Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm - Một số phương pháp giúp học sinh lớp 2 khắc phục lỗi phụ âm đầu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (204.97 KB, 9 trang )

1
CHUYÊN ĐỀ:
MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 2 KHẮC PHỤC LỖI
PHỤ ÂM ĐẦU TRONG PHÂN MÔN CHÍNH TẢ NGHE VIẾT
I/ ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong quá trình dạy môn Tiếng Việt, nhiệm vụ của GV Tiểu học là hình thành
và phát triển ở học sinh các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết. Phân môn Chính tả có nhiệm
vụ rèn kĩ năng nghe, viết, đọc. Qua chữ viết đúng, đẹp GV bồi dưỡng tình yêu tiếng
Việt, hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của tiếng Việt cho HS
Phân môn Chính tả trong nhà trường có nhiệm vụ giúp HS nắm vững các quy
tắc chính tả và hình thành kĩ năng chính tả. Ngoài ra, nó còn rèn cho học sinh một số
phẩm chất như tính cẩn thận, óc thẩm mĩ.
Ngoài việc nắm vững vị trí, nhiệm vụ, tính chất, nội dung, chương trình,
phương pháp giảng dạy phù hợp, GV còn phải nắm vững các nguyên tắc dạy chính tả
Tiếng Việt.
Dạy chính tả theo khu vực phải xuất phát từ tình hình thực tế mắc lỗi chính tả
của học sinh ở từng khu vực, từng vùng miền để hình thành nội dung giảng dạy khi
xác định được trọng điểm chính tả cần dạy cho HS ở từng khu vực, từng địa phương.
Như vậy, trước khi dạy, GV cần tiến hành điều tra cơ bản để nắm lỗi chính tả phổ biến
của HS từ đó lựa chọn nội dung giảng dạy thích hợp với đối tượng HS lớp mình dạy.
Qua thực tế điều tra qua các bài viết của học sinh khối 2 chúng tôi nhận thấy
học sinh viết chữ sai lỗi nhiều, tỉ lệ học sinh yếu đối với phân môn chính tả đầu năm là
50,8%. Vì vậy chúng tôi quyết định xây dựng chuyên đề “MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP
HỌC SINH KHỐI 2 KHẮC PHỤC LỖI PHỤ ÂM ĐẦU TRONG PHÂN MÔN CHÍNH
TẢ” với mục đích đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng phân môn
chính tả của khối 2.
II/ THỰC TRẠNG GIẢNG DẠY MÔN TIẾNG VIỆT Ở LỚP 2
1. THƯC TRẠNG CHUNG:
Trường TH Đinh Trang Hòa 2 là một khu kinh tế mới, nơi tập trung dân cư của
rất nhiều vùng miền trong cả nước sinh sống ( miền Bắc, miền Trung, miền Nam và
người địa phương là dân tộc K’Ho). Nằm ở vị trí xa nơi trung tâm, việc giao lưu để


