Tải bản đầy đủ (.pdf) (58 trang)

Nghiên cứu một số chỉ tiêu sinh lí của bốn giống ngô (zea Mays linnaeus) có năng suất khác nhau trồng tại hiệp hoà, Bắc Giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (439.21 KB, 58 trang )


1

MỞ ĐẦU


1. Đặt vấn đề
Ngô là một trong những cây lương thực quan trọng nhất trong nền
kinh tế nông nghiệp toàn cầu.
Cây ngô có tên khoa học là Zea mays Linnaeus thuộc chi Maydeae, họ
hoà thảo Gramineae.
Sở dĩ cây ngô được toàn thế giới gieo trồng là do vai trò quan trọng
của nó trong nền kinh tế quốc dân và vai trò đối với con người. Ngô là
nguồn lương thực nuôi sống 1/3 dân số trên toàn thế giới, hầu hết các nước
đều trồng ngô và sử dụng ngô với các mức độ khác nhau. Tuy nhiên, sử
dụng nhiều nhất là các nước thuộc khu vực châu Á và châu Mỹ La Tinh.
Nói về vai trò của cây ngô chúng ta có thể kể ra như: ngô hạt dùng
làm thức ăn cho người và gia súc, râu và thân cây ngô dùng làm thuốc chữa
bệnh, ngô bao tử dùng làm rau cao cấp vì nó có hàm lượng dinh dưỡng cao.
Bên cạnh đó ngô còn là nguồn nguyên liệu cung cấp cho các nhà máy chế
biến thức ăn gia súc, nhà máy sản suất rượu, cồn, tinh bột, dầu, glucôzơ,
bánh kẹo và là hàng hoá xuất khẩu đem lại giá trị kinh tế cao [24].
Nhờ đặc tính sinh lý và vị trí của cây ngô mà ngày nay cây ngô đã
được trồng phổ biến ở tất cả các châu lục, thích nghi với các loại hình khí
hậu ôn đới, cận nhiệt đới, nhiệt đới thấp và nhiệt đới cao.
Trên thế giới ngô là một loại ngũ cốc quan trọng đứng thứ ba sau lúa
mì và lúa gạo. Diện tích trồng ngô năm 2007 đạt 157 triệu ha, sản lượng
766,2 triệu tấn [40].
Ở Việt Nam trong những năm gần đây cây ngô cũng đã được chú ý,
tuy nhiên sản xuất và trồng ngô ở nước ta vẫn còn nhiều vấn đề cần đặt ra:


2

Năng suất thấp so với trung bình thế giới (khoảng 82%) và rất thấp
so với năng suất thí nghiệm.
Giá thành sản xuất còn cao, nhu cầu sử dụng ngô của nước ta ngày
càng tăng, việc sản xuất ngô trong nước vẫn chưa đáp ứng đủ nên hàng
năm nước ta vẫn phải nhập khẩu một lượng lớn ngô cho tiêu dùng [23].
Theo số liệu của Hiệp hội thức ăn chăn nuôi Việt Nam, ước tính
năm 2010 nước ta phải nhập 1,6 triệu tấn ngô, tăng 350 nghìn tấn so với
năm 2009 [47].
Sản phẩm từ ngô còn đơn điệu, công nghệ sau thu hoạch chưa được
chú ý đúng mức
Năng suất cây trồng là kết quả tổng hợp giữa kiểu gen (giống) với
các yếu tố môi trường được thể hiện ra bên ngoài bằng các chỉ tiêu hình
thái, sinh lí và cuối cùng là các chỉ tiêu cấu thành năng suất. Hướng nghiên
cứu này cũng đã được một số tác giả Nguyễn Văn Mã và CS [17], Nguyễn
Văn Đính, Nguyễn Như Khanh [7], Điêu Thị Mai Hoa, Nguyễn Đạt Kiên
[9] tiến hành trên đối tượng là cây lạc, khoai tây, đậu xanh các kết quả
nghiên cứu của các tác giả đã góp phần đánh giá được sự khác biệt về sinh
lí của các giống có năng suất cao, thấp hay giống có khả năng chống chịu
tốt làm phong phú thêm về hướng nghiên cứu này, đồng thời giúp cho các
nhà chọn giống, người sản xuất dựa vào các chỉ tiêu sinh lí để đánh giá
chọn lọc được các giống có năng suất cao. Tuy nhiên, đối với cây ngô còn
rất ít tài liệu nghiên cứu về vấn đề này. Xuất phát từ thực tế đó chúng tôi lựa
chọn đề tài “Nghiên cứu một số chỉ tiêu sinh lí của bốn giống ngô (Zea
mays Linnaeus) có năng suất khác nhau trồng tại Hiệp Hòa, Bắc Giang”.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu sự khác biệt về một số chỉ tiêu sinh lí của bốn giống ngô

3


(Zea mays Linnaeus) có năng suất khác nhau, làm cơ sở cho các nhà chọn,
khảo nghiệm giống nhanh chóng chọn ra được các giống có triển vọng
năng suất cao để đưa vào sản xuất. Xác định được giống ngô có năng suất
cao trên địa bàn thực nghiệm để khuyến cáo cho người sản xuất.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Các chỉ tiêu nghiên cứu bao gồm:
3.1. Chỉ tiêu về sinh trưởng, phát triển
3.2. Chỉ tiêu về trao đổi nước
3.3. Chỉ tiêu về quang hợp
3.4. Các yếu tố cấu thành năng suất
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Thí nghiệm được tiến hành trên các giống ngô lai: LVN4, HN45,
C919, CP999 có năng suất khác nhau được trồng ở điều kiện khí hậu và đất
đai huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang.
Phạm vi nghiên cứu
Thời gian nghiên cứu: từ tháng 11/2010 đến 11/2011
Thời gian gieo trồng: Vụ xuân (gieo 20/01/2011)
Số liệu: phân tích các chỉ tiêu sinh lí tại Bắc Giang và phòng thí
nghiệm khoa Sinh - KTNN, Trung tâm hỗ trợ NCKH&CGCN trường ĐHSP
Hà Nội 2
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thực nghiệm [4],[15]
6. Giả thuyết khoa học
Ở ngô, các giống cây trồng có năng suất cao có thể biểu hiện qua các
chỉ tiêu sinh lí như sinh trưởng phát triển, trao đổi nước, quang hợp và các

4


chỉ tiêu năng suất đặc trưng. Chính vì vậy, nghiên cứu một số chỉ tiêu sinh
lí, năng suất của các giống ngô có năng suất khác nhau sẽ đóng góp các cơ
sở giúp cho công tác chọn tạo, khảo nghiệm giống nhanh chóng.
Ý nghĩa khoa học: Bổ sung các dẫn liệu về chỉ tiêu sinh lí giữa các
giống ngô có năng suất khác nhau.
Ý nghĩa thực tiễn: Xác định được giống có triển vọng cho năng suất
cao để đưa vào sản xuất từ tập hợp các dòng, giống ngô ban đầu.




















