Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón đến năng suất và chất lượng của giống ngô nếp lai HN88 vụ Xuân 2014 tại Thành phố Thái Nguyên.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 87 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM



NGUYỄN QUANG SÁNG



Tên đề tài:
“NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA PHÂN BÓN ĐẾN NĂNG SUẤT
VÀ CHẤT LƯỢNG CỦA GIỐNG NGÔ NẾP LAI HN88 VỤ XUÂN 2014
TẠI THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN”


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC



Hệ đào tạo : Chính quy
Chuyên ngành : Trồng trọt
Khoa : Nông học
Lớp : 42 - Trồng trọt
Khóa học : 2010 - 2014
Giảng viên hướng dẫn : TS. Trần Trung Kiên
Khoa Nông học - Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên




Thái Nguyên, 2014


LỜI CẢM ƠN

Là sinh viên chúng ta đều nhận thức được tầm quan trọng của việc thực
tập tốt nghiệp và đây cũng là giai đoạn quyết định đến toàn bộ quá trình học
tập, rèn luyện của mỗi chúng ta. Thực hiện theo phương châm “học đi đôi với
hành, lý thuyết gắn liền với thực tiễn”, thực tập tốt nghiệp nhằm củng cố và
hệ thống hóa lại toàn bộ kiến thức đã học trên giảng đường. Từ đó áp dụng
một cách đúng đắn và sáng tạo vào thực tiễn sản xuất. Kết hợp lý thuyết với
thực hành giúp cho sinh viên rút ra được những bài học kinh nghiệm nhằm
nâng cao năng lực chuyên môn để sau này ra trường có thể đáp ứng được nhu
cầu của xã hội, hoàn thành tốt được mọi công việc được giao. Do vậy thực tập
tốt nghiệp là giai đoạn không thể thiếu trong hệ thống đào tạo ở các trường
Đại học, Cao đẳng.
Được sự nhất trí của Ban giám hiệu trường Đại học Nông Lâm Thái
Nguyên và Ban chủ nhiệm Khoa Nông học chúng em đã tiến hành nghiên cứu
đề tài: “Nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón đến năng suất và chất lượng
của giống ngô nếp lai HN88 vụ Xuân 2014 tại Thành phố Thái Nguyên”,
để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này, ngoài sự cố gắng nỗ lực của mình, em
đã nhận được sự giúp đỡ của nhà trường, của các thầy cô giáo trong khoa cùng
với sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo hướng dẫn TS. Trần Trung Kiên.
Xuất phát từ lòng biết ơn sâu sắc, em xin chân thành cảm ơn toàn thể các thầy
cô giáo đã giảng dạy chúng em trong suốt quá trình học tập tại trường và quá
trình làm đề tài.
Với trình độ và năng lực bản thân có hạn, mặc dù đã hết sức cố gắng
song không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy em rất mong nhận được sự
tham gia đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và các bạn để đề tài này được
hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn.
Thái Nguyên, ngày 28 tháng 5 năm 2014
Sinh viên


Nguyễn Quang Sáng
MỤC LỤC


Phần 1
:

MỞ ĐẦU 1
1.1. Đặt vấn đề 1
1.2. Mục tiêu của đề tài 1
1.3. Yêu cầu của đề tài 1
1.4. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài 2
1.4.1. Ý nghĩa khoa học 2
1.4.2. Ý nghĩa thực tiễn 2
Phần 2:
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
3
2.1. Cơ sở khoa học của đề tài 3
2.2. Tình hình sản xuất ngô trên thế giới và ở Việt Nam 3
2.2.1. Tình hình sản xuất ngô trên thế giới 3
2.2.2. Tình hình sản xuất ngô ở Việt Nam 6
2.2.3. Tình hình sản xuất ngô vùng Đông Bắc 11
2.3. Tình hình nghiên cứu phân bón cho ngô trên thế giới và ở Việt Nam . 14
2.3.1. Tình hình nghiên cứu phân bón cho ngô trên thế giới 14
2.3.2. Tình hình nghiên cứu phân bón cho ngô ở Việt Nam 18
Phần 3:
VẬT LIỆU NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
28
3.1. Vật liệu nghiên cứu 28

3.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu 28
3.2.1. Địa điểm tiến hành đề tài 28
3.2.2. Thời gian tiến hành đề tài 28
3.3. Nội dung nghiên cứu 28
3.4. Phương pháp nghiên cứu 29
3.4.1. Phương pháp thí nghiệm 29
3.4.2. Quy trình kỹ thuật 30
3.4.3. Các chỉ tiêu và phương pháp theo dõi, đánh giá 31
3.4.4. Phương pháp xử lý số liệu 36
Phần 4:
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUÂN
37
4.1. Ảnh hưởng của lượng phân bón đến các giai đoạn sinh trưởng và phát
triển của cây ngô nếp lai HN88 vụ Xuân 2014 tại Thái Nguyên 37
4.1.1. Giai đoạn từ gieo đến mọc 38
4.1.2. Giai đoạn từ gieo đến tung phấn 39
4.1.3. Giai đoạn từ gieo đến phun râu 39
4.1.4. Giai đoạn từ gieo đến chín sữa 40
4.1.5. Giai đoạn từ gieo đến chín sinh lý 40
4.2. Ảnh hưởng của lượng phân bón đến chiều cao cây, chiều cao đóng bắp
của giống ngô nếp lai HN88 vụ Xuân 2014 tại Thái Nguyên 41
4.2.1. Chiều cao cây 41
4.3.2. Chiều cao đóng bắp 42
4.3. Ảnh hưởng của phân bón đến năng suất và chất lượng giống ngô nếp
lai HN88, vụ xuân 2014 43
4.3.1. Số lá trên cây 43
4.3.2. Chỉ số diện tích lá 44
4.4. Ảnh hưởng của lượng phân bón đến trạng thái cây, trạng thái bắp, độ
bao bắp giống ngô HN88 vụ Xuân 2014 tại Thái Nguyên 45
4.4.1. Trạng thái cây 45

4.4.2. Trạng thái bắp 46
4.4.3. Độ bao bắp 46
4.5. Ảnh hưởng của phân bón đến tình hình sâu bệnh hại và khả năng chống
đổ của giống ngô HN88 vụ Xuân 2014 tại Thái Nguyên 46
4.5.1. Ảnh hưởng của lượng phân bón đến khả năng chống đổ của giống
ngô HN88 vụ Xuân 2014 tại Thái Nguyên 46
4.5.2. Ảnh hưởng của lượng phân bón đến tình hình sâu bệnh hại của
giống ngô HN88 vụ Xuân 2014 tại Thái Nguyên 47
4.6. Ảnh hưởng của phân bón đến năng suất của giống ngô nếp lai HN88 vụ
Xuân 2014 tại Thái Nguyên 49
4.6.1. Năng suất bắp tươi 50
4.6.2. Năng suất thân lá 51
4.7. Chất lượng của giống ngô nếp lai HN88 qua các công thức phân bón 51
4.8. Ảnh hưởng của lượng phân bón đến các yếu tố cấu thành năng suất của
giống ngô nếp lai HN88 vụ Xuân 2014 tại Thái Nguyên 52
4.8.1. Số bắp trên cây 53
4.8.2. Chiều dài bắp 54
4.8.3. Đường kính bắp 54
4.8.4. Số hàng trên bắp 54
4.8.5. Số hạt trên hàng 55
4.8.6. Khối lượng nghìn hạt 55
4.8.7. Năng suất lý thuyết 55
4.8.8. Năng suất thực thu 56
Phần 5
:

KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 58
5.1. Kết luận 58
5.2. Đề nghị 58
TÀI LIỆU THAM KHẢO 59

DANH MỤC CÁC TỪ, CỤM TỪ VIẾT TẮT



CV
CIMMYT
ĐHNLTN
LSD
0,05
NSTT
NSLT
FAO



: Hệ số biến động
: Trung tâm cải tạo Ngô và Lúa mì Quốc tế
: Đại học Nông Lâm Thái Nguyên
: Sai khác nhỏ nhất có ý nghĩa 95%
: Năng suất thực thu
: Năng suất lý thuyết
: Tổ chức Nông Lương Liên Hợp Quốc












DANH MỤC CÁC BẢNG


Trang

Bảng 2.1. Tình hình sản xuất ngô trên thế giới giai đoạn 2003- 2012 4
Bảng 2.2. Sản xuất ngô ở một số châu lục trên thế giới năm 2012 5
Bảng 2.3. Tình hình sản xuất ngô ở Việt Nam trong giai đoạn 2003-2012 6
Bảng 2.4. Tình hình sản xuất ngô ở các vùng năm 2012 8
Bảng 2.5. Diện tích, năng suất, sản lượng ngô vùng Đông Bắc từ 2010 -
2012 12
Bảng 2.6. Diện tích, năng suất và sản lượng ngô của tỉnh Thái Nguyên
giai đoạn 2005 - 2012 13
Bảng 2.7. Nhu cầu dinh dưỡng của cây ngô trong giai đoạn sinh trưởng (%) 18
Bảng 4.1. Ảnh hưởng của lượng phân bón đến các giai đoạn sinh trưởng phát
triển của giống ngô nếp lai HN88 vụ Xuân 2014 tại Thái Nguyên 38
Bảng 4.2. Ảnh hưởng của phân bón đến chiều cao cây và chiều cao đóng
bắp của giống ngô HN88 vụ Xuân 2014 tại Thái Nguyên 41
Bảng 4.3. Ảnh hưởng của phân bón đến số lá và chỉ số diện tích lá của
giống ngô nếp lai HN88 vụ Xuân 2014 tại Thái Nguyên 43
Bảng 4.4. Ảnh hưởng của phân bón đến trạng thái cây, trạng thái bắp, độ bao
bắp của giống ngô nếp lai HN88 vụ Xuân 2014 tại Thái Nguyên 45
Bảng 4.5. Ảnh hưởng của phân bón đến tình hình sâu bệnh hại của giống
ngô HN88 vụ Xuân 2014 tại Thái Nguyên 48
Bảng 4.6. Số bắp trên cây, năng suất bắp tươi, năng suất thân lá của
giống ngô nếp lai HN88 qua các công thức 50
Bảng 4.7. Chất lượng thử nếm đối với ngô nếp lai HN88 qua các công

thức phân bón khác nhau 51
Bảng 4.8. Ảnh hưởng của phân bón đến các yếu tố cấu thành năng suất
và năng suất của giống ngô HN88 vụ Xuân 2014 tại Thái Nguyên 53
Bảng 4.9: Hoạch toán kinh tế 57

1
Phần 1
MỞ ĐẦU

1.1. Đặt vấn đề
Đối với các loại ngô thực phẩm, đặc biệt là giống ngô nếp (Zea mays
L.subsp. Ceratina Kulesh) tuy sản lượng chưa nhiều nhưng nhu cầu sử dụng
các giống ngô này trong thời gian gần đây đang tăng nên rất nhanh. Ngô nếp
ước tính chiếm khoảng 12% diện tích ngô của cả nước. Chủ yếu là các giống
thụ phấn tự do, các giống ngô nếp lai được sản xuất chưa nhiều. Việc trồng và
tiêu thụ ngô nếp chất lượng cao làm lương thực, làm quà không chỉ phù hợp
với tập quán của các dân tộc ít người miền núi, đồng bằng mà còn là ở các
vùng kinh tế phát triển (thành thị).
Muốn phát huy được hiệu quả phân bón cần thiết phải biết được trên đất
có thành phần như thế nào, quan hệ giữa phân và nước, giữa phân và đất,
phân và giống, giữa phân và chế độ canh tác, mật độ gieo trồng. Trên cơ sở
đó, chúng tôi tiến hành đề tài “Nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón đến
năng suất và chất lượng của giống ngô nếp lai HN88 vụ Xuân 2014 tại
Thành phố Thái Nguyên”.
1.2. Mục tiêu của đề tài
Xác định được ảnh hưởng của một số tổ hợp phân bón đến sinh
trưởng, phát triển, năng suất và chất lượng giống ngô nếp lai HN88, nhằm
chọn được công thức phân bón thích hợp.
1.3. Yêu cầu của đề tài
- Theo dõi thời gian sinh trưởng qua các giai đoạn phát dục của giống

ngô nếp lai HN88 qua các tổ hợp phân bón khác nhau.
- Đánh giá đặc điểm hình thái và sinh lý của giống ngô nếp lai HN88 qua
các tổ hợp phân bón khác nhau.
2
- Xác định được khả năng chống chịu sâu, bệnh hại và chống đổ của
giống ngô nếp lai HN88 qua các tổ hợp phân bón khác nhau.
- Đánh giá được năng suất bắp tươi và thân lá tươi của giống ngô nếp lai
HN88 qua các tổ hợp phân bón khác nhau.
- Đánh giá được chất lượng ngô nếp luộc chín qua thử nếm.
- Đánh giá được năng suất và yếu tố cấu thành năng suất của giống ngô
nếp lai HN88 các tổ hợp phân bón khác nhau.
1.4. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài
1.4.1. Ý nghĩa khoa học
Đề tài đã xác định được ảnh hưởng của các tổ hợp phân bón đến sinh
trưởng, phát triển và chất lượng ngô nếp lai.
1.4.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Đề tài đã xác định được công thức phân bón thích hợp cho giống ngô
nếp lai HN88 tại Thành phố Thái Nguyên.
- Đề tài góp phần chuyển đổi cơ cấu cây trồng, tăng vụ nhằm khai thác
hết tiềm năng đất đai, góp phần xoá đói giảm nghèo, tăng thu nhập cho các hộ
nông dân Thành phố Thái Nguyên.
3
Phần 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

