Tải bản đầy đủ (.pdf) (142 trang)

Ký Vũ Bằng về văn hoá ẩm thực (Qua Món ngon Hà Nội và Thương nhớ mười hai)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (943.47 KB, 142 trang )


1


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2




NGUYỄN THỊ MINH HOA






KÝ VŨ BẰNG VỀ VĂN HÓA ẨM THỰC
(Qua Món ngon Hà Nội và Thương nhớ mười hai)



Chuyên ngành: Lý luận văn học
Mã số : 60 22 32


LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC


Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Đăng Điệp



HÀ NỘI, 2012



2
LỜI CẢM ƠN

Tôi xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất của mình tới
PGS, TS. Nguyễn Đăng Điệp, người thầy đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn tôi
hoàn thành luận văn trong suốt thời gian qua.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong Tổ Lý luận văn học,
Phòng Sau Đại học - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện
thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu.
Xin cảm ơn thầy cô, bạn bè đã động viên, giúp đỡ tôi hoàn thành luận
văn này.

Hà Nội, tháng 6 năm 2012
Học viên


Nguyễn Thị Minh Hoa













3
LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan những nội dung tôi trình bày trong luận văn là kết
quả quá trình nghiên cứu của bản thân tôi.
Trong quá trình nghiên cứu, tôi có tìm hiểu, tham khảo thành quả khoa
học của các tác giả khác với sự trân trọng và biết ơn, nhưng những nội dung
tôi nghiên cứu không trùng với kết quả nghiên cứu của các tác giả khác.

Hà Nội, tháng 6 năm 2012
Học viên


Nguyễn Thị Minh Hoa



















4
MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU
1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 2
3. Mục đích nghiên cứu 7
4. Nhiệm vụ nghiên cứu 7
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 7
6. Phương pháp nghiên cứu 8
7. Đóng góp mới của luận văn 8
8. Bố cục của luận văn 8
NỘI DUNG
9
Chương 1. Ẩm thực trong ký Vũ Bằng như một phương diện văn hóa 9
1.1. Khái quát chung về thể loại ký 9
1.1.1. Giới thuyết khái niệm 9
1.1.2. Đặc trưng của ký 10
1.2. Đề tài ẩm thực trong ký Vũ Bằng 23
1.2.1. Sơ lược về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Vũ Bằng 23
1.2.2. Ẩm thực như một phương diện văn hóa 28

1.2.3. Ẩm thực kết tinh tình yêu về đất nước, con người Việt Nam 32
Chương 2. Văn hóa ẩm thực qua hai tác phẩm ký: Miếng ngon Hà Nội
và Thương nhớ mười hai của Vũ Bằng

34
2.1. Nét đẹp của văn hóa ẩm thực qua các món ăn dân dã 34
2.1.1. Nét đẹp của văn hóa ẩm thực qua sự phong phú của các món ăn 35
2.1.2. Nét đẹp của văn hóa ẩm thực qua sự kết hợp hài hòa của chất liệu
và sự chế biến, bày biện khéo léo của những con người bình dị

44

5
2.1.3. Nét đẹp của văn hóa ẩm thực thể hiện qua sự tinh tế trong cách
thưởng thức món ăn

60
2.2. Nét đẹp văn hóa ẩm thực thấp thoáng trong bóng dáng của cố
nhân - người vợ yêu của Vũ Bằng

67
2.2.1. Bóng hình cố nhân - nơi in dấu kỷ niệm ẩm thực của hai vợ chồng 68
2.2.2. Hình bóng cố nhân - người suốt đời chăm lo cho miếng ăn
giấc ngủ của chồng

70
2.2.3. Hình bóng cố nhân - song hành với nỗi nhớ về những tinh
hoa văn hóa ẩm thực

73

2.3. Vẻ đẹp của văn hóa ẩm thực qua cái nhìn "đậm" nỗi sầu của Vũ Bằng 78
Chương 3. Một số đặc sắc trong nghệ thuật ký Vũ Bằng tạo nên vẻ
đẹp của văn hóa ẩm thực qua hai tác phẩm ký: Miếng ngon Hà Nội và
Thương nhớ mười hai


83
3.1. Giọng điệu trần thuật 83
3.1.1. Giọng ngợi ca nồng nàn, say đắm 83
3.1.2. Giọng nghẹn ngào, tiếc nuối 86
3.1.3. Giọng đối thoại tâm tình 88
3.2. Ngôn ngữ trần thuật 91
3.3. Kết cấu 98
KẾT LUẬN
102
TÀI LIỆU THAM KHẢO
105







6
MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
1.1. Nếu điểm qua những nét chính về cuộc đời của Vũ Bằng ta có thể
thấy cuộc đời ông là một trong những trường hợp đặc biệt của các nhà văn

Việt Nam hiện đại. Có một thời người ta thường gắn nhân vật Hoàng trong
tác phẩm Đôi mắt của Nam Cao với Vũ Bằng ngoài đời. Sau đó, tên tuổi của
ông lại được gắn với những lời đồn thổi khuất tất về chính trị. Chỉ cần hai dẫn
chứng đó cũng đủ thấy sự trắc trở, thăng trầm đã bám riết suốt cuộc đời của
một nghệ sĩ tài hoa như Vũ Bằng. Vì thế, như một nhu cầu tự thân - nhu cầu
được giải thoát tâm hồn, cộng với những năng lực sáng tạo vốn có đã thúc đẩy
ông tìm đến và ký thác tất cả nỗi lòng, tâm sự, trăn trở của mình vào việc sáng
tác văn học. Và như một lẽ đương nhiên ông tìm đến với thể loại ký, đặc biệt
là hồi ký - thể loại phù hợp nhất với nhu cầu bộc lộ tinh thần chủ quan và nhu
cầu tự thú của bản thân người viết. Mặt khác, nói như Ilia Êrenbua: “Bất kì
quyển sách nào cũng là lời tự thú, và quyển sách hồi ức thì chính là lời tự thú
mà tác giả không cố ý dấu mình dưới cái bóng của các nhân vật hư cấu”,
trong ký, Vũ Bằng đã không ngần ngại bộc lộ hết cái tôi với bao suy tư, sâu
thẳm, những cảm xúc mãnh liệt và chân thật đến từng tế bào tâm hồn.
1.2. Trong gia tài ký đồ sộ của Vũ Bằng chúng tôi đặc biệt có ấn tượng
sâu sắc với hai tập Miếng ngon Hà Nội và Thương nhớ mười hai. Nếu như
Cai và Bốn mươi năm nói láo chính là sự tự “thanh minh” cho “thân phận”,
“danh tiết” và “nghề nghiệp” của mình rằng: “Tôi không bao giờ phản bội Tổ
quốc phản bội nhân dân” thì sau khi Thương nhớ mười hai và Miếng ngon Hà
Nội hoàn thành chính là lời xác minh chân xác và xúc động nhất về sự thật
con người, tâm hồn nhạy cảm, tràn đầy tình yêu thương của nhà tình báo này.
Thương nhớ mười hai và Miếng ngon Hà Nội là tâm sự, là nỗi lòng của con

