Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Hình thức nhân vật kể chuyện trong truyện ngắn Nam Cao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (769.76 KB, 107 trang )

1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2






NGUYỄN THỊ KIM




HÌNH THỨC NHÂN VẬT KỂ CHUYỆN TRONG
TRUYỆN NGẮN NAM CAO




LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Chuyên ngành: Lí luận văn học
Mã số : 60 22 32





Người hướng dẫn khoa học:
PGS. TS. PHÙNG MINH HIẾN









2


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1. 1. Ý nghĩa lí luận
Có thể nói, trước đây, nghiên cứu văn chương chủ yếu hướng tới đối
tượng thẩm mĩ, đối tượng khách quan của sự sáng tạo, đối tượng của sự khám
phá nghệ thuật như chủ đề, đề tài, nhân vật, nhân vật điển hình trong tác
phẩm văn chương thì giờ đây các nhà nghiên cứu hướng nhiều hơn đến chủ
thể thẩm mĩ, chủ thể sáng tạo nghệ thuật, chủ thể kể chuyện. Có hai loại chủ
thể: Hình thức thứ nhất là người trần thuật biết tất cả, hình thức thứ hai vừa là
đối tượng của sự khám phá vừa là chủ thể sáng tạo đó là hình thức nhân vật
kể chuyện.
Trước đây, chủ yếu nghiên cứu về ngôi kể ( biểu hiện ngữ pháp mang
tính ước lệ ) và chỉ quan tâm xem truyện đó được kể theo “ngôi thứ nhất” hay
“ngôi thứ ba”. Giờ đây từ “ngôi” phải thấy cuộc sống xã hội - văn hoá, số
phận cá nhân nhân vật kể chuyện tham gia vào câu chuyện, chủ yếu là qua
( điểm nhìn, ngôn ngữ, giọng điệu ). Có phải văn bản chỉ gợi thế hay còn gì
khác, nhân vật còn có cả cử chỉ, nét mặt, điệu bộ những yếu tố ngoài ngôn
ngữ, nếu không những nhà ngôn ngữ học sẽ trở thành nhà văn hết. Đây là thời
kì người ta chú ý nhiều hơn đến hình thức nhân vật kể chuyện cả trong sáng
tạo nghệ thuật và trong nghiên cứu văn chương vì hình thức này phù hợp với

kể chuyện trực tiếp khiến cho con đường khám phá, tiếp cận đối tượng vừa
thấm thía, vừa hấp dẫn.
1. 2. Ý nghĩa thực tiễn
Với việc nghiên cứu nhân vật kể chuyện, ta có được một công cụ có
tính chất con đường để đi vào phân tích, khám phá tác phẩm của những nhà
3
văn cụ thể, lí giải được một trong những yếu tố trung tâm làm nên nét đặc sắc
trong phong cách nghệ thuật của họ. Tác giả mà chúng tôi chọn để nghiên cứu
ở đây là Nam Cao vì Nam Cao là một tài năng lớn, một nhà văn xuất sắc đã
góp phần cách tân và hiện đại hoá nền văn xuôi quốc ngữ. Ông đóng vai trò
quan trọng trong nền văn học hiện đại Việt Nam. Cả cuộc đời Nam Cao là
một quá trình phấn đấu không khoan nhượng cho một nhân cách cao đẹp –
nhân cách trong cuộc đời và nhân cách trong sáng tạo nghệ thuật.
Là nhà văn – chiến sĩ liệt sĩ. Nam Cao khép lại đời văn ở tuổi 35. Ông
để lại trong kho tàng văn chương dân tộc một gia tài không đồ sộ về số lượng
nhưng lại luôn ẩn chứa sức sống, sức bền lâu của một giá trị văn chương vượt
lên trên “các bờ cõi và giới hạn”, có được những tri kỷ, tri âm. Nam Cao là
một trong những nhà văn được lựa chọn để giảng dạy trong chương trình môn
Văn ở trường phổ thông với tư cách tác gia lớn của văn học dân tộc.
Xét riêng trong lĩnh vực lí luận văn học, Nam Cao có những đóng góp
khá đặc sắc, trong đó phải kể đến nghệ thuật kể chuyện mới mẻ, độc đáo
trong truyện ngắn đó là hình thức nhân vật kể chuyện. Chính vì thế, tìm hiểu
nhân vật kể chuyện trong truyện ngắn Nam Cao sẽ giúp ta lí giải được phần
nào tài năng nghệ thuật, lí giải được một trong những yếu tố quan trọng hình
thành nên phong cách nghệ thuật đặc sắc của ông và đánh giá được khả năng
tự sự mà Nam Cao mở ra cho văn xuôi Việt Nam hiện đại.
1. 3. Lịch sử vấn đề
1.3.1. Các nhà nghiên cứu Liên Xô xung quanh G.N.Pôxpêlôp trong “
Dẫn luận nghiên cứu văn học”(1960) có nêu: “ Trần thuật tự sự bao giờ cũng
được tiến hành từ phía một người nào đó. Trong sử thi, tiểu thuyết, cổ tích,

truyện ngắn trực tiếp hay gián tiếp đều có người trần thuật” [6, tr.88]. Ông
cho rằng : “ người trần thuật là người môi giới giữa các hiện tượng được miêu
tả và người nghe (người đọc) là người chứng kiến và cắt nghĩa các sự việc
4
xảy ra”[6, tr.88]. Ông còn cho rằng có hai kiểu người trần thuật phổ biến:
“ Hình thức thứ nhất của miêu tả tự sự là trần thuật từ ngôi thứ ba không nhân
vật hoá mà đằng sau tác giả. Nhưng người trần thuật cũng hoàn toàn có thể
xuất hiện trong tác phẩm dưới hình thức một cái “ tôi” nào đó”[6, tr.89]. Ý
kiến này đã nêu lên vai trò của người trần thuật nhưng chưa phân biệt người
trần thuật – người kể chuyện – nhân vật kể chuyện.
1.3.2. P.Lubbock – nhà nghiên cứu người Anh trong cuốn “ Nghệ thuật
văn xuôi”( 1957), đã đưa ra bốn hình thức trần thuật cơ bản:
Thứ nhất là “ toát yếu toàn cảnh” – sự hiện diện cảm thấy được của
người trần thuật biết tất cả, có toàn quyền năng trước các nhân vật của mình.
Thứ hai là “ người trần thuật kịch hoá” – người trần thuật đứng ở ngôi
thứ nhất, kể lại câu chuyện từ góc độ sự cảm thụ riêng tư.
Thứ ba là “Ý thức kịch hoá” – cho phép miêu tả trực tiếp đời sống tâm
lí, trải nghiệm bên trong của nhân vật.
Thứ tư là “kịch thực thụ” – gần gũi hơn cả với trình diễn sân khấu bởi
vì ở đây trần thuật được đưa ra dưới dạng một cảnh diễn sân khấu; độc giả chỉ
thấy được hình dáng bề ngoài và các cuộc đối thoại của nhân vật mà không
biết gì về đời sống nội tâm nhân vật.
1.3.3. Todorov trong “Thi pháp học cấu trúc”( 1971) cũng đưa ra
những ý kiến sâu sắc về người kể chuyện. Theo ông: “ Người kể chuyện là
yếu tố tích cực trong việc kiến tạo thế giới tưởng tượng.( ) Không thể có trần
thuật thiếu người kể chuyện. Người kể chuyện không nói như các nhân vật
tham thoại khác mà kể chuyện. Như vậy, kết hợp đồng thời trong mình cả
nhân vật và người kể, nhân vật mà nhân danh nó cuốn sách được kể có một vị
thế hoàn toàn đặc biệt”. Xuất phát từ tương quan về dung lượng hiểu biết của
người kể chuyện và nhân vật, Todorov đã chia thành ba hình thức người kể