2.1. Cơ sở khoa học của đề tài
Trong điều kiện canh tác hiện nay, người nông dân vẫn còn lạm dụng
nhiều vào phân bón nhằm tăng năng suất ngô. Nhưng hiệu quả mà nó mang
lại không cao, mặt khác còn gây hậu quả như tăng mức độ sâu bệnh, gây ô
nhiễm môi trường, thoái hóa đất. Việc bón phân cho cây ngô theo kinh

nghiệm, bón không cân đối, bón theo khả năng kinh tế của mỗi gia đình, bón
không hiểu tác dụng của từng loại phân. Đã dẫn đến tình trạng không đáp ứng
đủ nhu cầu dinh dưỡng của cây, trong khi ngô lại là những cây rất phàm ăn,
lượng dinh dưỡng cây ngô hút rất lớn nhưng ở mỗi giai đoạn sinh trưởng
lượng hút rất khác nhau. Trong giai đoạn cây con, cây sinh trưởng chậm,
lượng dinh dưỡng cây hút ít. Sau đó lượng hút tăng lên rất nhanh do cây sinh
trưởng mạnh, kéo theo tích lũy chất khô tăng lên.
Xuất phát những cơ sở khoa học trên, chúng tôi đã tiến hành thực hiện đề
tài này.
2.2. Tình hình sản xuất ngô trên thế giới và ở Việt Nam
2.2.1. Tình hình sản xuất ngô trên thế giới
Ngô là cây lương thực quan trọng trong nền kinh tế toàn cầu, mặc dù chỉ
đứng thứ về diện tích sau lúa nước và lúa mì, nhưng ngô lại dẫn đầu về năng
suất và sản lượng, là cây trồng có tốc độ tăng trưởng về năng suất cao nhất
trong các cây lương thực chủ yếu.
Ngô còn là cây điển hình được ứng dụng nhiều thành tựu khoa học về
các lĩnh vực di truyền học, chọn giống, công nghệ sinh học, cơ giới hoá, điện
khí hoá và tin học vào công tác nghiên cứu và suất. Do vậy diện tích, năng
suất ngô liên tục tăng trong những năm gần đây.
4
Từ bảng 2.1 cho chúng ta thấy, về diện tích năm 2003, diện tích ngô trên
toàn thế giới 114,67 triệu ha, thì sau 7 năm con số này đã tăng hơn 23 triệu
ha, lên 161,01 triệu ha. Năm 2009 thì lại giảm xuống hơn 4 triệu ha, còn
156,93 triệu ha. Đến năm 2012 so với năm 2003 thì diện tích trồng ngô trên
thế giới tăng hơn 35 triệu ha lên 177,39 triệu ha. Năng suất nhìn chung là tăng
năm 2003 là 44, 6 tạ/ha đến năm 2012 là 49,16 tạ/ha tăng lên hơn 5 tạ/ ha. So
sánh giữa sản lượng và diện tích thì ta thấy, từ năm 2003 tới năm 2012 thì
diện tích tăng hơn 63 triệu ha, thì sản lượng tăng hơn 226 triệu tấn. Năm 2012
diện tích trồng ngô cao nhất là châu Mỹ sau đó là châu Á và châu Phi.
Bảng 2.1. Tình hình sản xuất ngô trên thế giới giai đoạn 2003- 2012

Chỉ tiêu

Năm
Diện tích
(triệu ha)
Năng suất
(tạ/ ha)
Sản lượng
(triệu tấn)
2003 114,67 44,60 645,23
2004 147,47 49,45 729,21
2005 147,44 48,42 713,91
2006 148,61 47,53 706,31
2007 158,60 49,63 788,11
2008 161,01 51,09 822,71
2009 156,93 50,04 790,18
2010 162,32 51,55 820,62
2011 170,39 51,84 883,46
2012 177,39 49,16 872,06
(Nguồn FAOSTAT, 2014) [28]
Có được kết quả trên, trước hết là nhờ ứng dụng rộng rãi lý thuyết ưu thế
lai trong chọn tạo giống, đồng thời không ngừng cải thiện các biện pháp kỹ
thuật canh tác. Đặc biệt, từ năm 1996 đến nay, cùng với những thành tựu mới
trong chọn tạo giống ngô lai nhờ kết hợp phương pháp truyền thống với công
nghệ sinh học thì việc ứng dụng công nghệ cao trong canh tác cây ngô đã góp
phần đưa sản lượng ngô thế giới vượt lên trên lúa mì và lúa nước.
5
Bảng 2.2. Sản xuất ngô ở một số châu lục trên thế giới năm 2012
Khu vực
Diện tích

(triệu ha)
Năng suất
(tạ/ ha)
Sản lượng

(triệu tấn)
Châu Á 57,6 50,2 288,8
Châu Mỹ 67,7 61,8 418,2
Châu Âu 18,32 51,7 94,7
Châu Phi 33,7 20,7 51,7
(Nguồn FAOSTAT, 2014)[28]
Qua bảng 2.2 ta thấy Châu Mỹ là khu vực có diện tích trồng ngô lớn nhất
thế giới với 64,50 triệu ha, đồng thời đây cũng là châu lục có năng suất và sản
lượng ngô cao nhất. Năm 2012 năng suất ngô đạt 67,96 tạ/ha, năng suất bình
quân của thế giới chỉ bằng 76,28% năng suất của châu lục này. Sản lượng đạt
418,2 triệu tấn- chiếm hơn 54% sản lượng ngô trên toàn thế giới. Sau châu
Mỹ là châu Á có diện tích trồng ngô lớn thứ 2 với 57,6 triệu ha, nhưng năng
suất của khu vực này chỉ đạt 50,2 tạ/ha, thấp hơn so với năng suất trung bình
của thế giới, sản lượng của châu Á cũng đứng thứ 2 sau châu Mỹ. Châu Âu
đứng thứ 2 trên thế giới về năng suất đạt 51,7 tạ/ha nhưng lại là khu vực có
diện tích trồng ngô thấp nhất (chỉ 18, 32 triệu ha), châu Phi có diện tích đứng
thứ 3 trên thế giới nhưng có năng suất ngô rất thấp, chỉ đạt 20,7 tạ/ ha thấp
hơn gần 3 lần so với năng suất bình quân của thế giới, do đó sản lượng ngô
của khu vực này cũng thấp nhất. Nguyên nhân của sự phát triển không đồng
đều giữa các châu lục trên thế giới là do sự khác nhau rất lớn về trình độ khoa
học kỹ thuật, điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế chính trị … Ở châu Mỹ có
trình độ khoa học phát triển cao trong khi Châu Phi nền kinh tế kém phát triển
cộng thêm tinh hình chính trị an ninh không đảm bảo đã làm cho sản xuất
nông nghiệp ở khu vực này tụt hậu so với nhiều khu vực trên thế giới (Nguồn
FAOSTAT, 2014) [28].