7
người xa quê hương, xứ sở. “Nỗi sầu xứ” đó luôn vọng về qua từng con chữ,
qua cảnh sắc thiên nhiên, con người, lễ tết… và đặc biệt là qua “văn hoá ẩm
thực” rất tinh tế trong trang văn của Vũ Bằng.
1.3. Trong lịch sử văn học dân tộc, nhà văn Vũ Bằng không phải là
người đầu tiên và duy nhất viết về các món ăn ngon của người Việt nhưng có
thể nói một cách rất khách quan rằng, viết về “văn hoá ẩm thực” đằm thắm

nhất, say mê nhất và cũng dung dị nhất vẫn là Vũ Bằng, bởi vì “phải là một
con người chất chứa một niềm đau không thể giãi bày cùng ai, gánh chịu nỗi
cô đơn khủng khiếp lắm mới tuôn ra được ngòi bút mình những câu văn như
có ma ám, từng dòng, từng dòng như bị một thế lực siêu nhiên vừa hành hạ,
vừa chắp cánh cho tâm hồn, cho cõi lòng để bao nhiêu tài hoa biến thành
niềm thương nhớ thấu trời thấu đất” (Triệu Xuân). Cảm hứng của Vũ Bằng
trong hai cuốn sách tài hoa ấy là nỗi nhớ niềm yêu dường như là tuyệt vọng,
dường như thuộc về “một tiền kiếp xa xôi” của một người khách thiên lý
tương tư cố quán vời vợi nghìn trùng không có cơ hội trở lại, gặp lại. Và hình
như trong mỗi món ăn thấm đẫm tình quê đó được “đượm sắc, thơm hương”
hơn bởi tình yêu da diết Hà Nội, rộng hơn là tình yêu miền đất giàu truyền
thống văn hoá - Bắc Việt.
1.4. Qua việc tìm hiểu văn hoá ẩm thực trong hai tác phẩm ký Miếng
ngon Hà Nội và Thương nhớ mười hai chúng tôi hy vọng rằng sẽ đóng góp
thêm một cái nhìn toàn diện hơn về cuộc đời, tài năng, tư tưởng phong cách
của một nhà văn mà suốt cuộc đời ông chữ “tài” và chữ “tai” luôn đeo bám
nhau đến khắc nghiệt.

2. Lịch sử vấn đề
2.1. Về Vũ Bằng và các tác phẩm ký của ông
Vũ Bằng là một cây bút viết ký rất tài hoa của nền văn học Việt Nam
hiện đại. Ông có sáng tác đầu tay khá sớm, đó là truyện ngắn Con ngựa già
đăng trên mục Bút mới của báo Đông Tây năm 1930. Từ đó cho đến cuối đời

8
Vũ Bằng viết đều đặn, liên tục cho ra đời các tác phẩm với khối lượng lớn và
trên nhiều lĩnh vực. Nhưng đến nay số lượng tìm được theo Văn Giá là mới
được hơn một nửa. Vì lí do này việc nghiên cứu Vũ Bằng chưa thật sự tương
xứng với sáng tác của ông để lại.
Người đầu tiên viết về Vũ Bằng là Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện

đại, Vũ Bằng được Vũ Ngọc Phan xếp vào các “tiểu thuyết gia tả chân”. Nhận
xét về lối văn tiểu thuyết của Vũ Bằng, Vũ Ngọc Phan viết: “Tiểu thuyết của
Vũ Bằng rất gần tiểu thuyết của Nguyễn Công Hoan về lối tả cảnh và nhân
vật. Khi tả nhân vật, dù là họ ở cảnh nghèo khổ hay cảnh giàu sang, bao giờ
Vũ Bằng cũng tả bằng ngọn bút dí dỏm, nhạo đời hơi đá hoạt kê một chút còn
về cảnh ông chỉ tả sơ sơ; ông chú trọng cả vào hành vi của các nhân vật, vì
những hành vi ấy là động tác của cuốn tiểu thuyết và gây nên những cảnh
riêng biệt cho các nhân vật” [38].
Đến năm 1969 mới có thêm một bài giới thiệu về Vũ Bằng của Thượng
Sỹ, đó là lời nói đầu cho cuốn Bốn mươi năm nói láo khi cuốn sách được xuất
bản lần đầu tiên (do cơ sở xuất bản Phạm Quang Khải ấn hành tại Sài Gòn
năm 1969).
Năm 1970, Tạ Tỵ trong cuốn Mười khuôn mặt văn nghệ xuất bản đã
giới thiệu Vũ Bằng là một trong mười khuôn mặt văn nghệ nổi bật lúc bấy giờ
với bài viết Vũ Bằng - Người trở về từ cõi đam mê. Từ năm 1991 đến năm
1999 cũng có rất nhiều bài viết đăng trên các báo: Văn nghệ, Sài Gòn, Phụ nữ
thứ bảy Thành phố Hồ Chí Minh về Vũ Bằng. Nhưng các bài viết này chỉ
dừng lại ở việc nghiên cứu một số khía cạnh trong tác phẩm của ông hoặc kể
lại những ấn tượng về Vũ Bằng để minh oan, chiêu tuyết cho ông.
Năm 2000, nhà văn Triệu Xuân là người có công sưu tầm các tác phẩm
của Vũ Bằng thành ba tập Tuyển tập Vũ Bằng khá dầy dặn với bài giới thiệu
Nhà văn Vũ Bằng - Người lữ hành đơn côi. Vào năm 2005, cũng chính Triệu

9
Xuân cho biên tập lại thành Vũ Bằng toàn tập trọn bộ bốn tập trong đó tập
một: Những tác phẩm thuộc thể ký, tập hai và tập ba: Truyện ngắn, truyện
dài: tập bốn: Tạp văn, biên khảo.
Đặc biệt công trình Vũ Bằng - Bên trời thương nhớ của Văn Giá [16] là
một công trình đầu tiên nghiên cứu có hệ thống và toàn diện về Vũ Bằng.
Trong công trình này ngoài bài giới thiệu khá kỹ về cuộc đời, tác phẩm của