5
chuyện: Người kể chuyện lớn hơn nhân vật; người kể chuyện bằng nhân vật
và người kể chuyện bé hơn nhân vật [ 19, tr.126].
1.3.4. Ở Việt Nam, khái niệm “ người kể chuyện” đã được các nhà
nghiên cứu quan tâm và đã có một số công trình nghiên cứu về vấn đề này.
Đó là quan niệm của Lê Bá Hán, Trần Đình Sử và Nguyễn Khắc Phi trong
“Từ điển thuật ngữ văn học”. Theo đó, “ người kể chuyện là hình tượng ước
lệ về người trần thuật trong tác phẩm văn học, chỉ xuất hiện khi nào câu
chuyện được kể bởi một nhân vật cụ thể trong tác phẩm. Đó có thể là hình
tượng của chính tác giả, có thể là nhân vật đặc biệt do tác giả sáng tạo ra hoặc
có thể là một người biết một câu chuyện nào đó”[2, tr.191]. Và “ không phải
bao giờ cũng có thể đồng nhất người trần thuật với bản thân tác giả”
[7, tr.213]. Phùng Văn Tửu trong chuyên luận “ Tiểu thuyết Pháp hiện đại,
tìm tòi đổi mới ” cũng khẳng định: “ Nói đến người kể chuyện là nói đến
điểm nhìn được xác định trong hệ đa phương không gian, thời gian, tâm lí, tạo
thành góc nhìn. Người kể chuyện là ai, kể chuyện người khác hay kể chuyện
chính bản thân mình, khoảng cách về không gian từ nơi sự việc xảy ra đến
chỗ đứng của người kể chuyện cũng như độ lệch thời gian giữa lúc sự việc
xảy ra và khi sự việc được kể lại vẫn thường được các nhà tiểu thuyết quan
tâm từ lâu” [42, tr.205]. Ông còn chỉ ra một số loại người kể chuyện: “ Một
dạng phổ biến của tiểu thuyết truyền thống là người kể chuyện giấu mặt, coi
như đứng ở một vị trí nào đấy trong không gian, thời gian, bao quát hết mọi
diễn biến của câu chuyện và thuật lại với chúng ta. Chuyện được kể ở ngôi
thứ ba số ít Một dạng phổ biến khác của tiểu thuyết là lối kể ở ngôi thứ nhất
với người kể chuyện xưng tôi ”[42, tr. 207].
Với những quan niệm này, chúng ta có thể hình dung rõ hơn về người
kể chuyện ở cả ngôi thứ nhất (người kể trong cuộc, xưng “ tôi”) và cả ngôi
thứ ba ( người kể đứng ngoài cuộc) trong tác phẩm tự sự.
6
1.3.5.Tuy nhiên, việc nghiên cứu hình thức kể chuyện, phân biệt hình

thức kể chuyện mới ( “ nhân vật kể chuyện”) với hình thức kể chuyện truyền
thống (“ người kể chuyện”) chỉ đến tác giả Nắng Mai ( PGS.TS Phùng Minh
Hiến-GV - ĐHSP Hà Nội 2) mới được xem xét một cách thoả đáng; “trở nên
cần thiết và có thể mang giá trị lí luận” [32]. Theo ông, việc theo dõi các hình
thức kể chuyện mới và sự phân biệt nó với hình thức kể chuyện truyền thống
“càng cần thiết hơn nữa, nếu theo dõi và khái quát được những nét độc đáo
nghệ thuật của hình thức mới này trong mỗi trào lưu nghệ thuật, nhất là trong
mỗi phong cách nghệ thuật của cá nhân này hay cá nhân khác ”[32], nghĩa là
hình thức nhân vật kể chuyện cần được nghiên cứu không những về lí thuyết
mà còn về chất lượng nghệ thuật mà hình thức này mang lại.
Có thể thấy việc khảo sát, tiếp cận hình thức “nhân vật kể chuyện” mới
chỉ dừng lại ở một số ít các nhà khoa học, nhà nghiên cứu cả trên thế giới và
Việt Nam, và cũng chỉ đi sâu vào một vài tác phẩm của một số nhà văn nổi
tiếng Nó chưa được nhìn nhận như là nguyên tắc sáng tác mang những con
đường tiếp cận đối tượng thành công “ trong mỗi trào lưu nghệ thuật, nhất là
trong mỗi phong cách nghệ thuật của cá nhân này hay cá nhân khác”. Chính
vì vậy, chúng tôi lựa chọn đề tài: “Hình thức nhân vật kể chuyện trong
truyện ngắn Nam Cao” với mong muốn khám phá những lối thấm thía và tài
hoa trong một phong cách nghệ thuật đặc sắc, độc đáo – một trong những cây
bút xuất sắc đã góp phần cách tân và hiện đại hoá nền văn xuôi quốc ngữ trên
tiến trình văn học thế kỉ XX.
2. Mục đích nghiên cứu
2.1. Luận văn nhằm tiến tới khảo sát và củng cố vững chắc thêm hướng
nghiên cứu văn chương từ góc độ nghệ thuật kể chuyện, những nguyên tắc có
tính khuôn khổ của hình thức “nhân vật kể chuyện”. Mở ra một hướng nghiên
cứu, tiếp cận mới với tác phẩm tự sự.
7
2.2. Chỉ ra những điểm tiến bộ, hợp thời và ưu thế của hình thức “ nhân
vật kể chuyện” so với hình thức kể chuyện truyền thống (“ người kể chuyện ”)
trong sáng tác của Nam Cao trước Cách mạng.

2. 3. So sánh nét riêng giữa hai hình thức “nhân vật kể chuyện ” và
“ người kể chuyện”, từ đó tìm ra ưu, nhược điểm riêng của từng hình thức kể.
2.4. Từ đó, tác giả luận văn hi vọng cùng bạn đọc cảm thụ được sâu sắc
hơn cái hay, cái đẹp của truyện ngắn hiện đại Việt Nam nói chung và truyện
ngắn Nam Cao nói riêng.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Tìm đọc các tài liệu để từ đó có thể hệ thống hoá những vấn đề lí
luận liên quan đến nghệ thuật kể chuyện nói chung và hình thức “ nhân vật kể
chuyện” nói riêng, từ đó xây dựng một quan niệm đúng đắn về vấn đề này.
3.2. Khảo sát và phân tích kĩ một số truyện ngắn của Nam Cao để thấy
được sự độc đáo, đặc sắc của hình thức nhân vật kể chuyện.
3.3. Khảo sát, phân tích và so sánh giữa hình thức “ nhân vật kể
chuyện” và “người kể chuyện” để thấy được ưu thế của mỗi hình thức trong
sáng tác của Nam Cao.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Những tài liệu và công trình nghiên cứu có liên quan đến nghệ
thuật kể chuyện và đặc biệt là hình thức “nhân vật kể chuyện”.
4.2. Những tài liệu và công trình nghiên cứu về Nam Cao.
4.3. Những tài liệu và công trình nghiên cứu có liên quan đến nhân vật
trong tác phẩm tự sự.
4.4. Hà Minh Đức (biên soạn)( 2003), Tuyển tập Nam Cao Tập I,II,
Nxb Văn học. Cụ thể là những truyện ngắn có hình thức “nhân vật kể chuyện”
như:
8
Trước Cách mạng có các truyện: Đui mù; Dì Hảo; Lão Hạc; Quái dị;
Thôi đi về; Điếu văn; Cái mặt không chơi được; Những truyện không muốn
viết; Mua nhà; Truyện tình.
Sau Cách mạng có các truyện: Đường vô Nam; Đôi mắt; Trên những
con đường Việt Bắc; Từ ngược về xuôi; Bốn cây số cách một căn cứ địch; Vui
dân công; Vài nét ghi qua vùng giải phóng; Hội nghị nói thẳng