5

NỘI DUNG

Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU


1.1. Giới thiệu chung về cây ngô
Cây ngô có tên khoa học là Zea mays Linnaeus thuộc chi Maydeae,
họ hoà thảo Gramineae. Ngô có bộ nhiễm sắc thể (2n = 20).
Cây ngô có nguồn gốc từ một loại cây hoang dại ở miền trung nước
Mêhicô, trên độ cao 1500m của vùng nước khô hạn, có lượng mưa trung bình
vào khoảng 350mm vào mùa hè [39]. Nguồn gốc này ảnh hưởng tới một số
đặc điểm sinh trưởng phát triển của cây ngô.
Cây ngô gắn bó chặt chẽ với cuộc sống của người dân Trung Mỹ. Ở đó
ngô được coi trọng, thậm chí còn được thần thánh hoá. Ngô là biểu tượng của
nền văn minh “May ca” [24].
So với nhiều loại cây trồng khác ngô là cây có tính lịch sử trồng trọt
tương đối trẻ. Mãi đến thế kỷ XV ngô mới được nhập vào châu Âu. Người
châu Âu biết đến ngô sau khi tìm ra châu Mỹ. Vào những năm đầu của thế kỷ
XVI, các tàu biển của các nước châu Âu theo đường thuỷ đã từng bước đưa
cây ngô ra khắp các lục địa trên thế giới. Sau khi xâm nhập vào châu Á ngô
đã phát triển và toả rộng với tốc độ rất nhanh. Đến nay ngô đã vươn lên đứng
hàng thứ 3 trong các cây lương thực, sau lúa mì và lúa nước. Cây ngô được
đưa vào nước ta khoảng thế kỷ XVII, thiên niên kỷ trước, cách đây khoảng
300 năm [24].
1.2. Đặc điểm sinh học của cây ngô [5]
1. 2.1. Hệ rễ
Rễ ngô thuộc loại rễ chùm, rễ ngô có 3 loại:
- Rễ mầm: Còn gọi là rễ tạm thời, sau khi gieo có đầy đủ các điều
kiện cần thiết hạt ngô sẽ nảy mầm. Cơ quan đầu tiên xuất hiện là rễ mầm sơ

6


sinh (rễ chính, rễ phôi)
- Rễ đốt: Còn gọi là rễ phụ cố định, đó là các rễ mọc xung quanh các
đốt thân ở dưới đất. Khi cây được 3 - 4 lá, rễ đốt bắt đầu phát triển, sau đó
mọc rất nhanh và dần chiếm ưu thế trong việc thay thế bộ rễ mầm. Đây là loại
rễ chủ yếu cung cấp nước và chất khoáng trong suốt quá trình sinh sống của
cây ngô.
- Rễ chân kiềng: Đó là những rễ mọc xung quanh các đốt thân trên
mặt đất, loại rễ này to nhẵn ít rễ nhánh. Rễ chân kiềng thực chất là rễ đốt khác
là chúng mọc ở các đốt thân trên mặt đất. Vì vậy có một phần rễ nằm trong
không khí, ở phần rễ này không có rễ con và lông hút. Rễ chân kiềng nếu đâm
được vào đất thì cũng phát triển thành rễ nhánh, rễ con, lông hút như rễ đốt.
Vì thế rễ chân kiềng có nhiệm vụ chủ yếu là giữ cho cây đứng vững, bám chặt
vào đất. Khi có điều kiện và cắm được vào đất loại rễ này có thể hút nước và
dinh dưỡng cung cấp cho cây.
Trong quá trình sinh trưởng và phát triển của rễ ngô chịu ảnh hưởng
lớn của điều kiện môi trường như nhiệt độ, độ ẩm, độ tơi xốp của đất
1.2.2. Thân
Thân cây ngô được chia thành nhiều lóng. Thân to, nhỏ, cao, thấp, số
lóng nhiều hay ít tuỳ thuộc vào đặc điểm của giống, vào điều kiện thời tiết khí
hậu và hệ thống các biện pháp kỹ thuật được áp dụng.
Trung bình cây ngô có thân cao từ 1,8 - 2,0m. Có giống ngô trong điều
kiện canh tác tốt có thể cao đến 7m. Nhưng cũng có trường hợp ngô chỉ cao
0,3 - 0,5m. Số lóng trên thân cây ngô thay đổi từ 8 - 20 lóng tuỳ thuộc vào đặc
điểm của giống.
Điều kiện thời tiết, khí hậu, đất đai và kỹ thuật canh tác ảnh hưởng rất rõ
rệt đến sinh trưởng phát triển của ngô.
Các thí nghiệm cho thấy chỉ thay đổi chế độ tưới hoặc chế độ phân bón

7


đã làm cho chiều cao của cây ngô chênh lệch nhau đến 40 - 50cm và hơn nữa.
Trên thân cây, chiều dài các lóng không đều nhau. Ở gần gốc lóng
thường ngắn hơn, càng lên cao lóng càng to và dài ra. Phát triển nhất là các
lóng mang bắp, các lóng gần ngọn lại ngắn và bé dần.
Ngô là cây thuộc họ hòa thảo nhưng có thân khá vững chắc. Đường kính
thay đổi trong phạm vi từ 2 - 4cm, tuỳ thuộc vào giống, điều kiện sinh thái và
quá trình chăm sóc. Thân chính của cây ngô có nguồn gốc từ chồi mầm, có lá
mầm bao phủ nằm trong phôi của hạt ngô. Từ thân chính phát sinh ra nhánh
hay thân phụ từ các đốt dưới mặt đất. Số nhánh thường biến động từ 1 - 10,
nhánh có hình dạng tương tự thân chính.
Số lóng và chiều dài lóng trên thân ngô là chỉ tiêu quan trọng trong việc
phân loại các giống ngô, thường các giống ngô ngắn ngày có số lóng ít hơn
các giống dài ngày.
Qua các thời kỳ phát triển của cây, thân ngô phát triển với tốc độ khác
nhau. Thời gian đầu thân phát triển chậm, về sau phát triển nhanh dần cho đến
thời kỳ 6 - 7 lá, tuỳ thuộc vào đặc điểm của giống. Sau đó chiều cao lớn chậm
trong 6 - 7 ngày. Tiếp theo thân, lá phát triển nhanh nhất là trong khoảng thời
gian 15 - 20 ngày trước khi trổ cờ cho đến khi phơi màu, thời gian này tốc độ
tăng trưởng của thân vượt hẳn tất cả các thời kỳ trước đó.
1.2.3. Lá
Lá phát sinh từ các mắt mọc đối xứng và xen kẽ trên thân. Người ta chia
lá ngô thành 4 loại:
- Lá mầm: Những lá ra đầu tiên được tạo thành khi cây còn nhỏ
- Lá thân: Những lá có mầm nách ở kẽ chân lá
- Lá ngọn: Những lá từ phía trên bắp cho đến ngọn cây
- Lá bi: Những lá bao bắp
Đặc điểm nổi bật của lá ngô là trên phiến lá có rất nhiều khí khổng.