Vũ Bằng, Văn Giá còn in những bài viết có giá trị về Vũ Bằng và các tác
phẩm của ông (chủ yếu là về Thương nhớ mười hai), sau đó là phần sưu tầm
các truyện ngắn của Vũ Bằng trước và sau cách mạng, số ít trang cuối dành để
giới thiệu thư mục tác phẩm, thư mục nghiên cứu Vũ Bằng. Tuy là một công
trình nghiên cứu khá hệ thống và toàn diện, song Văn Giá vẫn cho rằng đó
mới chỉ là “nét phác thảo bước đầu” về Vũ Bằng. Trong một tương lai gần,
chắc chắn sẽ có những công trình nghiên cứu toàn diện, đầy đủ và chi tiết hơn.
2.2. Về hai tác phẩm ký: Miếng ngon Hà Nội và Thương nhớ mười hai
của Vũ Bằng
Vì các tác phẩm ký của Vũ Bằng có một số phận rất đặc biệt nên các
công trình nghiên cứu về ký của Vũ Bằng vẫn còn khá hạn chế về cả số lượng
và quy mô chưa thật sự tương xứng với tài năng và vị trí của tác giả trên văn
đàn. Có lẽ may mắn hơn tất cả là tác phẩm Thương nhớ mười hai có số lượng
bài viết khá nhiều vì nó được coi là tác phẩm ký xuất sắc nhất của ông. Còn
Miếng ngon Hà Nội mặc dù là những cảm nhận rất tinh tế của Vũ Bằng về
văn hóa ẩm thực, song tác phẩm cũng chỉ được nhắc đến bên cạnh những tác
phẩm ký, tùy bút viết về văn hóa - ẩm thực khá tiêu biểu của Việt Nam như:
Hà Nội băm sáu phố phường (Thạch Lam), Phở, Cốm (Nguyễn Tuân),
Những nẻo đường Hà Nội (Băng Sơn) như một sự khẳng định giá trị của nó
chứ chưa hề đi vào tìm hiểu sâu.
Điểm nhấn của các công trình nghiên cứu là tác phẩm Thương nhớ
mười hai.

10
Nhà văn Tô Hoài trong bài viết Vũ Bằng, Thương nhớ mười hai đã
đánh giá rất cao tác giả này, coi đó là “một nét tinh hoa của tấm lòng với cuộc
đời”, “Từng câu tha thiết đã làm cho đến cả người đương ở giữa Hà Nội cũng
phải yêu lây. Những sành sỏi và sâu sắc toát ra ngòi bút sao mà nhớ đến não nùng”.
Nhưng dường như GS. Hoàng Như Mai là người đầu tiên đã phát hiện
lên tiếng khẳng định, ngợi ca sức hấp dẫn của tác phẩm là ở “tấm lòng” và

“ngòi bút tài hoa”: “dù phải thích nghi với hoàn cảnh chính trị như thế nào
đấy, cuốn sách vẫn bày tỏ rất rõ tâm sự của một người con miền Bắc nhớ da
diết quê hương bên kia giới tuyến. Chính tấm lòng ấy đã cùng với ngòi bút tài
hoa của Vũ Bằng làm nên giá trị văn chương cho tác phẩm này. Nó hấp dẫn
chúng ta từng dòng, từng trang” [4; 6].
Sức hấp dẫn, vẻ đẹp của tác phẩm được GS. Nguyễn Đăng Mạnh khái
quát: “Tình yêu quê hương, đất nước ấy là linh hồn của những trang viết hay
nhất trong Thương nhớ mười hai, Bao hàm trong đó còn có tình cảm truyền
thống của người dân Việt” [32, tr.430].
Bằng cảm thụ tinh tế của một nhà thơ, Vũ Quần Phương nêu lên lòng
yêu nước của tác giả “Đọc Vũ Bằng thấy được lòng yêu nước của con người
giăng mắc từ muôn nghìn sự việc”, Vũ Bằng “soi mình vào trời đất quê
hương để viết lên văn” [41].
Như thế là từ Tô Hoài đến Hoàng Như Mai, Vũ Quần Phương, Nguyễn
Đăng Mạnh đều thống nhất khẳng định Thương nhớ mười hai là một tác phẩm
có giá trị văn chương. “Linh hồn” của các trang văn thương nhớ là tình yêu
quê hương đất nước của tác giả. Có thể nói đây là những ý kiến hết sức quý
báu và đầy lòng trân trọng về Thương nhớ mười hai của Vũ Bằng.
Năm 1994 đoạn trích Tháng ba rét nàng Bân của tác phẩm Thương nhớ
mười hai đã được đưa vào chương trình Văn 12 Ban KHXH, phần đọc thêm.
Tạp chí Kiến thức ngày nay đã mở một cuộc thi bình một trong năm tác
phẩm: Trịnh Tông lên ngôi Chúa - trích Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô

11
Gia Văn Phái; Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân; Lão Hạc của Nam
Cao; Mảnh trăng cuối rừng của Nguyễn Minh Châu và Tháng ba rét nàng
Bân của Vũ Bằng. Điều đó có nghĩa là Thương nhớ mười hai đã được thừa
nhận là một trong số những tác phẩm có giá trị của văn học Việt Nam hiện đại.
Người dành nhiều công sức nhất, đồng thời cũng là người đầu tiên đã
hoàn thành công trình nghiên cứu về Vũ Bằng là Văn Giá. Ông đã có bảy bài

viết và một cuốn sách có nhan đề Vũ Bằng - Bên trời thương nhớ dành viết về
Vũ Bằng. Văn Giá khẳng định Vũ Bằng là nhà văn tài năng và xuất sắc về
nhiều phương diện “Ngòi bút của ông tựa như một con dao pha sắc nước, vừa
thạo nghề, vừa cần mẫn” [16; 22]. Tác giả đã dành khá nhiều trang ca ngợi vẻ
đẹp của Thương nhớ mười hai như: Vũ Bằng đã “trải gấm hoa” lên những
trang văn và “trang văn dành để nhớ về loài hoa sầu đâu xứ Bắc phải nói là
tuyệt bút”. Văn Giá khẳng định: “Với những tác phẩm hồi ký trữ tình này ông
đã có một vị trí chắc chắn trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại. Lịch sử thể
loại hồi ký nằm trong lịch sử văn học Việt Nam sẽ phải nhắc đến ông như một
sự đóng góp quan trọng không thể thiếu được” [16; 85].
Với luận văn thạc sĩ “Cái đẹp trong Thương nhớ mười hai” Nguyễn Thị
Thu Hòa đã áp dụng phạm trù cái đẹp để khám phá trong Thương nhớ mười
hai là một không gian nghệ thuật rộng lớn, phong phú, một cố hương hội tụ
những vẻ đẹp mộc mạc, thần tiên; cái đẹp của chủ thể thẩm mĩ là một tâm hồn
yêu thiết tha quê hương, một con người có kiến thức văn hóa sâu rộng, một
cây bút độc đáo trong thể ký” [25, tr15-16].
Điểm lại một cách có hệ thống các công trình bài viết nghiên cứu về ký
Vũ Bằng nói chung, về hai tác phẩm Miếng ngon Hà Nội và Thương nhớ
mười hai nói riêng, chúng tôi thấy hầu như các tác giả mới dừng lại ở việc
khẳng định tài năng, vị trí về tình yêu quê hương, đất nước của Vũ Bằng chứ
chưa ai đi sâu vào nghiên cứu một vấn đề rất độc đáo trong ký của ông, đó là:

12
Văn hóa ẩm thực thể hiện rõ nhất qua hai tác phẩm Miếng ngon Hà Nội và
Thương nhớ mười hai.
Chính vì “khoảng trống” lí thú đó chưa được chú ý lấp đầy là lí do, điều
kiện để chúng tôi thực hiện đề tài: Ký Vũ Bằng về văn hoá ẩm thực (qua
Miếng ngon Hà Nội và Thương nhớ mười hai). Hy vọng đề tài sẽ góp một
tiếng nói khẳng định tài năng, tâm hồn nhạy cảm với cái đẹp và nỗi sầu xa sứ
của văn sĩ tài hoa Vũ Bằng.