4.5. Một số truyện ngắn cùng thời.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp khái quát, tổng hợp theo nhóm các truyện có hình
thức kể giống nhau.
5. 2. Phương pháp so sánh, đối chiếu giữa hình thức “ nhân vật kể
chuyện” và “người kể chuyện”.
5. 3. Phương pháp tiếp cận đối tượng theo quan điểm hệ thống.
6. Dự kiến đóng góp của luận văn
6. 1. Luận văn góp phần làm sáng tỏ khái niệm hình thức “ nhân vật kể
chuyện” để có thể sử dụng khái niệm này như là một yếu tố trung tâm trong
việc xem xét cấu trúc tác phẩm tự sự.
6. 2. Vận dụng khái niệm “ nhân vật kể chuyện” để xem xét một trong
những nét đặc sắc trong phong cách nghệ thuật Nam Cao- một nhà văn xuất
sắc góp phần cách tân và hiện đại hoá nền văn xuôi quốc ngữ thế kỉ XX.
6. 3. Tìm hiểu những nét riêng của hình thức “ nhân vật kể chuyện” qua
sự so sánh “ người kể chuyện” trong truyện ngắn của Nam Cao.





9
NỘI DUNG
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ
HÌNH THỨC “NHÂN VẬT KỂ CHUYỆN”
1.1. Khái niệm
Cũng như một số khái niệm lí luận văn học khác, khái niệm “nhân vật
kể chuyện” cho đến nay vẫn chưa được các nhà lý luận văn học thống nhất
hoàn toàn. Ngay tên gọi của nó cũng có những cách gọi khác nhau, có người

gọi là “ người trần thuật”, có người đồng nhất hai hình thức kể chuyện theo
ngôi thứ nhất – chủ thể xưng “ tôi” trong tác phẩm với hình thức tự sự theo
ngôi thứ ba và gọi chung là “ người kể chuyện”. Thực ra, sự phân biệt này
cũng có lí riêng của nó. Trong luận văn này, chúng tôi mong muốn chỉ ra sự
khác biệt giữa hai hình thức kể chuyện này.
Về mặt nội hàm khái niệm, cũng có nhiều cách hiểu. Theo Pôxpêlôp thì
“người trần thuật là một người môi giới giữa các hiện tượng được miêu tả và
người nghe (người đọc), là người chứng kiến và cắt nghĩa các sự việc xảy ra”
[6, tr.88 ]. Trong quan niệm của W.Kayser, thì: “Người trần thuật – đó là một
hình hài được sáng tạo ra, thuộc về toàn bộ chỉnh thể tác phẩm văn học. Ở
nghệ thuật kể, không bao giờ người trần thuật là vị tác giả đã hay chưa nổi
danh, nhưng là cái vai mà tác giả bịa ra và chấp nhận ” [Dẫn theo I.P.Ilin/20,
tr. 245 ]. Todorov thì lại cho rằng: “ Người kể chuyện là một nhân tố chủ
động trong việc kiến tạo thế giới hư cấu. Chính người kể chuyện là hiện thân
của những khuynh hướng mang tính xét đoán và đánh giá”[ 23, tr. 490 ].
Ở Việt Nam, nhóm Trần Đình Sử, Lê Bá Hán trong giáo trình Lý luận
văn học (1987) và Từ điển thuật ngữ văn học (1992) đã kế thừa khái niệm
người trần thuật của các nhà lí luận Nga, các nhà lí luận Phương Tây, nhưng
nếu như các nhà lí luận Nga và Phương Tây còn “băn khoăn” khi dùng các khái
niệm này thì nhóm Trần Đình Sử lại khẳng định rằng: “người kể chuyện là hình
10
tượng ước lệ về người trần thuật trong tác phẩm văn học, chỉ xuất hiện khi nào
câu chuyện được kể bởi một nhân vật cụ thể trong tác phẩm. Đó có thể là hình
tượng của chính tác giả, có thể là nhân vật đặc biệt do tác giả sáng tạo ra hoặc
có thể là một người biết một câu chuyện nào đó” và “Người trần thuật là hình
thái của hình tượng tác giả trong tác phẩm văn học nghệ thuật, là người mang
tiếng nói, quan điểm tác giả trong tác phẩm văn xuôi” [14, tr.191]. Như vậy,
các khái niệm này chưa phân biệt hai hình thức kể chuyện từ ngôi thứ nhất và
thứ ba, đánh đồng hai hình thức này và gọi chung là “người kể chuyện”.
Đến Phùng Minh Hiến, khái niệm này mới có nội hàm chính xác.

Ông đã chỉ ra rằng “người trần thuật là hình thức kể biết tất, kể chuyện với tư
cách người ngoài cuộc, có cuộc sống ngoài tác phẩm” còn hình thức nhân vật
kể chuyện kể với “tư cách người trong cuộc, có số phận ở trong tác phẩm”.
Ông còn phân biệt: hình thức người kể chuyện có thể mở rộng tối đa trí tưởng
tượng của tác giả, vì thế không gây bất ngờ cho bạn đọc. Còn hình thức nhân
vật kể chuyện thì cái gì nhân vật thấy mới kể, không tưởng tượng, bịa đặt.
Vì thế, có nhiều bất ngờ với nhân vật, với người đọc. Vì thế, gây xúc động
cho nhân vật kể chuyện và truyền cả sang bạn đọc. Đây chính là cái mới, là sự
đóng góp của PGS. TS Phùng Minh Hiến về vấn đề này.
Từ việc kế thừa và tổng hợp những ý kiến trên, chúng tôi đã bước đầu
đi vào xác lập khái niệm hình thức nhân vật kể chuyện thông qua sự phân biệt
nó với hình thức kể chuyện truyền thống (kể từ ngôi ba ) theo quan niệm của
PGS. TS Phùng Minh Hiến.
1.1.1. Hình thức “nhân vật kể chuyện” do nhà văn hư cấu nên để kể
chuyện hay để nhấn mạnh khía cạnh nào đó của tính cách nhân vật được
chọn là chủ thể kể chuyện
Hình thức nhân vật kể chuyện là sản phẩm của sự sáng tạo nghệ thuật,
một sản phẩm mà nhà văn sáng tạo nên, nó khác với một nhân vật thực tế kể
chuyện trong đời sống. Có thể nói, hoạt động kể chuyện là một hoạt động
11
quan trọng của con người cuộc sống. Thông qua đó, con người có thể hiểu
biết về sự vật, về đời sống, hiểu biết lẫn nhau; giúp cho cuộc sống của con
người trở nên có ý nghĩa hơn. Trong cuộc sống hàng ngày, ta bắt gặp rất
nhiều người kể chuyện nhưng người kể chuyện thực tế này có những đặc
điểm hoàn toàn khác với người kể chuyện trong tác phẩm tự sự. Nếu như
người kể chuyện thực tế là những người cụ thể, hữu hình, có hình hài, giọng
nói, điệu bộ thì đến người kể chuyện nghệ thuật tất cả những yếu tố hữu
hình, cụ thể này đều được chuyển vào trong văn bản thông qua hệ thống thủ
pháp nghệ thuật. Chính vì thế, khác với người nghe – đối tượng của người kể
chuyện thực tế, người đọc – đối tượng của người kể chuyện trong văn bản