phát triển vốn ngôn ngữ còn nhiều hạn chế. Mỗi một vùng miền lại có những lỗi phát
2
âm khác nhau nên việc nghe- viết, phát âm các em còn có nhiều hạn chế do phương
ngữ. Chính vì vậy, việc nghe- viết chính tả các em thường mắc nhiều lỗi. Mặt khác, đa
số gia đình các em có đời sống khó khăn nên việc quan tâm đến việc học tập của các
em hầu như được khoán trắng cho giáo viên.
Ngoài ra trong quy ước về chữ quốc ngữ, một âm ghi bằng 2 hoặc 3 dạng.
Ví dụ: / k / ghi bằng c, k, q, âm “gờ” ghi bằng g , gh; âm “ng” ghi bằng ng,
ngh.
Phân môn Chính tả có một vị trí rất quan trọng ở bậc tiểu học bởi vì giai đoạn
Tiểu học là giai đoạn then chốt trong quá trình hình thành kĩ năng chính tả cho học
sinh. Chính tả được bố trí thành một phân môn độc lập, có tiết dạy riêng trong khi bậc
trung học cơ sở không có.
Mỗi tiết học trong phân môn Chính tả ở chương trình tiểu học có hai phần đó là
chính tả đoạn bài và chính tả âm vần. Phần chính tả đoạn bài là học sinh nghe, viết (tập
chép) một đoạn văn, đoạn thơ (theo số lượng tiếng của từng bậc học trong chuẩn
KTKN) sau khi được đọc và tìm hiểu các hiện tượng chính tả trong thời gian khoảng
15 phút. Nội dung các bài chính tả âm vần là luyện viết đúng chữ ghi tiếng có âm, vần,
thanh dễ viết sai chính tả. Thời gian dành cho bài tập chính tả âm vần dù là rất ngắn so
với chính tả đoạn bài song việc rèn kỹ năng qua bài tập đó có ý nghĩa rất lớn đối với
học sinh. Qua các bài tập chính tả âm vần các em được rèn luyện để tránh việc viết sai
chính tả các chữ ghi tiếng có âm, vần, thanh dễ lẫn nhằm đạt mục tiêu môn học.
2. THỰC TRẠNG TRONG QUÁ TRÌNH GIẢNG DẠY
a. Đối với học sinh:
- Học sinh viết sai chính tả chủ yếu do các em bị mất căn bản từ lớp dưới, chưa nắm
vững âm vần, chưa phân biệt được cách phát âm của GV, chưa hiểu rõ nghĩa của từ,
chưa có ý thức tự học, tự rèn ở nhà, chưa chú ý khi viết chính tả.
Qua thống kê các loại lỗi, học sinh thường mắc phải các loại lỗi sau:
- Lỗi do vô ý, chưa cẩn thận (như thiếu dấu phụ, thiếu dấu thanh,… )
- Lỗi do không hiểu nghĩa của từ ( để dành - tranh giành)

- Lỗi do không nắm được quy tắc chính tả ( gh, ngh chỉ đứng trước i, e, ê.)
g / gh: đua ge
ng / ngh : củ ngệ
c / k: cây céo
3
- Lỗi phát âm do sai phương ngữ ( l - n, s - x, tr - ch,…)
ch / tr: con chăn
s / x: chim xẻ
Qua thực tế các lỗi về ch/ tr; s/ x; r/ g ; v/d/ gi , l/n là phổ biến hơn cả
Nguyên nhân:
- Do các em phát âm theo thói quen địa phương
- Do các em chưa hiểu nghĩa từ
- Về nhà ít đọc sách, báo nên không nhớ mặt chữ.
- Khi thầy cô giảng bài phân tích các chữ khó các em không chú ý lắng nghe.
- Do không thuộc các quy tắc chính tả.
b/ Về phía phụ huynh:
- Phụ huynh chưa thật quan tâm đến việc kiểm tra bài vở của con mình.
- Một số phụ huynh phát âm chưa chuẩn các âm đầu dẫn đến con cái cũng bị ảnh
hưởng phát âm sai.
c/ Về dạy chính tả của giáo viên:
- Trong quá trình dạy phân môn chính tả, giáo viên chưa làm công tác điều tra để phân
biệt các nhóm đối tượng học sinh viết sai chính tả để giáo viên có biện pháp với từng
nhóm đối tương.
- Trong quá trình đọc cho học sinh viết giáo viên chưa quan tâm đến cách đọc, giáo
viên chủ yếu đọc theo cụm từ để học sinh viết mà chưa đọc trọn câu để học sinh nghe
và hiểu câu văn để viết đúng.
- Đối với các bài tập âm vần, giáo viên chưa giải nghĩa từ, khắc sâu kiến thức bằng
cách đặt câu hoặc đặt từ vào một số tình huống cụ thể để học sinh hiểu nghĩa của từ.
Một số giáo viên chưa lựa chọn được các bài tập cần làm phù hợp với đối tượng học
sinh của lớp mình nên chưa phát huy hết tác dụng của bài tập để sửa lỗi sai cho học