8


Trung bình 1 lá có đến 20 - 30 triệu khí khổng, trên 1mm
2
phiến lá có
đến 300 khí khổng. Tế bào đóng mở khí khổng rất nhạy nên rất mẫn cảm với
thay đổi của điều kiện khí hậu bên ngoài. Khi gặp hạn các khí khổng có thể
khép lại rất nhanh làm hạn chế một phần sự tiêu hao nước trong cây.
Trên mặt lá có nhiều lông tơ, lá cong hình lòng máng nên có thể dẫn
nước từ ngoài vào gốc, ngay cả khi trời mưa rất nhỏ, lá hứng được lượng
nước rất lớn.
Chiều dài của lá tăng dần từ gốc lên đến 2/3 thân cây, từ đó lên đến
ngọn chiều dài của lá lại giảm dần. Những lá ở giữa thân phát triển nhất,
chúng có tác dụng rất lớn trong việc nuôi bắp phát triển.
Diện tích lá tăng dần qua các thời kỳ sinh trưởng và đạt mức tối đa
vào khoảng từ khi trỗ cờ đến khi hạt ngậm sữa, sau đó giảm dần do các lá
ở dưới thân bị chết dần. Diện tích của lá của cây ngô có ý nghĩa lớn đối
với việc hình thành năng suất ngô. Số lá, độ lớn của lá là những yếu tố tạo
nên diện tích lá.
Các giống ngắn ngày, chín sớm thường có lá ít và lá nhỏ hơn so với
các giống dài ngày.
1.2.4. Hoa
Hoa ngô thuộc loại hoa đơn tính đồng chu. Chùm hoa được phát sinh
ở đầu ngọn thân thường gọi là bông cờ. Hoa cái hình thành ở bắp lá và
được gọi là bắp.
Hoa đực và bông cờ: Chùm hoa đực được gọi là bông cờ nằm ở đỉnh
cây. Bông cờ gồm một trụ chính, trụ phân thành nhiều nhánh, nhánh lại
phân thành nhiều nhánh nhỏ.
Hoa cái và bắp ngô: Hoa cái được hình thành từ chồi nách của các lá.
Hoa có cuống gồm nhiều đốt ngắn, mỗi đốt trên cắm một lá bi bao bọc
bắp ngô. Chính giữa là bầu hoa, trên bầu hoa có núm và vòi nhụy vươn


9

dài thành râu ngô. Trên râu có nhiều lông tơ và chất tiết ra làm cho hạt
phấn dễ bám vào và nảy mầm.
1.2.5. Bắp
Bắp ngô gồm những bộ phận chính là:
- Cuống bắp: gồm những đốt rất ngắn, mỗi đốt lại có một lá bi bao bọc
xung quanh bắp ngô.
- Lõi bắp: Đó là trục của hoa tự cái, màu sắc của lõi khác nhau tuỳ theo
đặc điểm của giống.
- Hoa cái được đính thành từng dãy trên lõi, giữa bầu là hoa, trên bầu có
vòi hoa vươn dài ra (nhụy hoa cái) thành râu.
- Hạt ngô được đính xếp thành dãy trên lõi. Hạt ngô được tạo thành sau
khi bầu hoa cái được thụ tinh, số hàng trên một bắp, số hạt trên một hàng tuỳ
thuộc vào đặc điểm của giống, điều kiện ngoại cảnh và kỹ thuật canh tác.
1.3. Một số yếu tố ngoại cảnh ảnh hưởng tới sự sinh trưởng, phát triển và
năng suất của cây ngô [5]
1.3.1. Nhiệt độ
Ngô là cây ưa nóng, có yêu cầu về tổng lượng nhiệt cao hơn nhiều loài
cây khác. Cây ngô cần nhiệt lượng là 1700 - 3700
0
C, tuỳ thuộc vào đặc điểm
của giống, các giống chín muộn thường có yêu cầu về nhiệt lượng cao hơn
các giống chín sớm.
Nhu cầu về nhiệt độ của cây ngô còn được thể hiện ở các giới hạn nhiệt
độ mà ngô đòi hỏi như nhiệt độ tối thấp, tối cao và tối ưu.
Yêu cầu đối với nhiệt độ của các thời kỳ sinh trưởng của cây ngô rất khác
nhau, ngô có thể nảy mầm ở nhiệt độ 10 - 12
0
C. Nhưng ở nhiệt độ này cây

con phát triển rất chậm, khi nhiệt độ cao hơn 12
0
C cây con mới phát triển, nhiệt
độ càng cao cây phát triển càng nhanh. Cây ngô phát triển thích hợp
nhất ở nhiệt độ khoảng 25 - 30
0
C.