nghệ thuật sẽ có điều kiện phát huy đối đa khả năng liên tưởng, tưởng tượng
của mình, có khả năng thâm nhập, đồng sáng tạo với người kể chuyện. Mỗi
người đọc với vốn sống, vốn văn hoá, với sở thích riêng có thể tự hình dung
ra câu chuyện theo cách riêng của mình. Điểm khác biệt thứ hai giữa người kể
chuyện thực tế với người kể chuyện trong văn bản nghệ thuật là người kể
chuyện thực tế hoàn toàn có thể điều chỉnh câu chuyện theo phản ứng của
người nghe còn người kể chuyện trong văn bản nghệ thuật thì không có quyền
đó. Câu chuyện mà họ kể ra đã được cố định trong văn bản, không thể thêm
bớt hay sửa chữa gì Thứ ba, người kể chuyện trong đời sống thực tế thường
là kể câu chuyện theo tuần tự thời gian, theo trật tự tuyến tính để người nghe
dễ theo dõi. Còn kể chuyện trong văn bản nghệ thuật thì có thể sử dụng lối kể
đảo tuyến, đan xen giữa hiện tại, quá khứ và tương lai để làm tăng sức hấp
dẫn cho câu chuyện mình kể.
1.1.2. “Nhân vật kể chuyện” là một dạng nhân vật đặc biệt trong tác phẩm
tự sự
Nhân vật kể chuyện là một nhân vật nhưng là một kiểu nhân vật đặc
biệt, nó có những điểm khác so với các nhân vật trong tác phẩm. Tính chất
đặc biệt của nhân vật kể chuyện thể hiện ở những điểm sau:
12
Trước hết, nhân vật kể chuyện không chỉ là một nhân vật tham gia
trong tác phẩm mà còn có chức năng tổ chức kết cấu tác phẩm, tổ chức các
nhân vật khác.
Thứ hai, nhân vật kể chuyện còn hướng dẫn bạn đọc tiếp cận với các
nhân vật khác trong tác phẩm.
Thứ ba, nhân vật kể chuyện thường là nhân vật chính, tham gia vào sự
kiện, biến cố của cốt truyện và đứng cùng bình diện với các nhân vật khác.
Trong trường hợp này, ta hoàn toàn có thể nhận ra nhân vật kể chuyện thông
qua những dấu hiệu như tên, nghề nghiệp, hình dáng, tính cách. (Bé Hồng
trong Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng, Thuần trong Tướng về hưu của
Nguyễn Huy Thiệp, Quỳ trong Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành của

Nguyễn Minh Châu ).
Thứ tư, nhân vật kể chuyện vừa là chủ thể kể chuyện vừa là đối tượng
của sự khám phá nghệ thuật.
Chính vì vai trò, vị trí của nhân vật kể chuyện như thế nên nhà văn
trong quá trình sáng tác phải lựa chọn nhân vật kể chuyện phù hợp để chuyển
tải một cách sâu sắc nhất, hiệu quả nhất tư tưởng của mình tới độc giả.
1.1.3.“ Nhân vật kể chuyện” thống nhất nhưng không đồng nhất với tác giả
Trước hết, nhân vật kể chuyện thống nhất với tác giả bởi nhân vật kể
chuyện là người mang tiếng nói, quan điểm của tác giả. Theo quan điểm của
một số nhà tự sự học thì nhân vật kể chuyện chỉ là một yếu tố hình thức thuần
tuý, hoàn toàn tách biệt với tác giả thực tế. R.Barthes cho rằng: “Người kể
chuyện và những nhân vật của anh ta bản chất là những thực thể trên mặt
giấy, tác giả thực tế của văn bản không có điểm gì chung với người kể
chuyện ” còn T.Todorov cũng khẳng định: “Người kể chuyện không thể được
gọi tên, nếu anh ta có tên thì sau cái tên trên đó không có ai cả” [ Dẫn theo
Đỗ Hải Phong/st 10, tr.117]. Thực tế những quan điểm này là cực đoan
13
Không ai có thể phủ nhận được giữa nhân vật kể chuyện và tác giả có một
mối liên hệ mật thiết với nhau. “Ta đoán định âm sắc tác giả qua đối tượng
câu chuyện kể cũng như qua chính câu chuyện và hình tượng người kể
chuyện bộc lộ trong quá trình kể ” [17, tr.127]. Đọc Anh béo và anh gầy của
Sêkhốp, qua nhân vật kể chuyện ta cảm nhận được sự xót xa của nhà văn
trước bản tính nô lệ, quỵ luỵ, xun xoe của con người.
Đặc biệt, trong những tác phẩm tự truyện, ta thấy sự thống nhất nhân
vật kể chuyện và tác giả lại càng bộc lộ rõ. Tự truyện là một thể loại văn học
đặc biệt trong loại tự sự với đặc điểm là tác giả tự viết về mình, tác giả lấy
chính cuộc đời mình làm cơ sở cho sáng tạo nghệ thuật. Chính vì thế qua cái
Tôi của nhân vật kể chuyện trong tác phẩm tự truyện ta thấy được khá rõ cái
Tôi của tác giả ngoài đời. Chẳng hạn, qua những lời kể chân tình, mộc mạc
của nhân vật Tôi trong bộ ba tự truyện (Thời thơ ấu, Kiếm sống, Những

trường đại học của tôi) ta phần nào đó thấy được cuộc đời cơ cực gian khổ và
những nỗ lực không ngừng vươn lên tới đỉnh cao văn hoá của tác giả Gorki.
Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng là những kỉ niệm sâu sắc về thời thơ ấu
của nhà văn. Những đắng cay, tủi nhục, những khát khao, ước mơ mà nhân
vật tôi trải qua cũng chính là những cảm giác, tâm trạng mà Nguyên Hồng đã
từng nếm trải trong quá khứ. Phong Lê khi đọc xong tác phẩm này đã bày tỏ
xúc động: “Tôi cứ ngẩn ngơ hoài trước một tuổi thơ sao mà cay cực thế, mà
sao nhà văn có thể thành thực đến thế. Một sự thành thực đến tận cùng chi tiết
khiến người ta đọc đến mà sững sờ, mà nổi gai lên trong tâm trí, mà run rẩy
đến từng xúc cảm” [37, tr.131].
Như vậy, giữa người kể chuyện và tác giả có nét thống nhất nhưng ta
tuyệt đối không được đồng nhất với nhau.
Thứ nhất, tư tưởng của tác giả rộng hơn tư tưởng của nhân vật kể
chuyện; tư tưởng của tác giả được thể hiện trong toàn bộ tác phẩm – qua cả
14
nhân vật và qua cả chủ thể kể chuyện. Hay nói một cách khác, quan hệ giữa
tác giả và nhân vật kể chuyện giống như mối quan hệ giữa tổng đạo diễn với
nhân vật của họ trong sân khấu, điện ảnh. Chẳng hạn, để hiểu được tư tưởng
của Leptônxtôi trong Chiến tranh và hoà bình ta phải tổng hợp tư tưởng của
tất cả các nhân vật như: Anđrrây, Pie, Natasa Nếu chúng ta dựa vào nhân
vật kể chuyện để đánh giá, phán xét tác giả thì sẽ là cực đoan, phiến diện.
Một số người đã phê phán Nguyễn Huy Thiệp là nhà văn không có tâm, đã
bôi nhọ lịch sử, hạ thấp thần tượng cũng bởi chính lí do này. So với tư tưởng
của nhân vật kể chuyện, tư tưởng của tác giả thường là khái quát hơn.
Chẳng hạn, trong Nhật kí người điên của Lỗ Tấn, nhận thức của chủ thể kể
chuyện xưng tôi – người điên chỉ mới là những nhận thức cụ thể, trực tiếp,
cảm tính còn nhận thức của tác giả là nhận thức mang tính khái quát, tổng
hợp. Cái mà nhân vật kể chuyện xưng tôi gọi là “ ăn thịt người” thì chỉ là ăn
thịt về thể xác còn hàm ý “ ăn thịt người” của tác giả là ăn thịt về tinh thần.
Những kẻ ăn thịt người mà nhân vật tôi nói đến là những con người cụ thể

