩm còn
đậm chất bi, âm hởng hùng còn bị chìm lấp đâu đó, cha tạo nên đầy đủ nét
bi hùng của một thời đại đã qua"[56]. Còn Vũ Quần Phơng lại viết: "Anh
đánh mất hào khí rất đẹp của những năm tháng ấy" và "có cảm giác tác giả
có điều gì đó không hài lòng nên có cái nhìn thiên kiến, có chỗ cực đoan. Đọc
những chi tiết khủng khiếp, đay nghiến, ta thấy tác giả ác"[56]. Nhà văn Hồ
Phơng vừa khẳng định "đây là một cuốn sách viết về chiến tranh", nhng
cũng lại cho rằng: "càng đọc về cuối càng có cảm giác cộm lên: tác giả đã
dần đánh mất khá nhiều sự chân thật, trong suốt, hết sức tự nhiên của mình.
Bàn tay tác giả mỗi lúc một lộ ra trong mọi việc, mọi ngời. Sự cờng điệu
cũng lộ ra càng đậm nét", còn cái nhìn của nhà văn về chiến tranh "Sao khá
tối tăm thê thảm. Dờng nh chỉ thấy có chết chóc và khổ cực. Dờng nh chỉ

thấy có mất mát và tan hoang, ghê rợn Cũng chính vì thế, ở đây lí tởng
của cuộc chiến, cuộc sống đã không đợc chú ý tới một cách đúng mức"[56].
Còn nhiều ý kiến phủ nhận giá trị của tác phẩm liên tục đợc đăng tải trên báo
Văn nghệ số 43, 44, 47 năm 1991. Với Nguyễn Khắc Phê có bài "Đôi điều
quanh ba cuốn tiểu thuyết vừa đợc giải thởng". Đặc biệt, với bài "Nghĩ gì



6
khi đọc Thân phận tình yêu của Bảo Ninh" của Tiến sĩ Mĩ học Đỗ Văn
Khang trên Báo Văn Nghệ, số 43, ngày 26 tháng 10 năm 1991, ông đã phủ
nhận không thơng tiếc giá trị của tác phẩm. Ông coi cuốn tiểu thuyết của Bảo
Ninh là "điên loạn, rối bời, lố bịch hoá hiện thực, bôi nhọ quân đội, xem
tác phẩm là một "tiểu thuyết đen về chiến tranh bấn loạn đầy những hình ảnh
kinh hoàng về chiến tranh giải phóng dân tộc và những mảnh đời chiến bại
của những cựu chiến binh trong những năm tháng hậu chiến"[56]. Và một làn
sóng phủ nhận giá trị đích thực của tác phẩm đã nổi lên. Tác phẩm rơi vào sự
im lặng và lãng quên. Cuốn sách hầu nh vắng bóng trong các công trình, các
tác phẩm phê bình và các chuyên luận về văn học Việt Nam thời kì đổi mới.
Nhng ngay sau đó, với làn sóng đổi mới ở Việt Nam, tác phẩm đã nhanh
chóng quay lại với bạn đọc, khẳng định đợc giá trị đích thực của mình. Cuốn
tiểu thuyết đã nhận đợc rất nhiều ý kiến đánh giá cao cả về nội dung và hình
thức nghệ thuật từ phía những nhà nghiên cứu, phê bình và độc giả.
GS. Đỗ Đức Hiểu với bài viết "Thân phận tình yêu của Bảo Ninh" đã
đánh giá cao cuốn tiểu thuyết về ngôn từ nghệ thuật cũng nh vai trò của nhân
vật: "Tiểu thuyết của Bảo Ninh là một giấc mơ dài, một huyền thoại của thời
đại, Thân phận tình yêu hay Nỗi buồn chiến tranh là một hiện tợng ngôn
từ lạ lùng mang tính đa thanh, tính đối thoại, là một cuộc phiêu lu muốn
nhập vào văn học hiện đại thế giới" [24, tr.267- 271].
Với bài: "Kĩ thuật dòng ý thức qua Nỗi buồn chiến tranh của Bảo

Ninh", PGS. TS Nguyễn Đăng Điệp khẳng định: "Bảo Ninh không chỉ chú ý
đến chuyện mà ông rất quan tâm đến kĩ thuật dựng truyện ở Việt Nam cũng
từng có một số nhà văn miêu tả dòng ý thức của các nhân vật một cách khá
tinh tế nh Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Nhng với những cây bút
này, kĩ thuật dòng ý thức chỉ tồn tại nh một thủ pháp nghệ thuật có tính cục
bộ. Phải đến Nỗi buồn chiến tranh thì kĩ thuật dòng ý thức đợc vận dụng



7
triệt để trở thành nguyên tắc nghệ thuật chi phối cách tổ chức kết cấu của tác
phẩm" [48, tr.401].
Đặc biệt phải kể đến nhận xét của Nguyễn Quang Thiều về tác phẩm:
Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh chinh phục đợc bạn đọc nhiều nớc
trên thế giới trớc hết vì Nỗi buồn chiến tranh đã chạm vào mẫu số chung
của nhân loại- đó là câu chuyện của thân phận, của mất mát, của tình yêu và
chiến tranh, chỉ có những tác phẩm nh vậy mới thực sự đợc đón nhận và
chia sẻ(TT và VH số ra ngày 28-10-2006). Về mặt nghệ thuật, Nguyên Ngọc
nhận xét: "đó là thành tựu cao nhất của văn học đổi mới" [5, tr.177]. Hay đó
là bài viết của T.S Nguyễn Thị Mai Liên về Hình tợng con ngời- nạn nhân
chiến tranh trong hai tiểu thuyết: Một nỗi đau riêng và Nỗi buồn chiến
tranh", trong cuốn Văn học Việt Nam sau năm 1975- Những vấn đề nghiên
cứu và giảng dạy. Trong bài viết này, cùng với nhân vật Điểu trong tác phẩm
Một nỗi đau riêng của Y.Kaoabata thì Kiên trong Nỗi buồn chiến tranh dị
dạng nhân tình, tha hóa nhân tính và nhân tình, đặc biệt đó còn là những khắc
khoải về một xứ sở bình yên nhng không trốn chạy thực tại.
Bên cạnh đó, ý kiến của Th.S Phạm Xuân Thạch trong bài viết Nỗi
buồn chiến tranh- viết về chiến tranh thời hậu chiến- Từ chủ nghĩa anh hùng
đến nhu cầu đổi mới bút pháp, nhấn mạnh: "Riêng Bảo Ninh, anh đã đẩy
khuynh hớng nghệ thuật của nhân vật đi trớc đến một chiều kích mới. Anh

quyết liệt từ bỏ hình thức tiểu thuyết hiện thực truyền thống (theo kiểu tiểu
thuyết- kí sự nh Đất Trắng) để theo đuổi tiểu thuyết tâm lí. Anh đa vào
những chiều kích hiện thực cha từng có trong tiểu thuyết của những nhà văn
thế hệ trớc: yếu tố tình dục, những "hình ảnh đen" về chiến tranh, Nhng
đồng thời, anh sáng tạo nên một sắc thái anh hùng mới của văn học viết về
chiến tranh"[5, tr.250].