3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là tìm hiểu những đặc điểm nổi bật nhất
về văn hoá ẩm thực qua hai tác phẩm ký: Miếng ngon Hà Nội và Thương nhớ
mười hai của Vũ Bằng. Từ đó có thể đánh giá một cách chân xác hơn về tài
năng và tình yêu quê hương, đất nước tha thiết của ông.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này chúng tôi đề ra một số nhiệm vụ sau:
- Tìm hiểu những nét chung nhất về “Văn hoá ẩm thực”.
- Chỉ ra được đặc điểm tiêu biểu của văn hoá ẩm thực trong hai tác
phẩm ký Miếng ngon Hà Nội và Thương nhớ mười hai.
- Trong quá trình tìm hiểu văn hoá ẩm thực qua hai tác phẩm ký đó phải
tái hiện được thế giới tâm hồn của Vũ Bằng.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Văn hoá ẩm thực qua hai tác phẩm ký Miếng ngon Hà Nội và Thương
nhớ mười hai của Vũ Bằng.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung khảo sát hai tác phẩm:
- Vũ Bằng, Miếng ngon Hà Nội, Nxb Văn hoá Thông tin, H.2001.
- Vũ Bằng, Thương nhớ mười hai, Nxb Văn hoá Thông tin, H.2001.

13
Ngoài ra luận văn còn tìm hiểu thêm một số tác phẩm ký khác của
Vũ Bằng: Cai, Bốn mươi năm nói láo, Món lạ miền Nam.
6. Phương pháp nghiên cứu
Trong luận văn, chúng tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu văn
học chính như:
- Phương pháp thống kê - phân loại.
- Phương pháp hệ thống.

- Phương pháp so sánh, đối chiếu.
7. Đóng góp mới của luận văn
- Thấy được nét riêng trong văn hoá ẩm thực của Vũ Bằng so với những
nhà văn khác: Thạch Lam, Nguyễn Tuân, Tô Hoài.
- Chỉ ra được điểm nhấn tâm hồn của Vũ Bằng trong từng món ăn mà
ông tái hiện.
8. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, nội dung chính được triển khai
thành 3 chương:
Chương 1: Ẩm thực trong ký Vũ Bằng như một phương diện văn hóa
Chương 2: Văn hoá ẩm thực qua hai tác phẩm ký: Miếng ngon Hà
Nội và Thương nhớ mười hai của Vũ Bằng.
Chương 3: Một số đặc sắc trong nghệ thuật ký Vũ Bằng tạo nên vẻ đẹp
của văn hoá ẩm thực qua hai tác phẩm ký: Miếng ngon Hà Nội và Thương
nhớ mười hai.


14
NỘI DUNG
Chương 1
ẨM THỰC TRONG KÝ VŨ BẰNG
NHƯ MỘT PHƯƠNG DIỆN VĂN HOÁ

1.1. Khái quát chung về thể loại ký
1.1.1. Giới thuyết khái niệm
Ký là một thể loại văn học ra đời khá sớm trong lịch sử văn học nhân
loại. Xung quanh khái niệm về ký có rất nhiều ý kiến khác nhau.
Theo Từ điển Văn học, ký là một loại hình văn học bên cạnh thơ, tiểu
thuyết và kịch, bao gồm nhiều thể loại như bút ký, hồi ký, du ký, nhật ký,
phóng sự, tuỳ bút, tạp văn, tự truyện ký phản ánh sự việc và con người.

Từ điển Tiếng Việt định nghĩa: "Ký là một thể văn tự sự viết về người
thật việc thật có tính chất thời sự, trung thành với hiện thực đến mức cao nhất".
Từ điển thuật ngữ văn học xác định: "Ký là một loại hình văn học trung
gian, nằm giữa báo chí và văn học, gồm nhiều thể văn xuôi tự sự. Khác với
truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết, ký có quan điểm thể loại là tôn trọng sự
thật khách quan của đời sống. Người viết ký luôn phải chú ý bảo đảm tính xác
thực của hiện thực đời sống phản ánh trong tác phẩm. So với truyện ngắn, tiểu
thuyết, ký phản ánh nhanh chóng và linh hoạt cuộc sống"[37]. Nếu như trong
truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết không thể không có yếu tố tưởng tượng,
hư cấu nghệ thuật thì trong thể loại ký tưởng tượng hư cấu ít xuất hiện hơn vì
sự thực là vấn đề cốt lõi của ký. Hư cấu chỉ xuất hiện khi nhà văn không trực
tiếp chứng kiến sự việc mà ghi lại qua dòng hồi tưởng, lời kể của người khác.
Thế nhưng, hư cấu của ký cũng khác hẳn với hư cấu của truyện và tiểu thuyết.
Nếu như trong truyện và tiểu thuyết hư cấu tạo ra “hiện thực thứ hai” cao hơn
hiện thực có thật ngoài đời sống thì hư cấu của ký thể hiện ở vai trò sáng tạo
chủ quan thông qua liên tưởng, ước đoán, trong công việc lựa chọn, tổ chức,
sắp xếp, bình giá những hiện tượng được miêu tả để chúng nổi bật những nết

15
tiêu biểu, điển hình. Nhờ tính xác thực mà ký luôn có tính thời sự nóng bỏng,
có giá trị nhận thức sâu sắc, tác động trực tiếp tới người tiếp nhận.
Trong Cơ sở lí luận văn học, tập 3 do Hà Minh Đức chủ biên, quan
niệm rằng: " Ký là một thể loại linh hoạt, cơ động, nhạy bén trong việc phản
ánh hiện thực ở cái thể trực tiếp nhất, ở những nét sinh động và đổi mới nhất"
[13, tr.123].
Trong một quyển sách khác cũng do Hà Minh Đức chủ biên, đưa ra
khái niệm: "ký văn học chủ yếu là những hình thức ghi chép linh hoạt trong
văn xuôi về những sự kiện, về con người có thật trong cuộc sống với nguyên
tắc phải tôn trọng tính xác thực và chú ý đến tính chất thời sự của đối tượng
miêu tả" [12, tr.18].

