Tải bản đầy đủ (.pdf) (58 trang)

Nghiên cứu xác định tích luỹ các bon trong các trang thái rừng trồng Keo tại xã Tân Thái, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 58 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
oOo



LÀNH VĂN QUÂN


Tên đề tài:
“NGHIÊN CỨU XÁC ĐỊNH TÍCH LUỸ CÁC BON TRONG
CÁC TRẠNG THÁI RỪNG KEO TRỒNG TẠI XÃ TÂN
THÁI, HUYỆN ĐẠI TỪ, TỈNH THÁI NGUYÊN”


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC


Hệ đào tạo : Chính quy
Chuyên ngành : QLTNR
Khoa : Lâm nghiệp
Khoá học : 2010-2014





Thái nguyên, năm 2014
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
oOo





LÀNH VĂN QUÂN


Tên đề tài:
“NGHIÊN CỨU XÁC ĐỊNH TÍCH LUỸ CÁC BON TRONG
CÁC TRẠNG THÁI RỪNG KEO TRỒNG TẠI XÃ TÂN
THÁI, HUYỆN ĐẠI TỪ, TỈNH THÁI NGUYÊN”


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC


Hệ đào tạo : Chính quy
Chuyên ngành : QLTNR
Lớp : 42 - QLTNR
Khoa : Lâm nghiệp
Khoá học : 2010-2014
Giảng viên hướng dẫn : TS. Đỗ Hoàng Chung





Thái nguyên, năm 2014
LỜI CẢM ƠN

Khoá luận tốt nghiệp là bước cuối cùng đánh dấu sự trưởng thành của

một sinh viên ở giảng đường Đại học. Để trở thành một cử nhân hay một kỹ
sư đóng góp những gì mình đã học được cho sự phát triển đất nước. Đồng
thời là cơ hội để sinh viên vận dụng lý thuyết vào thực tiễn, xây dựng phong
cách làm việc khoa học và chuyên nghiệp.
Được sự nhất trí của Ban chủ nhiệm khoa Lâm nghiệp và giáo viên
hướng dẫn, tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu xác định tích luỹ
các bon trong các trang thái rừng trồng Keo tại xã Tân Thái, huyện Đại
Từ, tỉnh Thái Nguyên”.
Trong thời gian thực hiện đề tài khóa luận tốt nghiệp, dưới sự hướng
dẫn tận tình của giáo viên hướng dẫn và được phía nhà trường tạo điều kiện
thuận lợi, tôi đã có một quá trình nghiên cứu, tìm hiểu và học tập nghiêm túc
để hoàn thành đề tài. Kết quả thu được không chỉ do nỗ lực của cá nhân tôi
mà còn có sự giúp đỡ của quý thầy cô, gia đình và bạn bè.
Tôi xin chân thành cảm ơn
Bán giám hiệu nhà trường, Ban chủ nhiệm khoa Lâm nghiệp đã tạo
điều kiện giúp tôi hoàn thành khóa luận tốt nghiệp.
Thầy giáo TS. Đỗ Hoàng Chung đã hướng dẫn, hỗ trợ tôi hoàn thành
tốt đề tài về phương pháp, lý luận và nội dung trong suốt thời gian thực hiện
khóa luận tốt nghiệp.
Các cán bộ, nhân viên của xã Tân Thái đã quan tâm, giúp đỡ tôi trong
thời gian thực tập.
Gia đình đã tạo điều kiện học tập tốt nhất.
Các bạn đã giúp đỡ, trao đổi thông tin về đề tài trong thời gian thực tập.
Trong quá trình thực hiện và trình bày khóa luận không thể tránh khỏi
những sai sót và hạn chế, do vậy tôi rất mong nhận được sự góp ý, nhận xét
phê bình của quý thầy cô và các bạn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, ngày 25 tháng 05 năm 2014
Sinh viên thực tập


Lành Văn Quân
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Từ viết tắt Nghĩa đầy đủ của từ
D
1.3
: Đường kính ngang ngực
H
vn
: Chiều cao vút ngọn
N : Mật độ
H
dc
: Chiều cao dưới cành
OTC : Ô tiêu chuẩn
ODB : Ô dạng bản
D
1.3
: Đường kính ngang ngực bình quân
H
vn
: Chiều cao vút ngọn bình quân

