như: ông Triệu, ông Cố Cửu, lão thày thuốc Còn hàm ý của tác giả thì lại
ám chỉ lễ giáo và cả chế độ phong kiến.
Thứ hai, nhân vật kể chuyện không đồng nhất với tác giả bởi trong
nhân vật kể chuyện vừa có mặt chủ quan vừa có mặt khách quan. Nhân vật kể
chuyện không chỉ mang thái độ chủ quan của tác giả mà còn mang trong mình
nội dung khách quan của thế giới được phản ánh. Chẳng hạn, qua nhân vật kể
chuyện trong các tác phẩm Điếu văn, Cái mặt không chơi được, Những truyện
không muốn viết, Mua nhà , ta vừa thấy bản thân nhà văn Nam Cao vừa thấy
được hình ảnh những người trí thức nghèo trong xã hội cũ. Hay như qua Vụ
án, Hoá thân, Lâu đài, Làng gần nhất ta thấy vừa có phần tư tương chủ
quan của Kafka nhưng lại có phần nội dung khách quan của thế giới đời sống
15
mà nhân vật thể hiện . Đó là những người cô đơn, luôn bị bủa vây trong một
thế giới quái dị, con người tha hoá, đánh mất mình.
Ngay cả trong những tác phẩm có tính tự truyện thì giữa nhân vật kể
chuyện với tác giả vẫn có những nét khác nhau. Mặc dù tác phẩm tự truyện
thường lấy chính cuộc đời tác giả làm chất liệu sáng tác nhưng rõ ràng thế
giới tồn tại của nhân vật kể chuyện và thế giới tồn tại của nhân vật được kể lại
là hoàn toàn khác nhau - khác nhau về thời gian, khác về không gian, khác về
cảm xúc, tư tưởng. Nhân vật kể chuyện chỉ có thể ý thức lại được thế giới kia
chứ không thể thâm nhập, can thiệp vào thế giới kia được, không thể làm lại
được. Những hành động, tâm trạng, cảm giác mà nhân vật kể chuyện kể lại
trong tác phẩm tự truyện có thể là của nhà văn nhưng đó là những hành động,
tâm trạng đã xảy ra với nhà văn trong quá khứ chứ không phải là thời khắc
hiện tại bây giờ. Thời gian trôi qua dù ít dù nhiều cũng đã làm cho mọi
chuyện kể không còn nguyên như cũ nữa. Khi hồi tưởng lại những câu chuyện
xảy ra trong quá khứ của mình, không ai dám đảm bảo là mình đã nhớ chính
xác đến từng chi tiết nhỏ. Nếu có nhớ thì hoạ chăng cũng chỉ là những hành
động, sự kiện mà thôi còn nếu là cảm giác, tâm lí, trạng thái tình cảm của tác
giả trước những sự việc ấy thì quả là rất khó. Bởi cảm giác là những cái rất

mong manh, mơ hồ, nó thay đổi diễn biến rất tinh tế theo thời gian. Khi đọc
Chân dung một hoạ sĩ thời trẻ của Jam Joyce, W.y.Tindall khẳng định:
“Stephen không phải là Joyce mà là quá khứ của Joyce”. Khi tác giả kể lại
câu chuyện có thật đã từng xảy ra trong cuộc đời mình thì bản thân tác giả
trong hiện tại tức là nhân vật kể chuyện trở thành người quan sát, phán xét,
bình luận còn bản thân tác giả trong quá khứ lại trở thành đối tượng của sự
quan sát, phán xét đó. Và rõ ràng, giữa nhân vật kể chuyện với tác giả bây giờ
có một khoảng cách rất rõ rệt.
16
Từ sự phân tích trên, chúng tôi tạm thời đưa ra một khái niệm chung về
nhân vật kể chuyện như sau: Nhân vật kể chuyện là một công cụ có tính chủ
thể hành động do nhà văn hư cấu nên để kể chuyện. Nhân vật kể chuyện là
một nhân vật nhưng là một dạng nhân vật đặc biệt không những có chức năng
tổ chức các nhân vật khác, tổ chức kết cấu của tác phẩm mà còn đồng thời là
đối tượng của sự khám phá nghệ thuật như những nhân vật khác. Giữa nhân
vật kể chuyện và tác giả có một mối liên hệ mật thiết với nhau. Qua nhân vật
kể chuyện ta có thể thấy được tư tưởng, quan niệm của tác giả nhưng ta tuyệt
đối không được đồng nhất giữa nhân vật kể chuyện với bản thân tác giả.
1.2. Chức năng của nhân vật kể chuyện trong tác phẩm tự sự
Việc tác giả lựa chọn kiểu nhân vật nào để kể chuyện không phải là
một sự ngẫu nhiên mà nó mang tính quan niệm, nhằm mục đích chuyển tải tư
tưởng, nội dung một cách hiệu quả nhất. Ta hiểu vì sao tác giả của những
khúc ngâm rất đậm chất tự sự như Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm là đàn
ông nhưng nhân vật kể chuyện trong tác phẩm này lại là nữ. Có lẽ chỉ có thể
nhân vật kể chuyện là nữ thì mới có thể nói được một cách chân thực nhất khi
hạnh phúc bị chia li, không trọn vẹn. Thử hỏi nếu Chinh phụ ngâm, Cung oán
ngâm được kể theo điểm nhìn của người kể chuyện đứng từ bên ngoài thì tâm
lí nhân vật có được mô tả chân thực, tinh tế hay không? Hay trong những năm
gần đây ta thấy trong truyện ngắn của Trần Thuỳ Mai - một nhà văn nữ lại
hay xuất hiện hình tượng nhân vật kể truyện xưng tôi là nam. Phải chăng