Nhìn chung, các ý kiến dẫu khác nhau ở điểm này, điểm khác song đều
nhất quán ở một quan niệm cho rằng: Sự thật là vấn đề cốt lõi, bản chất của
ký - ký viết về những cái có thực trong đời sống, có ý nghĩa thời sự hoặc trực
tiếp, hoặc gián tiếp. Người viết ký phải tuân thủ nguyên tắc tôn trọng sự thực,
đời thực, việc thực, cảm xúc thực.
1.1.2. Đặc trưng của ký
Khẳng định ký là một thể loại văn học có nghĩa là thừa nhận ký mang
trong nó những quy luật đặc thù của thể loại làm nên diện mạo riêng. Mặc dù
có nhiều quan điểm khác nhau về đặc trưng của thể loại ký, song có thể quy
về một số đặc trưng bản sau đây:
1.1.2.1. Sự thật là vấn đề cốt lõi, bản chất của ký
Ngay từ thời trung đại, dù chưa có ý thức rõ ràng về thể loại do văn học
chưa thoát khỏi tình trạng văn - sử - triết bất phân và quan niệm "văn dĩ tải
đạo" thì các tác giả ký trung đại đã thừa nhận các thể ký, lục, chí là các thể
loại ghi chép những sự việc có thực trong đời sống. Chẳng hạn như trong lời
tựa cho tập Lam Sơn thực lục (1431). Vũ Phương Đề trong bài tựa Công dư
tiệp ký viết: "Phủ bình nhật thích nói chuyện nên khi việc quan rảnh rỗi

16
thường ghi chép lại những điểm bấy lâu nay mình nghe được, cùng những
truyện biết được từ các nhà bác học đương thời. Tất cả đều căn cứ vào sự thực
mà viết thành bài, đặt tên sách là Công dư tiệp ký.
Điểm lại những quan niệm và nghiên cứu của nhiều tác giả như Vũ
Ngọc Phan [40], Tô Hoài (trong Nghệ thuật và phương pháp viết văn), Hà
Minh Đức, Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Hoàng Ngọc Hiến về ký ta đều thấy
có sự nhất quán cho rằng: Sự thật là bản chất, là cốt lõi của ký, là nguyên tắc
tổ chức hình tượng nghệ thuật và nội dung thông tin cơ bản trong ký. Chính
đặc trưng ấy làm cho ký có một sức sống riêng, trở thành một lĩnh vực văn
học đặc thù, không thể nhập chung vào các thể loại khác.
Quả vậy, ký lấy sự thực làm mục đích và nội dung thông tin cơ bản,

còn những bình luận, đánh giá, xúc cảm của nhà văn là nhằm mài sắc sức
mạnh của sự thực. Trong khi đó, truyện chỉ lấy sự thực làm nguyên liệu, sự
thực được nhào nặn, tái tạo, hư cấu để biểu hiện một nhận thức, một quan
niệm nghệ thuật của nhà văn. Đọc Tắt đèn của Ngô Tất Tố, chí Phèo và Lão
Hạc của Nam Cao, ta tuy biết những nguyên mẫu nhân vật, hoàn cảnh thực
tế song nó hoàn toàn không trùng khít với hiện thực, nhà văn sẽ hư cấu, thêm
bớt các tình tiết nhằm bộc lộ những dụng ý tư tưởng của nhà văn về hiện thực,
về con người thời đó.
Đọc những lá thư trong Từ tuyến đầu Tổ quốc chúng ta được biết bao
sự thực đau lòng như: "ở Điện Bàn, chị Th có mang bảy tháng, bị chúng bắt
tra tấn suốt mấy ngày cuối cùng bị một cú đá giày vào bụng, đứa con chưa đủ
tháng bị phọt ra ngoài. Chị cầm cái thai vừa rú lên vừa chạy ra đường. Một
loạt tiểu liên bắn theo". Rồi, "ở thằng Bình, chị T bị chúng cột chặt đầu ống
quần lại bỏ vào trong năm con rắn. Chị ngã ra chết ngất. Đến nay, đêm đến là
chị rùng mình, đang ngủ cùng dậy kêu la: "Nó nhiều quá, nó nhiều quá " [54, tr.112].
Tiến sĩ nông nghiệp Lương Đình Của khi đọc xong những sự thực như thế đã

17
phải thốt lên: "Trong đời tôi, chưa có một cuốn sách nào gây cho tôi một cảm
động mạnh mẽ và những xúc động liên tục như tập Từ tuyến đầu Tổ quốc "
[12, tr.145]. Tất cả những gì được thể hiện trong ký đều là có thật, đều rất rõ
ràng, cụ thể đến từng thời gian, địa điểm, tên người".
Sự thực là nguyên tắc xây dựng hình tượng ký. Sáng tạo hình tượng ký,
bao giờ tác giả cũng cố gắng cung cấp những thông tin xác thực về hình
tượng: ngày tháng đối với sự kiện, số liệu đối với hiện tượng, địa chỉ đối với
nhân vật. Kể về người nữ anh hùng, Nguyễn Thi viết: "Tại xã Tam Ngãi,
huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh có một người đàn bà có sáu con tên là Nguyễn
Thị Út " (Người mẹ cầm súng). Trong tuỳ bút "Người lái đò sông Đà", bên
cạnh những trang viết cực kì phóng túng, tài hoa, Nguyễn Tuân còn cho ta
biết những số liệu rất cụ thể, tỉ mỉ: "Sông Đà khai sinh ở huyện Cảnh Đông,

tỉnh Vân Nam, lấy tên là Lý Tiên (theo Dư địa chí của Nguyễn Trãi thì tên
Trung Quốc của sông Đà lại là Bả Biên Giang) tính toàn thân sông Đà thì
chiều dài là 883 nghìn thước mét". Trong Tờ hoa, Nguyễn Tuân giống như
một nhà sinh vật học tài ba, tỉ mỉ trong từng chi tiết tạo ra cảm giác bất ngờ, lí
thú cho người đọc: "Người ta đã đánh dấu con ong, theo dõi nó và thấy rằng
cái giọt mật làm ra đó, là kết quả của 2.700.000 chuyến đi, đi từ tổ nó đến các
nơi có hoa quanh vùng. Và trong một nửa lít mật ong đóng chai, phân chất ra
được 5 vạn thứ hoa. Tính ra thành bước chân người thì tổng cộng đường bay
của con ong đó là 8.000.000 cây số".
Ngược lại với ký, hình tượng trong truyện chỉ là một Chí Phèo, một
Nguyệt, một Lãm không rõ gốc tích, quê quán Nói cách khác, thông tin về
nhân vật chỉ là một ước lệ mà thôi. Quan trọng là tác giả phải hư cấu, sắp xếp
các tình tiết sao cho từ hình tượng nhân vật đó mà có thể bộc lộ được tư tưởng
và mang một thông điệp nghệ thuật gì đó tới bạn đọc.

18
Rõ ràng, sự thực là thước đo giá trị của ký. Đó là giá trị cung cấp tri
thức về cuộc sống và giá trị tư liệu lịch sử quý giá. Hoàng Ngọc Hiến đã
khẳng định: "Ngoài gây hiệu quả khoái cảm mĩ học, thể ký gây ở người đọc
những khoái thú thuần trí tuệ bằng việc cung cấp những tri thức người đọc
quan tâm" [23, tr.14]. Hoàng Phủ Ngọc Tường - tác giả viết ký rất nổi tiếng
cũng có ý kiến tương tự: "Cùng với cảm xúc văn học, bút ký còn chứa đựng
cõi thực vốn là bản gốc của tác phẩm. Sức nặng ấy được chuyển đi không
giống một cảm giác mỹ học nào mà như một quả táo Niutơn rơi xuống tâm
hồn người đọc" [55, tr.83]. Đặc biệt, trong ký mỗi con số, mỗi sự kiện, mỗi
nhân vật, mỗi chi tiết, bản thân nó đã mang giá trị thẩm mĩ bởi nó đã qua sự
chọn lọc của nhà văn, đã tươi rói sắc màu của sự sống. Đọc đoạn ký sau đây
ta sẽ cảm nhận được một hình ảnh Trường Sơn đầy thi vị rộn rịp trong bước
chân đi: "Tiếng lá ngụy trang rào rào. Nước đựng trong chiếc bi tông đã rơi
đập vào thành bình róc rách. Những bao gạo dài vắt trên vai vỗ vào ba lô.