8
Còn Thuỵ Khuê trên "Sóng từ trờng- Nỗi buồn chiến tranh" (www.
Google.com 2007) dứt khoát bênh vực Bảo Ninh: "chiến tranh với sức công
phá mãnh liệt và huỷ diệt tất cả, nhng chiến tranh không tiêu diệt đợc tình
yêu, thái độ lạc quan đến tuyệt diệu ấy của tác phẩm, mấy ai đạt đợc" [30].
Và còn rất nhiều công trình nghiên cứu khác đánh giá cao tác giả cũng nh tác
phẩm Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh nh ý kiến của Trần Huyền Sâm,
Đào Duy Hiệp, Nguyễn Thanh Sơn, Hoàng Ngọc Hiến,
Nhìn lại chặng đờng hai muơi năm qua, chúng ta thấy có rất nhiều ý
kiến bàn luận về tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh. Cho dù có nhiều ý kiến
khác nhau nhng chúng ta không thể phủ nhận vị trí quan trọng của tác phẩm
trong nền văn học Việt Nam hiện đại nói chung cũng nh trong hệ thống
những tác phẩm viết về chiến tranh sau năm 1975 nói riêng. Những bài viết,
bài báo, những ý kiến đánh giá, nhận xét tuy nhiều nhng cho đến nay vẫn
cha có nhà nghiên cứu nào nghiên cứu một cách đầy đủ nhất và đánh giá
đúng nhất về những cách tân đổi mới t duy tiểu thuyết của Bảo Ninh cũng
nh xác định lại có hay không yếu tố tự truyện trong tác phẩm này.
Vì vậy, việc nghiên cứu Một số đặc điểm t duy tiểu thuyết của Bảo
Ninh qua tác phẩm Nỗi buồn chiến tranh giúp chúng ta học tập, nghiên cứu,
giảng dạy các tác phẩm trong nhà trờng một cách sâu sắc, toàn diện hơn.
Hơn nữa, giúp ngời đọc nhìn nhận tác phẩm không phải là một cuốn tự

truyện thông thờng của nhà văn nh nhiều ngời lầm tởng mà đó là sự sáng
tạo nghệ thuật với kĩ thuật độc đáo của tác giả.
2. Mục đích nghiên cứu:
2.1. Nghiên cứu một số đặc điểm t duy tiểu thuyết của Bảo Ninh.
2.2. Khẳng định tác phẩm Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh không
phải là một cuốn tự truyện mà là một sáng tạo nghệ thuật của tác giả.





9
3. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Trong công trình này, chúng tôi cố gắng vận dụng lý thuyết về tự sự và
đặc biệt là thể loại tiểu thuyết trên cơ sở các tài liệu đã xuất bản để chỉ rõ
những cách tân đổi mới cũng nh khẳng định tác phẩm Nỗi buồn chiến tranh
của Bảo Ninh không phải là một cuốn tự truyện mà là một sáng tạo nghệ thuật
của tác giả.
Trên cơ sở đó, Luận văn của chúng tôi tiến hành phân tích, khái quát,
đánh giá cả những thành công và hạn chế trong tác phẩm của Bảo Ninh. Qua
đó thấy rõ hơn những đóng góp của ông đối với nền Văn học Việt Nam hiện
đại viết về đề tài chiến tranh giai đoạn sau năm 1975.
4. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu:
4.1. Đối tợng nghiên cứu:
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu chủ yếu tác phẩm Nỗi buồn chiến
tranh của Bảo Ninh (In lần đầu tiên năm 1987 lấy tên là Thân phận tình yêu,
năm 1991 đổi tên là Nỗi buồn chiến tranh, và đến năm 2006 đợc tái bản với
nhan đề trở thành nổi tiếng Nỗi buồn chiến tranh).
Trong quá trình nghiên cứu, khi cần thiết chúng tôi có liên hệ với các
sáng tác khác của nhà văn Bảo Ninh và một số tác phẩm của các nhà văn khác

cùng thời để làm rõ mục tiêu nghiên cứu.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
4.2.1. Nghiên cứu một số đặc điểm t duy tiểu thuyết của Bảo Ninh.
4.2.2. Khẳng định tác phẩm Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh không
phải là một cuốn tự truyện mà là một sáng tạo nghệ thuật của tác giả.
5. Phơng pháp nghiên cứu:
Để thực hiện công trình này, chúng tôi chủ trơng sử dụng kết hợp các
phơng pháp nghiên cứu sau:
5.1. Phơng pháp phân tích đối tợng theo quan điểm hệ thống



10

Phơng pháp này giúp ngời nghiên cứu có thể chia đối tợng ra làm
nhiều yếu tố để xem xét. Những yếu tố đó có cùng một trình độ, có chức năng
và nhiệm vụ khác nhau, đặc biệt giữa chúng luôn có mối liên hệ chặt chẽ và
ảnh hởng lẫn nhau tạo nên tính chỉnh thể của hệ thống.
5.2. Phơng pháp so sánh, đối chiếu
Sử dụng phơng pháp này, ngời viết đặt tiểu thuyết viết về chiến tranh
giai đoạn sau, tiêu biểu là tác phẩm Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh trong
sự so sánh với tiểu thuyết viết về chiến tranh giai đoạn trớc, từ đó nhận ra
những cách tân của nhà văn qua một số đặc điểm t duy tiểu thuyết.
5.3. Phơng pháp tổng hợp
Sử dụng phơng pháp này, ngời viết luận văn có cái nhìn toàn diện về
đề tài và thể loại văn học mà luận văn quan tâm nghiên cứu. Qua đó, chúng ta
thấy đợc nét mới mẻ, độc đáo của tác giả Bảo Ninh.
5.4. Phơng pháp nghiên cứu thi pháp học
Vận dụng lý thuyết thi pháp học nghệ thuật để làm nổi bật yếu tố không
gian, thời gian trong tác phẩm Nỗi buồn chiến tranh và xác định lại có hay

không yếu tố tự truyện trong cuốn tiểu thuyết.
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi cũng kết hợp liên hệ với nhà văn
để có thêm nguồn t liệu, làm sáng tỏ một số đặc điểm t duy tiểu thuyết của
Bảo Ninh qua tác phẩm Nỗi buồn chiến tranh và khẳng định lại một lần nữa
tác phẩm không phải là một cuốn tự truyện nh nhiều ngời lầm tởng mà là
một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của tác giả.
6. Đóng góp của đề tài:
6.1. Luận văn nghiên cứu về Một số đặc điểm t duy tiểu thuyết của một
tác giả lớn trong nền Văn học Việt Nam hiện đại viết về đề tài chiến tranh giai
đoạn sau năm 1975. Luận văn chỉ ra một số đặc điểm t duy tiểu thuyết của
Bảo Ninh qua tác phẩm Nỗi buồn chiến tranh nhằm xem xét lại các quan
điểm trớc đó cho rằng tác phẩm là một cuốn tự truyện của nhà văn và khẳng