Trần Thuỳ Mai muốn miêu tả, khám phá bản chất phụ nữ qua con mắt đàn
ông. Hay như trong truyện ngắn Nước mắt đàn ông của Nguyễn Thị Thu Huệ,
nhân vật kể chuyện xưng tôi cũng là nam – một thanh niên trẻ chưa va vấp
trong cuộc đời, chia sẻ cảm thông với nỗi đau mất đi “người không chết. Nhìn
thấy nhau nhưng không đến được với nhau” của người cậu từng trải - “Hôm
nay, đúng là ngày tận cùng của sự khốn nạn đến với cậu. Gió và mưa quất vào
17
mặt tôi và cậu. Ướt sũng” ; “Trông cậu như hoá đá, mặt cậu đầy nước. Tôi
mong đó là nước mưa bắn vào chứ đừng phải là nước mắt” Phải chăng các
nhà văn nữ này muốn khám phá thế giới bí ẩn của đàn ông, muốn thử nghiệm
những cảm xúc của đàn ông? Như vậy, nhân vật kể chuyện trong tác phẩm tự
sự là một nhân vật mang tính chức năng. Vì nhân vật kể chuyện là nhân vật
trung gian nối liền giữa nhà văn – tác phẩm và bạn đọc nên nghiên cứu chức
năng nhân vật kể chuyện ta cũng phải xem xét trong ba mối quan hệ này.
1.2.1. Nhân vật kể chuyện với chức năng tổ chức tác phẩm
Mỗi tác phẩm văn học có thể có nhiều khả năng kết cấu; mỗi khả năng
kết cấu thích hợp với một quá trình khái quát nghệ thuật của người nghệ sĩ.
Nhân vật kể chuyện phải thay mặt nhà văn cố gắng tìm cho mình một kết cấu
tối ưu để làm cho câu chuyện hấp dẫn, lôi cuốn được người đọc.Vai trò tổ
chức kết cấu tác phẩm của nhân vật kể chuyện được thể hiện trên những bình
diện sau:
Trước hết là tổ chức hệ thống hình tượng nhân vật gắn nhân vật nào
với nhân vật nào theo không gian thời gian . Chẳng hạn trong Đôi mắt của
Nam Cao, nhân vật Độ đã đặt mối quan hệ của nhà văn Hoàng với đồng
nghiệp cũ trong quá khứ, với người dân địa phương nơi anh tản cư ở hiện tại.
Để từ đó làm nổi bật cái nhìn phiến diện, một chiều của Hoàng về cuộc kháng
chiến của dân tộc.
Thứ hai là tổ chức hệ thống sự kiện, liên kết chúng lại để tạo thành
truyện.
Truyện ngắn Anh hùng bĩ vận của Nguyễn Khải là một ví dụ tiêu biểu

cho sự nối kết tài hoa và khéo léo của nhân vật kể chuyện. Tác phẩm gồm
nhiều câu chuyện khác nhau, có vẻ như không liên quan đến nhau. Đó là câu
chuyện đáng buồn của một xã hội đã lừng lẫy tiếng tăm với đủ thứ luận chứng
cờ thưởng nay lâm vào khủng hoảng bị dồn vào ngõ cụt. Câu chuyện thứ hai
18
kể về nghề viết văn trong thời kinh tế thị trường. Bản thảo đã bị trả lại, cuộc
sống của người cầm bút trở nên lao đao, mất ổn định. Câu chuyện thứ ba kể
về cuộc đời ông Cậy – chủ của một gia đình đã từng làm ăn rất phát đạt, bây
giờ sa sút, thua lỗ, con cái phải tha hương khắp nơi. Chính nhân vật kể chuyện
với sự tài tình, khéo léo của mình đã kết nối các sự kiện riêng lẻ ấy thành một
mạch truyện thống nhất, liền mạch để làm nổi bật vấn đề “anh hùng vĩ bận”.
Với các cách kể khác nhau, cách tổ chức hệ thống sự kiện khác nhau,
nhân vật kể chuyện sẽ hình thành nên các dạng cốt truyện khác nhau: cốt
truyện tuyến tính, cốt truyện tâm lí, cốt truyện “ chuyện lồng chuyện” Có
tác phẩm chỉ có một người kể chuyện và cũng chỉ kể một câu chuyện
(Đồng hào có ma của Nguyễn Công Hoan; Ngôi nhà xưa của Đặng Nhật
Minh). Có tác phẩm chỉ có một nhân vật kể chuyện nhưng kể nhiều câu
chuyện khác nhau ( Đất kinh kì của Nguyễn Khải; Phố nhà binh của Chu Lai).
Có tác phẩm trong đó có nhiều người kể chuyện cùng kể về một câu chuyện
( Khách ở quê ra của Nguyễn Minh Châu). Cũng có tác phẩm trong đó nhiều
nhân vật kể chuyện kể nhiều câu chuyện khác nhau (Người đàn bà trên
chuyến tàu tốc hành của Nguyễn Minh Châu)
Tóm lại, nhân vật kể chuyện có vai trò rất lớn trong việc tổ chức kết
cấu tác phẩm. Chính Timofiev cũng khẳng định: “Hình tượng này có tầm
quan trọng hết sức to lớn trong việc xây dựng tác phẩm bởi các quan niệm,
các biến cố xẩy ra, cách đánh giá các nhân vật và các biến cố đều xuất phát từ
cá nhân người kể chuyện” [ 11, tr.44].
1.2.2. Nhân vật kể chuyện với chức năng dẫn dắt, định hướng người đọc
Gorki khẳng định: “Trong tiểu thuyết, trong truyện ngắn, những con
người được tác giả thể hiện đều hành động với sự giúp đỡ của tác giả; tác giả

luôn bên cạnh họ, tác giả mách cho người đọc hiểu rõ cần phải hiểu như thế
nào, giải thích cho người đọc hiểu những ý nghĩa thầm kín, những động cơ bí
19
ẩn ở phía sau những hành động của các nhân vật được miêu tả” [dẫn theo
TĐS/7, tr.117]. “Tác giả” mà Gorki nói đến ở đây chính là nhân vật kể
chuyện. Bởi tác giả là người sáng tạo ra tác phẩm nhưng tác giả không bao
giờ xuất hiện trực tiếp trong tác phẩm đó mà lại hư cấu ra nhân vật kể chuyện
để thay mặt mình dẫn dắt người đọc thâm nhập vào thế giới nghệ thuật.
Trước hết, nhân vật kể chuyện là người môi giới, gợi mở, giúp người
đọc tiếp cận với nhân vật, hiểu được những động cơ thầm kín trong những
hành động của nhân vật, rút ngắn khoảng cách giữa nhân vật với mình. Trong
truyện ngắn Người trong bao của Sêkhốp, nhân vật kể chuyện là Burơkin –
đồng nghiệp của Bêlicốp – đã đưa độc giả về với ngôi trường của mình, gặp
gỡ Bêlicốp, một con người có khát vọng mãnh liệt là thu mình trong vỏ, luôn
tạo ra những cái bao để bảo vệ mình khỏi những ảnh hưởng bên ngoài. Từ đó,
độc giả hiểu rõ hơn, sâu sắc hơn những việc làm kì quái của Bêlicốp.
Không chỉ giúp người đọc hiểu rõ hơn, sâu hơn về nhân vật mà nhân
vật kể chuyện còn hướng người đọc cùng suy ngẫm, chia sẻ và đồng cảm với
những chiêm nghiệm, những suy nghĩ của mình về cuộc đời. Chẳng hạn, trong
truyện ngắn Số phận con người, thông qua hình tượng nhân vật Anđrây
Xôcôlôp, nhà văn A. Sôlôkhốp đã thể hiện lòng khâm phục và tin tưởng ở
tính cách Nga kiên cường, đồng cảm trước vô vàn khó khăn trở ngại mà con
người phải vượt qua trên con đường vươn tới tương lai hạnh phúc. Qua đó,
nhà văn muốn nhắc nhở, kêu gọi sự quan tâm của toàn xã hội đối với cá nhân
con người.
Trong nhiều trường hợp, nhân vật kể chuyện còn tiến hành đối thoại,
tranh luận với người đọc để cùng nhau kiếm tìm, khám phá chân lí cuộc sống.
Trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, nhân vật kể chuyện thường kể những
chuyện phi lí, phi lôgich, thường cố tình đưa vào trong câu chuyện mình kể
những chi tiết mâu thuẫn với nhau, vênh nhau một cách lộ liễu để kích thích