10

1.3.2. Nước
Nhu cầu của ngô đối với nước rất lớn. Ở vùng khí hậu nóng, quá trình
bốc hơi thoát nước của cây thường cao. Các nhà khoa học đã tính ra là cây
ngô trong 1 ngày nóng có thể bốc thoát từ 2 - 4 lít nước. Tuy vậy, ngô là cây
trồng cạn có bộ rễ phát triển rất mạnh nên có khả năng hút nước từ đất rất
khoẻ. Khả năng sử dụng nước của ngô cũng tiết kiệm hơn nhiều loài cây khác,
cho nên lượng nước cần để tạo ra một đơn vị chất khô thấp.
Nhu cầu về nước và khả năng chịu hạn của cây ngô qua từng thời kỳ sinh
trưởng có khác nhau, ngô là cây cần nhiều nước nhưng cũng rất nhạy cảm với
độ ẩm trong đất. Trong các thời kỳ sinh trưởng thời kỳ cây con tuy có khả
năng chịu hạn cao nhưng rất mẫn cảm với độ ẩm trong đất, thời kỳ này nếu
cây bị ngập nước 1 - 2 ngày có thể bị chết. Nếu độ ẩm đất quá cao, nhất là khi
bị úng, rễ ngô không phát triển được cây bị vàng.
1.3.3. Ánh sáng
Ngô là cây ngày ngắn, rút ngắn thời gian chiếu sáng trong ngày vào
khoảng 8 - 12 giờ làm cho phát triển của cây ngô cũng ngắn lại. Nếu kéo dài
số giờ chiếu sáng trong ngày, ngô sinh trưởng kéo dài ra và quá trình phát
triển chậm lại.
Cường độ và chất lượng ánh sáng cũng có ý nghĩa quan trọng không kém
so với độ dài chiếu sáng. Năng lượng ánh sáng mặt trời được chuyển hoá và

cố định vào các chất hữu cơ do cây tạo ra nhờ vào quá trình quang hợp, về
phương diện này ngô là loài cây có quang hợp kiểu C
4
.
1.3.4. Đất, pH và các chất dinh dưỡng
Đất thích hợp nhất với cây ngô là đất có độ phì nhiêu cao, giữ nước và
thoát nước tốt, tầng canh tác sâu, có độ ẩm từ 70 - 80%, pH thích hợp cho cây
ngô là từ 6,5 - 7. Tuy nhiên, phạm vi chịu được độ pH của ngô là từ 5 - 8.

11

Cây ngô hút các chất dinh dưỡng cần thiết để sinh trưởng và phát triển từ
đất thông qua các hợp chất vô cơ như các loài sinh vật tự dưỡng khác. Cây
không hút được các chất hữu cơ mà chỉ hút được các chất khoáng trong đất
chủ yếu nhờ vào hoạt động của bộ rễ.
Các chất dinh dưỡng rất cần thiết cho sự phát triển của cây ngô là: N,
P
2
0
5
, K
2
0, Mg, S, chất khô ngoài ra còn gồm các chất khoáng (đa lượng,
vi lượng)
1.4. Thời vụ gieo trồng [6],[10]
Ngô là giống cây trồng có thể gieo vào mọi thời vụ trong năm. Tuy nhiên
để tạo mọi điều kiện tốt nhất về dinh dưỡng và các điều kiện ngoại cảnh thì
chúng ta nên gieo trồng đúng thời vụ và theo hướng dẫn, khuyến cáo của các
nhà sản xuất giống.
1.5. Giá trị kinh tế của cây ngô [12]

1.5.1. Giá trị về dinh dưỡng
Hạt ngô có giá trị dinh dưỡng cao, trong hạt ngô có chứa tương đối đầy
đủ các chất dinh dưỡng cần thiết cho con người và gia súc. Hạt ngô có hàm
lượng prôtêin và lipit cao hơn hạt gạo. Prôtêin chính của ngô là zein một loại
prolamin gần như không có ly sin và tryptophan, lipit trong hạt ngô toàn phần
từ 4 - 5%, phần lớn tập trung ở mầm. Gluxít trong ngô khoảng 69% chủ yếu
là tinh bột. Ở hạt ngô non có thêm một số đường đơn và đường kép. Trong
phôi có các chất khoáng, vitamin và khoảng 30 - 45% dầu. Vitamin của ngô
tập trung ở lớp ngoài hạt ngô và ở mầm, ngô có nhiều vitamin B1, vitamin
PP, ngô vàng có chứa nhiều caroten (tiền vitamin A). Thành phần hóa học của
hạt ngô và hạt gạo được so sánh qua bảng 1.1

12

Bảng 1.1. Thành phần hoá học của hạt ngô và gạo (Phân tích trên 100g)

Thành phần hóa học Gạo trắng Ngô vàng
Tinh bột (g) 65,00 68,20
Protein (g) 8,00 9,60
Lipid (g) 2,50 5,20
Vitamin A (mg) 0 0,03
Vitamin B1 (mg) 0,20 0,28
Vitamin B2 (mg) 0 0,08
Vitamin C (mg) 0 7,70
Nhiệt lượng (Kalo) 340 350


(Cao Đắc Điểm, 1998) [8]

1.5.2. Giá trị về kinh tế

Xuất phát từ giá trị về dinh dưỡng của hạt ngô mà cây ngô có giá trị
kinh tế rất cao trong mọi lĩnh vực của cuộc sống:
Ngô làm lương thực cho con người: 1/3 số dân trên thế giới dùng ngô
làm lương thực chủ yếu.
Ngô làm thức ăn cho gia súc: Hiện nay ngô là cây thức ăn quan trọng
nhất để phát triển chăn nuôi, trên 70% chất tinh trong thức ăn tổng hợp của
gia súc là ngô.
Ngô dùng trong công nghiệp và các lĩnh vực khác: ngô là loại lương
thực được sử dụng nhiều trong công nghiệp chế biến thực phẩm. Trong những
năm gần đây ngô bao tử còn dùng làm rau ăn cao cấp, râu ngô dùng làm thuốc
để chữa bệnh
Ngô là cây trồng đem lại giá trị về kinh tế cao nhất là trong lĩnh vực
xuất khẩu các sản phẩm được chế biến từ ngô.
1.5.3. Tình hình sản xuất ngô trên thế giới và khả năng phát triển,
mở rộng trồng ngô ở nước ta

13

Trên thế giới
Trong những năm gần đây diện tích ngô trên toàn thế giới đã tăng lên
gấp 1,5 lần; năng suất tăng gấp 2,5 lần. Diện tích ngô hàng năm khoảng 139
triệu ha, năng suất bình quân khoảng 3,8 triệu tấn/ha, tổng sản lượng ngô trên
525 triệu tấn/ ha. Ngô là cây có địa bàn phân bố vào loại rộng nhất thế giới,
trải rộng hơn 90 vĩ tuyến: Từ 40
0
N lên gần đến 55
0
B, từ độ cao 1 - 2 m đến
400 m so với mực nước biển [5]. Do đó, ngô được trồng ở hầu hết các nơi trên
thế giới như Châu Mĩ, Châu Âu, Châu Úc, Châu Phi.