Tiếng những chiếc đế giày mới ót ét. Hơi thở gấp của những lá phổi khỏe
mạnh, làm ấm cả núi rừng. Đoàn quân trải trên những quả núi phân biệt với
màu xanh của cây rừng bằng sự chuyển động. Trường Sơn trầm mặc bỗng
xốn xang với mùa xuân với những bước đi êm nhẹ của đoàn quân. Những búi
cây vông vang nở đầy hoa như có hàng ngàn con bướm trắng đang từ đó bay
lên " [12, tr.168].
Để người đọc tin vào sự thực, mô hình tự sự trong ký thường là mô
hình tự sự ngôi thứ nhất, tình thái khách quan với tiêu điểm tự sự bên ngoài
và sự thống nhất của các điểm nhìn trần thuật. Trong ký, người kể chuyện
thường lộ diện trực tiếp trong hình thức người kể chuyện xưng tôi, ít đi sâu
vào diễn biến nội tâm nhân vật, luôn giữ khoảng cách với đối tượng miêu tả
bằng cách xen vào những lời nghị luận, thẩm bình, mọi sự kiện trong ký nằm
trong tầm quan sát của một nhân vật duy nhất. Đọc những thiên phóng sự của
Vũ Trọng Phụng người ta biết những sự kiện, nhân vật được tác giả nói đến

19
chưa hẳn là có thực song tất cả vẫn thuyết phục hấp dẫn người đọc và tin là
thật bởi sự xuất hiện của người kể chuyện xưng tôi trùng với tác giả, bởi sự
thống nhất xuyên suốt một điểm nhìn bên ngoài tình thái khách quan.
Như vậy, trần thuật người thật việc thật là đặc trưng cơ bản của ký. Khi
đó, sự thật trở thành nguyên tắc tối cao trong ký, bởi nó chi phối cả người
sáng tác trong quá trình chọn lọc đời sống, xây dựng hình tượng, tổ chức mô
hình trần thuật, chi phối cả người đọc trong việc tiếp nhận tác phẩm; là bản
giao ước ngầm giữa tác giả và độc giả.
Nếu phá vỡ nguyên tắc này, tác phẩm ký mất đi giá trị hoặc chuyển
thành thể loại khác: trữ tình, chính luận hoặc truyện ngắn Tôn trọng tính xác
thực, tác phẩm ký không những có được tính thời sự, giá trị nhận thức mà còn
mang giá trị thẩm mĩ, gây ấn tượng sâu sắc với người đọc. Đặc trưng nói trên
là cơ sở chính tạo nên sức lôi cuốn và hấp dẫn của tác phẩm ký.
Chúng ta phải thừa nhận một vấn đề lí thuyết không thể chối cãi: bản

chất của ký là sự thật, xác thực là nguyên tắc tối cao trong ký. Song một vấn
đề được đặt ra: Quan niệm thế nào là sự thật trong ký? Qua quá trình khảo sát
thực tiễn sáng tác và những công trình nghiên cứu về ký trung đại vẫn đầy ắp
những chi tiết kỳ ảo, hoang đường.
Trong Vũ trung tùy bút, mặc dù tác giả bày tỏ sự hoài nghi với những
chuyện thần kỳ ma quái trong các đền chùa miếu mạo, song thực tế tác giả
vẫn chép lại những sự kiện bí ẩn hoang đường mà tác giả tin là "điềm trời",
"điềm quái gở": ngọn lửa trên bãi cát làng Bát Tràng, mặt trời tách làm hai ở
phố Hàng khẩu
Ngay cả trong những tác phẩm ký lịch sử như: Đại Việt thông sử của
Lê Quý Đôn, Đại Việt sử ký toàn thư của Lê Văn Hưu, ta vẫn thấy những yếu
tố kỳ ảo: "Ngày Vua ra đời thì trong nhà có hào quang đỏ chiếu sáng rực rỡ
và mùi thơm ngào ngạt khắp làng" (Đại Việt thông sử - Lê Quý Đôn - Chép
về sự ra đời của Vua Lê Thái Tổ).

20
Vậy là, sự thật trong ký trung đại thực chất không phân biệt sự thật
nghệ thuật và sự thật lịch sử, trộn lẫn với các yếu tố kỳ ảo hoang đường. Điều
ấy dường như mâu thuẫn với quan niệm của các tác giả trung đại về ký.
Trong văn học 1930 - 1945, người ta thường nhìn nhận sự thực là sự
bất công, đen tối, xấu xa. Những nhà văn tả chân là những nhà văn bóc trần
những bất công, thối nát, ung nhọt trong xã hội đương thời. Những tác phẩm
tả chân thường là những tác phẩm phản ánh cuộc sống của những con người
bần cùng, những hạng người dưới đáy của xã hội, phơi bày những tệ nạn xã
hội. Điểm qua tên gọi của các phóng sự trong giai đoạn này ra sẽ thấy rõ điều
đó: Cạm bẫy người, Kỹ nghệ lấy Tây, Lục xì, Cơm thầy cơm cô (Vũ Trọng
Phụng); Thanh niên trụy lạc, Ngoại ô, Ngõ hẻm (Nguyễn Đình Lạp); Tôi kéo
xe, Long cụt cán (Tam Lang) Tất cả đều vẽ lên bức tranh đầy đủ của một xã
hội xấu xa, bát nháo, thực - giả lẫn lộn.
Văn học giai đoạn 1945 - 1975, sự thật được coi trọng là những gì tốt

đẹp, cao cả của hai cuộc kháng chiến hào hùng của dân tộc: là chiến công vĩ
đại, là những tấm gương anh hùng, là gương người tốt việc tốt Vì thế,
nguồn cảm hứng phê phán không có chỗ tồn tại, nhường chỗ cho cảm hứng
ngợi ca, biểu dương, ngay cả cái đau thương cũng phải biến thành cái quật
khởi, nỗi buồn phải biến thành tinh thần anh dũng. Tất cả những gì đi chệch
khỏi quỹ đạo của cuộc kháng chiến, đi chệch khỏi cảm hứng ngợi ca đều bị
coi là bóp méo, là sai lệch lịch sử. Rõ ràng, đó là điểm hạn chế của một thời
kì vĩ hiện thực cuộc sống như chúng ta thấy không hề đơn giản, xuôi chiều và
lí tưởng như vậy.
Như vậy trong thực tiễn, sáng tác ký ta thấy nổi lên một mâu thuẫn: bản
chất của ký là mô tả sự thật, song ở mỗi giai đoạn của thực tiễn sáng tác, sự
thật lại mang dáng vẻ, màu sắc khác nhau. Vậy, phải quan niệm thế nào là sự
thực và đâu là thước đo sự thật chính là vấn đề mà ký cần giải quyết.