MỤC LỤC
Phần 1: MỞ ĐẦU 1
1.1. Đặt vấn đề 1
1.2. Mục đích nghiên cứu 3
1.3. Mục tiêu nghiên cứu 3
1.4. Ý nghĩa đề tài 3
1.4.1. Ý nghĩa học tập và nghiên cứu 3
1.4.2. Ý nghĩa thực tiễn sản xuất 3
Phần 2: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU 4
2.1. Nghiên cứu về sinh khối và năng suất rừng 4
2.1.1. Trên thế giới
4
2.1.2. Ở Việt Nam 5
2.2. Nghiên cứu khả năng hấp thụ CO
2
của rừng 7
2.2.1. Trên thế giới 7
2.2.2. Ở Việt Nam
10
2.3. Phương pháp xác định sinh khối và xác định CO
2
trong sinh khối 14

2.3.1. Phương pháp xác định sinh khối
14
2.3.2. Phương pháp xác định các bon trong sinh khối
15
2.4. Khái quát vấn đề nghiên cứu 16
2.5. Kết luận chung 16
2.6. Tổng quan về khu vực nghiên cứu 17
2.6.1. Điều kiện tự nhiên 17
2.6.1.1. Vị trí địa lý 17
2.6.1.2. Khí hậu thuỷ văn 18
2.6.2. Điều kiện kinh tế xã hội 18
2.6.2.1 Tình hình dân sinh kinh tế 18
2.6.2.2. Tình hình văn hóa xã hội 19
2.6.2.3 Tình hình sản xuất nông - lâm nghiệp 20
2.6.2.4. Tình hình phát triển chăn nuôi 21
2.7. Nhận xét chung về khó khăn và thuận lợi 22
Phần 3: ĐỐI TƯỢNG, ĐỊA ĐIỂM, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU 24
3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 24
3.2. Địa điểm và thời gian tiến hành 24
3.3. Nội dung nghiên cứu 24
3.4. Phương pháp sử dụng trong nghiên cứu 25
3.4.1. Phương pháp kế thừa 25
3.4.2. Phương pháp điều tra ô tiêu chuẩn 25
3.4.2.1. Số lượng và vị trí các ô mẫu 25
3.4.2.2. Hình dạng và kích thước ô mẫu 25
3.4.2.3. Các bể chứa các bon phần trên mặt đất cần đo đếm 26
3.4.2.4. Đo đếm tại các ô tiêu chuẩn 27
3.4.2.5. Phương pháp nội nghiệp 29
Phần 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 31

4.1. Một số đặc điểm rừng trông Keo tại xã Tân Thái huyện Đại Từ tỉnh Thái
Nguyên. 31
4.1.1. Thực trạng và nguồn gốc rừng trồng Keo ở địa bàn nghiên cứu 31
4.1.2 Đặc điểm chung của lâm phần rừng trồng Keo ở trên địa bàn nghiên cứu. . 32

4.2. Xác định sinh khối tươi của rừng trồng Keo. 33
4.2.1. Đặc điểm sinh khối tầng cây gỗ của rừng trồng Keo. 33
4.2.2. Đặc điểm sinh khối tươi của cây bụi thảm tươi và thảm mục 34
4.2.2.1. Đặc điểm sinh khối tươi của cây bụi, thảm tươi. 34
4.2.2.2. Đặc điểm sinh khối tươi của thảm mục. 35
4.2.3. Đặc điểm sinh khối khô của rừng trồng Keo qua các độ tuổi tại xã Tân Thái
36
4.2.3.1. Sinh khối khô của rừng Keo 2-3 tuổi 36
4.2.3.2. Sinh khối khô của rừng Keo 4-5 tuổi 37
4.2.3.3. Sinh khối khô của rừng Keo 6-7 tuổi 38
4.3. Lượng các bon tích lũy trong rừng trồng Keo xã Tân Thái 39
4.3.1. Khả năng tích luỹ các bon của các thành phần trên mặt đất ở các trạng
thái rừng trồng Keo ở xã Tân Thái. 39
4.3.1.1. Lượng các bon tích lũy trong rừng trồng độ tuổi 2-3. 39
4.3.1.2. Lượng các bon tích lũy trong rừng trồng độ tuổi 4-5. 40
4.3.1.3. Lượng các bon tích lũy trong rừng trồng độ tuổi 6-7. 41
4.4. Đề xuất một số giải pháp 43
Phần 5: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 44
5.1. Kết luận 44
5.2. Kiến nghị 45
TÀI LIỆU THAM KHẢO 46
I. Tiếng Việt 46
II. Tiếng Anh 48



DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 4.1. Các thông tin cơ bản của OTC 33
Bảng 4.2. Sinh khối tươi tầng cây gỗ rừng Keo 34
Bảng 4.3. Đ ặc điểm sinh khối tươi của cây bụi, thảm tươi lâm phần rừng
trồng Keo. 35
Bảng 4.4 Đặc điểm sinh khối tươi của phần thảm mục. 36
Bảng 4.5: Sinh khối khô của rừng Keo 2-3 tuổi 37
Bảng 4.6: Sinh khối khô của rừng Keo 4-5 tuổi 37
Bảng 4.7: Sinh khối khô của rừng Keo 6-7 tuổi 38
Bảng 4.8: Tổng tích luỹ carbon trong rừng trồng độ tuổi 2-3. 39
Bảng 4.9: Tổng tích luỹ carbon trong rừng trồng độ tuổi 4-5. 40
Bảng 4.10: Tổng tích luỹ carbon trong rừng trồng độ tuổi 6-7. 41
DANH MỤC CÁC HÌNH

Hình 4.8 Tỷ lệ tích luỹ các bon theo các thành phần rừng keo trồng 2-3 tuổi.
40
Hình 4.9. Tỷ lệ tích luỹ các bon theo các thành phần rừng keo trồng 4-5 tuổi.
41
Hình 4.10. Tỷ lệ tích luỹ các bon theo các thành phần rừng keo trồng 6-7 tuổi
42

1

Phần 1
MỞ ĐẦU

1.1. Đặt vấn đề
Từ xưa, rừng đã được coi là tài sản quý báu vào bậc nhất mà thiên
nhiên ban tặng cho con người. Trong thực tế, rừng đã đem lại nhiều lợi ích to

lớn. Rừng cung cấp cho ta những sản vật quý hiếm, thanh lọc không khí, điều
hòa khí hậu, bảo vệ sự sống,… Đứng trước những thách thức về biến đổi khí
hậu, giá trị của rừng càng được đề cao. Những năm gần đây, đã có nhiều
nghiên cứu trên thế giới và trong nước nhằm nỗ lực bảo vệ và phát triển tài
nguyên rừng.
Giảm phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính từ phá rừng và suy thoái rừng
(REDD) ở các nước đang phát triển là sang kiến toàn cầu đã được hội nghị
các nước thành viên thứ 13 (COP13) của công ước khung liên hợp quốc về
biến đổi khí hậu (UNFCCC) và nghị định như Kyoto thông qua tại Ba-li
(Indonesia) năm 2007. Hàng năm lượng khí thải từ phá rừng và suy thoái rừng
ở các nước đang phát triển chiếm 20% so với tổng sản lượng phát thải hiệu
ứng nhà kính trên toàn cầu, vì thế sang kiến REDD đã dược hình thành từ ý
tưởng giản đơn ban đầu là trả tiền cho các nước đang phát triển để làm giảm
phát khí thải CO2 từ nghành lâm nghiệp. Một số vấn đề đặt ra là cần phải
lượng hoá cacbon cơ sở, hiện đang được lưu trữ ở các cánh rừng. Các bể chứa
cacbon chính trong hệ sinh thái rừng nhiệt đới là các sinh khối sống của cây
cối và thực vật dưới tán và khối lượng vật liệu chết rơi rụng, mảnh vụn gỗ và
các chất hữu cơ trong đất. Các bon được lưu trữ trong sinh khối sống trên mặt
đất của cây thường là các bể chứa lớn nhất và ảnh hưởng trực tiếp lớn nhất từ
nạn phá rừng và suy thoái. Như vậy, ước tính các bon trong sinh khối trên mặt
đất của rừng là là bước quan trọng nhất trong việc xác định số lượng, dòng