Theo dự báo của Viện nghiên cứu chương trình lương thực thế giới
(IPRI, 2003), vào năm 2020 tổng nhu cầu ngô thế giới là 852 triệu tấn. Đại
học Tổng hợp Iowa (2006) [48], trong những năm gần đây khi thế giới cảnh
báo nguồn dầu mỏ đang cạn kiệt, thì ngô đã và đang được chế biến ethanol,
thay thế một phần nhiên liệu xăng dầu chạy ô tô tại Mĩ, Braxin, Trung
Quốc Riêng ở Mĩ, năm 2002 - 2003 đã dùng 25,2 triệu tấn ngô để chế biến
ethanol, năm 2005 - 2006 dùng 40,6 triệu tấn và dự kiến năm 2012 dùng
190,5 triệu tấn ngô (Oxfarm, 2004). Diện tích, năng suất, sản lượng ngô giữa
các châu lục trên thế giới có sự chênh lệch tương đối lớn được thể hiện qua
bảng sau:
Bảng 1.2. Diện tích, năng suất, sản lượng ngô một số khu vực trên thế giới

Diện tích
( Triệu ha )

Năng suất
( Tạ/ha )

Sản lượng
( Triệu tấn )

Khu vực

2005

2006

2007

2005


2006

2007

2005

2006

2007

Châu Âu

11,9

15,6

13,9

46,5

61,3

59,1

69,1

96,1

82,6


Châu Á

43,7

45,0

46,4

38,3

40,7

39,9

167,3

183,3

185,4

Bắc và
Trung Mỹ

39,9

40,9

41,3


72,6

81,6

75,7

289,6

333,7

312,0

Thế giới

144,3

146,9

147,0

44,5

49,9

41,7

642,5

724,2


692,0


(Nguồn: Số liệu thống kê của FAOSTAT, 2008) [40],[41],[43]

14

Trong sản xuất ngô của thế giới, Mĩ là nước sản xuất gần 50% tổng sản
lượng, còn lại là do các nước khác sản xuất. Sản lượng ngô xuất khẩu trên thế
giới trung bình hàng năm khoảng trên 80 triệu tấn. Năm 2009, Mĩ xuất 53,5
triệu tấn trong tổng số 85 triệu tấn ngô xuất khẩu trên thế giới, còn lại là Nhật
Bản, Mêhicô, Hàn Quốc, Đài Loan và một số nước khác [50]
Sự tăng trưởng nhanh chóng về mặt năng suất là nguyên nhân làm tăng
tổng sản lượng ngô trên toàn thế giới.
Ở Việt Nam
Ở Việt Nam, cây ngô đã được trồng cách đây khoảng 300 năm và được
trồng trên những vùng sinh thái khác nhau của cả nước [24]. Ngô, cây lương
thực quan trọng thứ hai sau cây lúa là cây trồng chính để phát triển ngành
chăn nuôi. Năng suất ngô ở nước ta trước đây rất thấp so với năng suất ngô
thế giới do sử dụng giống ngô địa phương và áp dụng khoa học kỹ thuật vào
sản xuất còn hạn chế [19]. Phải tới năm 1991 cây ngô lai mới bắt đầu được
đưa vào sản xuất ở nước ta, tỷ lệ trồng giống ngô lai từ 0,1% năm 1990, năm
2006 đã tăng lên 80% và đưa Việt Nam trở thành nước sử dụng giống lai
nhiều và có năng suất cao của khu vực Đông Nam Á [29],[30],[31].
Ở nước ta ngô được trồng ở hầu hết các địa phương có đất cao dễ thoát
hơi nước. Những vùng trồng ngô lớn là Đông Nam Bộ, Tây Nguyên, miền núi
phía Bắc, Trung du đồng bằng Sông Hồng, Duyên hải Miền Trung [5][49]
.
Trong đó, khu vực miền núi phía Bắc trồng chủ yếu là các giống ngô địa
phương. Năng suất của các giống ngô địa phương thường thấp, tuy nhiên các

giống ngô địa phương vẫn tiếp tục được quan tâm nghiên cứu vì các ưu điểm
như khả năng chịu hạn, kháng sâu bệnh tốt và có thể gieo trồng trên nhiều loại
đất khác nhau. Đặc biệt, những năm gần đây do kỹ thuật canh tác, môi trường,
sự xuất hiện các giống ngô lai và nhiều nguyên nhân khác dẫn đến sự cạn kiệt

15

về nguồn gen giống ngô địa phương [1]. Vì vậy việc sưu tập, nghiên cứu và
đánh giá nguồn gen các giống ngô địa phương là hết sức cần thiết.
Bảng 1.3. Tình hình sản xuất ngô ở Việt Nam, giai đoạn 2000 - 2009
Năm
Diện tích
(1000 ha)
Năng suất
(tấn/ha)
Sản lượng
(1000 tấn)
2000 730,2 2,75 2005,1
2001 729,5 2,96 2161,7
2002 816,4 3,07 2511,2
2003 912,7 3,44 3136,3
2004 990,4 3,48 3430,9
2005 995,0 3,60 3787,1
2006 1031 3,73 3854,5
2007 1150 3,85 4107,5
2008 1125 4,02 4531,2
2009 1170 4,30 5031,0


theo http//www.vaas.org.vn [50]

1.6. Các kết quả nghiên cứu đặc điểm sinh lý của các giống cây trồng có
năng suất khác nhau
1.6.1. Các kết quả nghiên cứu đặc điểm sinh lý của các giống cây
trồng có năng suất khác nhau trên thế giới
Trên thế giới, hướng nghiên cứu đặc điểm sinh lý của các giống cây
trồng đã được các nhà khoa học đặc biệt quan tâm. Trong đó điển hình là các
công trình nghiên cứu về đặc điểm sinh lý của thực vật chống lại các điều
kiện bất lợi của môi trường như hạn hán, nhiệt độ tăng cao, khả năng quang
hợp, khả năng tích lũy sinh khối, các yếu tố cấu thành năng suất của các giống
có năng suất khác nhau. Sau đây là một số công trình tiêu biểu:

16

Theo Khan và CS (1970) [37], nghiên cứu về cường độ quang hợp và
thoát hơi nước của 6 giống lúa thương phẩm vùng nam Pakistan cho thấy các
giống lúa khác nhau có cường độ quang hợp, thoát hơi nước khác nhau. Các
giống có khả năng cho năng suất cao có cường độ quang hợp và thoát hơi
nước cao hơn giống có năng suất thấp.
Nghiên cứu chỉ tiêu phát triển bộ lá của 2 giống cà phê khác nhau, trồng
ở Ấn Độ, tác giả Vasudeva và CS (1981) [38] cho rằng các giống có tán lá
phát triển nhanh thì khả năng sẽ cho năng suất cao hơn.
Theo Kuzushko (1984) [14] để đánh giá khả năng chịu hạn của các cây
lấy hạt có thể sử dụng sự biến đổi thông số chế độ nước như: khả năng giữ
nước, khả năng hút nước, độ thiếu hụt bão hòa hơi nước, cường độ thoát hơi
nước của lá.
Trên đối tượng cây lúa, Ishii và Cs (1977) [36] cho thấy năng suất thực
thu của lúa có liên quan đến số hạt trên bông, chiều dài bông, số hạt chắc,
trọng lượng 1000 hạt Các giống có năng suất cao thường có số bông dài, số
hạt trên bông nhiều, tỷ lệ hạt chắc cao.
Cũng trên cây lúa, kết quả nghiên cứu của Akita (1987) [33] cũng đã

khẳng định các giống lúa có năng suất cao đều có đặc điểm sinh lý và các yếu
tố cấu thành năng suất đặc trưng về số lượng bông, số hạt trên bông cao hơn
giống có năng suất thấp.
1.6.2. Các kết quả nghiên cứu đặc điểm sinh lý của các giống cây
trồng có năng suất khác nhau ở Việt Nam
Theo kết quả nghiên cứu của Đỗ Thị Bích Nga, Trương Văn Hộ (1990)
[20] nghiên cứu trên đối tượng là cây khoai tây cho thấy: trong thời gian 8
năm từ 1982 - 1989 đã khảo sát 104 giống khoai tây, chọn được 77 giống có
triển vọng. Những giống có triển vọng cho năng suất cao thường có tán lá
phát triển, độ che phủ tốt.

17

Ngô Đức Thiệu (1990) [21] nhận xét một số chỉ tiêu hình thành năng
suất khoai tây vùng đồng bằng sông Hồng cho rằng năng suất củ khoai tây có
quan hệ mật thiết đến diện tích lá. Vì vậy, cần giữ cho bộ lá lâu tàn nhất là khi
trồng được 60 ngày cho đến khi thu hoạch.
Tiến hành chọn tạo trên các giống khoai tây từ 1991-1995, Lê Thị Thuần
và cộng sự (1995) [22] cũng khẳng định: Giống KT2 có triển vọng năng suất
cao cũng có độ che phủ của tán lá tốt nhất trong 7 giống nghiên cứu.
Nguyễn Văn Đính, Nguyễn Như Khanh (2004) [7] đánh giá khả năng
thích ứng của một số giống khoai tây trồng trên nền đất Vĩnh Phúc cho thấy:
giống KT3, 171.1 có năng suất cao trên vùng sinh thái Vĩnh Phúc thì huỳnh
quang diệp lục, số củ trung bình/khóm, khối lượng củ trung bình/khóm đều
cao hơn hẳn các giống có năng suất thấp HH2, Thường Tín.
Qua các kết quả nghiên cứu trên, chúng ta dễ dàng nhận thấy những
giống cây trồng có năng suất khác nhau thì đều biểu hiện những dấu hiệu về
sinh trưởng, trao đổi nước, quang hợp và các yếu tố cấu thành năng suất hơn
hẳn những giống cho năng suất thấp. Tuy nhiên, các kết quả nghiên cứu trên
đối tượng cây ngô còn ít và chưa cụ thể. Chính vì vậy cần có các hướng

nghiên cứu hệ thống hơn để xác định được sự khác biệt giữa giống cho năng
suất cao và giống có năng suất thấp.
1.7. Các kết quả nghiên cứu trên đối tượng cây ngô
1.7.1. Các kết quả nghiên cứu về cây ngô trên thế giới
Với hơn 7000 năm tiến hoá và phát triển, bắt đầu từ miền trung Mêhicô,
ngô đã phát triển sang Châu Âu, châu Á, châu Phi và trở thành một trong
những cây lương thực quan trọng nhất của loài người. Ngô lai là một thành
tựu khoa học nông nghiệp cực kì quan trọng trong nền kinh tế thế giới, ngô lai
chính là “ cuộc cách mạng xanh ” của nửa đầu thế kỉ XX [24].
Charles Darwin (1871) người đầu tiên quan sát phát hiện ra hiện tượng
ưu thế lai ở ngô [28].

18

Năm 1877, W.J.Beal tiến hành việc lai có kiểm soát giữa các giống ngô
với mục đích tăng năng suất bởi ưu thế lai đã thấy được sự khác biệt về năng
suất của các giống ngô lai vượt năng suất của các giống bố mẹ chúng bình
quân là 25% [51].
G.H.Shull (1904) đã tạo được dòng thuần của ngô và những giống ngô
lai có năng suất cao [13].
Năm 1917, D.J.Jones đã đề xuất sử dụng phương pháp lai kép trong sản
xuất để giảm giá thành hạt giống từ đó lai kép được áp dụng nhanh ở Mĩ,
Canada và châu Âu [11].
Vào giai đoạn những năm 60 của thế kỷ XX, các nhà khoa học đã nghiên
cứu và phát triển được nhiều dòng thuần khoẻ và năng suất cao tạo cơ hội cho
việc sử dụng lai đơn vào sản xuất thay thế cho lai kép vì lai đơn đồng đều hơn
lai kép [11].
Các tiến bộ kĩ thuật về ngô lai đã phát triển mạnh ở Mĩ sau đó lan sang
các nước tiên tiến khác. Năm 1933 ngô lai ở vùng vành đai ngô ở Mĩ chỉ
chiếm 1% diện tích thì sau 10 năm con số đã là 75% và đến năm 1965 là

100%. Hiện nay các giống ngô lai phổ biến và thông dụng ở các nước ôn đới
là ngô lai đơn. Khả năng tổ hợp chung và riêng đã đóng vai trò đáng kể trong
thành tựu các giống ngô lai tốt nhất và chính điều đó đã làm tăng năng suất và
sản lượng ngô ở các nước: Pháp, Italia, Nam tư năng suất ở vùng này xấp xỉ 6
tấn/ha [50]
Theo kết quả nghiên cứu của Hallauer (1994) [35] các giống ngô lai mới
tạo ra hiện nay có khả năng chịu được mật độ cao gấp 2 - 3 lần so với các
giống lai tạo ra trước đó và có tiềm năng năng suất cao hơn hẳn.
Trong những năm gần đây các nhà khoa học trên thế giới tập trung chủ
yếu vào hướng nghiên cứu về tính đa dạng và di truyền của các giống ngô để
tiếp tục nâng cao năng suất của giống cây này. Các nhà khoa học cũng dự