21
Để giải quyết dứt điểm mâu thuẫn trên chúng tôi nghĩ cần phân biệt sự
thật lịch sử vì không phải bất cứ sự thật lịch sử nào cũng trở thành sự thật
nghệ thuật.
Sự thật nghệ thuật có nguồn gốc từ sự thực lịch sử song chúng nằm
trong hai lĩnh vực hoàn toàn khác nhau: Sự thật lịch sử thường nằm trong thế
giới vật chất khách quan, trong khi sự thật nghệ thuật thuộc lĩnh vực tinh thần
chủ quan, nằm trong tác phẩm nghệ thuật. Hai sự thật đó được chuyển hóa lẫn
nhau qua tư duy và hoạt động sáng tạo của con người, đồng thời vẫn giữ được
mối liên hệ và ràng buộc chặt chẽ không thể tách rời. Sự thật lịch sử vô cùng
rộng lớn, phong phú, phức tạp, trong khi đó, sự thực nghệ thuật chính là cố
gắng, sự sáng tạo của nhà văn để mô hình hóa thế giới theo quan niệm nghệ
thuật của bản thân họ. Sự kiện B52 bị bắn rơi ở làng Ngọc Hà đi vào ký của
Nguyễn Tuân trở thành "Cánh B52 rụng xuống một thôn hoa". Sự diễn đạt ấy
mang đậm nét cá tính sáng tạo của Nguyễn Tuân - nhà văn có tài khám phá
những mối tương đồng, đối lập bất ngờ trong những việc bình thường nhất,

nhà văn nhìn thế giới qua lăng kýnh của cái đẹp, tôn vinh sự chiến thắng của
cái đẹp. Sự kiện ở đây bất ngờ có ý nghĩa kép: không những cùng một lúc
phản ánh hai đối tượng, mà còn vừa miêu tả hiện thực, vừa thể hiện quan
niệm về cái đẹp: cái đẹp có trong ở cả cái gì dữ dội nhất.
Có thể nói, miêu tả sự thật lịch sử chủ yếu là công việc của báo chí, sử
học, địa lí còn miêu tả sự thật nghệ thuật là nhiệm vụ cơ bản của văn học. Sự
thật lịch sử là sự phản ánh nguyên vẹn, sao chép cuộc sống đơn thuần, nó
hoàn toàn khách quan không mang theo quan niệm và cái nhìn của cá nhân
người viết. Còn sự thật nghệ thuật là sự thật đã được nhà văn thổi hồn vào,
biến cái quen thuộc của đời sống thành cái sáng tạo, thành cái lạ trong văn
chương, mở rộng thêm nhiều tầng nghĩa của nó. Công việc ấy đòi hỏi sự từng
trải của cuộc sống, tâm huyết với sáng tạo, giác quan nghệ thuật tinh tế vào tài
năng sử dụng ngôn ngữ của nhà văn.

22
Hiểu được sự không đồng nhất giữa sự thật nghệ thuật và sự thật lịch sử
chúng ta sẽ thấy sự thật trong ký là sự thực mang tính quan niệm. Quan niệm
đó tùy thuộc vào thế giới quan và quan niệm văn học của nhà văn. Và để giải
quyết sự mâu thuẫn giữa quan niệm về thể loại của tác giả và thực tiễn sáng
tác thì cần phải đi tìm hiểu sâu quan niệm nghệ thuật của thời đại đã quy định
tính chất, đặc trưng của sự thật trong từng giai đoạn lịch sử.
Cần khẳng định bản chất cốt lõi của ký là xác thực nhưng một vấn đề
nữa đặt ra là sự thật trong ký có loại trừ hư cấu hay không?
Xung quanh vấn đề này có rất nhiều cuộc tranh luận với các ý kiến
khác nhau. Người thì cho rằng ký không được phép hư cấu bởi quan niệm hư
cấu là sự xuyên tạc, bịa đặt, thêm thắt làm sai sự thực. Có người lại cho rằng
ký có thể hư cấu trong phạm vi và mức độ cho phép bởi hư cấu là một biện
pháp bổ sung cho sự thật khiến cho hình tượng nghệ thuật trở nên sống động
hơn. Lại có người khẳng định là ký tất yếu phải hư cấu, bởi hư cấu là bản chất
của hoạt động sáng tạo nghệ thuật.

Để giải quyết vấn đề này, trước tiên cần thống nhất khái niệm "hư cấu".
Theo "Hêghen, đó là một hoạt động có tính chất sáng tạo". Hoạt động sáng
tạo này trước hết đòi hỏi phải có một biệt tài và một mẫn cảm nắm được hiện
thực và hình thức của nó, nhờ đó mà con người có hư cấu trong khi lắng nghe,
quan sát, ghi lại trong tâm hồn mình những hình ảnh đa dạng nhất của cái tồn
tại, đồng thời có được một trí nhớ chắc chắn giữ được cái bức tranh sặc sỡ của
những hình thức đa dạng. Về mặt này ( ) nghệ sĩ cần gạt bỏ cái gọi là lí
tưởng về thực chất tẻ nhạt và bước vào lĩnh vực của hiện thực" [22, tr.455].
Nhưng "hư cấu không chỉ dừng lại ở việc tri giác hiện thực bên ngoài và bên
trong" [22, tr.456]. Với quan niệm của Hêghen, hư cấu không chỉ bắt nguồn
từ hiện thực mà còn là sự chiếm lĩnh hiện thực từ chiều sâu.
Thống nhất với ý kiến của Heghen, M.Arnaudop trong "Tâm lý học
sáng tạo" cũng khẳng định: "một sự thể hiện trung thực nhất các sự kiện vẫn

23
còn chứa đựng một hư cấu nào đó và mọi hồi ức tiểu sử tự thuật cũng như các
tài liệu khác được suy nghĩ với tính chính xác lịch sử, đều là, theo cách nói cổ
điển của Gothe, một sự kết hợp khăng khít của thơ và sự thật" [1, tr.159].
Tóm lại, trong sáng tạo nghệ thuật không có sự phân biệt tuyệt đối giữa
sự thật và hư cấu. Hư cấu nào cũng dựa trên cái tồn tại và một sự thật nghệ
thuật trung thực nhất vẫn chứa đựng hư cấu, bởi sự thật nghệ thuật bao giờ
cũng được chuyển hóa vào tác phẩm qua quá trình ghi nhớ, chọn lọc, sắp xếp
của nhà văn mà bất cứ một hoạt động phản ánh ý thức nào cũng có phần bộc
lộ chủ thể. Dẫu chủ trương một đường lối nghệ thuật tả chân, chỉ "toàn một
giống sự thật" thì chúng ta vẫn nhận ra dấu vết hư cấu trong phóng sự của Vũ
Trọng Phụng, của Ngô Tất Tố. Hư cấu bộc lộ ở việc ghi nhớ và chọn lọc sự
kiện. Tại sao trong muôn vàn sự kiện và hiện tượng đời sống, Vũ Trọng
Phụng chỉ "săm soi" những tệ nạn ung nhọt của xã hội? Hư cấu còn bộc lộ
trong lối viết tạt ngang mang đầy vẻ khiêu khích, giễu cợt: "cái phất trần do
chính bà Ách Nhoáng cầm để thỉnh thoảng giơ tay vụt xuống một cái cũng