sinh.
- Việc chấm bài của học sinh thực hiện thường xuyên, song việc liệt kê lỗi và yêu cầu
học sinh sửa lỗi giáo viên chưa thực sự quan tâm .
III- BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC LỖI CHÍNH TẢ:
1. Đối với học sinh
4
- Rèn luyện kỹ năng: Nghe - Nhớ - Vận dụng thực hành đối với phương châm “em
nghe - em nhớ - em làm - em hiểu”.
- Ở nhà thường xuyên giải bài tập SGK, trong vở bài tập với phương châm “Học thầy
không tày học bạn”, học ở bất cứ nơi nào, dù ở nhà hay ở trường cũng phải luôn
nghiêm túc và tập trung trong khi học tập.
- Cùng với lớp tham gia trò chơi hàng tuần để kiểm tra kiến thức chính tả của mình
qua việc bồi dưỡng học sinh yếu và học sinh giỏi sau một tuần học tập .
2. Đối với phụ huynh:
- Phụ huynh cần trao đổi với giáo viên về cách học của con em mình ở nhà. Quan tâm
kiểm tra tình hình học tập của con em hàng ngày. Hàng tuần báo tình hình học tập ở
nhà của con em mình cho giáo viên.
- Khắc phục lỗi phát âm sai để con cái nêu gương, không bị ảnh hưởng khi giao tiếp.
3. Đối với giáo viên dạy trên lớp:
3.1/ Tự bồi dưỡng:
Để dạy tốt người giáo viên cần phải không ngừng học hỏi, tự tìm hiểu, nghiên
cứu để nâng cao trình độ, tay nghề, có kiến thức cơ bản về ngữ âm học, từ vựng học,
ngữ nghĩa học… có liên quan đến chính tả.
Nắm vững phương pháp đặc trưng của phân môn chính tả. Kết hợp linh hoạt
các phương pháp giảng dạy sao cho sát hợp với đối tượng học sinh của lớp mình.
Học sinh có đọc đúng và ghi nhớ âm đúng thì khi giáo viên đọc, học sinh sẽ tái
hiện và viết đúng. Vì vậy trước hết giáo viên phải phải cố gắng phát âm rõ ràng, tốc độ
vừa phải để học sinh dễ phân biệt các âm hay lẫn lộn.
3.2/ Dùng các biện pháp hướng dẫn HS phân biệt các hiện tượng chính tả, ghi
nhớ quy tắc chính tả

a/ Phân tích so sánh
Với những tiếng khó, giáo viên áp dụng biện pháp phân tích cấu tạo tiếng, so
sánh với những tiếng dễ lẫn lộn, nhấn mạnh những điểm khác nhau để học sinh ghi
nhớ.
Ví dụ: Khi viết tiếng “nặng” học sinh dễ lẫn lộn với tiếng “nặn” giáo viên yêu
cầu học sinh phân tích cấu tạo hai tiếng này.
Nặng = N + ăng + thanh nặng
5
Nặn = N + ăn + thanh nặng
So sánh để thấy sự khác nhau, tiếng “nặng”có âm cuối là “ng”, tiếng “nặn” có
âm cuối là “n”. Học sinh ghi nhớ cách phát âm và cách viết sẽ không viết sai.
b/ Giải nghĩa từ
Do phương ngữ của từng miền khác nhau, cách phát âm đôi khi chưa thống
nhất với chữ viết nên học sinh cần nắm rõ nghĩa của từ để viết cho đúng.
Ví dụ: vác nặng - lặng im
Việc giải nghĩa từ thường được thực hiện trong tiết Luyện từ và câu, Tập đọc,
Tập làm văn… nhưng nó cũng là việc làm rất cần thiết trong tiết Chính tả khi mà học
sinh không thể phân biệt từ khó dựa vào phát âm hay phân tích cấu tạo tiếng.
Có nhiều cách để giải nghĩa từ cho học sinh: Giáo viên có thể cho học sinh đọc
chú giải, đặt câu (nếu học sinh đặt câu đúng tức là HS đã hiểu nghĩa từ ), tìm từ đồng
nghĩa, trái nghĩa, miêu tả đặc điểm hoặc sử dụng vật thật, mô hình, tranh ảnh… với
những từ nhiều nghĩa giáo viên phải đặt từ đó trong văn cảnh cụ thể để giải nghĩa từ.
c/ Hướng dẫn mẹo luật chính tả:
Mẹo luật chính tả là các hiện tượng chính tả mang tính quy luật chi phối hàng
loạt từ, giúp giáo viên khắc phục lỗi chính tả cho học sinh một cách rất hữu hiệu. Ngay
từ lớp 1, các em đã được làm quen với luật chính tả đơn giản như: Các âm đầu k, gh,
ngh chỉ kết hợp với âm i, e, ê. Ngoài ra giáo viên có thể cung cấp thêm cho học sinh
một số mẹo luật khác như sau :
Để phân biệt âm đầu s/ x: Đa số các từ chỉ tên cây và tên con vật đều bắt đầu
bằng s : si, sồi, sả, sứ, sắn, sung, sao, sim, su su, sầu đâu, sơn trà, sậy, sấu, sến, sam,