11

định Nỗi buồn chiến tranh không phải là một cuốn tự truyện. Từ đó chỉ ra
những đóng góp mới mẻ của Bảo Ninh trong đề tài hậu chiến.
6.2. Nghiên cứu Một số đặc điểm t duy tiểu thuyết của Bảo Ninh,
chúng tôi sẽ góp thêm một cách nhìn mới về chân dung những ngời lính thời
hậu chiến và qua đó thấy đợc tài năng của Bảo Ninh.
6.3. Đề tài của chúng tôi cũng là gợi ý cho những hớng nghiên cứu
tiếp theo về một tác phẩm có số phận chìm nổi này.






















12

Nội Dung

Chơng 1

Những đặc điểm của tiểu thuyết viết về chiến tranh
trớc và sau năm 1975

Tiểu thuyết viết về đề tài chiến tranh trớc và sau năm 1975 có khối
lợng tác phẩm đồ sộ, phạm vi khai thác rộng lớn. Trong công trình nhỏ này,
để phục vụ cho việc nghiên cứu một cách tốt nhất, chúng tôi quan niệm tiểu
thuyết trớc và sau năm 1975 bao gồm những tác phẩm viết về hiện thực cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nớc của dân tộc trớc năm 1975 và những tác
phẩm viết sau năm 1975 về đề tài hậu chiến. Qua đó, chúng ta thấy đợc

những thành tựu và giới hạn của nền văn học hiện đại trớc hiện thực vĩ đại
của dân tộc. Trong giai đoạn này, xuất hiện nhiều tác phẩm nổi tiếng nh Phố,
Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai, Thời xa vắng của Lê Lựu, nổi bật trong số đó
là tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh. Tác phẩm đem đến cho
bạn đọc cái nhìn mới về ngời lính thời hậu chiến. Đằng sau tấm huân chơng
còn là những dằn vặt, đau khổ ngời lính phải chịu đựng khi chiến tranh qua
đi. Trong Nỗi buồn chiến tranh, ngời lính không đợc nhìn nhận nh những
vĩ nhân mà văn học giai đoạn trớc năm 1975 đã thể hiện, ở đây, ngời lính
mang đặc điểm của con ngời thực. Đây là điểm khác biệt và tiến bộ của tiểu
thuyết trớc và sau năm 1975.
Vì vậy, nghiên cứu đặc điểm tiểu thuyết viết về chiến tranh trớc và sau
năm 1975 giúp chúng ta thấy đợc sự chuyển mình của nền văn học Việt Nam
nói chung và thể loại tiểu thuyết viết về đề tài chiến tranh nói riêng.




13

1.1. Tiểu thuyết viết về chiến tranh trớc năm 1975
Dân tộc ta luôn phải đấu tranh chống giặc ngoại xâm để giành lại nền
hoà bình, độc lập, chính vì thế, chiến tranh và ngời lính là đề tài muôn thủa
trong văn học Việt Nam. Đặc biệt, từ đầu thế kỷ XX đến trớc năm 1975, cả
dân tộc phải đơng đầu với hai cuộc kháng chiến lớn của dân tộc là chống
Pháp và chống Mĩ. Văn học phải gánh vác một trọng trách nặng nề mà cả dân
tộc giao phó: tuyên truyền, cổ vũ cho chiến đấu. Nhà văn nguyện làm ngời
th ký trung thành của thời đại, bao quát và tái hiện một bức tranh hiện thực
rộng lớn. Nếu nh văn học giai đoạn 1930- 1945 là mảng hiện thực gắn liền
với những mảnh đời bé nhỏ, những số phận bất hạnh, những mộng tởng cá
nhân thì văn học giai đoạn sau là hiện thực chiến trờng kéo dài từ Bắc tới

Nam. Mỗi miền quê, mỗi cánh rừng, mỗi triền sông, đều đợc miêu tả nh
một trận tuyến đánh quân thù với khí thế sục sôi, đó là cảnh "những buổi vui
sao cả nớc lên đờng". Hầu hết các tiểu thuyết thời kỳ này đều mang cảm
hứng sử thi, miêu tả những gì hoành tráng, liên quan đến số phận của đất
nớc. Nhân vật trong tiểu thuyết mang "gơng mặt" quần chúng. Tính cách và
số phận của cá nhân cha phải là điều nhà văn quan tâm làm nổi bật, hay nói
cách khác, số phận và con đờng đi của mỗi cá nhân thờng đợc thể hiện
thống nhất với vận mệnh của giai cấp, của dân tộc.
Các văn nghệ sĩ nguyện đem hết tài năng, trí tuệ và cuộc đời mình để
phục vụ chiến đấu, tất cả cho tiền tuyến. Cảm hứng chủ đạo là chủ nghĩa yêu
nớc, khát vọng tự do độc lập, là niềm tự hào về sự nghiệp cứu nớc vĩ đại của
nhân dân Việt Nam anh hùng. Thời kỳ này ra đời nhiều tiểu thuyết hay nh
Hòn đất của Anh Đức, Rừng U Minh của Trần Hiếu Minh, Đất Quảng của
Nguyên Ngọc, Mẫn và tôi của Phan Tứ, Vùng trời của Hữu Mai, Dấu chân
ngời lính của Nguyễn Minh Châu, Chiến sĩ của Nguyễn Khải, ở đây, các
tiểu thuyết gia đã khám phá, lý giải về cuộc chiến đấu một cách rõ nhất. Nhân
vật trung tâm là ngời lính- những con ngời tiêu biểu cho khát vọng và ý chí



14

chiến đấu, quyết thắng của dân tộc. Sứ mệnh "phục vụ kháng chiến" đã hớng
các nhà văn tập trung thể hiện con ngời quần chúng, những ngời thuộc ba
thành phần cơ bản: công- nông- binh. Nhân vật mang phẩm chất của nhân vật
sử thi: là đại diện cho vẻ đẹp của cộng đồng, tầm vóc của núi sông, của lịch
sử, luôn luôn chiến thắng hoàn cảnh. Các nhà văn trở thành ngời chép sử của
thế hệ mình, thời đại mình với thái độ ngợi ca, ngỡng mộ. Những ngời lính
trong tiểu thuyết Dấu chân ngời lính của Nguyễn Minh Châu đã ý thức sâu
sắc về cuộc chiến đấu chống Mĩ cứu nớc và trách nhiệm cao cả của mình.