20
sự phản ứng của người đọc, chọc tức người đọc, buộc người đọc phải lên
tiếng, phải đối thoại. Trong Kiếm sắc, Đặng Phú Lân đã bị Gia Long chém
chết bằng chính thanh bảo kiếm của mình. Nhưng sau đó nhân vật kể chuyện
lại điềm nhiên kể: “Lân và Hoa trốn lên Đà Bắc, giả làm người Mường, về
sau lập trai sinh con ở đấy trở thành tổ phụ của ông Quách Ngọc Minh”.
Trong truyện ngắn Phẩm tiết của Nguyễn Huy Thiệp, nhân vật kể chuyện đưa
ra kết thúc khác về số phận của Ngô Thị Vinh Hoa: “ Ít lâu sau, ở vùng
huyện lỵ Đà Bắc, người ta vớt được một xác phụ nữ quý tộc nổi trên sông,
trên tay có bế một đứa bé còn sống. Quan sở tại báo việc này về triều đình.
Vua Gia Long cho người lên xem xét nhận ra người chết giống hệt
Ngô Thị Vinh Hoa ” Nhân vật kể chuyện đã đẩy người đọc vào những tình
huống hỗn độn, buộc người đọc không thể tin cậy hoàn toàn vào những lời
anh ta kể mà phải tìm tòi để đưa ra một cách kiến giải của riêng mình.
Nhân vật kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Khải là một người rất
có ý thức trong việc lôi kéo người đọc cùng tham gia vào câu chuyện, buộc họ
phải phản ứng. Ngôn ngữ của nhân vật kể chuyện chứa đựng nhiều đối thoại
ngầm. Trong Anh hùng bĩ vận, lời kể như là lời đối thoại của hai ý thức độc
lập – nhân vật kể chuyện xưng tôi đã phân thân để đối thoại với chính mình
về nghề viết: “Anh viết chính trị quá, cao siêu quá bạn đọc sẽ khó mua. Bạn
đọc nào? Bạn đọc của tôi vẫn trung thành với tôi mà? Bạn đọc quen thuộc của
anh đã tới tuổi về hưu rồi, đã về hưu tiền ăn còn chả đủ lấy đâu tiền mua
sách”. Có nhiều khi lời kể còn mang tính khiêu khích người đọc: “Này các
bạn trẻ, các bạn chớ có vội cười, các bạn chớ có nghĩ một cách tự phụ rằng
chỉ có lứa tuổi các bạn mới biết mãnh lực tình yêu. Không nên chủ quan như
thế! Các bà nội cũng vẫn có, nếu như cái ma lực ấy các cụ không tiêu xài quá
phung phí lúc thiếu thời ”. Không còn là bạn đọc chung chung nữa, nhân vật
21
kể chuyện hướng đích danh đến các bạn trẻ, buộc họ phải nhập cuộc, đồng
tình hoặc phản đối.

1.2.3. Nhân vật kể chuyện thay mặt tác giả phát biểu những quan niệm về
cuộc sống và nghệ thuật
Động lực của mỗi nhà văn đến với nghệ thuật có thể khác nhau thậm
chí đối lập nhau. Mặc dầu vậy, tất cả những nhà văn chân chính đều gặp nhau
ở một điểm là mong muốn thể hiện một quan niệm, một tư tưởng về cuộc
sống, về con người. Tuy nhiên khác các nhà tư tưởng, các nhà văn không
trình bày tư tưởng của mình bằng những lời phát biểu trực tiếp mà trình bày
một cách nghệ thuật thông qua các hình tượng do mình hư cấu nên trong đó
có hình tượng nhân vật kể chuyện.
Qua nhân vật kể chuyện ta phần nào đó thấy được tư tưởng, quan niệm
về cuộc sống của nhà văn. Trong tập Giamalia- Truyện núi đồi và thảo
nguyên, qua thái độ, quan niệm của nhân vật kể chuyện xưng tôi, ta thấy được
tư tưởng của nhà văn Aimatốp. Trước hết, đó là một thái độ phê phán quyết
liệt đối với những hủ tục lạc hậu của lối sống gia trưởng, lên án tư tưởng coi
thường phụ nữ, coi “ hạnh phúc người phụ nữ chỉ là sinh con đẻ cái, trong nhà
dư dật”. Gắn với thái độ lên án những hủ tục lạc hậu đó, nhân vật kể chuyện
trong tập truyện ngắn này còn bày tỏ một sự nâng niu, trân trọng, thông cảm
đối với người phụ nữ. Nhân vật kể chuyện trong truyện ngắn Giamalia đã bày
tỏ một cách trực tiếp tình cảm của mình đối với người chị dâu, đã ca ngợi vẻ
đẹp của chị, đồng cảm với việc chị dám vượt lên cuộc sống, dám bước qua
những tập tục “quái gở ” để đi tìm hạnh phúc chân chính, đích thực của mình.
Dù cho dân bản coi Giamalia là kẻ phản bội thì nhân vật kể chuyện vẫn khẳng
định: “Có một mình tôi không chê trách Giamalia. Tôi không phản bội chân
lý, chân lý của cuộc sống, chân lý của hai người đó”. Sự đồng tình của nhân
22
vật kể chuyện xưng Tôi cũng chính là tấm lòng nhân đạo của tác giả, là tư
tưởng tiến bộ của tác giả.
Trong một số truyện ngắn của Lỗ Tấn, nhà văn đã thông qua chủ thể kể
chuyện xưng Tôi để bày tỏ thái độ phê phán, phẫn nộ của mình với chế độ
phong kiến ăn thịt người. Trong Cố hương, nhân vật kể chuyện thể hiện thái

độ đau buồn vì xã hội thối nát đã làm vẩn đục tình cảm con người, tạo nên
một bức tường ngăn cách người với người: “ Tôi đã lớn tiếng yêu cầu xoá bỏ
sự ngăn cách giữa người lao động với trí thức, đạp đổ bức tường do chế độ
phong kiến dựng lên”. Trong Nhật ký người điên, nhân vật kể chuyện đã phê
phán những kẻ ăn thịt người; đã kêu gọi xã hội hãy “cứu lấy trẻ em”.
Bên cạnh quan niệm về cuộc sống, qua nhân vật kể chuyện ta còn thấy
được quan niệm của nhà văn về văn chương nghệ thuật. Đọc truyện ngắn
Nam Cao, nếu ta tập hợp những suy nghĩ của nhân vật kể chuyện lại thì có thể
thấy được quan niệm văn chương tương đối hoàn chỉnh, hệ thống và nhất
quán của nhà văn. Đó là quan niệm về mối quan hệ giữa văn chương và hiện
thực: “Nghệ thuật không cần là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa
dối, nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm
than” (Giăng sáng). Đó còn là quan niệm về tính sáng tạo độc đáo của văn
chương nghệ thuật: “ Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay,
làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp được những
người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo
những gì chưa có” (Đời thừa). Nhân vật kể chuyện trong Những truyện không
muốn viết đã chế giễu những nhà văn a dua, chạy theo mốt thời thượng, “thấy
người ta ăn khoai cũng vác mai đi đào”. Và trong truyện ngắn Nhỏ nhen, cũng
qua lời nhân vật kể chuyện, Nam Cao bộc lộ quan điểm coi trọng vai trò của
chủ thể trong sáng tạo văn học: “Nhà văn phải biết cách dùng những câu
chuyện chẳng có gì để nói những cái sâu sắc”.
23
Qua nhân vật Thuần - nhân vật kể chuyện xưng Tôi trong Tướng về hưu,
Nguyễn Huy Thiệp đã nói được cảm nhận của mình về bản chất của sự sáng
tạo nghệ thuật. Thuần “cứ mơ hồ cảm thấy những nghệ sĩ trác tuyệt là những
con người cô đơn khủng khiếp”. Trong Đất kinh kỳ, Nguyễn Khải cũng đã gửi
gắm một quan niệm khá sâu sắc về văn chương qua nhân vật kể chuyện:
“Văn chương đâu phải là thứ để dành được, ướp lạnh được, không dùng trước
thì dùng sau hoặc dùng dần. Nó là sự sống mà lại là phần thiêng liêng mong