sán, sầu riêng, so đũa…sáo, sâu, sên, sam, sán, sếu, sò, sóc, sói, sứa, sáo sậu, sư tử,…
Để phân biệt âm đầu tr/ ch: Đa số các từ chỉ đồ vật trong nhà và tên con vật
đều bắt đầu bằng ch: chăn, chiếu, chảo, chổi, chai, chày, chén, chum, chạn, chõ, chĩnh,
chuông, chiêng… chuột, chó, chí, chồn, chuồn chuồn, chào mào, châu chấu, chiền
chiện, chẫu chàng, chèo bẻo, chìa vôi,…
d/ Cho HS làm nhiều dạng bài tập chính tả:
Giáo viên có thể đưa ra các dạng bài tập chính tả khác nhau để giúp học sinh
tập tận dụng các kiến thức đã học, làm quen với việc sử dụng từ trong văn cảnh cụ thể.
Sau mỗi bài tập, giáo viên giúp các em rút ra các quy tắc chính tả để ghi nhớ. Trong
quá trình dạy các bài tấp chính tả âm vần, giáo viên cần có sự lựa chọn bài tập phù hợp
6
với đa số đối tượng học sinh của lớp và cá biệt đối với các nhóm đối tượng học sinh
của lớp.
Bài tập trắc nghiệm khoanh tròn
Khoanh tròn chữ cái trước từ ngữ viết đúng :
nàng xóm b- chổi che c- xa xa
d- lo lắng e- chang chang g- chim xẻ
Trắc nghiệm đúng – sai
Điền chữ Đ vào ô trống trước những chữ viết đúng chính tả và chữ S vào ô trống trước
những chữ viết sai chính tả:
gia đình da vào
cặp da dòng giống
giông bão râm bụt
Nối các tiếng ở cột A với các tiếng ở cột B để tạo thành những từ viết đúng
chính tả:
A B
long dữ
sáng sủa
giận chăn
con lanh