Còn Thiêm trong Mẫn và tôi của Phan Tứ lại hiểu rằng loài ngời đang đánh
lấn đế quốc từng bụi tre, những lời đẹp nhất dành cho ngời anh hùng có
những chiến công oanh liệt. Họ là "thứ thép đợc luyện lửa nhiều rồi, đem đúc
súng hay rèn lỡi cày đều ăn chịu cả" [81, tr. 647]. Đông, Quỳnh- những
chiến sĩ lái máy bay đẹp đẽ, trẻ trung đã xông lên bầu trời đối mặt với kẻ thù
và chiến đấu với sức mạnh của toàn dân tộc trong Vùng trời của Hữu Mai. Họ
ra trận chiến đấu với tinh thần anh dũng, quyết chiến quyết thắng. Dù bị kẻ
thù treo lơ lửng trên cây dừa, chị Sứ vẫn tự nhủ: "Bữa nay, có lẽ mình chết.
Những chỉ thấy tiếc chớ không ân hận mắc mớ gì cả Tới phút này đối với
Đảng, mình vẫn y nguyên, nh chị Minh Khai, nh Võ Thị Sáu nên từ phút
này trở đi, mình cũng phải giữ đợc nh vậy" [63, tr. 166]. Cuộc chiến đã
đánh thức tất cả mọi ngời ý thức đợc khẳng định mình trong hành động xả
thân vì nớc, mỗi ngời dân đều là những anh hùng trong chiến đấu và trong
lao động sản xuất. Vì vậy, các nhân vật thờng đợc lý tởng hoá một chiều.
Ngời đọc ít gặp những trăn trở đời thờng trong tâm hồn họ, họ rất ít khi
buồn, không biết đến cô đơn, vì mọi cảm xúc đều gắn với vận mệnh của dân
tộc. Những chiều kích mới của con ngời luôn luôn đợc phát hiện trong
những hoàn cảnh nghiệt ngã của chiến tranh. Con ngời tợng trng cho đất
nớc, mang vóc dáng đất nớc đã trở thành hình tợng nghệ thuật phổ biến
trong các sáng tác văn học. Con ngời trong tiểu thuyết thời kỳ này là con



15

ngời của ý chí, của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Nhiều tác phẩm đã đặt
con ngời trớc sự lựa chọn nghiệt ngã của sự sống và cái chết để khẳng định
ý nghĩa cao cả của sự hy sinh. Có những tiểu thuyết mà ngay cả tiêu đề cũng
mang ý nghĩa biểu tợng nh: Hòn đất, Đất Quảng, Rừng U Minh, Dấu chân
ngời lính, Những con ngời đại diện cho một vùng đất, vùng trời, mang

sức mạnh của cội nguồn quê hơng, đợc hun đúc qua khói lửa chiến tranh,
qua truyền thống bốn nghìn năm dựng nớc và giữ nớc của dân tộc ta. Mỗi
vùng đất đều xây dựng những hình tợng biểu trng riêng. Chị Sứ là đại diện
tiêu biểu cho ngời con gái xứ Hòn bởi mái tóc dài óng ả có mùi bởi quen
thuộc, có ánh trăng mát rợi gợi nhớ những kỉ niệm bình yên, nơi đó có bàn
tay dịu dàng của má Sáu vuốt ve dờng nh quê hơng đã hoá thân vào chị
thành ngời con gái trẻ trung, bất khuất, dịu dàng mà kiêu hãnh khiến kẻ thù
phải khiếp sợ. Còn Thiêm trong Mẫn và tôi của Phan Tứ lại mang vẻ đẹp của
ngời con gái miền Trung: bền bỉ, dẻo dai, chịu thơng chịu khó, đằm thắm
dịu hiền. Và tình yêu trong chiến tranh cũng đẹp hơn bao giờ hết, dờng nh
gắn liền với tình yêu quê hơng, tình yêu Tổ quốc. Đó là mối tình thuỷ chung
của ngời con gái xứ Hòn với ngời con trai tập kết ra Bắc: chị Sứ- anh Sang.
Hay là mối tình thuỷ chung của những con ngời đang kề vai sát cánh bên
nhau cùng chiến đấu giải phóng quê hơng: Ngạn- Quyên trong Hòn đất của
Anh Đức; là Mẫn- Thiêm trong Mẫn và tôi của Phan Tứ, Hơn nữa, tình cảm
riêng t của con ngời luôn hoà nhập với tình cảm chung của đất nớc, của
dân tộc. Một bức th ngắn ngủi mà ngời vợ giử cho chồng ở tiền tuyến cũng
vẫn không quên thông báo: "ở nhà mọi ngời đều bình yên và đang tích cực
sản xuất để góp phần cùng tiền tuyến chống Mĩ cứu nớc" [61, tr. 346]. Khi
gặp con trai ngoài mặt trận, ông bố nói ngay: "Chốc nữa anh hãy báo cáo với
tôi công việc anh đã làm từ ngày đi bộ đội. Quyết tâm th khi đi chiến trờng
anh viết ra sao?" [61, tr.67]. Rõ ràng, màu sắc sử thi đã khiến cho tiểu thuyết
chiến tranh có ánh hào quang mới. Những con ngời, những tình yêu, những



16

chiến công và cả thiên nhiên nữa, đẹp nh trong huyền thoại, bất chấp khói lửa
đạn bom của cuộc chiến tranh. Cảnh ra trận trong nhiều trang viết thấm đẫm

chất thơ và chất lãng mạn. Anh Phi trong Vùng trời của Hữu Mai ngồi trong
máy bay mà vẫn nhận thấy thiên nhiên thật huyền diệu, bởi trên đầu anh có
một trời sao và dới chân anh cũng là một trời sao của đất nớc. Còn nhân vật
Thiêm trong Mẫn và tôi của Phan Tứ thì lại thổ lộ: "Bỗng dng tôi bắt gặp
một bông hoa vui đang nở ngập ngừng trong tôi, toả hơng quen xông đầu tôi
lịm dần. Tôi nhận ra rồi. Nó là niềm vui đợc đánh giặc" [81, tr. 93]. Con
ngời gắn liền cái riêng với cái chung, hoà mình vào cái chung của dân tộc.
Khi cuộc chiến tranh chống Mĩ kết thúc bằng thắng lợi rực rỡ. D âm
còn vang mãi cho tới nhiều năm sau và cho đến hôm nay. Tiểu thuyết viết về
chiến tranh giai đoạn trớc năm 1975, đã phản ánh kịp thời, nhanh nhạy, động
viên cuộc chiến đấu của dân tộc. Các tiểu thuyết gia đã tái hiện bức tranh hiện
thực một cách sâu sắc, từ đó ngời đọc hình dung cuộc kháng chiến vừa gay
go, vừa quyết liệt của dân tộc. Con ngời đợc khám phá không phải từ khía
cạnh cá nhân mà là con ngời tập thể, con ngời anh hùng với những chuẩn
mực đạo đức xã hội chủ nghĩa. Tiểu thuyết giai đoạn này đã làm tròn nhiệm
vụ của mình, góp phần to lớn vào chiến lợc xây dựng con ngời mới và tăng
sức mạnh tinh thần động viên cổ vũ dân tộc suốt chặng đờng chống giặc
ngoại xâm. Cảm hứng chủ đạo xuyên suốt toàn bộ giai đoạn sáng tác này là
cảm hứng sử thi, là âm hởng hào hùng, ngợi ca. Đó là những thành tựu quan
trọng mà tiểu thuyết viết về đề tài chiến tranh giai đoạn này đã đạt đợc. Bên
cạnh đó, vẫn còn khá nhiều vấn đề hết sức quan trọng đang là những chỗ yếu
của tiểu thuyết. Vì một nền văn học, nhất là thể loại tiểu thuyết vốn đợc xem
là "bách khoa toàn th" của cuộc sống phát triển trong điều kiện chiến tranh
ác liệt kéo dài sẽ không thể tránh khỏi những hạn chế tất yếu. Nhận định của
Đảng trong th giử Đại hội văn nghệ toàn quốc lần thứ t (1968) đã đánh giá
chính xác tình hình sáng tác lúc đó và đúng cả với thời điểm sau của cuộc



17


kháng chiến: "Cuộc sống của nhân dân ta vô cùng anh dũng và phong phú,
nhng việc phản ánh cuộc sống đó vào văn học nghệ thuật của ta còn sơ
lợc". Đặc trng nổi bật của giai đoạn văn học 1945- 1975 đã đợc nhận định
nh sau: "Trớc 1945, mỗi thể loại có thể chứa đựng ở bên trong rất nhiều nội
dung thể loại. Sau 1945, tất cả mọi thể loại văn học đều tập trung thể hiện
một loại hình nội dung cơ bản, ấy là trạng thái sử thi của thế giới" [16, tr.
211]. Chất sử thi đã thấm sâu vào thể loại tiểu thuyết "Dới dạng tổng quát
nhất, chúng ta có thể nêu ra một sơ đồ mô hình cấu trúc- thể loại tiểu thuyết
Việt Nam giai đoạn 1945- 1975: cấu trúc lịch sử- sự kiện" [16, tr. 227]. Nh
vậy, có thể thấy rằng, để đáp ứng yêu cầu của lịch sử, các tiểu thuyết đã thiên
về ca ngợi cái đẹp, ca ngợi chiến công, né tránh mất mát, đau thơng, Cả
chất trữ tình trong sáng trong tiểu thuyết nhiều khi cũng đợc lý tởng hoá.
Bởi vì, chiến tranh đợc miêu tả chủ yếu qua cái nhìn khẳng định chính nghĩa,
khẳng định chiến thắng của toàn dân tộc. Chính điều đó đã làm hạn chế khả
năng sáng tạo của các nhà văn. Các nhà văn cha tập trung xây dựng số phận
mỗi con ngời, cha khai thác hết bộ mặt tàn khốc đáng lên án của chiến
tranh. Hơn nữa, mặt trái của cuộc chiến tranh vẫn cha đợc đề cập. Hay nói
một cách khác, văn học giai đoạn này chỉ tập trung khai thác những gì liên
quan đến vận mệnh của dân tộc, của đất nớc; cha quan tâm đến khía cạnh
cá nhân, số phận con ngời. Những hạn chế đó sẽ đợc nền văn học hậu chiến
khắc phục và tạo nên một bớc tiến vợt bậc trong nền văn học Việt Nam.

1.2. Tiểu thuyết viết về chiến tranh sau năm 1975
Sau năm 1975, đất nớc giành đợc độc lập, nền hoà bình đợc lập lại,
cả nớc bớc vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, lịch sử dân tộc bớc
sang một trang mới. Đặc biệt, sau năm 1986 với Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ VI, cả nớc tiến hành công cuộc đổi mới đất nớc và đạt đợc nhiều thành
tựu quan trọng trong tất cả mọi lĩnh vực. Cùng với sự phát triển của đất nớc,




18

nền văn học Việt Nam cũng có một hớng đi mới, đặc biệt ở thể loại tiểu
thuyết viết về đề tài chiến tranh. Các nhà văn có cái nhìn khách quan, sâu sắc
hơn về hiện thực cuộc chiến tranh đã qua và cách thể hiện con ngời cũng
khác. Tại Hội thảo 50 năm văn học Việt Nam sau cách mạng tháng Tám khi
trình bày "Mấy suy nghĩ về mảng văn học chiến tranh cách mạng", Xuân
Thiều đã nhận định: "Sự quan tâm của phần lớn các nhà văn viết về chiến
tranh là âm vang chiến tranh, nghĩa là viết về số phận con ngời thời kỳ hậu
chiến mà chiến tranh dù đã qua đi vẫn để lại những dấu ấn khó quên, chiến
tranh đã đa đẩy họ tới những nẻo đờng bất ngờ, ở đấy có niềm vui, nỗi
buồn, có tình yêu thơng và lòng căm thù, có lòng dũng cảm và tính đớn hèn,
có lòng trung thành và những phút giây dao động" [16, tr. 140]. Cũng trong
Hội thảo này, Xuân Thiều đã đa ra nhận xét: "đã có nét mới trong cách nhìn
nhận đánh giá hiện thực trong chiến tranh trung thực hơn, mạnh dạn hơn"
[16, tr. 145]. Cùng quan điểm đó, Hồ Phơng cũng nhận định rằng nhiều tác
giả hôm nay: "không né tránh tất cả sự tàn khốc của chiến tranh. Viết về
những nội dung tàn khốc ấy, các tác giả có ớc muốn qua đó có thể làm rõ
hơn, sống động hơn sức chịu đựng, lòng hy sinh của con ngời, cũng nh làm
cho cái giá và ý nghĩa của chiến thắng đợc thấy rõ hơn (). Viết về sự tàn
khốc của chiến tranh là điều cần phải làm, nhng viết nh thế nào để không
làm mờ mất tính chất của cuộc kháng chiến ấy, để cuối cùng ngời đọc có thể
chỉ thấy toàn chuyện chết chóc, ghê sợ và muốn chối bỏ" [16, tr. 153]. Nếu
nh tiểu thuyết giai đoạn trớc chỉ tập trung miêu tả những gì liên quan đến
vận mệnh của dân tộc, mang đậm cảm hứng sử thi thì ở giai đoạn sau đã có sự
thay đổi rõ ràng. Tiểu thuyết đi từ chủ nghĩa thực dân đậm đà chất lãng mạn
cách mạng và cảm hứng sử thi sang chủ nghĩa hiện thực tỉnh táo, ngời lính
đợc phản ánh từ nhiều bình diện, trong nhiều mối quan hệ của đời sống. Khía

cạnh đời t cá nhân đợc đề cập đến: "Từ sau năm 1975, nhất là từ sau 1986,



19

bắt đầu thời kỳ đổi mới, tính sử thi nhạt dần, nội dung thế sự và đời t dần dần
nổi lên, có xu thế lấn át. Tác phẩm mang nội dung thể loại sử thi vẫn còn,
song không còn gây đợc chú ý nh trớc, hoặc nếu viết về đề tài chiến tranh,
thì góc độ đời t và thế sự lại nổi lên, làm thay đổi diện mạo văn học" [7, tr.
149]. Những tiểu thuyết ra đời thời kỳ đầu ngay sau năm 1975, đã tái hiện
hiện thực cuộc chiến tranh rộng lớn, khốc liệt, gian nan, trờng kỳ, qua từng
thời điểm cho tới đích cuối cùng, chiến thắng đợc các nhà văn mô tả khá
chân thực và sắc nét nh Miền cháy, Lửa từ những ngôi nhà, Những ngời
đi từ trong rừng ra của Nguyễn Minh Châu; Năm 75 họ đã sống nh thế của
Nguyễn Trí Huân; Mở rừng của Lê Lựu; Nắng đồng bằng của Chu Lai; Đất
trắng của Nguyễn Trọng Oánh; Sao đổi ngôi của Chu Văn; Tuy âm hởng
chung của các tiểu thuyết này chủ yếu là âm hởng sử thi - vốn là một đặc
điểm nổi bật, một khuynh hớng bao trùm của văn học giai đoạn trớc, nhng
đâu đó nó đã phát ra những tín hiệu đổi mới, tiêu biểu ở tiểu thuyết Đất trắng
của Nguyễn Trọng Oánh, ra mắt năm 1979. Lần đầu tiên, ngời đọc thấy hiện
thực cuộc chiến tranh hiện lên khốc liệt, đau thơng và bi thảm nh vậy. Hơn
nữa, ngời đọc thấy đợc sự tha hoá trong hình ảnh những con ngời lý tởng.
Nhà văn đã cố gắng tiếp cận cuộc chiến tranh bằng cái nhìn trực diện, bằng
thái độ dũng cảm trớc sự thật, nhấn mạnh cái giá phải trả cho chiến thắng.
Nhà văn lựa chọn điểm nhìn từ những chiến hào: "Những tác phẩm này
thờng lựa chọn điểm nhìn từ những chiến hào mà không có ý định mô tả toàn
cục chiến trờng hay bức tranh toàn cảnh của cuộc chiến tranh, mặc dù
không gian của tác phẩm có lúc đợc mở rộng" [33, tr. 125]. Sự mở rộng bối
cảnh hiện thực khốc liệt, gay cấn của cuộc chiến đấu chính là một cố gắng để

nắm bắt những diễn biến tâm lý sâu xa trong con ngời một cách toàn diện,
thấu đáo và triệt để hơn. Đến tiểu thuyết Sao đổi ngôi, Chu Văn đã đặt ra
hàng loạt các vấn đề sau chiến tranh, đó là những tệ nạn xã hội mới nảy sinh:
tham ô, ngoắc ngoặc, chè chén, thoái hoá biến chất, quan liêu, những hủ tục



20

lạc hậu, thật giả lẫn lộn, những hợp tác xã "chia quyền chức nh chia thịt",
và cuộc chiến tranh của ngời lính thời hậu chiến mới là cuộc chiến tranh âm
thầm, dai dẳng, khắc nghiệt nhất. Hơn nữa, nhà văn còn quan tâm đến số phận
của nữ chiến sĩ- Liễu là nữ công binh xinh đẹp và anh hùng. Chiến tranh qua
đi, tuổi xuân và nhan sắc đã giử lại nơi chiến trờng, trở về bơ vơ, lạc lõng và
kiệt quệ giữa đời thờng. Nếu nh trong chiến tranh Liễu đã hy sinh hạnh
phúc cá nhân của mình một cách nhẹ nhàng, thanh thản bao nhiêu thì trong
thời bình, cô trở nên hoài nghi, chán nản, bất lực bấy nhiêu. Phải chăng, chiến
tranh đã khiến cho con ngời mất khả năng hoà nhập với cuộc sống đời
thờng? Hay cuộc sống thời hậu chiến qua nhiều phức tạp và nan giải khiến
con ngời không thích nghi kịp? Và Liễu là nhân vật mở đầu cho kiểu nhân
vật lạc thời trong tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Đây là điểm mới so với các
tác phẩm tiểu thuyết thời kỳ trớc năm 1975. Khía cạnh cá nhân con ngời
đợc đề cập mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Sự đổi mới thực sự diễn ra mạnh mẽ và
sâu sắc kể từ năm 1986, với Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đa các văn
nghệ sĩ nhìn nhận lại, đánh giá một cách khách quan cuộc chiến tranh đã đi
qua. Khi chiến tranh đã lùi về quá khứ, cuộc sống trở lại với những quy luật
bình thờng, con ngời trở về với muôn mặt đời thờng, biết bao vấn đề mới
nảy sinh và ý thức cá nhân trỗi dậy mạnh mẽ. Văn học nói chung và thể loại
tiểu thuyết nói riêng sẽ có nhiều đề tài, chủ đề mới. Cảm hứng thế sự sẽ thay
dần cảm hứng sử thi. Đối với văn học thời kỳ đổi mới, một mặt con ngời vẫn

đợc nhìn nhận nh những chủ thể chủ động trong công cuộc cách mạng của
đất nớc. Mặt khác, ở con ngời nói chung, ngời lính nói riêng còn là những
trăn trở, giằng xé, đối thoại với chính mình và lịch sử. Đó là sự đấu tranh với
cái xấu, hớng tới một cơ chế hợp lý hơn; là những xung đột, mâu thuẫn giữa
ý thức về nhiệm vụ cách mạng và những giá trị nhân tính diễn ra bên trong
những con ngời hết lòng vì Tổ quốc; là những ngời lính dũng cảm, mu trí
trong chiến đấu, những vị tớng lẫy lừng trở nên lúng túng, vụng về nh



21

những "binh nhì" giữa đời thờng. Đặc biệt, mỗi cá nhân lại có quan điểm
sống, cách sống khác nhau. Sự mâu thuẫn giữa cá nhân với cộng đồng nhiều
khi trở thành bi kịch. Nhà văn đã tìm thấy những miền khuất lấp của chiến
tranh, của tâm hồn con ngời. Trong tiểu thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu,
nhân vật chính Giang Minh Sài là con ngời có trình độ văn hoá, có tâm hồn
mà không thể có hạnh phúc chỉ vì nửa đời phải sống hộ ý định của ngời
khác: "Giá nh ngày ấy em cứ sống với tình cảm của chính mình, mình có thế
nào cứ sống nh thế, không sợ một ai, không chiều theo ý ai, sống hộ ý định
của ngời khác, cốt để cho đẹp mặt mọi ngời, chứ không phải cho hạnh phúc
của mình" [77, tr. 331]. Để rồi cuối cùng, Sài phải ân hận, nuối tiếc cho quãng
đời đã qua của mình, sống cuộc sống không có hạnh phúc: "Nửa đời ngời
phải yêu cái ngời khác yêu, nửa còn lại đi yêu cái mình không có, đến bây
giờ mới biết mình là thế nào thì lại" [77, tr. 331- 332]. Bởi vì lớp lớp những
ràng buộc, những trách nhiệm, những bổn phận đối với dòng họ, cộng đồng và
bởi sự bất lực của bản thân. Sau chiến tranh, ngời lính trở nên cô đơn, lạc
lõng giữa đời thờng. Trở về sau 30 năm cầm súng, Đông trong Mùa lá rụng
trong vờn của Ma Văn Kháng tự cho phép mình đợc nghỉ ngơi, đứng ngoài
những biến động của cuộc sống cơm áo thờng tình. Những năm tháng chiến

đấu gian khổ, Đông luôn là niềm tự hào của mọi ngời. Còn trong thời bình,
Đông trở thành một ông cán bộ về hu lời nhác, tự thoả mãn về mình. T
tởng hởng thụ của Đông cũng là t tởng hởng thụ của một bộ phận không
nhỏ những ngời lính vừa mới rút mình ra khỏi chốn bom đạn sinh tử khó
lờng. Có thể thấy điều này trong phát ngôn của Ba Thành: "Đạo là tạm, đời
mới là muôn. Cái Tạm đó tao đã sống hết mình, tao không nuối tiếc, bây giờ
còn mời năm ở đời, tao phải lo sống cho cái Muôn" [72, tr. 125]. Đông đã tự
đặt mình ra khỏi những biến động của cuộc sống đời thờng, tách biệt, xa vời
với cuộc sống hôm nay. Đó là bi kịch của con ngời thời hậu chiến.



22

Sau khi Chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc, khảo sát văn học các
nớc tham chiến, các nhà nghiên cứu nhận xét rằng, con ngời trong văn học
Nga đi ra từ chiến tranh mà phơi phới niềm vui chiến thắng, con ngời trong
văn học Đức thì tràn ngập tội lỗi, còn con ngời trong văn học Phơng Tây thì
mang những chấn thơng nặng nề về mặt tinh thần, trở thành một thế hệ bị
huỷ hoại, một thế hệ "vứt đi" Tất cả đợc xây dựng trên quan điểm khẳng
định chiến tranh chính nghĩa, phê phán chiến tranh phi nghĩa và văn học Việt
Nam cũng vậy. Những tiểu thuyết viết về chiến tranh trong suốt hơn nửa thế
kỷ qua đã góp phần to lớn cổ vũ cho cuộc chiến tranh của dân tộc. Sự hiện
diện của chiến tranh ở bề mặt khốc liệt nhất đã lùi xa, nhng lại trở nên âm
thầm, giằng xé hơn ở nơi thẳm sâu nhất của lòng ngời. Chiến tranh không
bao giờ mất đi trong kí ức dân tộc mặc dù chúng ta đang sống trong những
ngày tháng rực rỡ ánh sáng hoà bình. Sự thật về chiến tranh đã đợc nhìn nhận
lại là một sự thật trải qua những năm tháng day dứt, trăn trở trong tâm hồn nhà
văn, hơn thế, nó thực sự là những nếm trải của ngời trong cuộc. Tiểu thuyết
chiến tranh dần đi tới một quan niệm toàn vẹn, sâu sắc hơn về con ngời và

hiện thực chiến tranh. Nếu nh tiểu thuyết giai đoạn trớc chỉ tập trung miêu
tả những gì hoành tráng, liên quan tới số phận của đất nớc, của dân tộc mà
không chú ý tới khía cạnh cá nhân thì đến tiểu thuyết giai đoạn sau này, đặc
biệt là thời kỳ đổi mới, con ngời đợc nhìn nhận ở nhiều vị thế, trong tính đa
chiều của mọi mối quan hệ: con ngời với xã hội, con ngời với lịch sử, con
ngời với gia đình, con ngời với phong tục, con ngời với thiên nhiên và với
chính mình. Con ngời đợc soi chiếu và khám phá ở nhiều tầng bậc, nhiều
mức độ khác nhau, thể hiện đợc tính chất muôn màu, muôn vẻ của vũ trụ,
của thế giới bao quanh con ngời và ngay trong nội tâm con ngời. Vì vậy, có
nhiều tác phẩm đi sâu khám phá "con ngời bên trong con ngời" nh Ăn mày
dĩ vãng, Phố, Ba lần và một lần của Chu Lai; Chim én bay của Nguyễn Trí



23

Huân; Dấu chân ngời lính của Nguyễn Minh Châu; Nỗi buồn chiến tranh
của Bảo Ninh;
Tiểu thuyết Chim én bay của Nguyễn Trí Huân đợc viết năm 1989, là
sự hồi tởng lại quá khứ chiến tranh thông qua cuộc đời và số phận của Quy-
nhân vật nữ chính trong tác phẩm. Tuổi trẻ của Quy đầy nớc mắt. Quy chứng
kiến hành động phản phúc của Giám Tuân gây nên cái chết thảm khốc của
anh, chị và cha, Quy không quên đôi mắt vô hồn và khuôn mặt méo xệch vì
đau đớn của cha. Năm Quy mời một tuổi đã đến với đội quân diệt ác mang
tên Chim én. Đội quân gồm những đứa trẻ có gia đình bị những tên ác ôn hãm
hại. Nhiệm vụ đầu tiên Quy không hoàn thành, chị để sổng kẻ giết ngời thân
của mình. Lẽ ra Quy không đợc yếu đuối, không đợc run tay khi giết kẻ thù
nhng Quy không thể gây nguy hiểm cho đứa trẻ mà Giám Tuân đang bế trên
tay. Những biến cố tiếp theo: Quy bị bắt, bị hãm hiếp, đội du kích bị phản bội,
ngời chỉ huy đội bị mất tích, buộc Quy phải đổi thay, phải chấp nhận sự

thực khiến chị trởng thành dần và đứng vững trớc mọi khó khăn, thách thức.
Sau chiến tranh, Quy đợc phong anh hùng, đợc bầu làm đại biểu Quốc hội,
phụ trách công tác phụ nữ ở huyện nhà. Quy thành đạt nhng không cảm thấy
hạnh phúc vì cuộc chiến đã tớc đi tuổi trẻ, cơ hội đợc làm vợ, làm mẹ. Ban
ngày, chị cố lao vào công việc để quên đi nỗi cô đơn nhng đêm đến nỗi cô
đơn lại hành hạ chị, trở thành nỗi trăn trở thờng trực trong con ngời chị: "Có
thể nói không quá rằng, chiến tranh đã cớp đi tất cả những gì cần thiết nhất
cho một đời sống bình thờng của chị. Lẽ ra chị có thể hoàn toàn thanh thản
trớc quá khứ. Nhng không hiểu sao chị lại trăn trở, bức xúc muốn tìm lại
những thằng ác ôn bị chị giết hơn mời năm trớc? Mặc dù ngay lúc này
đây, nếu phải sống lại những năm tháng cũ, chắc chắn chị vẫn sống nh thế.
Chị không thể làm khác vì đó là sinh mệnh, là sự mất còn của quê hơng chị"
[66, tr. 28]. "Chị đã giết những tên ác ôn khét tiếng nhất bởi cách mạng đòi
hỏi chị làm nh vậy. Vậy mà, bây giờ không hiểu sao, chị cứ thấy lòng mình



24

không yên Có một cái gì đó ngoài lý trí cứ bắt chị phải suy nghĩ, trăn trở.
Cái gì? " [66, tr. 128]. Từ cuộc sống của chính bản thân mình, chị thờng
xuyên nghĩ đến những đứa trẻ mồi côi khác, trong đó có cả những đứa trẻ mà
cha chúng do chính tay chị giết Chị luôn luôn phải trăn trở, suy nghĩ, dằn
vặt bởi quá khứ hiện ra thờng ngày trong tâm trí của chị. Tác giả đã thể hiện
đợc "bản chất Ngời": Sự đấu tranh giữa lý trí và bản năng, những mâu thuẫn
giữa hành động và suy nghĩ, khẳng định vẻ đẹp nhân tính của ngời chiến sĩ,
Thông qua nhân vật Quy, tác giả giúp ngời đọc nhớ đến chị với cái vẻ thanh
thản vừa nhai trầu, vừa chèo thuyền giết giặc. Chị trở về sau trận đánh trong
tiếng ríu rít của đàn con, một niềm vui kỳ lạ, không thấy sự trăn trở của con
ngời vừa đi qua trận chiến. ở Quy có đủ những trạng thái tình cảm của con

ngời bình thờng. Đây chính là sự khác biệt trong việc xây dựng nhân vật
trớc và sau chiến tranh.
Những vấn đề nổi cộm trong cuộc sống thời hậu chiến đợc các tiểu
thuyết gia đề cập đến trong rất nhiều tác phẩm. Chu Lai đã cho ra mắt hàng
loạt các tiểu thuyết, tạo thành "dòng tiểu thuyết về chiến tranh và ngời lính
của Chu Lai". Trong tiểu thuyết Vòng tròn bội bạc, Huấn là một ngời lính
dũng cảm, thẳng thắn, có cá tính, có năng lực trong chiến tranh. Sau chiến
tranh, Huấn trở thành ngời nhỏ nhen, ích kỷ, tàn bạo, say mê quyền lực, sẵn
sàng trà đạp lên tất cả những gì cản trở hắn, kể cả đồng đội đã vào sinh ra tử
cùng hắn. Còn trong Ăn mày dĩ vãng, sau nhiều năm hoà bình những vết
thơng chiến tranh vẫn còn âm ỉ trong lòng ngời, một cuộc chiến mở ra âm
thầm mà quyết liệt với những nhân vật nh Ba Sơng, Hai Hùng. Họ là những
ngời đã từng đi qua chiến tranh, mang đậm "chất lính" và trở về đối mặt với
cuộc sống đời thờng. Chu Lai đã tập trung khai thác khía cạnh bên trong tâm
hồn ngời lính trở về sau cuộc chiến. Đến với Nỗi buồn chiến tranh của Bảo
Ninh- cuốn tiểu thuyết viết về "Nỗi buồn chiến tranh" chứ không phải là khúc
khải hoàn chiến thắng. Nguyên Ngọc trong bài "Tiểu thuyết về một cuốn tiểu



25

thuyết", Tạp chí Cửa Việt, Hội văn học nghệ thuật Quảng Trị, số 7, đã nhận
xét: "Đây là cuốn tiểu thuyết về một cuộc chiến đấu của con ngời đi tìm lẽ
sống hôm nay. Bằng cách chiến đấu lại cuộc chiến đấu của đời mình. Cuốn
sách này không mô tả chiến tranh. Nó mô tả một cuộc kiếm tìm nặng nhọc
chính hôm nay. Hiện thực ở đây là hiện thực bên trong của một tâm hồn quằn
quại và đầy trách nhiệm. Trách nhiệm lơng tâm. Cuốn sách nặng nề này
không bi quan. Vẫn thấm sâu ở đâu đó trong từng kẽ chữ của nó một âm
hởng hy vọng tiềm tàng, chính là vì thế. Anh đi tìm, nghĩa là anh còn hy

vọng" [43, tr. 68- 72]. Tác phẩm xoay quanh nhân vật trung tâm Kiên- một
nhà văn "của phờng" vốn là lính đã từng chiến đấu trong những giai đoạn ác
liệt của cuộc chiến tranh, Kiên cố gắng trình bày những cảm nhận của mình
bằng một cuốn tiểu thuyết. Kiên luôn trong trạng thái tinh thần rối bời, bấn
loạn, kí ức luôn hiện lên trong tâm hồn Kiên. Đó là kí ức về Phơng, về gia
đình và những đồng đội của anh. Lần theo dòng kí ức đó, ngời đọc hình dung
ra tính chất khốc liệt của cuộc chiến tranh: "các đại đội đã tan tác đang cố co
cụm lại đánh tan tác. Tất cả bị napan tróc khỏi công sự, hoá cuồng, không
lính không quan gì nữa rùng rùng lao chạy trong lới lửa dày đặc, chết dúi
ngã dụi vào biển lửa. Trên đầu trực thăng rà rạp các ngọn cây và gần nh
thúc họng đại liên vào gáy từng ngời một mà bắn. Máu tung xối, chảy toé,
ồng ộc, nhoe nhoét (), thân thể dập vỡ tanh bành, phùn phụt phì hơi nóng"
[80, tr.6- 7]. Hay đó là "mái nhà lợp bằng thây ngời" [80, tr.103]. Chiến
tranh hiện lên với bộ mặt gớm ghiếc, bạo tàn, bi thảm và quan trọng hơn, tác
giả đã cho ngời đọc thấy cuộc chiến tranh trong mỗi con ngời sau khi chiến
tranh kết thúc còn đáng sợ hơn. Đáng lý, hoà bình những ngời nh Kiên phải
đợc sống cuộc sống sung sớng, hạnh phúc nhng ngợc lại, họ đã để lại
tuổi xuân, niềm vui, hạnh phúc nơi chiến trờng. Họ sống cuộc sống hiện tại
với những day dứt, dằn vặt khôn nguôi. Quá khứ đau thơng cứ ám ảnh họ

×