Tải bản đầy đủ (.doc) (75 trang)

Hoàn thiện công tác quản trị tài sản bảo đảm trong cho vay tại Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thủy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (331.87 KB, 75 trang )

1

MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Hơn 20 năm cùng với sự nghiệp đổi mới đất nước, hệ thống TCTD ở Việt Nam
đã có những bước phát triển vượt bậc, lớn mạnh về mọi mặt, kể cả số lượng, quy mơ
và chất lượng, đóng góp xứng đáng vào cơng cuộc cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa nền
kinh tế. Đặc biệt, mơ hình Cơng ty Tài chính trong Tập đoàn kinh tế đã ngày càng
khẳng định được vị trí và vai trị của mình trong hệ thống các TCTD cũng như trong
các Tập đồn kinh tế nói riêng. Tuy nhiên, trong một môi trường kinh tế luôn thay đổi
thì hoạt động của các CTTC cũng có rất nhiều biến động và rủi ro. Hoạt động tín dụng
là hoạt động chủ yếu và cũng gặp nhiều rủi ro nhất, đòi hỏi các CTTC phải thường
xuyên quản lý hoạt động này. Đảm bảo cho vay trở thành một tiêu chuẩn chất lượng
quan trọng của quan hệ giữa TCTD và khách hàng. Tuy nhiên, khơng phải TCTD nào
cũng đặt cho mình những yêu cầu phải giải quyết đầy đủ và chặt chẽ về quy trình thực
hiện đảm bảo cho vay, đặc biệt là công tác quản trị tài sản bảo đảm.
Công ty Tài chính Cơng nghiệp Tàu thủy thuộc Tập đồn kinh tế VINASHIN
được đánh giá là hoạt động có hiệu quả trong nhiều năm qua. Hoạt động của Công ty luôn
bám sát định hướng kinh doanh, đồng thời bám sát chủ trương, định hướng của Đảng và
Nhà nước. Tại đây, Công tác quản trị tài sản bảo đảm trong cho vay được được xây dựng
và hoàn thiện từng bước. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, khi mà hoạt động tín
dụng cịn rủi ro và hệ thống pháp luật về giao dịch bảo đảm tiền vay của TCTD còn
nhiều hạn chế thì vấn đề quản trị tài sản bảo đảm trong cho vay trở thành một vấn đề
cấp thiết hơn bao giờ hết. Nhận định được điều đó nên đề tài: “Hồn thiện cơng tác
quản trị tài sản bảo đảm trong cho vay tại Cơng ty Tài chính Cơng nghiệp Tàu
thủy” được lựa chọn nghiên cứu.


2

2. Mục tiêu nghiên cứu


- Nghiên cứu cơ sở lý luận về công tác quản trị tài sản bảo đảm trong cho vay tại
các Cơng ty Tài chính
- Phân tích, đánh giá thực trạng công tác quản trị tài sản bảo đảm trong cho vay
trong thời gian từ năm 2006-2008 tại Cơng ty Tài chính Cơng nghiệp Tàu thủy
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện công tác quản trị tài sản
bảo đảm trong cho vay tại Cơng ty Tài chính Cơng nghiệp Tàu thuỷ trong thời gian tới.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Công tác quản trị tài sản bảo đảm trong cho vay tại
Cơng ty Tài chính thuộc Tập đồn Kinh tế
- Phạm vi nghiên cứu: Cơng tác quản trị tài sản bảo đảm trong cho vay tại Công
ty Tài chính Cơng nghiệp Tàu thuỷ từ năm 2006-2008.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa
duy vật lịch sử, các nghiên cứu cơ bản được sử dụng trong quá trình thực hiện luận văn
gồm: phương pháp lịch sử và phương pháp logic, phương pháp phân tích và tổng hợp,
phương pháp thống kê, so sánh để làm sáng tỏ các luận điểm nêu ra.
5. Đóng góp của luận văn
- Làm rõ các nội dung công tác quản trị tài sản bảo đảm trong cho vay tại các
Công ty Tài chính. Từ đó phân tích, đánh giá thực trạng cơng tác quản trị tài sản bảo
đảm trong cho vay tại Cơng ty Tài chính Cơng nghiệp Tàu thủy.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm hồn thiện cơng tác quản trị tài sản bảo đảm
trong cho vay tại Công ty Tài chính Cơng nghiệp Tàu thủy.


3

6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo luận văn
được kết cấu thành 3 chương:
- Chương 1: Công tác quản trị tài sản bảo đảm trong cho vay tại Cơng ty Tài

chính thuộc Tập đồn kinh tế
- Chương 2: Thực trạng công tác quản trị TSBĐ trong cho vay tại Cơng ty Tài
chính Cơng nghiệp Tàu thủy
- Chương 3: Hồn thiện cơng tác quản trị TSBĐ trong cho vay tại Cơng ty Tài
chính Cơng nghiệp Tàu thủy


4

CHƯƠNG 1: CÔNG TÁC QUẢN TRỊ TÀI SẢN BẢO ĐẢM TRONG
CHO VAY TẠI CƠNG TY TÀI CHÍNH THUỘC TẬP ĐỒN KINH TẾ
1.1. Tổng quan về Cơng ty tài chính thuộc Tập đồn kinh tế
1.1.1. Khái niệm, đặc trưng của Cơng ty tài chính thuộc Tập đồn kinh tế
1.1.1.1. Khái niệm Cơng ty Tài chính:
Trên thế giới,lịch sử xuất hiện và phát triển của các CTTC diễn biến rất nhanh.
Ở Thụy Điển các CTTC được thành lập từ giữa những năm 60 của thế kỷ XX, phát
triển mạnh vào những năm 70 và hiện nay trở thành một trong những nhân tố thực hiện
chính sách tín dụng của Nhà nước. Ở Nhật Bản, các CTTC được hình thành từ những
năm 50 của thế kỷ XX, đến nay có hàng loạt CTTC ra đời, nhiều công ty đã nổi lên
chiếm giữ vị trí quan trọng hệ thống các cơ quan tài chính của Nhật và chi phối hoạt
động rất nhiều lĩnh vực trong nền kinh tế xã hội Nhật Bản.
Các CTTC này bành trướng ngày càng lớn và nắm quyền kiểm soát (trực tiếp
hoặc gián tiếp) nhiều ngân hàng hoặc TCTD. Hoạt động của các CTTC đã bao trùm lên
hoạt động của các NHTM và chi phối hoạt động của các ngành kinh tế.
Ở nước ta, việc Hội đồng Nhà nước ban hành pháp lệnh về ngân hàng, hợp tác xã
tín dụng và Cơng ty Tài chính ngày 23/05/1990 có ý nghĩa quan trọng, tạo cơ sở pháp
lý đầu tiên cho sự ra đời của các CTTC. Những CTTC đầu tiên xuất hiện ở nước ta như
Cơng ty Tài chính cổ phần Vũng Tàu và Cơng ty Tài chính đá q ở Thành Phố Hồ Chí
Minh, theo pháp lệnh trên. Đến nay, hệ thống các tổ chức tài chính tín dụng ở nước ta
có 17 CTTC được Ngân hàng Nhà nước cấp phép hoạt động dưới các hình thức khác

nhau.
Có nhiều cách hiểu và diễn đạt khác nhau về CTTC. Ở mỗi nước, tùy theo chính
sách phát triển loại hình tổ chức tài chính này và việc quy định các loại nghiệp vụ hoạt
động các CTTC được phép thực hiện mà họ đưa ra những khái niệm khác nhau. Thị
trường tài chính càng phát triển thì khái niệm CTTC càng được mở rộng, các nghiệp vụ
hoạt động và cấu trúc tổ chức của CTTC càng phong phú, đa dạng.


5

Theo điều 2 nghị định 79/NĐ-CP ngày 04/10/2002 về tổ chức hoạt động của
CTTC quy định: “CTTC là loại hình tổ chức tín dụng phi ngân hàng, với chức năng sử
dụng vốn tự có, vốn huy động, và các nguồn khác để cho vay, đầu tư, cung ứng các
dịch vụ tư vấn về tài chính, tiền tệ và thực hiện một số dịch vụ khác theo quy định của
pháp luật, nhưng khơng được làm dịch vụ thanh tốn, khơng được nhận tiền gửi dưới
một năm.”
Theo Frederic S.mishkin –Trường đại học Columbia của Mỹ trong cuốn “Tiền tệ
ngân hàng và thị trường tài chính” thì: “CTTC là một tổ chức thu hút vốn bằng cách phát
hành thương phiếu hoặc cổ phiếu và trái khoán và dùng tiền thu được để cho vay (thường
là các món tiền nhỏ) đặc biệt thích hợp với các nhu cầu của doanh nghiệp và người tiêu
dùng. Q trình trung gian của các CTTC có thể được mơ tả bằng cách nói rằng họ vay
những món tiền lớn nhưng lại thường cho vay những món tiền nhỏ - một q trình hồn
tồn khác với q trình của ngân hàng thương mại, các ngân hàng này phát hành các món
tiền gửi với số tiền nhỏ và sau đó thường cho vay với số tiền lớn.”
Đặc điểm quan trọng để phân biệt với các NHTM là CTTC không thực hiện các
dịch vụ thanh tốn, khơng huy động tiền gửi tiết kiệm của dân và không sử dụng vốn
vay của dân để làm phương tiện thanh toán. Các CTTC hoạt động nguồn vốn của mình
hoặc vay của dân cư bằng phát hành tín phiếu.
Như vậy có thể khẳng định CTTC là một tổ chức tài chính trung gian mà hoạt
động chủ yếu là thu hút vốn bằng cách nhận tiền gửi có kỳ hạn của dân chúng và các tổ

chức kinh tế mà chủ yếu là huy động vốn trung và dài hạn; phát hành các thương phiếu,
cổ phiếu, trái khoán. Cho vay ngắn hạn phù hợp với nhu cầu của doanh nghiệp và
người tiêu dùng; cho vay trung và dài hạn. Ngồi ra cịn thực hiện một số nghiệp vụ
khác như: thực hiện hoạt động cho thuê tài sản; các hoạt động bao thanh toán; cung cấp
các dịch vụ tài chính như: kinh doanh vàng bạc đá quý, hoạt động trên thị trường chứng
khoán; hoán đổi ngoại tệ, dịch vụ bảo lãnh, dịch vụ uỷ thác, dịch vụ tư vấn tài chính …

1.1.1.2. Đặc trưng của Cơng ty Tài chính thuộc Tập đồn kinh tế


6

Cơng ty Tài chính thuộc Tập đồn kinh tế có một số đặc trưng khác với những
CTTC thông thường như:
Về mục đích thành lập: Mục tiêu ra đời và hoạt động của CTTC trong Tổng
cơng ty, Tập đồn kinh tế là cung cấp những dịch vụ về tài chính cho Tổng cơng ty,
Tập đồn kinh tế và các thành viên trong Tổng cơng ty, Tập đồn kinh tế, đặc biệt là
mục tiêu huy động vốn, đầu tư tài chính và điều hoà vốn để đáp ứng nhu cầu hoạt động
và phát triển của Tổng cơng ty, Tập đồn kinh tế.
Về tổ chức: CTTC thuộc Tổng Cơng ty, Tập đồn kinh tế là một thành viên của
Tổng cơng ty, Tập đồn kinh tế, chịu sự quản lý trực tiếp của Tổng cơng ty, Tập đồn
kinh tế về chiến lược phát triển, về tổ chức nhân sự.
Về loại hình sở hữu: CTTC có thể là 100% vốn thuộc sở hữu của Tập đồn hoặc
là sở hữu hỗn hợp, trong đó tập đồn giữ đa số cổ phần.
Về nội dung hoạt động: CTTC thuộc các Tập đoàn kinh tế chú trọng đến chức
năng huy động vốn để phục vụ nhu cầu của Tập đồn. Tiếp đó, nội dung này có thể
được mở rộng hơn nữa khi quy mô của bản thân Công ty phát triển.
Về phạm vi hoạt động: Thị trường đầu tiên và chủ yếu của nó là các thành viên
của Tập đồn, sau đó là mở rộng phạm vi ra bên ngoài gắn liền với phạm vi và thị
trường hoạt động của Tập đoàn

Về mối quan hệ giữa CTTC và các thành viên: Gắn bó chặt chẽ với nhau; vừa là
khách hàng và bạn hàng của nhau. Chúng cùng quan hệ với nhau thơng qua một mức
lãi suất nội bộ.
Do có những đặc trưng trên nên CTTC thuộc Tổng công ty, Tập đồn kinh tế có
những ưu điểm và hạn chế so với các CTTC khác đó là:
+ Thị trường và phạm vi hoạt động của CTTC bị giới hạn trong Tổng cơng ty,
Tập đồn kinh tế. Đây là một hạn chế lớn của CTTC trong Tổng cơng ty, Tập đồn
kinh tế. Tuy nhiên, đây cũng là một lợi thế của các CTTC trong Tổng cơng ty, Tập
đồn kinh tế so với các CTTC khác. Vì thực tế của nền kinh tế Việt Nam trong khi thị


7

trường trung và dài hạn của Việt Nam đầy rủi ro, bất trắc, các CTTC khác không phát
triển được nghiệp vụ trung và dài hạn, thì các CTTC có ưu thế về thị trường vì các
Tổng cơng ty, Tập đồn kinh tế chính là thị trường dịch vụ tài chính ngân hàng to lớn
và ngày càng phát triển, ổn định và an tồn. Đây chính là ưu điểm mà các CTTC khác
khơng thể có được.
+ Mặt khác, nghiệp vụ nhận tiền gửi có kỳ hạn của các thành viên trong Tổng
cơng ty, Tập đồn kinh tế làm cho CTTC giống như một Ngân hàng nội bộ của Tổng
công ty, Tập đoàn kinh tế và việc quản lý các quỹ tập trung của Tổng cơng ty, Tập
đồn kinh tế, giúp Tổng cơng ty, Tập đồn kinh tế có khả năng điều hòa nguồn vốn nội
bộ từ thành viên này đến các thành viên khác trong Tổng cơng ty, Tập đồn kinh tế một
cách dễ dàng, đạt hiệu quả cao hơn. Hơn nữa, lãi suất nội bộ giúp cho CTTC trong
Tổng công ty, Tập đoàn kinh tế cạnh tranh với các tổ chức tín dụng khác trong việc
cung cấp các dịch vụ tài chính cho đơn vị trong ngành và các đơn vị cùng ngành kinh tế
kỹ thuật. Vì vậy, để Tổng cơng ty, Tập đồn kinh tế phát triển và lớn mạnh cần thiết
phải thành lập CTTC để tận dụng những ưu điểm này. Đó cũng là cơ sở của việc ra đời
CTTC trong Tổng cơng ty, Tập đồn kinh tế.
1.1.2. Hoạt động cơ bản của Cơng ty tài chính thuộc Tập đoàn kinh tế

CTTC trong Tập đoàn Kinh tế ra đời với mục đích tăng cường sức mạnh của Tập
đồn bằng việc huy động vốn, thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước, đáp ứng nhu cầu
vốn cho các đơn vị thành viên trong Tập đồn, là cơng cụ để kết hợp chặt chẽ các đơn vị
thành viên trong Tập đồn bằng các quan hệ tài chính. Do đó để thực hiện tốt chức năng
kinh doanh tiền tệ, đồng thời phát huy được vai trò của một trong những trung gian tài
chính trong nền kinh tế thị trường, các CTTC trong Tập đoàn kinh tế thực hiện đồng
thời, tổng hợp các hoạt động nghiệp vụ chủ yếu bao gồm:
1.1.2.1. Hoạt động huy động vốn
Đối với các Tập đoàn kinh tế, nhu cầu huy động vốn phục vụ cho chiến lược
phát triển là rất lớn. Hầu hết các Tập đoàn kinh tế đều đang rất cần vốn để thực hiện
các chiến lược phát triển dài hạn. Vì vậy, các CTTC ra đời với các hoạt động theo điều


8

lệ của Ngân hàng nhà nước có thể trở thành cơng cụ để Tập đồn kinh tế tìm kiếm
nguồn vốn bổ sung cho hoạt động cho Tập đoàn với các nghiệp vụ huy động vốn như:
Nhận tiền gửi có kỳ hạn trên 1 năm của các doanh nghiệp thành viên của Tập
đoàn, các doanh nghiệp cùng ngành kinh tế kỹ thuật mà Tập đồn kinh doanh và cơng
nhân viên trong Tập đoàn và các đối tượng khác trong nền kinh tế; CTTC cũng có thể
thực hiện các nghiệp vụ như: phát hành tín phiếu, trái phiếu doanh nghiệp, trái phiếu
cơng trình trong và ngồi nước theo qui định của pháp luật; vay của các tổ chức tài
chính và tín dụng trong và ngoài nước. Nhưng cũng theo điệu lệ mẫu này thì tổng vốn
huy động khơng được q 20 lần vốn tự có của CTTC., (Vốn tự có của CTTC gồm:
vốn điều lệ, quỹ dự trữ rủi ro, lợi nhuận chưa chia, giá trị tăng lên do định giá lại tài
sản cố định, các loại vốn và quỹ khác). Như vậy thơng qua CTTC, Tập đồn có thể huy
động được một lượng vốn không nhỏ để sử dụng cho các chiến lược phát triển mở rộng
hoạt động hoặc đấu tư chiều sâu.
1.1.2.2. Hoạt động tín dụng
CTTC là tổ chức tín dụng phi ngân hàng nên hoạt động tín dụng cũng là một

trong những hoạt động truyền thống của nó. Hoạt động tín dụng của CTTC gồm: cho
vay; chiết khấu, tái chiết khấu, cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá khác; nghiệp
vụ bảo lãnh, bao thanh tốn
Cho vay: là việc CTTC đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng phải
hoàn trả cả gốc và lãi trong một thời gian nhất định. Cho vay là hoạt động mang lại
nguồn thu đáng kể cho các CTTC, do đối tượng và hình thức cho vay là rất phong phú,
cũng như nhu cầu về vốn chưa được đáp ứng trong nền kinh tế là rất lớn.
Chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá: là việc CTTC ứng trước tiền cho
khách hàng tương ứng với giá trị của thương phiếu (các giấy tờ có giá) trừ đi phần thu
nhập của CTTC để sở hữu thương phiếu chưa đến hạn. Sau đó, CTTC sở hữu thương
phiếu đó và có trách nhiệm thu tiền khi thương phiếu đáo hạn hoặc có thể đem thương
phiếu đó đi tái chiết khấu nếu cần.


9

Tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá: là việc khi các thương phiếu
được các CTTC chiết khấu ( hoặc tái chiết khấu ) trở thành tài sản của họ. Khi cần tiền,
CTTC mang chính những thương phiếu này đi chiết khấu một lần nữa tại các CTTC
khác hoặc tại các ngân hàng thương mại.
Cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá: là hình thức theo đó người nhận
được tài trợ của CTTC phải chuyển quyền kiểm soát tài sản đảm bảo ( thương phiếu và
các giấy tờ có giá ) sang cho CTTC trong thời gian cam kết ( thường là thời gian nhận tài
trợ ).
Bảo lãnh: là một hình thức tài trợ của CTTC cho khách hàng, qua đó khách hàng
có thể tìm kiếm nguồn tài trợ mới, mua được hàng hoá hoặc thực hiện được các hoạt
động sản xuất kinh doanh nhằm thu lời. Bảo lãnh là hình thức tài trợ thơng qua uy tín.
Bảo lãnh tạo ra mối liên kết trách nhiệm tài chính và san sẻ rủi ro. Trách nhiệm tài chính
trước hết thuộc về khách hàng, trách nhiệm của CTTC là thứ cấp, chỉ khi khách hàng
không thực hiện đúng cam kết, CTTC mới phải thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với bên

thứ ba ( khi đó CTTC mới phải xuất tiền ).
Bao thanh toán: là hoạt động mua lại các yêu cầu chi trả của một doanh nghiệp
nào đó, sau đó chi trả hộ cho doanh nghiệp, thông thường các yêu cầu chi trả là ngắn
hạn. Sau khi chấp nhận bao thanh toán, các khoản nợ của doanh nghiệp được coi là đã
được trả cho chủ nợ, CTTC ( người mua nợ ) lúc này phải chịu mọi trách nhiệm liên
quan tới khoản nợ đó. Bao thanh toán đặc biệt phù hợp với các doanh nghiệp thương
mại, cơng nghiệp có mạng lưới khách hàng rộng khắp và cung cấp các hàng hố thơng
dụng.
1.1.2.3. Hoạt động đầu tư tài chính
CTTC trong Tập đồn là một mắt xích quan trọng để gắn kết, hợp tác giữa Tổng
công ty, Tập đoàn kinh tế và các đơn vị thành viên, với thị trường tài chính tiền tệ. Bởi
vì CTTC trong Tập đồn ra đời khơng phải vì mục tiêu chủ yếu là để tăng thêm một
dịch vụ, một sản phẩm, để kinh doanh thêm về tín dụng, vay và cho vay cạnh tranh với
Ngân hàng trong lĩnh vực tín dụng mà một trong những mục tiêu chính của việc ra đời


10

của CTTC trong Tổng cơng ty, Tập đồn kinh tế là thực hiện chức năng đầu tư tài
chính cho Tổng cơng ty, Tập đồn kinh tế nhằm phát triển tiềm lực, thế mạnh của Tập
đồn, từ đó đáp ứng nhu cầu vốn kinh doanh của các doanh nghiệp trong Tập đồn.
Thực hiện thành cơng chức năng này, CTTC trong Tập đồn đã thực hiện thành cơng
việc "xã hội hố" việc đầu tư vào Tổng cơng ty, Tập đồn kinh tế, qua đó vốn của mọi
ngành, mọi người có thể được đầu tư vào Tổng cơng ty, Tập đồn kinh tế Nhà nước,
khu vực mà từ trước tới nay vẫn bị coi là độc quyền của Nhà nước. Hơn thế nữa, việc
phát huy nội lực để đầu tư vào Tổng công ty, Tập đoàn kinh tế sẽ được khai thác triệt
để. Một mặt ưu thế nữa của hoạt động đầu tư tài chính cho Tổng cơng ty, Tập đồn
kinh tế cuả CTTC là nó sẽ góp phần cho sự phát triển của thị trường chứng khoán,
bằng việc tạo ra hàng hoá có giá trị cho thị trường này, bởi lẽ cổ phiếu của các Tổng
cơng ty, Tập đồn kinh tế mạnh chắc chắn sẽ có tính hấp dẫn cao.

1.1.2.4. Hoạt động điều hịa và quản lý vốn
"Điều hồ vốn" có thể được hiểu là toàn bộ những hoạt động nhằm phân bổ
nguồn vốn giữa các bộ phận trong một tổng thể để tạo ra một cơ cấu vốn hợp lý, có
hiệu quả. Các cơng ty tài chính hoặc Ngân hàng trong Tập đoàn với hoạt động năng
động trên thị trường tài chính và tiềm lực tài chính mạnh...
Cần nhận thức đúng đắn thực chất của cơ chế điều hoà vốn trong nội bộ Tập
đồn. Cơ chế điều hồ vốn khơng có nghĩa là chuyển vốn một cách hành chính đơn
thuần từ nơi thừa vốn sang nơi thiếu vốn mà bao gồm hệ thống quan hệ tài chính dựa
trên hoạt động tín dụng thực sự. Cơ chế lãi suất hợp lý và những lợi ích chiến lược lâu
dài sẽ có tác dụng duy trì sự liên kết nội bộ bền vững của Tập đoàn.
Trong Tập đoàn, tại một khoảng thời gian nhất định, có những doanh nghiệp
thiếu vốn để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, trong khi đó các doanh nghiệp
khác lại có vốn"nhàn rỗi"(tức là có vốn mà chưa có nhu cầu đầu tư. Cơng ty tài chính
đóng vai trị là trung gian tài chính trong cơ chế điều hồ vốn của Tập đồn. Cơng ty tài
chính huy động các nguồn vốn nhàn rỗi của các đơn vị để hình thành một nguồn vốn
tập trung và ổn định hơn.


11

Có thể nhận thấy rằng, cơ chế điều hồ vốn thông qua CTTC cần phải kết hợp
đồng bộ với cơ chế quản lý và sử dụng các quỹ của Tổng cơng ty, Tập đồn kinh tế
cũng như của các doanh nghiệp thành viên. Không nên để các quỹ chuyên dùng này trở
thành một nguồn vốn "chết" mà cần thu hút bộ phận quỹ nhàn rỗi vào cơng ty tài chính
để cho vay.
1.1.2.5. Các dịch vụ tài chính tiền tệ khác liên quan
- Các dịch vụ đại lý phát hành trái phiếu, cổ phiếu.
- Tư vấn phát hành, bảo lãnh phát hành, lưu giữ , bảo quản chứng khoán, nhận
lãi chứng khoán hộ khách hàng...
- Cho thuê tài sản: gồm thuê tài chính, thuê tiêu dùng, thuê doanh nghiệp, thuê

hoạt động.
- Các dịch vụ kinh doanh ngoại hối mua và bán ngoại tệ trực tiếp với khách
hàng, đầu tư tài chính trên thị trường tài chính quốc tế...
- Các dịch vụ tài chính như cầm cố các loại hàng hố, vật tư, ngoại tệ các giấy
tờ có giá; kinh doanh vàng bạc, đá q; chuyển nhượng chứng khốn.
- Các dịch vụ tư vấn đầu tư, tư vấn tài chính, tư vấn tiền tệ và quản lý tài sản
khác theo yêu cầu của các công ty thành viên.
1.2. Công tác quản trị TSBĐ trong cho vay tại CTTC thuộc Tập đoàn kinh tế
1.2.1. Hoạt động cho vay của CTTC
1.2.1.1. Khái niệm và phân loại cho vay
- Khái niệm
Cho vay là hoạt động kinh doanh chính của TCTD (thường chiếm 70% tỷ
trọng tài sản của TCTD), là hoạt động sinh lời chủ yếu cũng như tiềm ẩn nhiều rủi ro
cho TCTD. Lãi thu được từ cho vay là nguồn thu nhập cơ bản để bù đắp chi phí trả lãi
tiền gửi, chi phí kinh doanh và quản lý, bù đắp rủi ro và đảm bảo thu nhập ròng của


12

TCTD. Cho vay là việc TCTD tài trợ cho khách hàng với cam kết khách hàng phải
hoàn trả lại gốc và lãi.
- Phân loại cho vay
- Phân loại cho vay theo thời hạn vay: cho vay ngắn hạn, cho vay trung hạn,
cho vay dài hạn.
Cho vay ngắn hạn (cho vay vốn lưu động) là các khoản vay có thời hạn dưới
12 tháng. Cho vay ngắn hạn nhằm tài trợ cho việc dự trữ hàng hóa, các khoản phải thu,
chi phí sản xuất...
Cho vay trung và dài hạn (cho vay vốn cố định) là các khoản vay có thời hạn từ
một năm trở nên. Cho vay trung hạn thường có thời hạn từ trên một năm đến 5 năm. Cho
vay dài hạn từ 5 đến 10 năm hoặc dài hơn. Các tài sản cố định như phương tiện vận tải,

một số cây trồng vật ni, trang thiết bị chóng hao mịn có yêu cầu được tài trợ từ trên 1
năm tới 5 năm. Cơng trình xây dựng như nhà, sân bay, cầu đường, máy móc có giá trị
lớn, thường có thời gian sử dụng lâu có yêu cầu tài trợ trên 5 năm, có thể tới 10 hoặc 30
năm. Nợ trung hạn và dài hạn chủ yếu được hoàn trả từ lợi nhuận và khấu hao tài sản
hình thành bằng vốn vay. Phân loại cho vay theo thời hạn có ý nghĩa quan trọng đối với
CTTC. Thời hạn liên quan mật thiết đến tính an tồn và sinh lợi của khoản cho vay.
- Phân loại cho vay theo mục đích: cho vay sản xuất và cho vay tiêu dùng.
CTTC cho vay các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nhằm tăng dự trữ, thay
đổi thiết bị, trồng mới... Vốn vay sẽ tham gia vào chu kỳ kinh doanh của khách hàng và
được thu hồi từng phần khi khách hàng có thu nhập. Khả năng trả nợ của khách hàng,
trong trường hợp này, phụ thuộc vào thu nhập mang lại từ chính việc sử dụng vốn vay.
CTTC cho vay đối với người tiêu dùng nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trước trả
tiền sau. Khách hàng trả nợ CTTC từ thu nhập của mình trong nhiều trường hợp khơng
liên quan trực tiếp tới việc sử dụng tiền vay.
- Phân loại cho vay theo điều kiện và hình thức bảo đảm.


13

Cho vay có tài sản bảo đảm là việc cho vay của CTTC có dựa trên việc cầm cố
thế chấp tài sản thuộc sở hữu (hoặc sử dụng) của người vay được đưa ra làm vật bảo
đảm cho khoản vay. Các tài sản có thể là vàng, trái phiếu, giấy tờ có giá khác, các
khoản phải thu, đất đai, nhà cửa, cổ phiếu, bảo lãnh của bên thứ ba... Nếu người vay
khơng trả đúng hạn như cam kết, CTTC có quyền bán các tài sản để thu nợ.
Cho vay không có bảo đảm bằng tài sản là việc cho vay của CTTC dựa trên uy
tín, năng lực tài chính và khả năng tạo thu nhập đủ mức để trả nợ khoản vay của người
vay. Trong trường hợp khách hàng không trả nợ hoặc trả nợ không đầy đủ, CTTC phải
gánh chịu tổn thất.
1.2.1.2. Các hình thức bảo đảm tiền vay của CTTC
Căn cứ vào năng lực tài chính của khách hàng vay, tính khả thi và hiệu quả của

khoản vay và tình hình thực tế. CTTC có thể lựa chọn áp dụng một hoặc một số biện
pháp đảm bảo tiền vay được nêu dưới đây:
a. Cầm cố bằng tài sản của khách hàng vay
Cầm cố là hình thức theo đó người nhận tài trợ của CTTC phải chuyển quyền
kiểm soát TSBĐ sang cho CTTC trong thời gian cam kết (thường là thời gian nhận tài
trợ). CTTC yêu cầu cầm cố khi xét thấy việc khách hàng nắm giữ TSBĐ là khơng an
tồn cho CTTC. Thường đó là các tài sản mà khách hàng dễ bán, chuyển nhượng Cầm
cố thích hợp với những tài sản CTTC có thể kiểm sốt và bảo quản tương đối chắc
chắn, đồng thời, việc CTTC nắm giữ khơng ảnh hưởng đến q trình hoạt động của
người nhận tài trợ, ví dụ như các chứng khốn, các hợp đồng, sổ tiết kiệm, ngoại tệ
mạnh, kim loại quý.

b. Thế chấp bằng tài sản của khách hàng vay
Là hình thức theo đó người nhận tài trợ phải chuyển các giấy tờ chứng nhận sở
hữu (hoặc sử dụng) các tài sản bảo đảm sang cho CTTC nắm giữ trong thời gian cam
kết. Theo quy định của Luật Dân sự và Luật Đất đai có hai loại thế chấp: bất động sản


14

hoặc giá trị quyền sử dụng đất. Ngoài ra, máy móc, trang thiết bị, tàu biển và máy bay
cũng được sử dụng để thế chấp theo quy định của pháp luật. Đảm bảo bằng thế chấp
cho phép người nhận tài trợ sử dụng TSBĐ phục vụ cho hoạt động kinh doanh. Đó là
một thuận lợi. Tuy nhiên, q trình sử dụng sẽ làm biến dạng tài sản, hơn nữa, do khả
năng kiểm soát TSBĐ của CTTC bị hạn chế, khách hàng có thể lợi dụng phân tán, làm
giảm giá trị của tài sản, gây thiệt hại cho CTTC.
c. Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba
Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba (bên bảo lãnh) là việc bên bảo lãnh cam
kết với CTTC về việc sử dụng tài sản thuộc sở hữu, giá trị quyền sử dụng đất của mình,
đối với doanh nghiệp nhà nước là tài sản thuộc quyền quản lý, sử dụng để thực hiện

nghĩa vụ trả nợ thay cho khách hàng vay, nếu đến hạn trả nợ mà khách hàng vay thực
hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ
d. Bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay
Bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay là việc khách hàng vay
dùng tài sản hình thành từ vốn vay để thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho chính khoản vay
đó đối với CTTC. Tài sản hình thành từ vốn vay ở đây được hiểu là tài sản của khách
hàng vay mà giá trị tài sản được tạo nên bởi một phần hoặc tồn bộ khoản vay.
e. Bảo đảm bằng uy tín của khách hàng vay
Cho vay có bảo đảm bằng uy tín của người vay là việc cho vay vốn của CTTC
mà theo đó nghĩa vụ trả nợ của khách hàng khơng được cam kết bảo đảm bằng tài sản.
Hình thức cho vay khơng có bảo đảm này rất hạn chế, và chỉ áp dụng đối với một số
trường hợp thỏa mãn những điều kiện nhất định
Như vậy việc đánh giá khách hàng vay có thoả mãn các điều kiện đó hay khơng
là một việc mang tính trừu tượng và tương đối, do đó dễ xảy ra trường hợp đánh giá
bằng cảm tính, khơng thu hồi được vốn, gây hậu quả nghiêm trọng. Vì vậy để xác định
được khách hàng vay có đủ điều kiện hay khơng người ta phải phân tích tình hình tài
chính, kinh doanh, thanh tốn, khả năng cân đối vốn, khả năng quản lý hoạt động sản


15

xuất kinh doanh, phân tích về lợi nhuận, doanh số xem có phát triển và tăng trưởng một
cách ổn định hay không. Đặc biệt CTTC cần xem xét mối quan hệ của khách hàng với
các TCTD và các chủ nợ khác từ trước đến nay, đơn vị có thái độ tôn trọng, thực hiện
đầy đủ các cam kết giữa hai bên hay không.
1.2.2. TSBĐ trong cho vay tại CTTC
1.2.2.1. Khái niệm TSBĐ
Tài sản bảo đảm tiền vay là tài sản của khách hàng vay, của bên bảo lãnh để
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Những tài sản này bao gồm : tài sản thuộc quyền
sở hữu, giá trị quyền sử dụng đất của khách hàng vay, của bên bảo lãnh; tài sản thuộc

quyền quản lý, sử dụng của khách hàng vay, của bên bảo lãnh là doanh nghiệp nhà
nước; tài sản hình thành từ vốn vay.
1.2.2.2. Điều kiện để trở thành TSBĐ
TSBĐ phải thỏa mãn những điều kiện sau:
- Thuộc quyền sở hữu, quản lý, sử dụng của khách hàng vay/bên bảo lãnh: Để
chứng minh được điều kiện này, khách hàng vay/bên bảo lãnh phải xuất trình giấy
chứng nhận sở hữu, quyền quản lý sử dụng tài sản. Trường hợp thế chấp quyền sử
dụng đất, khách hàng vay/bên bảo lãnh phải có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và
được thế chấp theo quan điểm của pháp luật về đất đai. Đối với tài sản mà Nhà nước
giao cho đơn vị quản lý, sử dụng, doanh nghiệp phải chứng minh được quyền cầm cố,
thế chấp hoặc bảo lãnh tài sản đó.
- Thuộc loại tài sản được phép giao dịch: Tài sản được phép giao dịch được
hiểu là các loại tài sản mà pháp luật cho phép, hoặc không cấm mua, bán, tặng cho ,
chuyển đổi, chuyển nhượng, cầm cố, thế chấp, bảo lãnh và các giao dịch khác.
- Khơng có tranh chấp tại thời điểm ký kết hợp đồng bảo đảm: Để thỏa mãn
điều kiện này, TCTD yêu cầu khách hàng vay/bên bảo lãnh cam kết bằng văn bản về
việc tài sản khơng có tranh chấp về quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng, quyền quản lý
tài sản đó và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về cam kết của mình.


16

- Phải mua bảo hiểm nếu pháp luật có quy định: Đối với các tài sản mà pháp
luật quy định phải mua bảo hiểm thì TCTD yêu cầu khách hàng vay/bên bảo lãnh xuất
trình hợp đồng mua bảo hiểm trong thời hạn bảo đảm tiền vay. Trường hợp khoản vay
có thời hạn dài, khách hàng vay/bên bảo lãnh có thể xuất trình hợp đồng mua bảo hiểm
có thời hạn ngắn hơn song phải có cam kết bằng văn bản về việc tiếp tục mua bảo hiểm
trong thời gian tiếp theo cho đến khi hết thời hạn bảo đảm.
1.2.2.3. Phân loại TSBĐ
- Phân loại theo tính chất an tồn

TCTD chia TSBĐ thành hai loại : Loại 1 và loại 2
Loại 1, là các tài sản thuộc sở hữu hoặc sử dụng lâu dài của khách hàng, hoặc
đảm bảo của bên thứ ba cho khách hàng của TCTD (bảo lãnh). Những bảo đảm này
khơng được hình thành từ khoản tín dụng của chính TCTD. Bảo đảm loại 1 có thể có
giá trị lớn hơn, nhỏ hơn hoặc bằng giá trị của khoản tín dụng tùy thuộc vào sự đốn của
TCTD về rủi ro.
Loại 2, là những tài sản được hình thành từ nguồn tài trợ của TCTD. Đây là
biện pháp cuối cùng để TCTD hạn chế việc người vay bán tài sản được hình thành từ
vốn vay. TSBĐ loại 2 thường áp dụng cho khách hàng mà tài sản loại 1 có ít hoặc
không thể trở thành TSBĐ cho TCTD.

- Phân loại TSBĐ theo hình thức vật chất
- Đảm bảo bằng hàng hóa trong kho như nguyên, nhiên, vật liệu, sản phẩm…
Nếu TCTD có kho bãi riêng hoặc có phương thức bảo quản thích hợp thì đây là hình
thức rất thuận lợi cho khách hàng và TCTD.
- Đảm bảo bằng tài sản cố định. Nhà máy, trang thiết bị sản xuất và phương
tiện vận chuyển, cây con, quyền sử dụng đất, rừng…đều có thể trở thành TSBĐ cho


17

TCTD. Đảm bảo bằng đất đai rất phức tạp, khách hàng cần đăng ký với Sở địa chính,
hoặc các cơ quan có thẩm quyền về việc chuyển nhượng hoặc đã thế chấp cho TCTD.
- Đảm bảo bằng các hợp đồng chi trả của người thứ ba. Nhiều khách hàng ký
hợp đồng bán hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ (ví dụ bán hàng nhận thầu cung cấp,
xây dựng…) và nhận về hợp đồng thanh toán. Hợp đồng thanh toán là cam kết của
người thứ ba về việc sẽ thanh toán cho khách hàng. Hợp đồng này có thể trở thành đảm
bảo cho khách hàng để nhận tài trợ của TCTD.
- Đảm bảo bằng chứng khốn: Các chứng khốn có thể bán với ít nhiều rủi ro.
Quản lý chứng khốn là tương đỗi thuận tiện đỗi với TCTD do phần lớn TCTD đều có

nghiệp vụ quản lý và kinh doanh chứng khoán.
- Đảm bảo bằng bảo lãnh của bên thứ ba: Người thứ ba cam kết thực hiện các
nghĩa vụ tài chính đỗi với TCTD thay cho khách hàng khi khách hàng khơng thực hiện
được. Bảo lãnh là hình thức bảo đảm đối nhân.
- Đảm bảo bằng số dư bù: Trong một số trường hợp TCTD khơng địi đảm bảo
dưới hình thức hàng hóa hay bảo lãnh. Trong trường hợp này, TCTD có thể yêu cầu
bảo đảm bằng tiền gửi ký quỹ (số dư bù). Số tiền đảm bảo có thể được chuyển sang tài
khoản khác của khách hàng, hoặc vẫn lưu trên tài khoản tiền gửi song khách hàng
không được quyền sử dụng cho đến khi đã trả nợ hết cho TCTD.

1.2.3. Công tác quản trị TSBĐ tại CTTC thuộc Tập đồn kinh tế
1.2.3.1. Khái niệm
Như đã phân tích, việc cho vay có TSBĐ nhằm giúp cho CTTC có nguồn thu nợ
thu hai khi nguồn thu từ thu nhập do chính khoản vay tạo ra khơng cịn khả năng. Với
một mơi trường kinh tế ln thay đổi, thì rủi ro ln rình rập đối với khách hàng và cả


18

CTTC, vì vậy, cho vay có TSBĐ là điều kiện khá tiên quyết của CTTC đối với khách
hàng do đó cơng tác quản trị TSBĐ giữ một vai trị vơ cùng quan trọng.
Quản trị TSBĐ là việc CTTC đề ra các biện pháp và nghiệp vụ nhằm từng bước
hoàn thiện các cơ chế chính sách của tồn hệ thống CTTC về bảo đảm tiền vay. Quản
trị danh mục TSBĐ là một mắt xích quan trọng trong quy trình cho vay có tài sản bảo
đảm bao gồm các khâu từ việc quản lý đánh giá, phân loại, dự báo, cảnh báo về danh
mục những tài sản mà CTTC lựa chọn, xét ưu tiên nhận làm TSBĐ, định kỳ đánh giá
lại giá trị TSBĐ để điều chỉnh mức độ cho vay hoặc yêu cầu khách hàng bổ sung
TSBĐ, quản lý lưu giữ TSBĐ và các giấy tờ có liên quan cũng như việc xử lý bán, khai
thác các TSBĐ của những khoản nợ tồn đọng.
1.2.3.2. Nội dung công tác quản trị TSBĐ trong cho vay tại CTTC

a. Thẩm định TSBĐ
Nội dung thẩm định làm rõ những vấn đề sau
- Quyền sở hữu TSBĐ của khách hàng vay/bên bảo lãnh: Cán bộ tín dụng phải
kiểm tra xem khách hàng vay, bên bảo lãnh có xuất trình đủ các loại giấy tờ chứng
minh quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản dùng làm bảo đảm hay không. Cần hết sức
chú ý các dấu hiệu sửa chữa, mâu thuẫn, tính pháp lý trong hợp đồng sở hữu tài sản…
Khi khảo sát thực tế hoặc thu thập thơng tin từ những nguồn khác, cần tìm cách kiểm
chứng lại quyền sở hữu TSBĐ của khách hàng vay/bên bảo lãnh.
- Tài sản hiện khơng có tranh chấp: Việc khẳng định TSBĐ hiện có tranh chấp
hay khơng là khá phức tạp vì vậy ngồi việc đơn vị xem xét thẩm định, cán bộ tín dụng
cần yêu cầu khách hàng vay/ bên bảo lãnh xác nhận bằng văn bản khẳng định tài sản
hiện khơng có tranh chấp và chịu trách nhiệm trước pháp luật về cam kết của mình.
- Tài sản được phép giao dịch: Ngồi các tài sản thơng dụng được mua bán tự
do trên thị trường, CTTC cần hết sức thận trọng trong khi xem xét các loại TSBĐ có
tính chun dụng, q hiếm. Nếu xét thấy cần thiết, cán bộ tín dụng yêu cầu khách


19

hàng vay/ bên bảo lãnh xuất trình bổ sung các loại văn bản của pháp luật nêu rõ loại tài
sản đó được phép giao dịch bình thường.
- Tài sản dễ chuyển nhượng: Mục tiêu của cho vay của CTTC là thu hồi đủ nợ
và lãi vay từ việc thực hiện phương án, dự án sản xuất kinh doanh mà không phải
TSBĐ. Tuy nhiên, cán bộ tín dụng cần thẩm định kỹ tính dễ chuyển nhượng của TSBĐ
để dễ dàng xử lý (nếu phải thực hiện).
b. Định giá TSBĐ
- Khái niệm định giá TSBĐ
Định giá tài sản nói chung là việc xác định giá trị của tài sản ở trên thị trường
hay đó là việc ước tính giá trị của các quyền sở hữu tài sản cụ thể trong đó có cân nhắc
đến tất cả những đặc điểm của tài sản cũng như xem xét tất cả các yếu tố kinh tế căn

bản của thị trường. Định giá TSBĐ trong hoạt động cho vay của CTTC là một khâu
quan trọng trong thẩm định các khoản cho vay có bảo đảm bằng tài sản qua đó CTTC
xác định giá trị các tài sản được CTTC chấp nhận làm đảm bảo cho vay để tạo cơ sở
cho quyết định về mức cho vay của CTTC.
- Nguyên tắc định giá TSBĐ
Việc định giá TSBĐ phải thỏa mãn một số nguyên tắc sau:
- TSBĐ phải được định giá tại thời điểm ký kết hợp đồng bảo đảm, ký kết văn
bản thỏa thuận tu chỉnh/bổ sung hợp đồng bảo đảm (trong trường hợp thỏa thuận thay
đổi nghĩa vụ được bảo đảm); việc xác định giá trị tài sản tại thời điểm này chỉ làm cơ
sở để xác định mức cho vay và không áp dụng khi xử lý tài sản để thu hồi nợ.
- Việc định giá phải căn cứ vào cơ sở pháp lý hoặc cơ sở thực tế, đảm bảo tính
khách quan, minh bạch. Cán bộ thẩm định không được định giá TSBĐ trái với quy
định của pháp luật và của CTTC
- Khi định giá TSBĐ, cán bộ thẩm định phải lập biên bản định giá TSBĐ có
chữ ký của tất cả các thành viên.


20

- Giá trị TSBĐ được xác định bao gồm cả hoa lợi, lợi tức và các quyền phát sinh
từ tài sản đó. Trong trường hợp tài sản thế chấp (TSTC) là tồn bộ bất động sản có vật
phụ thì giá trị của vật phụ cũng thuộc giá trị của TSTC; nếu chỉ thế chấp một phần bất
động sản có vật phụ, thì giá trị vật phụ chỉ thuộc giá trị TSTC khi các bên có thỏa
thuận.
- Giá trị TSBĐ phải lớn hơn tổng giá trị các nghĩa vụ trả nợ được bảo đảm trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác.
- TSBĐ phải thường xuyên được định giá lại sau một thời gian nhất định phù
hợp với đặc điểm của từng loại tài sản và theo quy định của CTTC. Nếu phát hiện
TSBĐ bị giảm giá trị, cán bộ thẩm định phải yêu cầu khách hàng bổ sung ngay TSBĐ.
c. Quản lý tài sản bảo đảm và các giấy tờ liên quan.

Quản lý TSBĐ và các loại giấy tờ liên quan được hiểu là quá trình theo dõi,
kiểm tra đánh giá nhằm bảo đảm tài sản và các loại giấy tờ vẫn đang trong tình trạng
bình thường hoặc kịp thời phát hiện các sự cố liên quan làm giảm giá trị của TSBĐ/
các loại giấy tờ liên quan so với các dự kiến nêu tại hợp đồng bảo đảm.
Nếu TSBĐ được lưu giữ tại kho của CTTC thì thủ kho của CTTC và cán bộ tín
dụng phải chịu trách nhiệm chính trong suốt q trình quản lý TSBĐ và những giấy tờ
liên quan. CTTC cũng cần thực thi các biện pháp thích hợp ngay khi phát hiện khách
hàng hoặc bên thứ ba vi phạm các cam kết tại hợp đồng bảo đảm.

- Trường hợp TSBĐ do khách hàng vay/bên thứ ba quản lý hoặc sử dụng
Tùy tính chất và đặc điểm của TSBĐ, cán bộ tín dụng cần chủ động đề xuất và
thực hiện kiểm tra TSBĐ ít nhất 06 tháng một lần về tình trạng ( số lượng và chất
lượng ) của TSBĐ, tình hình sử dụng và bảo quản TSBĐ, các trường hợp vi phạm cam
kết của khách hàng vay/bên bảo lãnh theo quy định tại hợp đồng bảo đảm.


21

Cán bộ tín dụng cũng phải lưu giữ và thu thập đầy đủ các loại giấy tờ liên quan
đến TSBĐ chứng minh tình trạng hiện tại của tài sản.
- Trường hợp TSBĐ do chính CTTC quản lý
- Đối với TSBĐ là giấy tờ có giá, ngay sau khi nhận bàn giao giấy tờ có giá từ
khách hàng vay/ bên bảo lãnh, cán bộ tín dụng cần tiến hành thủ tục bàn giao giấy tờ có
giá và xác nhận bằng biên bản bàn giao nêu rõ thời gian, địa điểm bàn giao,các loại
giấy tờ bàn giao và trách nhiệm, nghĩa vụ của các bên.
- Trong nhiều trường hợp, CTTC buộc phải trực tiếp quản lý và bảo quản TSBĐ
không phải là giấy tờ có giá như nhà cửa, ơ tơ, hàng hóa… Trong những trường hợp
này, do tính chất phức tạp của công việc quản lý và bảo quản trong khi một số CTTC
lại khơng có kho riêng và nhân sự chun mơn nên CTTC gặp khó khăn trong việc tự
trơng giữ và bảo quản TSBĐ không phải là giấy tờ có giá. Giải pháp tốt nhất cho

CTTC là thuê một bên thứ ba đứng ra bảo quản hộ. Thủ tục thuê bảo quản cần được thể
hiện bằng hợp đồng, nêu rõ trách nhiệm và nghĩa vụ thực hiện của mỗi bên.
Trong cả hai trường hợp CTTC trực tiếp quản lý và bảo quản TSBĐ hay thuê
bên thứ ba chịu trách nhiệm giữ và bảo quản TSBĐ, CTTC đều phải thực hiện nguyên
tắc kiểm tra định kỳ TSBĐ để tránh rủi ro.
d. Xử lý TSBĐ
Trường hợp khoản vay khơng được hồn trả đầy đủ hoặc q hạn khơng được
thanh tốn, thì khoản tín dụng sẽ phải thanh lý bắt buộc thơng qua việc xử lý các bảo
đảm của người đi vay. Theo quy định của pháp luật, người cho vay được quyền ưu tiên
thu nợ từ việc xử lý tài sản thế chấp sau khi thực hiện chi trả các loại phí liên quan đến
việc bán tài sản. Thơng thường các chi phí đó bao gồm: Chi phí bảo quản, quản lý,
định giá, quảng cáo bán tài sản, bán tài sản, tiền hoa hồng, chi phí, lệ phí bán đấu giá và
các chi phí khác liên quan.
- Nguyên tắc xử lý TSBĐ
Việc xử lý TSBĐ để thu hồi nợ đối với các khoản cho vay có bảo đảm bằng tài
sản được thực hiện theo nguyên tắc sau đây :


22

+ Khi đến hạn mà khách hàng vay/ bên bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng nghĩa vụ đối với CTTC thì TSBĐ tiền vay được xử lý để thu hồi nợ.
+ TSBĐ tiền vay phải được xử lý theo các phương thức mà các bên đã thỏa
thuận trong hợp đồng, trường hợp các bên không xử lý được theo các phương thức đã
thỏa thuận thì CTTC có quyền: Bán, chuyển nhượng TSBĐ để thu hồi nợ; yêu cầu bên
bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh; nếu bên bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng nghĩa vụ thì xử lý tài sản của bên bảo lãnh để thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.
+ CTTC có quyền chuyển giao quyền thu hồi nợ và ủy quyền cho bên thứ ba xử
lý TSBĐ; trong trường hợp này thì bên thứ ba cũng có quyền xử lý TSBĐ để thu hồi
nợ như CTTC.

+ Trường hợp một TSBĐ cho nhiều nghĩa vụ trả nợ, nếu phải xử lý TSBĐ để
thực hiện một nghĩa vụ trả nợ đến hạn, thì các nghĩa vụ trả nợ khác tuy chưa đến hạn
cũng được coi là đến hạn và xử lý TSBĐ để thu hồi nợ.
+ Trường hợp tài sản được các bên xử lý theo thỏa thuận thì phải thực hiện
nhanh chóng, cơng khai, bảo đảm lợi ích của các bên; nếu tài sản không xử lý được do
không thỏa thuận được giá bán, thì CTTC có quyền quyết định giá bán tài sản để thu
hồi nợ.
+ Các chi phí phát sinh trong xử lý TSBĐ do khách hàng vay, bên bảo lãnh chịu.
Tiền thu được từ xử lý TSBĐ sau khi trừ đi chi phí xử lý, thì CTTC thu nợ theo thứ tự :
nợ gốc, lãi vay, lãi quá hạn, các khoản phí khác (nếu có). TSBĐ sau khi được xử lý nếu
không đủ để thực hiện nghĩa vụ trả nợ thì khách hàng vay/bên bảo lãnh phải tiếp tục
thực hiện nghĩa vụ trả nợ đã cam kết.
+ Trong trường hợp chủ sở hữu TSBĐ bị khởi tố về một hành vi phạm tội
không liên quan đến việc vay vốn của CTTC hoặc khơng liên quan đến nguồn gốc hình
thành TSBĐ, thì TSBĐ của người đó sẽ bị kê biên và xử lý theo quy định của pháp
luật.
- Các trường hợp CTTC có quyền xử lý TSBĐ để thu hồi nợ


23

+ Sau thời hạn 60 ngày kể từ khi đến hạn trả nợ, mà tài sản bảo đảm chưa được
xử lý theo thỏa thuận
+ Khách hàng vay phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ trước hạn theo quy định của
pháp luật, nhưng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ.
+ Khách hàng vay là tổ chức kinh tế bị giải thể trước khi đến hạn trả nợ, thì
nghĩa vụ trả nợ tuy chưa đến hạn cũng được coi là đến hạn, nếu khách hàng vay không
trả nợ và không xử lý tài sản bảo đảm để trả nợ, thì CTTC có quyền xử lý tài sản để thu
hồi nợ.
+ Khách hàng vay, bên bảo lãnh là doanh nghiệp khi chia tách , hợp nhất, sáp

nhập, chuyển đổi, cổ phần hóa: Nếu doanh nghiệp khơng thực hiện các biện pháp như
quy định như trả nợ trước hạn, chia TSBĐ bảo đảm nghĩa vụ trả nợ… theo yêu cầu của
CTTC, thì CTTC có quyền xử lý TSBĐ tiền vay để thu hồi nợ trước khi thực hiện
nghĩa vụ chia, tách , hợp nhất, sáp nhập, chuyển đổi, cổ phần hóa.
- Các phương thức xử lý TSBĐ tiền vay để thu hồi nợ
+ Trực tiếp bán TSBĐ cho người mua (trừ trường hợp TSBĐ là QSD đất và các
tài sản khác mà pháp luật có quy định phải được bán tại tổ chức bán đấu giá chuyên
trách). Trên cơ sở đã thỏa thuận giá bán tối thiểu, người đi vay có thể tìm người mua
để bán tài sản; trường hợp này xảy ra khi người vay có thiện chí muốn trả nợ vay
CTTC; hoặc CTTC tìm người mua để bán tài sản. áp dụng phương pháp này sẽ giảm
chi phí đấu giá lại rút ngắn thời gian phát mại giúp CTTC nhanh chóng thu hồi nợ và
khách hàng khơng phải trả thêm lãi phạt quá hạn.
+ Nhận chính TSBĐ để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm :
Nhận chính TSBĐ để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm là việc CTTC
trực tiếp nhận TSBĐ, lấy giá TSBĐ được định giá khi xử lý làm cơ sở để thanh toán nợ
gốc, lãi vay, lãi quá hạn của khách hàng vay sau khi trừ đi các chi phí khác (nếu có) và
được tiếp nhận tài sản đó theo quy định của pháp luật.
+ Bán TSBĐ thông qua các tổ chức dịch vụ bán đấu giá như trung tâm bán đấu
giá và doanh nghiệp bán đấu giá. Phương pháp này thường được áp dụng với QSD đất


24

và tài sản gắn liền với đất hoặc các tài sản khác mà CTTC không muốn bán trực tiếp
hoặc nhận tài sản để thay thế nghĩa vụ trả nợ.
+ Nhận các khoản tiền, tài sản mà bên thứ ba phải trả hoặc phải giao cho bên
bảo đảm: Nhận các khoản tiền, tài sản mà bên thứ ba phải trả hoặc phải giao cho bên
bảo đảm là việc CTTC trực tiếp nhận khoản tiền hoặc tài sản mà bên thứ ba phải trả
hoặc phải giao cho CTTC và khách hàng vay/bên bảo lãnh theo các thủ tục quy định
của pháp luật.

+ Yêu cầu tòa án cho phép phát mại TSBĐ để trả nợ vay CTTC: Đối với QSD
đất và tài sản gắn liền với đất CTTC có thể đua tài sản bán đấu giá hoặc khởi kiện tại
tịa án. Ngồi ra, nếu TSBĐ có tranh chấp thì việc phát mại tài sản cũng phải thơng qua
quyết định của tịa án. Trong những trường hợp nêu trên, CTTC cần đệ đơn yêu cầu sự
can thiệp của tòa án.
Lựa chọn phương pháp phát mại tối ưu là rất quan trọng cho cả CTTC và khách
hàng đi vay. Phương pháp được lựa chọn không những tiện lợi cho cả hai bên mà cịn
phải thích hợp ở từng địa phương và hợp với những quy định của pháp luật hiện hành.
ở nước ta theo luật định thì bán đấu giá là phương pháp cơ bản được áp dụng nếu trong
hợp đồng khơng có thỏa thuận khác.
1.2.3.3. Những đặc trưng trong công tác quản trị TSBĐ trong cho vay tại CTTC
thuộc Tập đoàn kinh tế
Sự khác biệt dễ nhận ra giữa NHTM và các CTTC là ở chỗ: NHTM chủ yếu
thâu tóm rất nhiều nguồn tiền gửi nhỏ lẻ, không kỳ hạn; rồi để cho vay những món lớn,
đối tượng lớn. Ngược lại, CTTC lại đi huy động hoặc nhận ủy thác những món lớn, rồi
tìm cách cho vay vơ số những nhóm nhỏ lẻ, có lựa chọn. Các NHTM nhận tiền gửi
(thường là ngắn hạn) thường xuyên trong khi các CTTC thì sử dụng vốn tự có để cho
vay và đầu tư, khơng nhận tiền gửi của dân chúng và các tổ chức với thời hạn ngắn và
dưới hình thức mở tài khoản, khơng được mở tài khoản thanh toán và sử dụng vốn để
làm phương tiên thanh tốn. Do khơng được thực hiện chức năng thanh toán nên việc
quản lý nguồn thu của khách hàng, nắm bắt tài khoản của khách hàng để đảm bảo trong
cho vay là rất khó khăn, cho thấy tầm quan trọng trong công tác quản trị tài sản đảm


25

bảo trong cho vay của CTTC.
Tuy nhiên, đối tượng cho vay của các CTTC trong Tập đoàn cũng chủ yếu
hướng tới các đơn vị thành viên trong tập đoàn hoặc trong một ngành, một lĩnh vực
nhất định. Tài sản đảm bảo cho các khoản vay cũng thường là các trang thiết bị trong

một ngành cụ thể. Do vậy sự am hiểu về ngành, về lĩnh vực, về tài sản bảo đảm, về
thông tin khách hàng là một trong những thế mạnh của CTTC trong cơng tác quản trị
TSBĐ. Từ đó, CTTC có nhiều kinh nghiệm trong việc định giá tài sản đảm bảo, thể dễ
dàng thu thập thông tin và kiểm sốt TSBĐ, thơng qua các kênh thơng tin đối với các
khách hàng liên quan là đối tác, nhà cung cấp của nhau vì các đơn vị thành viên trong
Tập đồn ln có những mối quan hệ nhất định trong quá trình sản xuất kinh doanh.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác quản trị TSBĐ trong cho vay tại CTTC
1.3.1. Các nhân tố chủ quan
1.3.1.1. Trình độ chuyên mơn và đạo đức của cán bộ tín dụng
Con người luôn là nhân tố trung tâm trong mọi hoạt động, là yếu tố quyết định
sự thành bại trong hoạt động kinh doanh của CTTC cũng như công tác quản trị TSBĐ.
Nhân tố con người trong CTTC chính là các cán bộ ngân hàng mà tiêu biểu là cán bộ
tín dụng, là những người trực tiếp tiếp xúc với khách hàng vay vốn, là người thay mặt
TCTD thẩm định đánh giá khách hàng để đưa ra các biện pháp bảo đảm tiền vay phù
hợp với từng đối tượng khách hàng sau khi đã có sự điều tra, thẩm định về khách hàng.
Trình độ của cán bộ tín dụng là rất quan trọng, nó có ảnh hưởng rất lớn đến việc cho
vay có đạt hiệu quả hay không. Một TCTD mà có đội ngũ cán bộ tín dụng giỏi chuyên
môn, có kiến thức và kinh nghiệm, am hiểu pháp luật thì sẽ có khả năng phân tích
khách hàng một cách chính xác hơn. Trong trường hợp cho vay có bảo đảm bằng tài
sản, việc đánh giá chính xác được giá trị tài sản bảo đảm, xác định được tài sản là có
thực hay không, khách hàng vay có gian lận trong tài sản bảo đảm hay không là một
vấn đề hết sức khó khăn đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ tín dụng chuyên môn giỏi. Tuy
nhiên một đội ngũ cán bộ giỏi chuyên môn, giàu kinh nghiệm chưa phải là đủ mà bên
cạnh đó còn cần phải có đạo đức nghề nghiệp. Như Bác Hồ đã nói “có tài mà không có
đức là người vô dụng”. Trong hoạt động ngân hàng cũng vậy, tất cả mọi việc đều do


×