19

đoán thế kỉ XXI năng suất ngô có thể đạt 30 tấn/ha ở các thí nghiệm và sẽ đạt
20 tấn/ha trong sản xuất. Vì vậy, cây ngô sẽ là cây lương thực hứa hẹn nhiều
hi vọng của loài người ở thế kỉ XXI và các năm tiếp theo [52].
1.7.2. Các kết quả nghiên cứu về cây ngô ở Việt Nam
Cây ngô trong thời gian đầu đưa vào Việt Nam còn chưa được chú ý
đúng mức song thời gian gần đây Đảng và nhà nước ta đã đặc biệt quan
tâm nhất là trong lĩnh vực nâng cao năng suất và sản lượng của cây lương
thực này.
Các nghiên cứu khoa học về cây ngô ở Việt Nam chủ yếu tập trung vào
hướng sử dụng các biện pháp kĩ thuật để nâng cao năng suất của giống trên
những điều kiện sinh thái cụ thể, nghiên cứu để phát triển tạo ra các giống ngô
mới hay làm thay đổi các đặc điểm của giống còn rất hạn chế [34].
Nguyễn Văn Liêm và CS (2005) [44] nghiên cứu trên một số giống ngô
trồng ở Bắc Hà, Lào Cai cho rằng: thiệt hại do các loại mọt gây ra trên ngô ở
vùng Bắc Hà, Lào Cai sau 12 tháng bảo quản tới 38,95%
Khuất Hữu Trung, Bùi Mạnh Cường, Nguyễn Minh Công (2008) [3]

nghiên cứu sự đa dạng di truyền ở mức hình thái tập đoàn ngô thuần bằng
phương pháp nuôi cấy bao phấn đã chỉ ra rằng tính trạng hình thái số lượng và
tính trạng chất lượng của 77 dòng ngô nghiên cứu là rất khác nhau.
Đỗ Hữu Quyết (2009) [45] nghiên cứu phát triển công nghệ bón phân
nén cho ngô tại huyện Quảng uyên, Cao Bằng: đã lựa chọn được loại phân
viên nén và quy trình sử dụng phù hợp là 108N + 90K
2
0 + 90P
2
0
5
/ha, bón vào
cùng lúc gieo hạt ngô.
Nguyễn Xuân Cự (2010) [46] nghiên cứu khả năng thuỷ phân bằng axit
loãng và bước đầu đánh giá hiệu quả sản xuất ethanol sinh học từ thân cây
ngô đã cho thấy thân cây ngô là nguyên liệu để sản xuất ethanol sinh học với
tỉ lệ 12kg nguyên liệu thô/1lít ethanol tinh khiết.

20

Các nghiên cứu về cây ngô có lẽ đáng phải kể ra nhất là kết quả của Viện
nghiên cứu ngô [26],[32],[42] đã lai tạo ra được các giống ngô lai LVN cho
năng suất cao và thích hợp với điều kiện sinh thái và khí hậu Việt Nam.
Theo Dương Hoa Xô - Giám đốc Trung tâm Công nghệ sinh học Thành
phố Hồ Chí Minh [52] thì Việt Nam sẽ có cây ngô chuyển gen vào cuối năm
2012 và đây cũng là một bước đột phá mới trong việc nâng cao năng suất
cũng như trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học về cây ngô ở Việt Nam.






















21

Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu là bốn giống ngô lai cho năng suất khác nhau,
bao gồm: C919 do công ty cổ phần và bảo vệ Sài Gòn nhập khẩu, CP999 do
công ty TTHH hạt giống CP.VN nhập khẩu, HN45 do công ty cổ phần giống
cây trồng Trung ương sản xuất, LVN4 do Viện nghiên cứu ngô cung cấp.
- Đặc điểm của các giống thí nghiệm
TT


Tên giống Đặc điểm của giống
1 C919


- Là giống ngô lai của Mĩ, giống được Bộ Nông nghiệp
và PTNT công nhận giống chính thức năm 2002.
- C919 có thời gian sinh trưởng trung bình, ở phía Bắc
từ 105 - 115 ngày, phía Nam từ 95 - 100 ngày.
- Chiều cao cây trung bình 195 - 200 cm, chiều cao
đóng bắp 90 - 95 cm, bộ lá gọn; Chiều dài bắp 16 - 18
cm, đường kính bắp 4,5 cm, có 14 - 16 hàng hạt, tỷ lệ
hạt/bắp > 78%, lá bi bao kín đầu bắp, hạt dạng bán răng
ngựa, màu vàng cam. Khối lượng 1000 hạt 290 - 300gr.
- Năng suất trung bình đạt 80 - 120 tạ/ha, tiềm năng
năng suất 130 - 140tạ/ha.
Chịu hạn, chịu úng, chống đổ tốt. Chống chịu bệnh rỉ
sắt, đốm nâu, đốm và đốm lá nhỏ.
- Thích nghi rộng, trồng được trên nhiều loại chân đất
khác nhau.
- Thời vụ trồng được trong mùa mưa và mùa khô (trồng
được cả 3 vụ/năm). Trồng được ở mật độ cao.

22

2 CP999

- Là giống ngô lai có xuất xứ từ Thái Lan
- Giống ngắn ngày, có thể gieo trồng quanh năm
- Cây chịu hạn cao, trái to, màu đẹp

- Hạt đá, màu đẹp, áo bi kín
- Thời gian sinh trưởng: 100 - 110 ngày,
- Năng suất trung bình: 8 - 12 tấn/ha.
3 HN45

- Giống ngô lai đơn chín sớm HN45 do Công ty cổ
phần Giống cây trồng Trung ương chọn tạo. Là giống
ngô lai đơn chín sớm nhất ở Việt Nam hiện nay (so
với giống ngô của Việt Nam và các công ty giống
nước ngoài tại Việt Nam).
- Thời gian sinh trưởng từ 85 - 112 ngày tùy thời vụ
và vùng sinh thái khác nhau. Hạt ngô có chất lượng
tốt, màu da cam, dạng bán đá, lõi bắp nhỏ, chiều dài
bắp từ 18 - 20cm, số hàng hạt từ 12 - 16 hàng, tỷ lệ
hạt/bắp đạt 78 - 81%. Ngô HN45 chống chịu khá với
bệnh khô vằn, thối thân, đốm lá, gỉ sắt, sâu đục thân.
Bộ lá thoáng, xanh đậm, xanh bền tận gốc, khi thu
hoạch lá vẫn khá xanh có thể làm thức ăn cho gia
súc. Giống có đặc điểm tung phấn phun râu cùng một
lúc, đây là đặc điểm quý về tính chịu hạn. Chịu hạn
và chịu nước khá, dễ tính, phổ thích nghi khá rộng,
HN45 có độ đồng đều rất cao và hội tụ được rất
nhiều đặc điểm tốt.
- Giống có tiềm năng năng suất 10 tấn hạt/ha, có thể
trồng 3 vụ/năm, năng suất ổn định.