Sự phát triển của khoa học kỹ thuật và công nghệ đã đem lại những kết
quả trên, phải kể đến sự đóng góp của việc sử dụng rộng rãi ưu thế lai hay
công nghệ chuyển gen - sự kết hợp phương pháp truyền thống với công nghệ
sinh học hiện đại tạo ra những giống năng suất cao. Tuy nhiên những thành
6
tựu trên cũng đi kèm với những nghiên cứu về tác động của môi trường, điều
kiện sinh thái lên sự sinh trưởng và phát triển của các giống ngô.
Dự báo đến năm 2020, nhu cầu ngô thế giới tăng 45% so với nhu cầu
năm 1997, chủ yếu tăng cao ở các nước đang phát triển (72%), trong đó các
nước khu vực Đông Á được dự báo có nhu cầu tăng mạnh nhất vào năm 2020
(85%). Sở dĩ nhu cầu ngô tăng mạnh ở các nước này là do dân số tăng, thu
nhập bình quân đầu người tăng, dẫn đến nhu cầu về lương thực, thực phẩm
tăng mạnh, từ đó đòi hỏi khối lượng ngô rất lớn để phát triển chăn nuôi.
2.2.2. Tình hình sản xuất ngô ở Việt Nam
Ở Việt Nam, sản xuất lương thực luôn là một nhiệm vụ quan trọng trước
mắt và lâu dài, được ưu tiên hàng đầu trong chiến lược sản xuất nông nghiệp.
Với điều kiện tự nhiên phong phú, cây ngô sinh trưởng phát triển và phổ biến
khắp các vùng trên cả nước. Lịch sử trồng ngô của nước ta qua các thời kỳ là
một quá trình phát triển không đồng đều và bền vững thậm chí có giai đoạn
rất trì trệ và không tương xứng với tiềm năng sẵn có của cây ngô và điền kiện
tự nhiên của nước ta. Thế nhưng, trong những năm gần đây do giá trị kinh tế
và nhu cầu về ngô trong nước cũng như trên thế giới có xu hướng tăng lên,
sản xuất ngô đã nhận được rất nhiều sự quan tâm của Đảng và Nhà nước nên
diện tích, năng suất và sản lượng ngô có những bước tiến đáng kể.
Bảng 2.3. Tình hình sản xuất ngô ở Việt Nam trong giai đoạn 2003-2012
Chỉ tiêu

Năm
Diện tích
(nghìn ha)

Năng suất
(tạ/ ha)
Sản lượng
(nghìn tần)
2003 912,7 34,4 3.136,3
2004 991,1 34,6 3.430,9
2005 1.052,6 36,2 3.787,1
2006 1.033,1 37,3 3.854,5
2007 1.096,1 39,3 4.303,2
2008 1.140,2 40,2 4.573,1
2009 1.086,8 40,8 4.431,8
2010 1.126,9 40,9 4.606,3
2011 1.081,0 46,8 4.684,3
2012 1.118,2 42,9 4.803,2
(FAOSTAT, 2014) [28].
7
Số liệu bảng 2.4 cho thấy sản xuất ngô của nước ta tăng nhanh về diện
tích, năng suất và sản lượng trong giai đoạn 2003- 2008. Năm 2012 diện tích
có tăng so với năm 2011 đạt 1.181,2 nghìn ha. Năm 2003 cả nước trồng được
912,7 nghìn ha, năm 2011 là 1.081,0 nghìn ha, tăng hơn 168,3 nghìn ha so với
năm 2003, so với năm 2012 là 1.181,2 nghìn ha tăng 205,5 nghìn ha. Việc
tăng cường sử dụng giống ngô lai cho năng suất cao kết hợp với các biện pháp
kỹ thuật canh tác tiên tiến, áp dụng những thành tựu khoa học đã khiến cho
năng suất ngô liên tục tăng trong giai đoạn 2003- 2012 (từ 34, 4 tạ/ha lên
42,9tạ/ha). Sản lượng ngô năm 2012 đã tăng so với năm 2011 lên mức
4.803,2 nghìn tấn. Tuy diện tích, năng suất và sản lượng ngô của chúng ta đều
tăng nhanh nhưng so với bình quân chung của thế giới và khu vực thì năng
suất ngô của nước ta còn rất thấp (năm 2012 năng suất ngô của Việt Nam 42,9
tạ/ha, bằng 90,27% năng suất bình quân của thế giới. Điều này đặt ra cho
ngành sản xuất ngô Việt Nam những thách thức và khó khăn to lớn, đặc biệt

là trong xu thế hội nhập và phát triển như hiện nay. Đòi hỏi đội ngũ chuyên
môn cũng như các nhà khoa học trong cả nước tiếp tục lỗ lực, nghiên cứu ra
những giống ngô va biện pháp kỹ thuất canh tác hiệu quả để nâng cao năng
suất và chất lượng của sản xuất ngô Việt Nam, góp phần vào sự phát triển của
ngành nông nghiệp Việt Nam (FAOSTAT, 2014) [28].
Năm 1991 diện tích trồng giống ngô lai chưa đến 1% trong tổng số
400.000 ha, năm 2004 diện tích trồng ngô của cả nước là 990.400 ha, năng suất
đạt 34,9 tạ/ha và sản lượng là 3.454 triệu tấn. Tỷ lệ diện tích trồng bằng giống
lai là 84%, năm 2007 giống lai đã chiếm khoảng 95% trong số hơn 1 triệu ha.
Để đạt được thành quả này trong thời gian qua là nhờ những tiến bộ và việc
chọn được nguồn nguyên liệu ban đầu phù hợp cho việc tạo dòng thuần là các
giống lai ưu tú của chương trình phát triển giống ngô lai ở nước ta.
Sự phát triển ngô ở Việt Nam đã được CIMMYT và FAO cũng như
các nước trong khu vực đánh giá cao. Việt Nam đã đuổi kịp các nước
8
trong khu vực về trình độ nghiên cứu tạo giống ngô và đang ở giai đoạn
đầu đi vào công nghệ cao.
Một thực trạng đặt ra hiện nay là mặc dù diện tích, năng suất và sản lượng
ngô của nước ta đều tăng nhanh nhưng so với bình quân chung của thế giới
năng suất ngô nước ta còn rất thấp, mặt khác nhu cầu sử dụng ngô của Việt
Nam ngày càng lớn. Vấn đề này đặt ra nhiệm vụ rất quan trọng và cấp thiết cho
các cơ quan nghiên cứu chọn tạo giống là tạo ra các giống ngô có năng suất
cao, chống chịu tốt đồng thời đáp ứng được cả yêu cầu về chất lượng.
Bảng 2.4. Tình hình sản xuất ngô ở các vùng năm 2012
Vùng
Diện tích

(nghìnha)

Năng suất


(tạ/ha)
Sản lượng

(nghìntấn)

Đồng bằng sông Hồng 86,6 46,7 404,3
Trung du và miền núi phía Bắc 466,8 36,3 1.696,2
Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung

202,3 40,8 826,0
Tây nguyên 243,9 49,8 1.214,3
Đông Nam Bộ 79,3 56,2 445,3
ĐB sông Cửu Long 39,4 55,2 127,5
(Nguồn: Tổng cục thống kê, 2014)[21]
Vùng Trung du và miền núi phía Bắc tuy diện tích sản xuất ngô lớn nhất
(466,8 nghìn ha) nhưng năng suất lại thấp nhất trong cả nước (36,3 tạ/ha).
Ngược lại vùng đồng bằng sông Cửu Long diện tích sản xuất nhỏ nhất (39,4

nghìn ha), nhưng lại cho năng suất cao thứ 2 sau vùng Đông Nam Bộ (55,2
tạ/ha). Sự trái ngược này có thể được giải thích do nhiều nguyên nhân: Vùng
Trung du và miền núi phía Bắc tuy có diện tích lớn song chủ yếu tập trung ở các
vùng miền núi, diện tích rải rác nhỏ lẻ thuộc các vùng dân tộc ít người. Họ
không có đủ điều kiện đầu tư về vốn cũng như các biện pháp kỹ thuật canh tác
phù hợp mà chủ yếu canh tác theo lối truyền thống lạc hậu. Cộng thêm vào đó là
các điều kiện đất đai nghèo dinh dưỡng, khí hậu khắc nghiệt với hạn hán và rét
9
kéo dài vào mùa đông, lượng mưa phân bố không đều trong năm dẫn tới năng
suất thấp. Tuy nhiên, với ưu thế về diện tích (chiếm 38,3% diện tích của cả
nước) nên sản lượng chung của vùng vẫn cao hơn các vùng khác, đạt 1.696,2

nghìn tấn chiếm 30,5% sản lượng của cả nước và trở thành một trong những
vùng sản xuất ngô trọng điểm cung cấp lượng ngô lớn nhất cả nước.
Vùng Đông Nam Bộ có năng suất cao nhất đạt 56,2 tạ/ha bằng 126,7%
năng suất trung bình của cả nước do vùng có điều kiện tự nhiên thuận lợi, phù
hợp với yêu cầu sinh trưởng, phát triển của cây ngô như: nhiệt độ bình quân
cao 25 - 30
o
C, nguồn ánh sáng dồi dào, hệ thống thủy lợi đảm bảo nhu cầu
tưới tiêu, nền đất có độ phì nhiêu cao. Tất cả các điều kiện tự nhiên kết hợp
với các biện pháp kỹ thuật canh tác phù hợp đã dẫn tới sự tăng vọt năng suất
trung bình của vùng.
Tây Nguyên cũng được xem là trọng điểm sản xuất ngô của cả nước với
diện tích 243,9 nghìn ha đứng thứ 2 sau vùng trung du và miền núi phía Bắc.
Năng suất trung bình đạt 49,8 tạ/ha. Đứng thứ 3 sau vùng Đông Nam Bộ và
đồng bằng sông Cửu Long. Do có diện tích và năng suất khá cao nên sản
lượng ngô năm 2010 thu được là 1164,6 nghìn tấn đứng thứ hai của cả nước.
Các giống ngô nếp có tiềm năng năng suất cao đã và đang được phát
triển ở những vùng ngô trọng điểm, vùng thâm canh, có thuỷ lợi, những vùng
đất tốt như: đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu Long, Đông Nam
Bộ, Tây Nguyên. Tuy nhiên, ở các tỉnh miền núi, những vùng khó khăn, canh
tác chủ yếu nhờ nước trời, đất xấu, đầu tư thấp thì giống ngô thụ phấn tự do
chiếm ưu thế và chiếm một diện tích khá lớn.
Mặc dù có sự phát triển không đồng đều giữa các vùng sản xuất ngô ở
Việt Nam nhưng từ những kết quả đã đạt được chúng ta vẫn có thể khẳng định
sản xuất ngô của Việt Nam trong giai đoạn đổi mới, từ năm 1985 - 2009 đã có
sự phát triển vượt bậc. Sở dĩ chúng ta đạt được những thành quả to lớn trong
10
phát triển sản xuất ngô là do Đảng, Nhà nước và Bộ Nông Nghiệp và Phát triển
nông thôn thấy được vai trò của cây ngô trong nền kinh tế và kịp thời đưa ra
những chính sách, biện pháp phù hợp nhằm khuyến khích sản xuất.

Nhóm ngô nếp hiện có trong sản xuất ở Việt Nam là những giống ngắn
ngày, thời gian sinh trưởng 70 - 85 ngày , bao gồm VN2, MX2,MX4 và nếp
Nù N1. Năng suất hạt khô có thể đạt từ 30- 45 tạ/ha, bắp tươi từ 7-8 tấn/ha;
khả năng chống chịu hạn, chua, phèn, đổ khá, ít nhiễm sâu bệnh. Chính vì thế
diện tích trồng ngô nếp ở nước ta thời gian qua tăng khá nhanh,chiếm xấp xỉ
10% diện tích trồng ngô của cả nước, chủ yếu là giống thụ phấn tự do và một
số giống lai không quy ước. Như vậy diện tích trồng ngô nhóm chất lượng nói
chung và ngô nếp nói riêng còn hạn chế ở nước ta.
Trong những năm qua công tác chọn tạo giống ngô ưu thế lai ở nước ta
tập trung tạo giống ngô thường, nhóm ngô thực phẩm, ngô quà còn hạn chế.
Vì vậy chọn tạo giống ngô nếp ưu thế lai là nhu cầu của thực tế sản xuất, góp
phần làm phong phú thêm bộ giống ngô trong cơ cấu sản xuất và nâng cao
hiệu quả kinh tế cho người trồng ngô. Ở nước ta, ngô là cây trồng nhập nội
được đưa vào Việt Nam khoảng 300 năm và đã trở thành một trong những cây
trồng quan trọng trong hệ thống cây lương thực quốc gia (Ngô Hữu Tình và
cs, 1997) [19]. Cây ngô đã khẳng định vị trí trong sản xuất nông nghiệp và trở
thành cây lương thực quan trọng đứng thứ hai sau cây lúa đồng thời là cây
màu số một, góp phần đáng kể trong việc giải quyết lương thực tại chỗ cho
người dân Việt Nam, nhờ những đặc tính sinh học ưu việt như khả năng thích
ứng rộng, chịu thâm canh, đứng đầu về năng suất, trồng được ở nhiều vùng
sinh thái và ở các vụ khác nhau trong năm, từ đó diện tích trồng ngô nhanh
chóng được mở rộng ra khắp cả nước, đặc biệt là các vùng Trung du và miền
núi phía Bắc. Trong hơn mười năm trở lại đây, những thành công trong công
tác nghiên cứu và sử dụng các giống ngô lai được coi là cuộc cách mạng thực
11
sự trong ngành sản xuất ngô ở Việt Nam. Những thành tựu nghiên cứu về cây
ngô đã thay đổi sâu sắc tập quán trồng ngô ở Việt Nam và đã có những đóng
góp nhất định cho mục tiêu phát triển cây ngô ở nước ta.
2.2.3. Tình hình sản xuất ngô vùng Đông Bắc
Vùng Đông Bắc bao gồm 8 tỉnh (Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Tuyên

Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Bắc Giang và Phú Thọ), là một trong các
vùng trồng ngô có diện tích lớn ở Việt Nam. Diện tích trồng ngô năm 2010
của vùng Đông Bắc là 196.200 ha, tuy diện tích lớn nhưng phân bố rải rác, đất
trồng ngô có địa hình phức tạp, chủ yếu là đất phiêng bãi, thung lũng, thềm
sông suối, độ cao so với mặt nước biển thay đổi từ vài trăm mét (Lạng Sơn)
đến hơn nghìn mét (Cao nguyên Đồng Văn - Hà Giang). Khí hậu của vùng
Đông Bắc thường khắc nghiệt, hạn và rét kéo dài, lượng mưa không phân bố
đều trong năm, đã ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất ngô của vùng.
Mặc dù sản lượng ngô của vùng Đông Bắc chiếm tới 15,3% sản lượng
ngô cả nước nhưng mới chỉ cung cấp được cho nhu cầu ngô của vùng, sản
xuất ngô hàng hóa chưa nhiều. Phần lớn diện tích trồng ngô của vùng là trồng
trên đất dốc và nhờ nước trời, đầu tư thâm canh thấp, một số tỉnh có tỷ lệ
giống ngô địa phương và giống ngô thụ phấn tự do cao, là nguyên nhân làm
cho năng suất ngô đạt thấp hơn các vùng khác. Các giống ngô địa phương và
giống thụ phấn tự do tuy năng suất thấp nhưng lại có chất lượng và khả năng
chống chịu tốt. Mặt khác đồng bào miền núi vẫn canh tác theo tập quán cũ
không thu hoạch ngô khi chín mà để “treo đèn” ngoài đồng, nên các giống
ngô lai tuy có năng suất cao nhưng lại không thích hợp với tập quán canh tác
này do dễ bị sâu bệnh sau thu hoạch tấn công, gây hại. Tình hình sản xuất ngô
của các tỉnh vùng Đông Bắc được trình bày ở bảng 2.5.
12
Bảng 2.5. Diện tích, năng suất, sản lượng ngô
vùng Đông Bắc từ 2010 - 2012
TT

Tỉnh
Diện tích
(1.000 ha)
Năng suất
(tạ/ha)

Sản lượng
(nghìn tấn)
2010 2011

2012 2010 2011 2012 2010 2011 2012
1 Hà Giang 47,6 49,9

52,5 28,6 31,1 31,8 136,3

155,3

167,2

2 Cao Bằng 38,5 39,0

39,3 30,2 32,0 32,5 116,2

124,8

127,7

3 Bắc Kạn 15,9 16,9

16,5 36,0 38,3 37,2 57,3 64,7 61,4
4 Tuyên Quang 16,7 16,5

14,0 42,3 43,9 43,1 70,7 72,4 60,4
5 Thái Nguyên 17,9 18,6

17,9 42,0 43,2 42,2 75,2 80,4 75,5

6 Lạng Sơn 20,2 20,9

21,8 48,1 48,2 47,8 97,2 100,7

104,3

7 Bắc Giang 12,3 10,8

8,6 36,5 37,7 39,1 44,9 40,7 33,6
8 Phú Thọ 20,7 21,4

17,4 43,7 44,1 45,5 90,4 94,3 79,1
Vùng Đông Bắc 189,8

194 188 307,4

318,5

319,2

688,2

733,3

709,2

Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2014 [21]
Bắc Giang là tỉnh có diện tích trồng ngô ít nhất trong vùng Đông Bắc,
diện tích năm 2012 đạt 8,6 nghìn ha (ít hơn 300 ha so với năm 2008), năng suất
năm 2012 đạt 39,1 ta/ha (sản lượng đạt 33,6 nghìn tấn. Năng suất ngô của Bắc

Giang đạt trung bình so với vùng Đông Bắc, do diện tích trồng các giống ngô
thụ phấn tự do còn chiếm tỷ lệ lớn trong sản xuất. Tại vùng Đông Bắc các tỉnh
đạt năng suất ngô cao là những tỉnh có diện tích trồng ngô lai trên 95% như
Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Phú Thọ. Tuy nhiên các tỉnh này lại ít
có khả năng mở rộng diện tích, do đó sản xuất ngô của vùng Đông Bắc đã và
đang phát triển chậm hơn so với các vùng ngô khác.
2.2.4. Tình hình sản xuất ngô của tỉnh Thái Nguyên
Là một tỉnh thuộc vùng Trung du, miền núi phía Bắc, với địa hình đặc
trưng đồi núi xen kẽ với ruộng thấp, chủ yếu là núi đá vôi và đồi dạng bút
tháp. Do vậy, nền sản xuất Nông nghiệp của Thái Nguyên nói chung và
ngành sản xuất ngô nói riêng gặp rất nhiều khó khăn về thủy lợi và giao
13
thông vận chuyển. Toàn tỉnh có tổng diện tích 3.541 km
2
, trong đó đất canh
tác Nông nghiệp chiếm 23%. Cây ngô chủ yếu được trồng trên đất 2 lúa:
Vụ Đông trên đất đồi dốc và vụ Xuân hè. Cùng với sự phát triển ngô trong
cả nước, tỉnh Thái Nguyên trong những năm gần đây cũng rất quan tâm phát
triển sản xuất ngô và đã thu được nhiều kết quả khả quan. Nhờ có các thành
tựu khoa học kỹ thuật mới, được nông dân ứng dụng mạnh mẽ vào sản xuất
ngô nên diện tích, năng suất và sản lượng ngô ở Thái Nguyên tăng nhanh
trong những năm gần đây.
Qua số liệu bảng 2.6 cho thấy: Từ năm 2005 đến 2008, diện tích ngô của
tỉnh Thái Nguyên tăng từ 15,9 nghìn ha lên 20,6 nghìn ha, năm 2006 diện
tích giảm nhẹ (15,3 nghìn ha). Đến năm 2008 diện tích trồng ngô của tỉnh đạt
cao nhất từ trước tới nay (20,6 nghìn ha). Năm 2009, 2010 diện tích giảm so
với năm 2008. Năm 2012, diện tích ngô lại tăng đạt 17,9 nghìn ha. Năng suất
ngô của tỉnh tăng đều từ năm 2005 đến năm 2008 (34,7 - 41,1tạ/ha). Năm
2011, năng suất ngô của tỉnh đạt cao nhất từ trước đến nay, đạt 43,3 tạ/ha cao
hơn trung bình cả nước (42,9 tạ/ha). Đến năm 2012 có sự giảm nhẹ đạt 42,2