2

các bon từ rừng nhiệt đới phương thức đo lường đối với các bể chứa đã được
mô tả ở các tài liệu của Post và cộng sự (1999), Brown Masera (2003),
Pearson và cộng sự (2005), IPCC (2006).
Sinh trưởng nhanh và năng suất cao đó là những loại cây trồng rừng tại
khu vực nhiệt đới. Ở khu vực này việc sản xuất gỗ có ý nghĩa và tầm quan
trọng hang. Diện tích rừng trồng trên thế giới khoảng 130 triệu ha (Allan and

Landy 1991) và che phủ toàn bộ khu vực nhiệt đới (FAO, 1995). Tổng số
lượng các bon tích luỹ tại các khu rừng trồng toàn cầu ước tính khoảng 11,8
PgC (Winjum and Schroeder 1997), trong đó lượng cacbon trên mặt đất chủ
yếu từ các khu công nghiệp. Những hoạt động của Nghành lâm nghiệp đang
có những đóng góp cho việc tích luỹ cacbon ở các khu vực nhiệt đới,cũng như
kết quả về sự thay đổikhí hậu và nhịp độ sinh trưởng của thực vật (Schroeder
and ladd 1991). Kết quả trồng rừng ở các khu vực trên thế giới đã tích luỹ một
lượng cacbon trong khí quyển và từ mặt đất (Schroeder, 1992). Tất cả ước
lượng cho việc tích luỹ cacbon ở các kiểu rừng (Brow, 1993; Lugo and Brow,
1992; Vogt, 1991) và những thong tin mới nhất về khả năng tích luỹ cacbon
của những loài cây đã được công bố. Tầm quan trọng những đặc điểm riêng
của loài cây có ý nghĩa trong việc tích luỹ cacbon toàn cầu và chu kỳ của nó.
Thái Nguyên là một tỉnh miền núi với nhiều nhà máy, khu công nghiệp
lớn, đang gây sức ép nặng nề với môi trường về lượng khí thải. Điều quan
trọng, trong những năm gần đây được Đảng và Nhà nước quan tâm tới công
tác phát triển rừng, diện tích rừng trên toàn tỉnh Thái Nguyên đã lên tăng đáng
kể. Đặc biệt diện tích rừng trồng keo ở Đại Từ đang tăng lên về cả diện tích
và chất lượng. Để đánh giá được giá trị thực của rừng trồng keo tại tỉnh Thái
Nguyên nói chung và huyện Đại Từ nói riêng, qua đó có thể thương mại hoá
chứng chỉ giảm phát thải, chủ yếu là lượng CO
2
, thì cần thiết phải xác định
được trữ lượng các bon có trong tích lũy Các bon của các loại rừng. Những

3

nghiên cứu dựa trên các phương pháp được thừa nhận và có độ tin cậy cao đã
được áp dụng. Xuất phát từ lý do đó, được sự đồng ý của trường Đại học
Nông Lâm Thái Nguyên, Ban chủ nhiệm khoa Lâm Nghiệp tôi tiến hành
nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu xác định tích luỹ Các bon trong các trạng

thái rừng trồng keo tại xã Tân Thái, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên”
1.2. Mục đích nghiên cứu
Xác định được tổng trữ lượng các bon tích lũy của các trạng thái rừng
keo trồng tại xã Tân Thái huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên.
1.3. Mục tiêu nghiên cứu
- Xác định được hiện trạng các loại rừng Keo trồng, khả năng sinh
trưởng độ che phủ của rừng keo theo từng độ tuổi tại xã tân thái, đại từ,
thái nguyên.
- Xác định được lượng các bon tích lũy trên mặt đất trong rừng Keo
trồng qua từng độ tuổi khác nhau.
- Tính toán được tổng lượng các bon tích lũy trong các loại rừng Keo
trồng tại xã tân thái, đại từ, thái nguyên.
1.4. Ý nghĩa đề tài
1.4.1. Ý nghĩa học tập và nghiên cứu
- Qua quá trình thực hiện đề tài, sinh viên sