Tải bản đầy đủ (.pdf) (70 trang)

Nghiên cứu thực trạng sản xuất và tiêu thụ cây cảnh tại xã Minh Tân, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (405.57 KB, 70 trang )


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM




HOÀNG ĐÌNH HUY



Tên đề tài:
NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG SẢN XUẤT
VÀ TIÊU THỤ CÂY CẢNH TẠI XÃ MINH TÂN,
HUYỆN ĐÔNG HƯNG, TỈNH THÁI BÌNH




KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC


Hệ đào tạo : Chính quy
Chuyên ngành : Phát triển nông thôn
Khoa : Kinh tế & PTNT
Niên khóa : 2010 - 2014



Thái Nguyên, năm 2014


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM



HOÀNG ĐÌNH HUY



Tên đề tài:
NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG SẢN XUẤT
VÀ TIÊU THỤ CÂY CẢNH TẠI XÃ MINH TÂN,
HUYỆN ĐÔNG HƯNG, TỈNH THÁI BÌNH




KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC


Hệ đào tạo : Chính quy
Chuyên ngành : Phát triển nông thôn
Khoa : Kinh tế & PTNT
Niên khóa : 2010 - 2014
Giảng viên hướng dẫn: Th.S Nguyễn Quốc Huy
Khoa Kinh tế & PTNT - Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên

Thái Nguyên, năm 2014

LỜI CẢM ƠN


Sau thời gian thực tập, nghiên cứu, được sự giúp đỡ, chỉ bảo tận tình
của các thầy giáo, cô giáo trong khoa Kinh tế & Phát triển nông thôn -
Trường đại học Nông Lâm Thái Nguyên cũng như sự giúp đỡ và chỉ bảo
của các bác, các chú, các anh chị ở nơi thực tập, tôi đã hoàn thành khóa
thực tập tốt nghiệp của mình.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới các thầy giáo, cô giáo trong
khoa Kinh tế & Phát triển nông thôn - Trường đại học Nông Lâm Thái
Nguyên đã tạo mọi điều kiện, giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Thạc sỹ Nguyễn Quốc Huy -
người Thầy đã hướng dẫn và tận tình giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ủy Ban Nhân Dân xã Minh Tân cũng như
bà con nông dân trong xã cùng các phòng ban của xã đã tạo mọi điều kiện cho
tôi trong quá trình thực hiện đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Thái Nguyên, ngày 07 tháng 06 Năm 2014
Sinh viên





Hoàng Đình Huy




MỤC LỤC


Trang
PHẦN 1: ĐẶT VẤN ĐỀ 1

1.1. Tính cấp thiết của đề tài 1

1.2. Mục tiêu nghiên cứu 2

PHẦN 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3

2.1.1. Khái niệm về cây cảnh 3

2.1.2. Khái niệm về sản xuất 3

2.1.3. Các yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến quá trình sản xuất 3

2.1.4. Khái niệm về tiêu thụ 5

2.1.5. Các yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến quá trình tiêu thụ 6

2.2. Cơ sở lý luận về sản xuất và tiêu thụ sản phẩm hoa - cây cảnh 9

2.2.1. Vai trò, ý nghĩa của nghề trồng hoa, cây cảnh 9

2.2.2. Đặc điểm kinh tế, kỹ thuật của sản xuất và tiêu thụ hoa, cây cảnh 9

2.2.3. Các yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến quá trình sản xuất và tiêu thụ
hoa, cây cảnh 11

2.3. Tình hình sản xuất và tiêu thụ hoa - cây cảnh thế giới, trong nước và
địa phương 14


2.3.1. Tình hình sản xuất và tiêu thụ hoa – cây cảnh thế giới. 14

2.3.2. Tình hình sản xuất và tiêu thụ hoa, cây cảnh trong nước 18

2.3.3. Tình hình sản xuất và tiêu thụ hoa, cây cảnh ở địa phương 19

PHẦN 3: ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 21

3.1. Đối tượng nghiên cứu 21

3.2. Nội dung nghiên cứu 21

3.3. Phương pháp nghiên cứu 21

PHẦN 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 24

4.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu 24


4.1.1. Đặc điểm tự nhiên 24

4.1.2. Điều kiện kinh tế, xã hội 26

4.1.3. Khái quát tình hình sản xuất kinh doanh của xã 30

4.2. Tình hình sản xuất cây cảnh ở xã Minh Tân 32

4.2.1. Thực trạng sản xuất cây cảnh ở xã Minh Tân 32


4.2.2 Thực trạng sản xuất cây cảnh ở các hộ điều tra 35

4.3. Tình hình tiêu thụ cây cảnh ở xã Minh Tân 43

4.3.1. Hệ thống kênh tiêu thụ cây cảnh của xã Minh Tân 43

4.3.2. Thực trạng thị trường tiêu thụ cây cảnh ở xã Minh Tân 45

4.3.3. Giá cả tiêu thụ 47

4.4. Đánh giá kết quả sản xuất - tiêu thụ cây cảnh, phân tích các yếu tố cơ
bản ảnh hưởng đến sản xuất và tiêu thụ cây cảnh ở xã Minh Tân 49

4.5. Định hướng và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất và
tiêu thụ cây cảnh ở xã Minh Tân 50

4.5.1. Giải pháp về nguồn vốn 51

4.5.2. Giải pháp về lao động 51

4.5.3. Giải pháp về giống 52

4.5.4. Giải pháp về cơ sở hạ tầng 52

4.5.5. Giải pháp quy hoạch đất đai 52

4.5.6. Giải pháp về kênh tiêu thụ và thị trường tiêu thụ 52

PHẦN 5: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 54


5.1. Kết luận 54

5.2 Kiến nghị 55

TÀI LIỆU THAM KHẢO 57

PHIẾU ĐIỀU TRA



DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 2.1: Thị trường nhập khẩu thế giới và một số mặt hàng nông sản xuất
khẩu chủ lực của Việt Nam vào năm 2007 15

Bảng 4.1: Tình hình phân bổ và sử dụng đất đai ở xã Minh 25

Bảng 4.2: Tình hình dân số và lao động xã Minh Tân 27

Bảng 4.3: Cơ sở hạ tầng xã Minh Tân 29

Bảng 4.4: Kết quả sản xuất kinh doanh của xã Minh Tân 30

Bảng 4.5 : Diện tích, cơ cấu các loại cây cảnh xã Minh Tân 33

Bảng 4.6: Thực trạng số hộ trồng cây cảnh ở xã Minh Tân 35

Bảng 4.7: Tình hình cơ bản của nhóm hộ điều tra 36

Bảng 4.8: Diện tích, cơ cấu các loại cây cảnh của nhóm hộ điều tra 38


Bảng 4.9: Tình hình đầu tư chi phí ở nhóm hộ kém 39

Bảng 4.10: Tình hình đầu tư chi phí ở nhóm hộ trung bình 40

Bảng 4.11: Tình hình đầu tư chi phí ở nhóm hộ khá 41

Bảng 4.12: Thực trạng tiêu thụ cây cảnh theo các kênh 44

Bảng 4.13: Tình hình tiêu thụ cây cảnh tại một số thị trường 46

Bảng 4.14: Giá tiêu thụ cây cảnh theo kênh tiêu thụ 47

Bảng 4.15: Giá tiêu thụ cây cảnh tại một số thị trường 48










1
PHẦN 1
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế,
thu nhập của người dân đã được nâng lên, đời sống của nhân dân cũng được

cải thiện đáng kể. Cùng với sự tăng lên về thu nhập và mức sống của người
dân đó là sự tăng lên về các nhu cầu tinh thần và giải trí, trong đó có nhu cầu
chơi cây cảnh.
Từ xưa, chơi cây cảnh vẫn được coi là một trong những thú chơi tao
nhã và thường thấy trong những gia đình giàu sang, những gia đình am hiểu
nghệ thuật cây cảnh. Ngày nay, cây cảnh đã có mặt trong đời sống của con
người như một nhu cầu cần thiết về mặt tinh thần, chính vì vậy, nghề trồng
cây cảnh đã phát triển và trở thành một nghề sản xuất đem lại lợi ích kinh tế
cao cho người sản xuất.
Với điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế xã hội và phong tục tập quán
sản xuất của mình, xã Minh Tân huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình có nhiều
tiềm năng để phát triển nghề trồng cây cảnh. Trong những năm gần đây, bằng
việc phát triển nghề trồng cây cảnh đã đem lại thu nhập cao cho người dân địa
phương, từ đó góp phần cải thiện chất lượng cuộc sống và nâng cao đời sống
dân trí cho người dân.
Với hiệu quả kinh tế đã khẳng định, rất nhiều diện tích cây trồng khác
của xã Minh Tân đã chuyển đổi sang trồng cây cảnh; nhiều hộ đã chuyển từ
các nghề khác sang làm nghề trồng cây cảnh, từ đó mà thu nhập của người
dân cũng được nâng lên. Tuy nhiên, sự gia tăng ồ ạt về diện tích đã làm cho
số lượng cây cảnh tăng lên nhanh chóng; trình độ tay nghề người
lao động hầu hết vẫn còn hạn chế nên chất lượng cây cảnh không cao. Số
lượng sản phẩm sản xuất ra nhiều, chất lượng sản phẩm không cao dẫn đến


2
khâu tiêu thụ cây cảnh gặp nhiều khó khăn. Như vậy, về lâu dài, nếu tiếp tục
thực trạng đó thì hiệu quả kinh tế của nghề trồng cây cảnh sẽ giảm sút. Vấn đề
đặt ra là làm thế nào để tiếp tục duy trì và nâng cao hiệu quả của nghề trồng
cây cảnh chúng tôi nghiên cứu đề tài: "Nghiên cứu thực trạng sản xuất và
tiêu thụ cây cảnh tại xã Minh Tân, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình".

1.2. Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1. Mục tiêu chung
Khóa luận thực hiện nhằm đạt được mục tiêu chung là luận cứ, cơ sở
khoa học cho phát triển sản xuất và tiêu thụ cây cảnh ở xã Minh Tân, huyện
Đông Hưng, tỉnh Thái Bình dựa trên đánh giá thực trạng sản xuất và tiêu thụ
cây cảnh và đề xuất được các giải pháp cơ bản nhằm phát triển sản xuất và
tiêu thụ cây cảnh trên địa bàn xã.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn về sản xuất, tiêu thụ sản phẩm
nói chung, sản phẩm cây cảnh nói riêng.
- Đánh giá thực trạng sản xuất và tiêu thụ cây cảnh ở xã Minh Tân giai
ðoạn 2011 - 2013
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao phát triển sản xuất và
tiêu thụ cây cảnh trên địa bàn xã Minh Tân, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình.


3
PHẦN 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Cơ sở lý luận về sản xuất và tiêu thụ cây cảnh
2.1.1. Khái niệm về cây cảnh
Cây cảnh còn được gọi là cây trang trí. Đó là những cây hoa đẹp hoặc
thân, lá, cành, củ quả hấp dẫn hoặc có một dáng vẻ mang ý nghĩa tinh thần,
tình cảm, thẩm mỹ nào đó được trồng lấy hoa cắt hoặc trang trí cả cây để làm
đẹp hoặc cải thiện mỹ quan cảnh trí một không gian giới hạn nào đó như một
khu nhà ở, sân vườn, nội thất.
2.1.2. Khái niệm về sản xuất
Sản xuất là quá trình phối hợp và điều hoà các yếu tố đầu vào để tạo ra
sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ.
Một hệ thống sản xuất sử dụng các yếu tố đầu vào là nguyên vật liệu

thô, con người, máy móc, nhà xưởng, kỹ thuật công nghệ, tiền mặt và các
nguồn tài nguyên khác để chuyển đổi nó thành sản phẩm hoặc dịch vụ.
Quyết định sản xuất dựa vào những vấn đề chính sau: sản xuất cái gì?,
sản xuất như thế nào?, sản xuất cho ai?, giá thành sản xuất và làm thế nào để
tối ưu hóa việc sử dụng và khai thác các nguồn lực cần thiết làm ra sản phẩm?
2.1.3. Các yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến quá trình sản xuất
2.1.3.1. Vốn sản xuất
Vốn sản xuất là tiền mặt và những tư liệu sản xuất như máy móc thiết
bị, phương tiện vận tải, kho tàng Trong quá trình sản xuất, vốn đóng vai trò
rất quan trọng, vốn đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh thuận lợi, đúng
tiến độ kế hoạch.
Vốn sản xuất kinh doanh bao gồm: vốn chủ sở hữu và vốn vay trong đó
sẽ có một số khoản vốn vay phải trả chi phí tài chính, do vậy cần phải tập hợp
đầy đủ các khoản chi phí này trong quá trình sản xuất kinh doanh và vận dụng
các phương thức quản lý để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.


4
Trong điều kiện năng suất lao động không đổi thì tăng tổng số vốn sẽ
dẫn đến tăng thêm lượng sản phẩm. Tuy nhiên việc tăng thêm số lượng sản
phẩm còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như lao động, kỹ thuật và biện
pháp sử dụng vốn có hiệu quả. Để sử dụng có hiệu quả yếu tố vốn sản xuất
cần lưu ý: tăng vòng quay sử dụng vốn, không để bạn hàng chiếm dụng vốn,
tiết kiệm chi phí dành cho vốn vay …
2.1.3.2. Lao động
Lao động là yếu tố đặc biệt của quá trình sản xuất, liên quan đến các
hoạt động điều hành con người tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh
thể hiện ở số lượng, chất lượng tay nghề lao động, phương thức sử dụng lao
động … Mọi hoạt động sản xuất đều do con người quyết định.
Chất lượng lao động thể hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau: Trình độ,

kỹ năng, kinh nghiệm làm việc Chất lượng lao động quyết định đến kết
quả, hiệu quả sản xuất.
2.1.3.3. Đất đai
Đất đai là yếu tố không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với ngành nông
nghiệp, mà còn rất quan trọng đối với ngành công nghiệp, dịch vụ.
Đất đai là yếu tố cố định lại bị giới hạn bởi quy mô, nên người ta phải
đầu tư thêm vốn và lao động trên một đơn vị diện tích nhằm nâng cao hiệu
quả sử dụng đất đai.
2.1.3.4. Khoa học công nghệ
Khoa học công nghệ là yếu tố quyết định đến sự thay đổi năng suất
lao động và chất lượng sản phẩm. Những phát minh sáng tạo mới được ứng
dụng trong sản xuất, giải phóng sự vất vả, độc hại cho người lao động và thúc
đẩy sự tăng trưởng nhanh chóng của nền kinh tế.
Cần phải nghiên cứu, xem xét và khả năng vận dụng các phát minh mới
đối với ngành nghề sản xuất kinh doanh, tính toán hiệu quả sử dụng khoa học


5
công nghệ dựa trên kết quả đạt được và chi phí sử dụng công nghệ hiện đại,
bao gồm chi phí máy móc, thiết bị, chi phí đào tạo, chi phí vận hành sử dụng
thường xuyên các phần mềm …
2.1.3.5. Các yếu tố khác
Một số yếu tố khác có ảnh hưởng đến quá trình sản xuất kinh doanh
như: Quy mô sản xuất, hình thức tổ chức sản xuất, quy mô thị trường, các yếu
tố tư liệu sản xuất, thị trường đầu ra cũng ảnh hưởng không nhỏ đến quá
trình sản xuất, đòi hỏi người sản xuất kinh doanh hàng hóa phải bao quát, dự
báo sự biến động và có các giải pháp ứng phó với sự thay đổi bất lợi cho quá
trình sản xuất kinh doanh cũng như cần tận dụng cơ hội kinh doanh có thể
nắm bắt được.
2.1.4. Khái niệm về tiêu thụ

2.1.4.1. Tiêu thụ
Khái niệm tiêu thụ: Tiêu thụ là quá trình thực hiện giá trị cũng như giá trị
sử dụng của hàng hoá. Quá trình tiêu thụ sản phẩm hàng hoá chuyển từ hình
thái hiện vật sang hình thái giá trị, vòng chu chuyển vốn được hình thành.
Tiêu thụ sản phẩm được coi là giai đoạn cuối của quá trình sản xuất
kinh doanh, là một trong các yếu tố quan trọng quyết định sự tồn tại và phát
triển của người sản xuất.
- Hoạt động tiêu thụ sản phẩm được cấu thành bởi các yếu tố:
+ Chủ thể kinh tế tham gia tiêu thụ: là người bán và người mua
+ Đối tượng: là sản phẩm hàng hoá, tiền tệ
+ Thị trường tiêu thụ: là nơi gặp gỡ giữa người bán, người mua
Sản phẩm hàng hoá tiêu thụ được phải thông qua thị trường. Thị trường
là nơi - cả thực và ảo mà người mua và người bán tự tìm đến với nhau để thoả
mãn nhu cầu của hai bên.


6
Các chức năng cơ bản của thị trường: Chức năng thừa nhận, chấp nhận
hàng hoá dịch vụ; chức năng thực hiện; chức năng điều tiết, kích thích sản
xuất, tiêu thụ sản phẩm hàng hoá; chức năng thông tin.
Các quy luật cơ bản của thị trường: Quy luật giá trị, quy luật cung cầu,
quy luật cạnh tranh, quy luật giá trị thặng dư.
2.1.4.2. Kênh tiêu thụ
- Khái niệm: Kênh tiêu thụ là sự kết hợp qua lại với nhau giữa người
sản xuất, người trung gian để thực hiện việc chuyển giao sản phẩm, hàng hoá
đến người tiêu dùng cuối cùng.
- Các yếu tố cấu thành hệ thống kênh tiêu thụ sản phẩm
+ Người cung ứng: Người sản xuất hoặc công ty thương mại
+ Người trung gian: Người bán buôn, đại lý, người bán lẻ, người môi giới
+ Người tiêu dùng: Người cuối cùng trong hệ thống kênh tiêu thụ sản phẩm.

- Các loại kênh tiêu thụ sản phẩm
+ Kênh trực tiếp: Người sản xuất bán sản phẩm hàng hoá trực tiếp cho
người tiêu dùng cuối cùng, không thông qua người trung gian. Người sản xuất
đồng thời là người bán sản phẩm hàng hoá.
+ Kênh gián tiếp: Người sản xuất bán hàng cho người tiêu dùng cuối
cùng thông qua hệ thống tác nhân trung gian.
Kênh 1 cấp: Gồm một tác nhân trung gian gần nhất với người tiêu dùng
cuối cùng trên thị trường, tác nhân trung gian này thường là người bán lẻ.
Kênh 2 cấp: Gồm hai tác nhân trung gian trong quá trình tiêu thụ sản
phẩm, thành phần trung gian là tác nhân bán buôn, bán lẻ.
Kênh 3 cấp: Gồm ba tác nhân trung gian trong quá trình tiêu thụ sản
phẩm, thành phần trung gian thường là các đại lý tiêu thụ, tác nhân bán buôn
và tác nhân bán lẻ.
2.1.5. Các yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến quá trình tiêu thụ


7
2.1.5.1. Sản xuất.
Muốn tiêu thụ sản phẩm thuận lợi, trước hết, khâu sản xuất phải đảm
bảo đúng sản phẩm, chất lượng, số lượng, cơ cấu, chủng loại sản phẩm thích
hợp với nhu cầu của người tiêu dùng.
Sản phẩm hàng hoá phải được cung ứng đúng thời điểm và được thông
tin đầy đủ đến khách hàng như: thông tin sử dụng sản phẩm, các ưu đãi, các
lợi ích, thông tin quảng bá giới thiệu sản phẩm.
2.1.5.2. Thị trường tiêu thụ sản phẩm
Theo quan điểm marketing: Thị trường là tập hợp những người mua
hàng hiện có và sẽ có. Họ chính là khách hàng hiện tại và tiềm năng của
người kinh doanh, là người mua hàng để phục vụ cho nhu cầu của mình đồng
thời cũng là người mang lại lợi nhuận cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Có
nhiều nhóm khách hàng, mỗi nhóm có nhu cầu riêng đối với sản phẩm.

Khách hàng người tiêu dùng, họ là các cá nhân hay hộ gia đình mua
hàng hóa về phục vụ nhu cầu tiêu dùng cá nhân như: biếu tặng, trưng bày, sử
dụng … mà không đem bán lại hoặc đưa vào quá trình sản xuất khác.
Khách hàng là người bán buôn, bán lẻ là người mua hàng hóa về nhằm
mục đích bán lại để kiếm lời.
Khách hàng là người sản xuất, họ mua sản phẩm để đưa vào quá trình
sản xuất kinh doanh, mục đích làm gia tăng giá trị, lợi ích của sản phẩm.
Mục tiêu của người sản xuất, người buôn bán là tìm kiếm thu nhập, lợi
nhuận. Để có thu nhập, lợi nhuận thì họ phải tiêu thụ được sản phẩm hàng hoá
trên thị trường, do đó thị trường có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình sản xuất
và tiêu thụ sản phẩm.
2.1.5.3. Giá cả sản phẩm.
Giá cả là sự thể hiện bằng tiền của giá trị sản phẩm. Trong nền kinh tế
thị trường, giá cả là tín hiệu phản ánh mối quan hệ kinh tế giữa người mua và


8
người bán; giữa người sản xuất, kinh doanh và thị trường. Giá cả nhiều khi lại
là yếu tố quyết định đến hoạt động sản xuất, tiêu thụ sản phẩm.
Giá bị ảnh hưởng của một số yếu tố là: Chi phí sản xuất trung bình, nhu
cầu của khách hàng và giá của đối thủ cạnh tranh … Do đó khi quyết định giá
bán sản phẩm phải xem xét mức độ ảnh hưởng của các yếu tố này.
2.1.5.4. Chất lượng sản phẩm
Chất lượng sản phẩm hàng hoá được thể hiện thông qua nhiều tiêu chí
như: độ bền, độ tin cậy, mức độ phù hợp với nhu cầu, dễ sử chữa, thay thế …
Chất lượng sản phẩm càng cao thì càng được người tiêu dùng thừa nhận.
Nâng cao chất lượng sản phẩm tạo thuận lợi cho quá trình tiêu thụ sản
phẩm, tăng chất lượng và hiệu quả sử dụng vốn, đồng thời góp phần tăng
uy tín của sản phẩm trên thị trường. Tuy nhiên khi nâng cao chất lượng sản
phẩm sẽ làm tăng chi phí sản xuất sản phẩm nên cần xem xét mức độ chấp

nhận về giá của khách hàng khi quyết định nâng cao chất lượng sản phẩm.
2.1.5.5. Hành vi của người tiêu dung.
Mục tiêu của người tiêu dùng là tối đa hoá độ thoả dụng. Người tiêu
dùng tự lựa chọn sản phẩm, hàng hoá phù hợp với sở thích, thị hiếu, ngân
sách của mình. Mỗi đối tượng tiêu dùng khác nhau có sở thích, thị hiếu, ngân
sách tiêu dùng khác nhau. Hành vi của người tiêu dùng rất đa dạng, phức tạp
chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau như: văn hóa, xã hội, cá nhân và
yếu tố tâm lý.
2.1.5.6. Các yếu tố khác
Một số yếu tố khác cũng ảnh hưởng đến hoạt động tiêu thụ sản phẩm
như cơ sở hạ tầng; các chính sách liên quan như chính sách hỗ trợ tiêu thụ, giá
trần, giá sàn theo quy định của nhà nước ; quy mô hoạt động của đối thủ cạnh
tranh; quảng cáo giới thiệu sản phẩm


9
2.2. Cơ sở lý luận về sản xuất và tiêu thụ sản phẩm hoa - cây cảnh
2.2.1. Vai trò, ý nghĩa của nghề trồng hoa, cây cảnh
Nghề trồng hoa cây cảnh với yêu cầu kỹ thuật và vốn đầu tư khá lớn
song nó mang lại hiệu quả tương đối cao, một mặt nhằm đáp ứng nhu cầu ngày
càng cao của đời sống con người đồng thời góp phần nâng cao thu nhập cho
người sản xuất. Ở những địa phương có nghề trồng hoa, cây cảnh phát triển
thì đóng góp của nghề này trong cơ cấu kinh tế của địa phương đó khá lớn.
Nghề trồng hoa cây cảnh góp phần giải quyết việc làm, tạo điều kiện
phân bổ sử dụng hợp lý nguồn lao động, tận dụng tối đa diện tích đất canh
tác, nhờ vậy xã hội nông thôn ngày càng ổn định. Hơn thế nữa, phát triển
nghề trồng hoa cây cảnh còn phát huy được thế mạnh của từng vùng, tạo
vẻ đẹp mỹ quan, nhiều vùng trở thành những khu du lịch sinh thái.
Nghề trồng hoa cây cảnh mang lại giá trị kinh tế, góp phần nâng cao
thu nhập cho các hộ nông dân, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế

nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hóa. Cùng với sự phát triển
của nền kinh tế thì nghề trồng hoa cây cảnh trong tương lai có thể trở thành
ngành mũi nhọn trong ngành nông nghiệp ở nhiều địa phương.
2.2.2. Đặc điểm kinh tế, kỹ thuật của sản xuất và tiêu thụ hoa, cây cảnh
Hoa, cây cảnh trước hết là loại cây mang đầy đủ đặc điểm như các loại
cây trồng khác. Cây cảnh là sự hội tụ vẻ đẹp của tự nhiên và bàn tay con
người, là sự mô phỏng lại thế giới tự nhiên một cách hoàn mỹ. Một cây
cảnh đẹp mang lại cho người chơi những giá trị cảm xúc, tinh thần tuyệt vời,
vì vậy, sản xuất cây cảnh có những điểm khác biệt đòi hỏi phải có sự đầu tư
khá cao về lao động và thời gian.
Cây cảnh là loại cây cần lao động sống nhiều hơn lao động vật hoá. Bởi
vậy, không phải cứ bón nhiều phân, phun nhiều thuốc kích thích thì sẽ có cây
đẹp mà cần thiết phải đầu tư nhiều công lao động để chăm sóc, tỉa cành, tạo


10
dáng cho cây cũng vì thế mà khi hạch toán cần phải chi tiết đầy đủ các
khoản chi phí nhằm đánh giá đúng hiệu quả sản xuất.
Chu kỳ sản xuất các loại cây cảnh khác nhau thì khác nhau, có loại một
năm, có loại nhiều năm. Thông thường, với các loại cây thế như sanh, si,
sung, đa trước khi đưa vào chậu tạo dáng thì cần khoảng thời gian tối thiểu
từ 1 đến 2 năm trồng ngoài ruộng để cây sinh trưởng và phát triển nhằm tạo
thế cổ thụ cho thân và rễ. Quá trình tạo dáng, uốn thế cho cây có thể kéo dài
từ vài năm đến hàng chục năm mới tạo ra những cây to, gốc xù xì, thế đẹp, có
giá trị cao. Với những loại cây như cam cảnh hay quất cảnh thì không cần uốn
hay phải tạo thế nhiều mà việc chăm sóc và tạo dáng được tiến hành khi cây
được khoảng 1 năm tuổi. Quá trình sau đó là tỉa lá, vin cành, đảo gốc để cây
ra quả chín đúng vào dịp tết. Nếu để quả chín sớm hay quá muộn thì sẽ dẫn
đến mất giá trị của cây cảnh, ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất.
Hoa cây cảnh có nhiều loại khác nhau, do đó việc đầu tư vốn cho sản

xuất hoa, cây cảnh cũng khác nhau. Có những loại hoa, cây cảnh yêu cầu vốn
đầu tư ít, chỉ cần một mảnh vườn cộng với kỹ thuật, kinh nghiệm của người
sản xuất là có thể trồng hoa, cây cảnh được. Nhưng ngược lại, có những loại
hoa, cây cảnh ngoài các yêu cầu về kỹ thuật, lại yêu cầu lượng vốn đầu tư khá
lớn. Những loại hoa cây cảnh đó thường là những loại cây lâu năm hoặc mẫn
cảm với điều kiện khí hậu, thời tiết nên cần phải đầu tư các công cụ, thiết bị
che chắn bảo vệ.
Nghề trồng hoa cây cảnh đòi hỏi nhiều biện pháp kỹ thuật tỷ mỷ và
phức tạp về canh tác cũng như điều kiện sản xuất, chăm sóc; mức độ đầu tư
vốn, lao động phải phù hợp, đúng thời điểm. Vì vậy, muốn trồng hoa cây cảnh
đạt năng suất cao và chất lượng tốt, đối với mỗi loại hoa cây cảnh, người lao
động cần nắm vững một số đặc điểm, yêu cầu cơ bản của loại cây đó như yêu
cầu về đất, ánh sáng, nhiệt độ, thời vụ gieo trồng, cắt tỉa


11
Tiêu thụ hoa cây cảnh là khâu cuối cùng trong các khâu của quá trình
sản xuất, nó quyết định đến hiệu quả của quá trình sản xuất. Do đó người sản
xuất phải luôn quan tâm đến việc sản xuất cái gì? tiêu thụ như thế nào?
Hoa, cây cảnh cũng có đặc điểm giống như các hàng hoá khác, quá
trình tiêu thụ trên thị trường phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác như chất
lượng sản phẩm, giá cả sản phẩm, thị hiếu của người tiêu dùng
Quá trình tiêu thụ hoa cây cảnh một mặt phụ thuộc vào chất lượng sản
phẩm và giá cả sản phẩm, mặt khác nó còn phụ thuộc vào hình dáng, tính
thẩm mỹ của sản phẩm. Thị hiếu, sở thích của người chơi hoa cây cảnh cũng
rất đa dạng và phong phú. Đây là một đặc điểm rất quan trọng đối với quá
trình sản xuất cũng như tiêu thụ hoa, cây cảnh.
Trong tiêu thụ hoa cây cảnh, thời gian cũng là một yếu tố rất quan
trọng, nhiều khi nó đóng vai trò quyết định khi người sản xuất biết tận dụng
thời cơ, đặc biệt đối với các loại cây mang tính chất mùa vụ như cây đào

cảnh, quất cảnh chủ yếu được tiêu thụ vào dịp tết nguyên đán.
Tóm lại, qua nghiên cứu đặc điểm tiêu thụ hoa cây cảnh, chúng tôi thấy
việc nắm bắt được các đặc điểm tiêu thụ, xu hướng tiêu dùng của từng loại
hoa, cây cảnh đối với nông hộ sản xuất là rất cần thiết để điều tiết sản xuất
phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, phát triển mở rộng sản xuất.
2.2.3. Các yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến quá trình sản xuất và tiêu thụ hoa,
cây cảnh
2.2.3.1. Nhân tố tự nhiên
Hoa, cây cảnh là loại cây trồng chịu ảnh hưởng rất lớn của điều kiện tự
nhiên. Mỗi sự thay đổi nhỏ của tự nhiên về thời tiết, độ ẩm đều ảnh hưởng trực
tiếp đến quá trình sinh trưởng, phát triển, ra hoa, tạo quả của cây; ảnh hưởng đến
các khâu từ sản xuất đến tiêu thụ. Nhìn chung, các loại hoa cây cảnh, nhiệt đới
ưa độ ẩm từ 70% - 85%, nhiệt độ từ 22 - 30
o
C, độ PH của đất khoảng 6,9.


12
Khi điều kiện tự nhiên không thuận lợi sẽ ảnh hưởng rất lớn đến quá trình
sản xuất hoa cây cảnh. Vì vậy, người sản xuất cần phải lựa chọn những giống
cây phù hợp với điều kiện thời tiết khí hậu của địa phương. Ở mức độ nào đó,
con người cũng có thể tạo ra môi trường nhân tạo như làm giàn che chắn, quây
nilon tạo thuận lợi hơn cho quá trình sinh trưởng, phát triển của cây.
2.2.3.2. Nhân tố về lao động
Con người là tác nhân quan trọng đối với mọi quá trình sản xuất. Đặc
biệt, trong quá trình sản xuất hoa cây cảnh thì con người phải có óc sáng tạo,
khiếu thẩm mỹ cao và kinh nghiệm làm vườn. Hơn thế nữa con người phải
nắm bắt được nhu cầu của thị trường để ra những quyết định sản xuất hợp lý
từ đó cung cấp được những sản phẩm hàng hoá phù hợp với thị hiếu người
tiêu dùng, đáp ứng nhu cầu của thị trường. Do vậy, nếu người sản xuất hoa,

cây cảnh không nhạy bén, năng động, sáng tạo và không có kinh nghiệm thì
sẽ không sản xuất ra được những loại hoa, cây cảnh mà thị trường cần, không
đáp ứng được nhu cầu người tiêu dùng.
2.2.2.3. Nhân tố về vốn
Trong sản xuất hoa cây cảnh, vốn luôn là yếu tố không thể thiếu và nó
mang tính quyết định đến kết quả và hiệu quả trong sản xuất. Bởi vốn đầu tư
trung bình trên 1 sào đối với việc trồng hoa cây cảnh là khá lớn về giống cây,
phân bón, thuốc sâu, công lao động; một số loại cây còn cần giàn che, chậu
cảnh do đó, có nhiều hộ gặp khó khăn về vốn trong quá trình sản xuất, ảnh
hưởng tới chất lượng hoa, cây cảnh.
2.2.2.4. Nhân tố kỹ thuật
Sản xuất hoa, cây cảnh đòi hỏi có trình độ kỹ thuật, tay nghề cao và
phải có con mắt thẩm mỹ, nắm vững đặc tính sinh trưởng, phát triển của cây,
sử dụng bàn tay lao động và kinh nghiệm tác động vào chúng tạo thành dáng
cây, thế cây đẹp mắt, thời gian ra hoa kết quả phù hợp.


13
Công tác chọn giống cũng rất quan trọng, nếu chọn giống không tốt sẽ
cho ra những loại hoa, cây cảnh không đáp ứng được thị hiếu người tiêu dùng,
không đảm bảo hiệu quả trong sản xuất. Do vậy, nhân tố kỹ thuật quyết định
đến sự thành công hay thất bại trong sản xuất hoa cây cảnh của hộ nông dân.
Khoa học ngày càng phát triển, được sử dụng nhiều trong ngành sản
xuất hoa cây cảnh nên việc nắm bắt và áp dụng các kỹ thuật mới trong sản
xuất hoa cây cảnh như lai tạo, chiết ghép, nhân giống là rất quan trọng
và cần thiết.
2.3.2.5. Nhân tố về cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới khả
năng tiêu thụ hoa cây cảnh ở mỗi địa phương, các vấn đề về cơ sở hạ tầng có ảnh
hưởng nhiều đến hoạt động sản xuất kinh doanh hoa cây cảnh phải kể đến yếu tố

giao thông, hệ thống dẫn nước tưới tiêu, quy hoạch vùng sản xuất kinh doanh.
Giao thông khó khăn có thể các nông hộ không mở rộng được địa bàn
tiêu thụ, chỉ tiêu thụ tại địa phương hoặc các địa bàn lân cận do đường xá đi
lại khó khăn, xa nơi tiêu thụ, phương tiện giao thông không đảm vận chuyển
sản phẩm, chi phí cho vận chuyển cao … Giao thông khó khăn cũng gây trở
ngại cho các quyết định của người buôn hoa cây cảnh do mức độ rủi ro cao
hoặc chi phí vận chuyển cao.
Ngoài ra, các yếu tố khác như thông tin liên lạc, mạng lưới điện, các
công trình thuỷ lợi, hệ thống tưới tiêu cũng ảnh hưởng trực tiếp đến quá
trình sản xuất hoa, cây cảnh.
2.3.2.6. Nhân tố giá cả thị trường
Sản xuất hoa, cây cảnh là ngành sản xuất hàng hoá trong nền kinh tế thị
trường hiện nay nên sự tồn tại và phát triển của ngành này cũng gắn liền với
những biến động của thị trường. Trong những năm gần đây, giá cả đầu vào
của sản phẩm biến động nhiều, do đó cũng gây ra những biến động lớn đối
với quy mô, sản lượng các loại hoa cây cảnh. Giá sản phẩm đầu ra cũng là


14
yếu tố ảnh hưởng đến sản xuất và tiêu thụ hoa cây cảnh. Trên thực tế cho
thấy, nếu giá của một loại cây năm nay cao và bán chạy thì cung về loại cây,
loại hoa đó năm sau sẽ tăng cao, dẫn đến giá có thể giảm sút
Như vậy, qua phân tích ở trên cho thấy trị trường, giá cả là yếu tố quan
trọng quyết định đến sản xuất và tiêu thụ hoa cây cảnh.
2.2.2.7. Nhân tố chính sách, pháp luật
Đối với ngành sản xuất hoa cây cảnh, hiện nay vẫn chưa có những
chính sách cụ thể riêng cho ngành này. Tuy nhiên, những tác động chung về
mặt chính sách, pháp luật cũng ảnh hưởng không nhỏ đến phát triển sản xuất
của ngành này. Ví dụ, chính sách khuyến khích chuyển đổi cơ cấu cây trồng
phù hợp với điều kiện sinh thái của từng vùng, những thay đổi trong

luật đất đai đã làm cho ngành sản xuất nông nghiệp nói chung và ngành
trồng hoa cây cảnh nói riêng phát triển mạnh mẽ.
Các chính sách về đầu tư, quy hoạch sản xuất; chính sách về vốn tín
dụng; chính sách xuất nhập khẩu hoa cây cảnh cũng ảnh hưởng không
nhỏ đến sản xuất và tiêu thụ cây cảnh.
2.3. Tình hình sản xuất và tiêu thụ hoa - cây cảnh thế giới, trong nước và
địa phương
2.3.1. Tình hình sản xuất và tiêu thụ hoa – cây cảnh thế giới.
2.3.1.1. Thị trường hoa - cây cảnh trên thế giới
Bước vào thế kỷ 21, người tiêu thụ trên thế giới đã có những đòi hỏi
mới về chất lượng cuộc sống: Ngon với thức ăn bổ dưỡng hơn, đẹp với
những tiện nghi vật chất và tinh thần phong phú hơn. Vì yêu cầu ăn ngon,
sống đẹp ngày càng được xem trọng cho nên Hoa - Cây cảnh đã trở nên một
nhu cầu không thể thiếu trong mọi sinh hoạt: hoa sinh nhật, hoa thăm hỏi, hoa
tiệc cưới, hoa trang trí văn phòng, hoa tôn vinh lễ hội, hoa cho ngày Cha Mẹ.
Và hoa theo cả con người cho tận đến khi kết thúc cuộc đời của mỗi người.


15
Chính vì vậy mà yêu cầu về hoa tăng rất nhanh và có một thị trường rất
lớn, kim ngạch lên đến gần 102 tỷ đô la Mỹ (2003) với mức tăng trưởng 6%
mỗi năm, cao gấp nhiều lần so với thị trường các loại nông sản khác vốn được
xem trọng như gạo, cà phê, chè (Bảng 2.1).
Bảng 2.1: Thị trường nhập khẩu thế giới và một số mặt hàng nông sản
xuất khẩu chủ lực của Việt Nam vào năm 2007
Thị trường nhập
khẩu thế giới
Trị giá thị trường
nhập khẩu (USD)
Xuất khẩu Việt Nam

Giá trị (USD)
Thị phần
%
Rau & Quả 97.900.226.000

300.000.000

0,3

Hoa – Cây cảnh 101.840.000.000

10.000.000

0

Gạo 9.249.026.000

1.489.970.000

16

Cà phê 7.548.041.000

1.911.463.000

25

Cao su 7.488.707.000

1.400.000.000


19

Chè 3.059.002.000

130.833.000

4

Hạt điều 1.569.312.000

653.863.000

41

Hồ tiêu 511.307.000

271.011.000

53

Thế giới 669.063.000.000

8.300.000.000

1,2

(Nguồn: FAO, 2009)
Tuy nhiên tình hình sản xuất Hoa - cây cảnh trên thế giới ngày nay đã
có nhiều chuyển biến. Những nước sản xuất hoa - cây cảnh vốn nổi tiếng như

Hà Lan, Pháp nay đã trở thành những nước nhập khẩu và cũng là thị trường
tiêu thụ. Thay vào đấy, những nước đang phát triển, nơi lao động đang còn rẻ
và giá trị đất chưa cao như Trung Quốc, Malaysia, Nam Phi, Do Thái, Ấn Độ,
Colombia, Kenya, Ethiopia và Ecuador lại trở thành những nước sản xuất và
xuất khẩu. Về mặt địa lý, có thể nói Nam Phi, Kenya và Zimbabwe là những
đại gia xuất khẩu hoa - cây cảnh sang Âu châu trong khi Colombia là nước
chủ chốt xuất khẩu sang Hoa kỳ. Ở Á châu, Malaysia, Đài Loan, Thái Lan, và
gần đây Trung Quốc là những nước xuất khẩu, phần lớn sang Nhật Bản. Nhìn
chung, thị trường nhập khẩu hoa - cây cảnh trên thế giới được phân phối như


16
sau: Đức với 22 tỷ đô la Mỹ, chiếm 22%; Hoa kỳ với 15 tỷ đô la Mỹ, chiếm
15%; Pháp và Anh với 10 tỷ đô la, chiếm 10%; Hà Lan với 9 tỷ đô la, chiếm
9%; Nhật Bản với 6 tỷ đô la, chiếm 6%; Ý và Thuỵ Sĩ với 5 tỷ đô la, chiếm
5%. Giới chuyên gia còn cho rằng các nước thuộc khối Đông Âu cũ cũng sẽ
trở thành nơi sản xuất hoa - cây cảnh trong tương lai.
2.3.1.2. Tình hình phát triển hoa – cây cảnh trên thế giới
Ngành hoa - cây cảnh được phát triển tốt nhờ chất lượng hoa ngày càng
được cải thiện, công nghệ sau thu hoạch ngày càng cao, và giao thông ngày
càng tiện lợi. Điều này có được do có sự thành hình của các khu, trung tâm
nông nghiệp công nghệ cao, (còn gọi là Trung tâm Xuất sắc - Centre of
Excellence), nơi mà các giống hoa - cây cảnh được nghiên cứu theo dạng
công nghệ cao, hội tụ các công nghệ nông nghiệp tiên tiến của thời đại như
công nghệ sinh học, công nghệ nhà kính, công nghệ thủy canh và bán thủy
canh, công nghệ thông tin, công nghệ sử dụng hiệu quả nước,… do chuyên
gia của nhiều bộ môn khác nhau tập trung cùng làm việc theo một quy chế
thống nhất nhưng đơn giản, giải quyết dứt điểm nhưng vẫn mang tính bền
vững những vấn đề nổi cộm của ngành hoa - cây cảnh. Một số nước có mô
hình dạng này là Úc, Tân Tây Lan, Do Thái. Ở Á châu như Thái Lan,

Malaysia, Singapore cũng xây dựng những trung tâm nghiên cứu và phát triển
hoa cây cảnh với những mục tiêu cụ thể như sau:
Chọn lọc thị trường và thời vụ có giá cao nhất
Phát triển chính sách tiếp thị hoàn hảo
Lai tạo và sử dụng giống tốt nhất với chất lượng cạnh tranh
Ứng dụng công nghệ cao với kỹ thuật nhà có mái che kết hợp với tưới
bón nhỏ giọt
Ứng dụng công nghệ bảo quản sau thu hoạch hiện đại nhưng tiết kiệm


17
Thiết kế bao bì đẹp, chắc chắn, thích hợp cho việc vận chuyển xa và
xuất khẩu.
Riêng Trung Quốc, nay cũng đã trở thành một trong những quốc gia
sản xuất hoa – cây cảnh nhiều nhất và cũng là thị trường tiêu thụ lớn nhất thế
giới. Cho đến cuối năm 2001, Trung Quốc đã có hơn 20.000 công ty/trang
trại/cơ sở sản xuất hoa – cây cảnh và đã tổ chức được hơn 2.000 chợ đầu mối,
với khoảng 1,45 triệu người hoạt động trong ngành. Vào năm 2002, Trung
Quốc bán hơn 3,8 tỷ cành hoa và 810 triệu chậu hoa – cây cảnh. Trong những
năm gần đây, Trung Quốc đã đạt nhiều thành tựu trong việc tạo nhiều giống
hoa mới, cải thiện đáng kể phương pháp trồng hoa. Sở dĩ Trung Quốc đạt
được kết qua tốt như vậy là nhờ Chính sách Khoa học – Công nghệ được phê
duyệt vào năm 1986 (chương trình Hi-Tech 86-3) được triển khai song song
với chính sách mở cửa kinh tế. Trung Quốc đã xây dựng các trường đại học,
viện nghiên cứu thành những trung tâm nghiên cứu trọng điểm quốc gia, mở
màn cho hàng loạt các mô hình nông nghiệp sinh thái. Vì trình độ phát triển
của Trung Quốc thời bấy giờ còn thấp nên họ đã chủ yếu nhập công nghệ cao
của nước ngoài, sẵn sàng trả giá cao cho nhập nội trọn gói gồm giống, thiết bị
và công nghệ để sau đó cải thiện dần cho hợp với điều kiện của Trung Quốc,
rồi nhân lên hàng nghìn mô hình tương tự.

Ngày nay các mô hình nông nghiệp công nghệ cao ở Chu Hải, Quảng
Đông, Thẩm Quyến đã cung cấp đầy đủ nông sản và rau quả cho vùng, xuất
khẩu sang Hồng Kông và thế giới. Đặc biệt Khu Nông nghiệp Côn Minh có
tiếng trên thế giới là trung tâm chuyên sản xuất hoa - cây cảnh cho thị trường
trong và ngoài nước. Côn Minh sản xuất khoảng 600 triệu cành hoa mỗi năm,
trị giá 350 triệu đô la Mỹ. Côn Minh cũng đã xây dựng được hệ thống đấu giá
hoa ở Dounan nhờ sự hợp tác với Hà Lan – là một nước hàng đầu trong ngành


18
sản xuất và xuất khẩu hoa. Hà Lan sản xuất 59% hoa cắt cành và 50% hoa chậu
cung cấp thị trường thế giới. Bước vào thế kỷ 21, Trung Quốc đang chuyển dần
từ thị trường hướng đến sản xuất (production-oriented) sang thị trường tiêu thụ
(consumption-oriented) nên sẽ là một thị trường lớn ở châu Á.
2.3.2. Tình hình sản xuất và tiêu thụ hoa, cây cảnh trong nước
Nghề trồng hoa cây cảnh đã có từ lâu nhưng trong vài năm trở lại đây
mới thực sự phát triển mạnh mẽ theo hướng sản xuất hàng hoá. Một số nước
trong khu vực như Thái Lan, Trung Quốc, Nhật Bản, Singapore, mặc dù
điều kiện tự nhiên không đa dạng như nước ta nhưng nhờ có sự đột phá trong
áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong chọn tạo, lai ghép các giống hoa cây
cảnh nên hàng năm giá trị thu về từ xuất khẩu hoa cây cảnh tương đối lớn.
Nhiều nước trên thế giới đã chọn cho mình một loài hoa riêng để làm "quốc
hoa" như Nhật Bản (hoa Anh đào), Hà Lan (hoa Tulip) Hiện nay, Thái Lan
đang nổi tiếng với mô hình hoa cắt như hoa lan, hoa hồng do sử dụng công
nghệ bảo quản và đóng gói tốt nên sản phẩm giữ được lâu và có giá trị cao
Tham khảo và học hỏi kinh nghiệm sản xuất của các nước này là việc làm rất
cần thiết.
Theo thống kê của Bộ nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, hiện nay
nước ta có gần 15000 ha trồng hoa cây cảnh, chủ yếu tập trung ở Hà Nội, Hải
Phòng, Lâm Đồng, Thành phố Hồ Chí Minh, trong đó, diện tích trồng hoa

cây cảnh ở Lâm Đồng là lớn nhất cả nước (trên 3000 ha), tiếp đó là diện tích
trồng hoa cây cảnh ở Thành Phố Hồ Chí Minh (trên 1650 ha). Hiện nay, nhiều
vùng địa phương đang hướng việc sản xuất hoa cây cảnh là một trong các mũi
nhọn trong chiến lược phát triển kinh tế nói chung, phát triển ngành nông
nghiệp nói riêng.
Quy mô diện tích cũng như giá trị sản lượng hoa cây cảnh cả nước
không ngừng tăng lên hàng năm, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và
một phần xuất khẩu. Đặc biệt là trong tổng số giá trị hoa cây cảnh được xuất


19
khẩu thì có trên 1 triệu USD giá trị hoa cây cảnh thu về từ xuất khẩu sang các
thị trường khó tính như Mỹ, Tây Âu, Tuy nhiên, so với tiềm năng và lợi thế
hiện có thì con số đó còn chưa tương xứng.
Trong thời gian tới, để phát triển nghề trồng hoa cây cảnh, đòi hỏi cần
phải có sự nỗ lực rất lớn và phải có một loạt các giải pháp đồng bộ từ khâu
sản xuất đến khâu tiêu thụ.
2.3.3. Tình hình sản xuất và tiêu thụ hoa, cây cảnh ở địa phương
Trước đây, Thái Bình là một tỉnh thuần nông, độc canh cây lúa. Trong
những năm gần đây, do phát huy được lợi thế của mình nên quá trình phát
triển kinh tế cũng như tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế của huyện diễn ra
khá mạnh mẽ. Riêng trong lĩnh vực nông nghiệp đã có những bước đột phá, tỷ
trọng ngành chăn nuôi tăng, cơ cấu cây trồng chuyển dịch theo hướng sản
xuất hàng hoá. Một số diện tích đất canh tác hiệu quả thấp đã được chuyển
sang trồng các cây có giá trị kinh tế cao như trồng các loại hoa cây cảnh.
Nhận thấy hiệu quả từ trồng hoa cây cảnh cao hơn nhiều lần so với
trồng lúa và hoa màu, số hộ chuyển sang trồng hoa cây cảnh ngày càng nhiều
và diện tích canh tác chuyển sang trồng hoa cây cảnh ngày càng tăng lên.
Theo thống kê của sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Thái Bình,
tổng diện tích đất trồng các loại hoa cây cảnh là 700 ha, trong đó có trên 100

vườn cây cảnh có giá trị trên 1 tỷ đồng. Sản phẩm hoa cây cảnh được tiêu thụ
trong địa bàn huyện, tỉnh và các tỉnh lân cận như Hưng Yên, Hà Nội, Hải
Phòng, Quảng Ninh,
Quá trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi trên đất nông nghiệp
của huyện nói chung, hiệu quả của nghề trồng hoa cây cảnh nói riêng đã mang
lại hiệu quả khá cao, thu nhập /1 sào hoa cây cảnh gấp 3 - 10 lần so với sản
xuất lúa màu đơn thuần trên cùng một diện tích, đồng thời quá trình chuyển
đổi sang trồng hoa cây cảnh đã giải quyết việc làm cho gần 22000 lao động
trong tỉnh.

×