manh dễ vỡ nhất của sự sống”. Trong Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh
Châu cũng thể hiện những chiêm nghiệm sâu sắc của mình về nghệ thuật và
cuộc đời: nghệ thuật chân chính phải luôn luôn gắn với cuộc đời, vì cuộc đời;
người nghệ sĩ cần phải nhìn nhận cuộc sống và con người một cách toàn diện,
sâu sắc.
Từ sự phân tích trên ta có thể khẳng định: nhân vật kể chuyện là nhân
tố tích cực trong việc tổ chức tác phẩm, dẫn dắt định hướng và khơi gợi khả
năng đối thoại, tranh luận của người đọc. Ngoài ra, nhân vật kể chuyện còn là
một điểm tựa để tác giả bộc lộ những quan điểm của mình về cuộc sống và
nghệ thuật. Chính vì nhân vật kể chuyện có chức năng quan trọng và đặc biệt
như vậy nên các nhà văn khi sáng tác rất có ý thức trong việc lựa chọn cho
mình một nhân vật kể thích hợp.
1. 3. Các tiêu chí để nhận diện nhân vật kể chuyện
1. 3. 1. Nhân vật xưng “tôi” khi kể chuyện
Kể chuyện ở ngôi thứ ba và ở ngôi thứ nhất là hai phương thức tự sự
chủ yếu trong văn chương. Phương thức tự sự ở ngôi thứ nhất với người kể
chuyện xưng " tôi" ngày càng có nhiều biến hoá dưới ngòi bút sáng tạo của
các nhà văn hiện đại. Bao điều lý thú khiến chúng ta phải suy nghĩ: Mối quan
hệ giữa chủ thể "tôi" với các nhân vật trong tác phẩm, với tác giả? Tư cách
nhân vật văn học của chủ thể "tôi"? Thử lật giở vài cuốn sách cuốn hút độc
24
giả những năm gần đây của các nhà văn Bảo Ninh, F. Weyergans,

J. Toussaint, Mạc Ngôn, J.M.G. Le Clézio, F. Zeller…
Tính chất hư cấu của tiểu thuyết cũng như truyện ngắn không chỉ liên
quan đến nội dung được kể mà cả ở người kể. Bản thân người kể chuyện xưng
"tôi" cũng chỉ là một sản phẩm của hư cấu. Trường hợp dễ thấy nhất khi "tôi"
trùng với một nhân vật chủ yếu, có tên hoặc không có tên, trong tác phẩm do
nhà văn dựng lên. Trường hợp phức tạp hơn là phải khu biệt quyền năng của
nhân vật kể chuyện xưng tôi với người trần thuật khi tôi không kể về bản thân

mình mà kể về những gì mình chứng kiến. Càng rắc rối và dễ gây lúng túng
nữa khi lầm lẫn “ tôi” với tác giả. Nhân vật kể chuyện có thể có tên, có thể
không có tên chỉ xưng “tôi” trong tác phẩm . Trong những năm gần đây, các
tác phẩm sử dụng phương thức tự sự ở ngôi thứ nhất với nhân vật xưng tôi
ngày càng nhiều. Điều đó phần nào cho thấy ưu thế của nó so với hình thức kể
chuyện truyền thống (kể từ ngôi thứ ba).
1.3.2. Nhân vật kể chuyện có cuộc sống xã hội - văn hoá và số phận cá
nhân ít nhiều được hình thành trong tác phẩm
Trong Lão Hạc, nhân vật kể chuyện xưng tôi - ông giáo –là một người
biết đồng cảm, chia sẻ với nỗi đau khổ của lão Hạc; là người có vai trò dẫn
chuyện, chắp nối các sự kiện, tạo điều kiện cho nhân vật chính xuất hiện trong
những tình huống, cảnh ngộ nhất định. Nhưng cũng chính qua các tình huống
cảnh ngộ ấy ta có thể thấy cuộc sống, số phận của ông giáo. Sau khi nghe lão
Hạc bảo: “Có lẽ tôi bán con chó đấy, ông giáo ạ!”. “Tôi (ông giáo) ngồi lặng
lẽ. Tôi nghĩ đến mấy quyển sách quý của tôi Không! Lão Hạc ơi! Ta có
quyền giữ cho ta một tí gì đâu? Lão quý con chó vàng của lão đã thấm vào
đâu với tôi quý năm quyển sách của tôi…”[46, tr.105-106]. Hoá ra ông giáo
cũng có một gia cảnh nặng nề chẳng kém gì lão Hạc; vì thế dù thông cảm
muốn giúp đỡ lão Hạc nhưng đành bất lực: “Tôi nói chuyện lão với vợ tôi.
25
Thị gạt phắt đi: - Cho lão chết! Ai bảo lão có tiền mà chịu khổ! Lão làm lão
khổ chứ ai làm lão khổ! Nhà mình sung sướng gì mà giúp lão? Chính con
mình cũng đói […]. Tôi giấu giếm vợ tôi, thỉnh thoảng giúp ngấm ngầm lão
Hạc. Nhưng hình như lão cũng biết vợ tôi không ưng giúp lão. Lão từ chối tất
cả những cái gì tôi cho lão. Lão từ chối gần như là hách dịch. Và lão cứ xa tôi
dần dần…” [46, tr.113-114].
1.3.3. Nhân vật kể chuyện với tư cách người trong cuộc
Trong truyện ngắn Đôi mắt, nhân vật Độ - một nhà văn kiểu mới, thuộc
về nhân dân, nhân vật xưng “tôi” trong tác phẩm - là một nhân vật không có
gì nổi bật, thậm chí chân dung anh hoà lẫn với hình ảnh những người kháng

chiến ở mọi nơi. Tính tình của anh cũng lại là người hiền hậu, rụt rè, hay nể
nang người khác. Anh tự nhận mình là một “tuyên truyền viên nhãi nhép (…),
khoác cái ba lô lên vai, đi hết làng nọ đến làng kia để nhận xét nông thôn một
cách kĩ càng hơn”. Có thể nói, với vài nhận xét, miêu tả bề ngoài về nhân vật
Độ, chứng tỏ anh là người trực tiếp tham gia kháng chiến, là người trong
cuộc, lăn lộn với phong trào kháng chiến của nhân dân. Hơn nữa, qua những
lời đối thoại của anh với vợ chồng nhân vật Hoàng, ta còn thấy họ là những
người quen lâu ngày gặp lại, gặp nhau ở nơi tản cư. Nhân vật Độ kể lại cuộc
gặp gỡ ấy – chuyến tuyên truyền bất thành của mình vì: “Điều muốn nói với
anh, tôi đành giữ kín trong lòng không nói nữa. Tôi biết chẳng đời nào anh
nhận làm một anh tuyên truyền nhãi nhép như tôi.Vả lại dầu có rủ được anh
làm như tôi, khoác cái ba lô lên vai, đi hết làng nọ đến làng kia để nhận xét
nông thôn một cách kĩ càng hơn cũng chẳng ích gì. Anh đã quen nhìn đời và
nhìn người một phía thôi”.
Hay trong truyện ngắn Mảnh trăng cuối rừng của nhà văn Nguyễn
Minh Châu, nhân vật kể chuyên xưng tôi có tên là Lãm, lính lái xe ở Trường
Sơn những năm kháng chiến chống Mĩ ác liệt đã kể lại cuộc gặp gỡ bất ngờ

×