23


4





LVN4



- Giống do Viện nghiên cứu ngô sản xuất
- Giống LVN4 thuộc nhóm chín trung bình ở phía bắc,
vụ Xuân 115 - 120 ngày, vụ Hè thu 90 - 95 ngày, vụ
Đông 105 - 115 ngày (dài hơn giống B9681 khoảng 3 -
4 ngày).
- Chiều cao cây 180 - 200 cm, cao đóng bắp 70 - 80 cm.
Bắp dài 17 - 21 cm, đường kính bắp 4.5 - 5.0 cm, có từ
12 - 14 hàng hạt. Khối lượng 1000 hạt 290 - 325 gram.
Hạt màu vàng, dạng bán răng ngựa.
- Giống LVN4 chịu hạn khá, chịu rét tốt và nhiễm sâu
bệnh nhẹ.
- Năng suất trung bình từ 50 - 55 tạ/ha, thâm canh tốt có
thể đạt 65 - 70 tạ.

2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Phương pháp bố trí thí nghiệm [27]
- Thí nghiệm được bố trí ngoài đồng ruộng theo khối ngẫu nhiên hoàn
chỉnh với 3 lần nhắc lại. Mỗi ô thí nghiệm có diện tích khoảng 30m
2
, ngô
được trồng và chăm sóc theo đúng quy trình kỹ thuật của Bộ Nông nghiệp và
PTNT Việt Nam [2],[10],[13].

- Thí nghiệm gồm 4 công thức, mỗi công thức tương ứng với một giống
ngô với 3 lần nhắc lại.
- Thí nghiệm được tiến hành trong vụ Xuân năm 2011.
2.2.2. Phương pháp xác định chỉ tiêu
2.2.2.1. Phân nhóm các giống ngô dựa trên năng suất thực thu
Sau khi thu hoạch ngô ở tất cả các giống thí nghiệm, chúng tôi tiến
hành xử lí thống kê kết quả để phân loại theo nhóm.

24

2.2.2.2. Xác định một số chỉ tiêu sinh trưởng của các giống ngô
* Tỷ lệ nảy mầm
Tỷ lệ nảy mầm (%): là tỷ lệ mọc trung bình của các lần nhắc, được xác
định bằng phương pháp đếm trực tiếp trên các ô thí nghiệm.


* Chiều cao cây qua các giai đoạn sinh trưởng
Chiều cao cây được xác định bằng phương pháp đo trực tiếp từ cổ rễ
đến đỉnh sinh trưởng của cây. Mỗi ô thí nghiệm đo 30 cây ngẫu nhiên tại các
giai đoạn phát triển.
* Đường kính thân cây
Đường kính thân cây qua các giai đoạn phát triển được đo ở đốt thân
thứ nhất tính từ mặt đất lên sử dụng thước đo kĩ thuật. Mỗi ô thí nghiệm đo 30
cây ngẫu nhiên tại các giai đoạn phát triển.
2.2.2.3. Xác định một số chỉ tiêu trao đổi nước của các giống ngô
Khả năng giữ nước, khả năng hút nước, độ thiếu hụt bão hoà hơi nước
của lá được xác định theo phương pháp Kuzusho [14]
* Khả năng giữ nước: Các lá ở mỗi giống được lấy cùng một tầng,
mỗi công thức lấy 10 lá, lặp lại 3 lần. Sau khi lá được cắt khỏi cây cho vào túi
nilon để hạn chế mất nước, đưa lá về phòng thí nghiệm, cân được khối lượng

B - đó là khối lượng tươi ban đầu, để cho lá thoát hơi nước trong điều kiện
phòng thí nghiệm thời gian 3 giờ, đem các lá đó cân lại được khối lượng là b -
khối lượng tươi sau khi gây héo. Tiếp tục đưa các lá này vào tủ sấy ở nhiệt độ
105
0
C cho đến khi khối lượng không đổi, cân các lá đã sấy khô được khơi
lượng V. Tính khả năng giữ nước của lá theo công thức:

25

a% =
V
B
bB


. 100
Trong đó: a là khả năng giữ nước, tính bằng % lượng nước mất/lượng
nước tổng số
B: khối lượng lá tươi ban đầu (gam)
b: Khối lượng lá tươi sau khi đã gây héo 3 giờ (gam)
V: khối lượng khô của lá sau khi sấy (gam)
* Khả năng hút nước của lá: Lấy mẫu giống như thí nghiệm xác định
khả năng giữ nước, mang lá về phòng thí nghiệm ngâm cuống lá vào cốc
nước (dùng một cốc thuỷ tinh úp lên trên để hạn chế lượng nước bay hơi), kiểm
tra khối lượng lá cho đến khi không đổi, lau sạch các lá bằng giấy thấm, đem
cân được khối lượng bão hoà A
1
. Để các lá đó trong điều kiện phòng thí
nghiệm cho lá thoát hơi nước sau 3 giờ, tiếp tục nhúng cuống lá vào cốc nước

cho chúng hút nước đến khi khối lượng không đổi, đem các lá đó cân được
khối lượng bão hoà A
2
. Khả năng hút nước của lá được tính theo công thức:
K% =
1
21
A
AA 
. 100
Trong đó: K là khả năng hút nước, tính bằng % lượng nước nước mà lá
không hút được sau khi để thoát hơi nước
A
1
: khối lượng tươi của lá sau khi hút no nước lần 1(gam)
A
2
: khối lượng tươi của lá sau khi gây héo lại được hút no nước lần 2
(gam)
* Độ thiếu hụt bão hoà nước: Tiến hành lấy mẫu lá giống như thí
nghiệm xác định khả năng giữ nước, đem các lá về phòng thí nghiệm cân
được khối lượng là V
1
, ngâm các cuống lá vào cốc nước để lá hút nước cho
đến khi khối lượng không đổi, đem cân được khối lượng là V
2
. Độ thiếu hụt
bão hoà hơi nước được tính theo công thức:

×