Bài tập lựa chọn
Chọn từ thích hợp trong ngoặc điền vào chỗ trống trong câu sau:
Đôi………này đế rất………. (dày, giày)
Em thích nghe kể…………hơn đọc……… ( truyện, chuyện )
Bài tập phát hiện
+ Tìm từ sai chính tả trong câu sau và sửa lại cho đúng:
Đàn xếu đang sải cánh trên cao.
7
Hồ về thu, nước chong vắt, mênh mông.
Bài tập điền khuyết
Điền vào chỗ trống cho phù hợp
d, r hoặc gi : …án cá, ….ễ….ãi, đêm….ao thừa, xếp hàng….ọc
s hoặc x : ….ôn….ao,….a….ôi,….ung phong, đơn….ơ
Bài tập điền từ
Chọn chữ nào trong ngoặc đơn để điền vào chỗ trống:
(lịch, nịch): quyển ; chắc
Điền vào chỗ trống tr hay ch:
cây e; mái e; ung thành; ung sức.
Điền vào chỗ trống ng hay ngh?
- ày tháng; ỉ ngơi; ười bạn; ề nghiệp.
Bài tập phân biệt
Đặt câu để phân biệt từng cặp từ sau
no – lo
dành – giành
Ngoài ra giáo viên phải kết hợp cho học sinh biết xây dựng cái đúng, loại bỏ cái sai.
Bên cạnh việc cung cấp cho học sinh những quy tắc chính tả, hướng dẫn học sinh thực
hành luyện tập nhằm hình thành các kĩ xảo chính tả cần đưa ra những trường hợp viết
sai để hướng dẫn học sinh phát hiện sửa chữa rồi từ đó hướng học sinh đi đến cái đúng.
4/ Một số lưu ý:
* Khi tổ chức các hoạt động thực hành luyện tập, giáo viên lựa chọn hình thức luyện

tập phù hợp đối tượng học sinh và phù hợp với nội dung từng bài tập nhằm tạo hứng
thú, phát huy tính tích cực chủ động của học sinh trong học tập.Trong khi cung cấp
kiến thức cho học sinh , giáo viên cần tuân theo: “Thầy nêu vấn đề – trò suy nghĩ
(thảo luận nhóm, cặp cá nhân…) đưa ra nhận xét (kết quả) thầy bổ sung đi đến kết luận
- trò ghi nhớ (thuộc lòng)”
* Nắm chắc từng đối tượng học sinh của lớp, tạo nhu cầu học tập cho các em, linh hoạt
trong đổi mới phương pháp dạy học tạo cho các em hứng thú và ham thích học chính
tả và tập đọc .
8
Khi tổ chức các hoạt động thực hành luyện tập, giáo viên lựa chọn hình thức
luyện tập phù hợp đối tượng học sinh và phù hợp với nội dung của từng bài tập nhằm
tạo hứng thú, phát huy tính tích cực chủ động của học sinh trong học tập.
Trong quá trình học sinh làm bài, giáo viên quan sát cá nhân học sinh, nhóm
học sinh để đôn đốc hướng dẫn và biết được những bài làm sai để tổ chức cho học sinh
nhận xét và sửa chữa. Đối với dạng bài tập không chỉ có đáp án đúng duy nhất, giáo
viên tổ chức cho học sinh luyện tập dưới hình thức trò chơi hoặc thảo luận nhóm thì
hiệu quả và việc chữa bài tối ưu hơn cả.
* Tổ chức hướng dẫn các phương pháp học tập hợp tác (học nhóm, học tổ …) soạn
giảng chu đáo gọn nhẹ đầy đủ cho các đối tượng đặc biệt là hệ thống câu hỏi cho học
sinh trung bình, yếu và chậm. Sử dụng đồ dùng dạy học hợp lý, hiệu quả.
* Trong một tiết học cần dành nhiều thời gian thực hành cho học sinh trung bình, yếu
động viên giúp đỡ, khuyến khích ưu tiên câu hỏi dễ bài điền từ dễ và tạo điều thuận lợi
cho học sinh trung bình, yếu tham gia phát biểu ý kiến nhằm tạo hứng thú học tập cho
các em .
* Khi đọc cho học sinh viết thì giáo viên phải đọc thật chuẩn, rõ ràng chính xác và
nhấn mạnh nhiều lần ở các từ, tiếng khó đó.
* Khi học sinh viết bài giáo viên phải luôn luôn theo dõi kiểm tra và sửa chữa kịp thời
những từ, tiếng mà các em vừa viết sai theo tiếng địa phương .
* Giáo viên tổ chức cho học sinh nhận xét góp ý bài của bạn, chỉ ra được lỗi để cùng
chữa. Trường hợp nếu học sinh không phát hiện ra lỗi, giáo viên gợi ý để học sinh