nghìn tấn (Tổng cục thống kê, 2014) [21].
Bảng 2.6. Diện tích, năng suất và sản lượng ngô
của tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2005 - 2012
Năm
Diện tích
(1000 ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lượng
(1000 tấn)
2005 15,9 34,7 55,1
2006 15,3 35,2 53,9
2007 17,8 42,0 74,9
2008 20,6 41,1 84,7
2009 17,4 38,6 67,2
2010 17,9 42,0 75,2
2011 18,6 43,2 80,4
2012 17,9 42,2 75,5
Nguồn: Tổng cục thống kê, 2014 [21]
14
Ngoài việc thâm canh ngô lai ở những vùng thuận lợi, cần tăng cường sử
dụng các giống ngô thụ phấn tự do cải tiến ở những vùng khó khăn, nhằm
tăng năng suất, sản lượng và chất lượng ngô, nâng cao hiệu quả kinh tế, góp
phần xoá đói giảm nghèo cho nông dân. Đặc biệt phải tiến hành nghiên cứu
khả năng thích ứng của các giống ngô nhập nội và mở rộng các giống mới ra
sản xuất nhằm đảm bảo nhu cầu lương thực, đồng thời nâng cao được chất
lượng lương thực cho đồng bào dân tộc thiểu số vùng cao và góp phần giảm
giá thành sản phẩm ngành chăn nuôi, nâng cao hiệu quả kinh tế.
Những năm gần đây Thái Nguyên đã chuyển đổi cơ cấu giống, sử dụng các
giống ngô lai năng suất cao như: LVN10, LVN11, LVN12, LVN99, và một số

giống ngô nhập nội như: Bioseed 9607, DK999, NK4300, C919 vào sản xuất.
2.3. Tình hình nghiên cứu phân bón cho ngô trên thế giới và ở Việt Nam
2.3.1. Tình hình nghiên cứu phân bón cho ngô trên thế giới
Cây ngô là một cây ngũ cốc quang hợp theo chu trình C4, là cây ưa
nhiệt, có hệ thống rễ chùm phát triển. Cây ngô là cây có tiềm năng năng suất
lớn. Trong các biện pháp thâm canh tăng năng suất ngô, phân bón giữ vai trò
quan trọng nhất. Sự hút các chất dinh dưỡng thay đổi theo các giai đoạn sinh
trưởng, phát triển của ngô. Dựa vào biến đổi hình thái của cây để xác định
nhu cầu dinh dưỡng từng thời kỳ cho ngô.
Viện Kỹ thuật Cây ngũ cốc và Thức ăn gia súc (Pháp) chia quá trình sinh
trưởng phát triển của cây ngô ra làm 4 giai đoạn:
- Giai đoạn tăng trưởng chậm: Từ khi mọc đến khi 7 - 8 lá: Đây là giai
đoạn hình thành và phát triển bộ rễ. Đây cũng là giai đoạn phân hoá tạo bông
cờ. Giai đoạn này lượng dinh dưỡng cây hút không lớn chỉ bằng 1 - 4% tổng
lượng dinh dưỡng so với cả vòng đời cây hút.
Sự hút chất dinh dưỡng ở thời kỳ đầu tuy chậm nhưng rất quan trọng cho
ngô, bao gồm các dạng dễ hấp thu của các hợp chất chứa NPK so với tổng
lượng dinh dưỡng và tổng chất khô đã tích luỹ được. Sau mọc 20 - 30 ngày
15
ngô tích luỹ được 4% chất khô, 9% lân, 10% đạm, 14% kali; sau 60 ngày:
45% chất khô, 57% lân, 66% đạm, 92% kali.
- Giai đoạn tăng trưởng nhanh: Từ 7 - 8 lá đến sau trỗ 15 ngày: Ở giai
đoạn này các bộ phận trên mặt đất (thân lá) và dưới mặt đất đều tăng trưởng
rất nhanh. Các cơ quan sinh trưởng phát triển mạnh, lượng tinh bột và chất
khô trong bắp tăng nhanh. Đây là giai đoạn cây hấp thu tối đa dinh dưỡng
bằng 75 - 95% tổng lượng dinh dưỡng so với cả vòng đời cây hút. Thiếu chất
dinh dưỡng ở thời kỳ 8 - 11 lá sẽ cản trở sinh trưởng của lá và giảm từ 10 -
20% năng suất, đặc biệt ở thời kỳ trỗ cờ phun râu cây đòi hỏi dinh dưỡng rất
gay gắt, nếu thời kỳ này một nửa số lá héo khô lúc này sẽ làm giảm 25 - 30%
năng suất.

- Thời kỳ nở hoa, ngô đã hút gần như toàn bộ số kali cần thiết và lượng
lớn đạm và lân.
- Giai đoạn chín: Quá trình tích luỹ chất khô đã hoàn thành, ngô bắt đầu
mất nước nhanh, các bộ phận sinh trưởng sinh dưỡng chuyển sang màu vàng.
Hầu hết các giống đều cần khoảng 60 ngày để hoàn thành hạt; trong đó các
giống ngắn ngày cần ít hơn, khoảng 35 - 40 ngày trong thời gian hình thành hạt,
mỗi ngày bình quân tạo thành 2,5 - 3% trọng lượng hạt khi chín hoàn toàn.
Trong giai đoạn chín cây ngô thực hiện các chức năng phân phối lại
lượng dinh dưỡng đã hấp thụ. Lượng dinh dưỡng cây hấp thụ được không chỉ
tích luỹ ở hạt mà còn một lượng lớn ở thân lá.
Để đạt năng suất cao và ổn định, ngô cần được bón phân cân đối, đặc
biệt là giữa các yếu tố NPK. Điều này được chứng minh rất rõ qua các thí
nghiệm bón các tổ hợp phân cho ngô trong suốt 28 vụ của Viện Kali quốc tế
cho thấy chỉ có bón cân bằng NPK năng suất ngô mới cao và ổn định.
Theo Johnson và CS (dẫn theo De., 1973) [27], năng suất trung bình
của các giống ngô lai là 6.838 kg/ha, với liều lượng phân bón: 95N -
67P
2
O
5
- 20K
2
O kg/ha.
16
Mức bón phân được khuyến cáo cho ngô ở Đài Loan là 175 kg N + 95
kg P
2
O
5
+ 70 kg K

2
O/ha.
Hàng thập kỷ gần đây, năng suất ngô tăng lên có liên quan chặt chẽ với
mức cung cấp N cho ngô. Đạm được cây ngô hút với một lượng lớn và đạm có
ảnh hưởng khác nhau rõ rệt đến sự cân bằng cation và anion ở trong cây. Khi cây
hút N - NH
4
+
sự hút các cation khác chẳng hạn như K
+
, Ca
2+
, Mg
2+
sẽ giảm trong
khi sự hút anion đặc biệt là Phosphorus sẽ thuận lợi. Xảy ra chiều hướng ngược
lại, khi cây hút N nitrat (Mengel, 1968) (dẫn theo Arnon, 1974) [26]. Tùy thuộc
vào tuổi của cây, với cây ngô non sự hút amonium-N nhanh hơn sự hút đạm
nitrat, trái lại các cây ngô già dạng đạm hút chủ yếu là đạm nitrat và có thể chiếm
tới hơn 90% tổng lượng đạm cây hút (Coic, 1964) (dẫn theo Arnon, 1974) [26].
Đạm cũng là thành phần cấu trúc của vách tế bào. Đạm là yếu tố cần
thiết cho sự sinh trưởng của cây và là thành phần của tất cả các protein. Đạm
là yếu tố dinh dưỡng quan trọng nhất để xác định năng suất ngô. Khi thiếu N
chồi lá mầm sẽ không phát triển đầy đủ, sự phân chia tế bào ở đỉnh sinh
trưởng bị kìm hãm và kết quả là giảm diện tích lá, kích thước của cây và năng
suất giảm. Phân đạm có thể tạo ra sự tăng diện tích lá hiệu quả ngay từ đầu vụ
và duy trì một diện tích lá xanh lớn vào cuối vụ để quá trình đồng hóa quang
hợp đạt cực đại.
Mức đạm thấp làm giảm số hạt và năng suất hạt. Các giống ngô lai khác
nhau có thể sử dụng phân đạm ở mức độ khác nhau, năng suất cây trồng cao

cần phải cung cấp một lượng lớn phân bón, đặc biệt là đạm.
Năng suất ngô vùng Nhiệt đới thấp hơn năng suất ngô vùng Ôn đới bởi
số hạt/ diện tích đất và chỉ số thu hoạch (HI) của ngô Nhiệt đới thấp hơn ngô
của vùng Ôn đới. Nhìn chung, cây ngô quang hợp theo chu trình C4 và nó
phù hợp nhiệt độ cao, người ta thừa nhận là ngô có thể đạt năng suất chất khô
cao ở vùng Nhiệt đới.
17
Để đạt được năng suất cao một lượng đạm hữu hiệu phải được cây hút.
Từ 50 - 60% đạm trong hạt đã được lấy từ đạm đồng hoá ở trong lá và thân,
trước thời kỳ ra hoa và nhận thấy rằng 13 - 36 kg N/ha đã bị rửa trôi bên dưới
vùng rễ ngô trong thời kỳ sinh trưởng. Nhưng thực tế thì cây ngô chỉ hấp thu
20 - 40% lượng đạm cung cấp trong suốt thời gian sinh trưởng. Đạm cũng rễ
bị mất bởi một phần các hợp chất đạm khoáng bị rửa trôi khỏi lớp đất cày.
Năng suất ngô cao chỉ có thể đạt được khi thời gian diện tích lá xanh kéo
dài và tỷ lệ đồng hoá đạm cao sau thời kỳ ra hoa.
Dự trữ đạm ở cây ngô có ảnh hưởng rất lớn đối với sự sinh trưởng và
phát triển lá, sự tích luỹ sinh khối và sự tăng trưởng của hạt, ảnh hưởng về sau
của đạm là quan trọng khi đánh giá phản ứng của cây trồng đối với phân N.
Phốt pho là một thành phần của nhân tế bào và là nguyên tố rất cần thiết
cho quá trình phân chia tế bào, đặc biệt sự phân chia mạnh mẽ mô đỉnh sinh
trưởng. Người ta cũng cho rằng P kích thích sự hình thành rễ cây ngô, trợ
giúp quá trình chín của cây và ảnh hưởng đến sự phát triển của hạt (Arnon,
1974) [26].
Ở giai đoạn cây non của cây ngô, một lượng lân dễ tiêu phát hiện ở trong
đất có vai trò thúc đẩy Nitrat hoá (Pleshkov, 1958) (dẫn theo Arnon, 1974) [26].
Cung cấp đầy đủ P có vai trò trong giai đoạn đầu của sự sinh trưởng khi
mà có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của hệ thống rễ chưa đủ khả năng hút
lân từ kho dự trữ trong đất (Piere và Polhman, 1933) (dẫn theo Arnon, 1974)
[26]. Thiếu P giai đoạn này có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của các bộ
phận sinh sản nguyên thuỷ, sự thiếu hụt không thể bù đắp được bằng việc

cung cấp P muộn.
Các tác giả Seats và Stanberry (1963) (dẫn theo Arnon, 1974) [26] cho
rằng: Lân trong đất thường ở hai dạng chất khoáng và chất hữu cơ. Về số
lượng thường thấp hơn N và K và ở mức độ rất khác nhau từ 0,1 - 0,4%, hiếm
khi lớn hơn 0,5%. Hầu hết lân trong đất đều ở dạng vô cơ. Số lượng
18
Phosphorus trong dung dịch đất là rất nhỏ, thường dao động trong phạm vi
0,1 - 0,5ppm trong hầu hết các loại đất.
Như vậy, trên thế giới có rất nhiều nghiên cứu về phân bón cho ngô tẻ.
Tuy nhiên, đối với ngô nếp, các nhà khoa học trên thế giới tập trung quan tâm
đến công tác tạo giống chứ chưa quan tâm nhiều đến nghiên cứu ảnh hưởng
của các kỹ thuật canh tác, trong đó có phân bón đến năng suất và chất lượng
của giống ngô nếp.
2.3.2. Tình hình nghiên cứu phân bón cho ngô ở Việt Nam
Trong phạm vi nghiên cứu thuộc chương trình phát triển lương thực, Tạ
Văn Sơn (1995) [17] đã nghiên cứu nhu cầu dinh dưỡng cây ngô ở vùng Đồng
bằng sông Hồng, thu được kết quả như sau:
- Để tạo ra 1 tấn hạt, ngô lấy đi từ đất trung bình một lượng đạm, lân,
kali là: N = 22,3 kg; P
2
O
5
= 8,2 kg; K
2
O = 12,2 kg.
- Lượng NPK tiêu tốn để sản xuất ra 1 tấn ngô hạt là: N = 33,9 kg; P
2
O
5
= 14,5 kg; K

2
O = 17,2 kg.
- Tỉ lệ nhu cầu dinh dưỡng NPK là: 1: 0,35: 0,45.
- Tỉ lệ N: P: K thay đổi trong quá trình sinh trưởng phát triển như sau:
Bảng 2.7. Nhu cầu dinh dưỡng của cây ngô trong giai đoạn sinh trưởng (%)
Nguyên tố 6 - 7 lá Trỗ cờ Thu hoạch
N 51,7 47,4 52,2
P
2
O
5
8,3 9,8 19,1
K
2
O 40,0 42,7 28,7
Nguồn: Tạ Văn Sơn (1995) [17]
Kết quả này phù hợp với các nghiên cứu của nước ngoài và thể hiện rõ là
hút kali được hoàn thành sớm trước phun râu, còn các chất dinh dưỡng khác
như đạm và lân còn tiếp tục đến lúc ngô chín.

×