khá tàn ác nhưng mà thong thả từ tốn như một vị quan viên già tờ mờ điểm
những tiếng trống chầu xinh" (Kỹ nghệ lấy Tây). Hay: "Một thằng nhỏ không
biết thêu dệt như một nhà văn thì câu chuyện của thằng nhỏ kể có thể tin được
là đến chín mươi phần trăm sự thật" (Cơm thầy cơm cô). Tất cả những hình
thức hư cấu ấy đều chịu sự chi phối của nhãn quan hiện thực của nhà văn: một
cái nhìn hằn học, phẫn uất, phản kháng trước một xã hội "chó đẻ" nhố nhăng,
hỗn tạp và hết sức vô nghĩa lí. Trường hợp phóng sự của Ngô Tất Tố cũng
thế, trong vô số những hiện tượng đáng lên án trong xã hội nhưng ông chỉ tập
trung vào những hủ tục, những điều rất nhức nhối ở nông thôn Việt Nam thời
kì phong kiến. Có phải đó là một vùng hiện thực rất nhạy cảm ở trong cảm
quan sáng tạo của ông không?
Qua sự phân tích trên, ta thấy hư cấu không thủ tiêu sự xác thực mà chỉ
làm cho sự thật đời sống trong tác phẩm sinh động hơn và bộc lộ sâu sắc quan

24
niệm nghệ thuật của nhà văn. Đành rằng không có gì thay thế được sự thật
trong đời sống tự nó mang giá trị, nhưng nếu không có hư cấu, nó sẽ không
trở thành sự thật nghệ thuật.
Như vậy, theo cách xác định vấn đề hư cấu và những lập luận chúng tôi
đã nói như ở trên, có thể khẳng định lại một lần nữa là ký văn học luôn luôn
tồn tại hư cấu, bởi hư cấu vốn có trong tất cả các sự thật nghệ thuật được nói
đến trong tác phẩm ký. Ngoài ra còn bởi hư cấu cũng là một nét bản chất của
sáng tạo nghệ thuật, sáng tạo văn học. Còn phạm vi, mức độ của việc hư cấu
trong ký như thế nào, chúng tôi nghĩ đây còn là một vấn đề để ngỏ cần phải
tìm hiểu thêm.
1.1.2.2. Nhân vật trần thuật trong ký
1.1.2.2.1. Vai trò của nhân vật trần thuật xưng “tôi”
Không nên phân biệt nhân vật trần thuật là “tôi” ở ngôi thứ nhất trong
ký, còn phải là ngôi thứ ba trong tiểu thuyết. Thật ra, trong tiểu thuyết cũng
như trong ký, nhân vật trần thuật đều có đầy đủ hai ngôn ngữ trên. Cũng

không nên tuyệt đối hoá cho rằng nhân vật trần thuật trong ký phải chính là
tác giả còn trong truyện lại là một nhân vật khác. Có những trường hợp ngược
lại. Nhân vật trần thuật trong tiểu thuyết cũng có khi chính là tác giả, còn
trong ký có khi lại là một nhân vật khác trong cuộc, như chị Quyên trong
Sống như Anh chẳng hạn. Nhưng đa phần trường hợp trong ký nhân vật trần
thuật chính là tác giả. Đúng như nhà phê bình Xô-viết Priliut đã nói: “Thông
thường, tôi trong ký là tác giả, mặc dù không trừ hình thức người trần thuật
ước lệ [36, tr.432]. Tác giả trong ký đóng một vai trò rất quan trọng và đa
chức năng: “vừa là nhân vật - nhân chứng cho các sự kiện đời sống và là nhân
tố tổ chức, xâu chuỗi các chi tiết, sự kiện vừa là tác giả bàn bạc, đánh giá về
đối tượng phản ánh và bộc lộ lập trường, quan điểm, cảm xúc của bản thân”
[33, tr.51].

25
Trong ký, nhân vật trần thuật là một nhân vật đặc biệt đóng vai trò là
nhân chứng của hiện thực đời sống được phản ánh trong tác phẩm. Với vai trò
này, nhân vật trần thuật dẫn dắt người đọc đến mọi ngóc ngách của cuộc sống,
đến với từng mảnh đời, những góc khuất của tâm hồn con người, rồi từ đó trò
chuyện với nhân vật khác để tìm hiểu, bóc trần, lật tẩy những mặt trái của
cuộc sống. Theo chân người kể chuyện, người đọc được khám phá hết vùng
hiện thực này đến vùng hiện thực khác một cách sinh động và đáng tin cậy
nhất. Như vậy, sự xuất hiện của nhân chứng "tôi" này tạo nên niềm tin nơi
người đọc một cái nhìn xác thực về hiện thực cuộc sống. Hoặc khi lăn lộn vào
thực tế, khoác áo phu xe, Cam Lang không ngoài mục đích thuyết phục người
đọc cũng thấm thía như mình nỗi cơ cực của hạng "người ngựa ngựa người"
bị đánh đập, bắt bớ, lừa gạt, coi khinh. Có lẽ, người đọc phải ngỡ ngàng vì
những mánh khoé nghề nghiệp và phẫn nộ trước tình trạng bất bình đẳng trong xã hội.
Nhân vật trần thuật xưng tôi trong ký còn là nhân tố tổ chức, xâu chuỗi
các chi tiết, sự kiện vào một điểm nhìn thống nhất để kết cấu nên tác phẩm.
Tất cả những sự kiện, số liệu về hiện thực tưởng chừng như rời rạc giờ được

xâu chuỗi, liên kết với nhau trong tầm nhìn của một cái tôi duy nhất. Không
phải ngẫu nhiên mà có người gọi tác phẩm ký văn học là một dạng "văn tư
liệu". Điều này có lí do riêng của nó. Có những tác phẩm ký xuất hiện dày đặc
những số liệu, chi tiết mà khi đọc lên cho ta cảm giác rời rạc, khô cứng,
không liền mạch. Nhưng nếu người đọc tinh ý sẽ nhận ra dụng ý và sự sắp
xếp của tác giả. Chẳng hạn, ở những bút ký đậm màu sắc trữ tình của Hoàng
Phủ Ngọc Tường thường không được tổ chức thông qua hành động của "tôi"
trong không gian mà thường qua sự suy luận, liên tưởng, xúc cảm trong chiều
sâu thời gian. Trong ký Hoàng Phủ Ngọc Tường thường xuất hiện nhiều
những "tôi cảm thấy hình như có một cái gì đang lắng xuống thêm một chút
nữa trong thành phố vốn hàng ngày rất yên tĩnh này", tôi chợt cảm thấy bỡ

×