nhận ra và chữa lỗi.
Khi đánh giá, ngoài việc chấm bài cho học sinh, giáo viên nên tổ chức cho học
sinh tự chấm bài hoặc chấm bài cho bạn dựa vào đáp án đúng và hướng dẫn chấm của
giáo viên.
Qua mỗi bài tập giáo viên tổng kết ý kiến và chốt lại nội dung kiến thức cần ghi
nhớ và kỹ năng cần rèn luyện.
Giáo viên nên tuyên dương, khen thưởng động viên kịp thời tạo hứng thú cho
các em say mê học tập.
* Vào giờ luyện viết ở buổi 2 và các ngày học có 4 tiết, dành tiết thứ 5 để luyện tập
cho học sinh trung bình, yếu một số bài tập về dạng vừa mới học, lần lượt gọi học sinh
trung bình, yếu lên viết. Lớp nhận xét để bạn thấy được chỗ sai, thiếu sót rồi xoá đi để
bạn viết lại cho đúng mới thôi.
9
* Giao cho HS luyện viết thêm ở nhà mỗi ngày 5 dòng các bài tập đọc trong tuần. Giao
cho đôi bạn học tập kiểm tra chéo thường xuyên vào mỗi buổi sáng.
* Tổ chức trò chơi “đố vui tìm tiếng đúng” cho cả lớp về kiến thức từ mới cho một
tuần – khen thưởng động viên sự tiến bộ của các học sinh trong lớp ở tất cả các đối
tượng giỏi – khá – trung bình - yếu kịp thời …
Tóm lại: Việc phát hiện lỗi chính tả, thống kê, tìm nguyên nhân mắc lỗi, từ đó
đưa ra các biện pháp khắc phục là rất cần thiết không thể thiếu trong quá trình dạy học
Tiếng Việt. Nhưng không phải chỉ đưa ra các biện pháp khắc phục là có thể thực hiện
một cách có hiệu quả. Sửa chữa, khắc phục lỗi chính tả là cả một quá trình lâu dài, đòi
hỏi người giáo viên phải kiên trì, bền bỉ, không được nôn nóng. Bởi vì có những học
sinh tiến bộ ngay trong vài tuần nhưng cũng có những học sinh sự tiến bộ diễn ra rất
chậm, không phải vài tuần, có khi vài tháng, thậm chí cả một học kỳ. Nếu giáo viên
không biết hướng dẫn, chờ đợi thì kết quả sẽ không cao.
Ngoài việc giúp học sinh khắc phục các lỗi chính tả, giáo viên cần chú trọng
phần rèn chữ viết của học sinh về: mẫu chữ, độ cao con chữ, cách trình bày. Trong quá
trình rèn chữ viết cho học sinh, giáo viên chú trọng các kĩ thuật viết: khoảng cách,
cách cầm bút, tư thế ngồi viết, kĩ năng nghe và luyện phát âm chuẩn để viết đúng.

Giáo viên cần hình thành cho học sinh thói quen luyện chữ trong tất cả các môn
học không chỉ riêng môn Chính tả. Bên cạnh đó, giáo viên cũng cần trau dồi chữ viết
của mình, đó chính là phương tiện trực quan nhất mà có ảnh hưởng lớn nhất đến học
sinh.
Trên đây là một số biện pháp giúp cho học sinh khối 2 viết đúng chính tả. Rất
mong nhận được sự đóng góp ý kiến của BGH, các anh, chị, em đồng nghiệp để
chuyên đề được hoàn thiện và mang lại hiệu quả cao trong quá trình vận dụng.
Đinh Trang Hòa, ngày 10 tháng 10 năm 2012
Người viết báo cáo:
Duyệt của BGH Tổ trưởng
Lê Thị Mai Liên

×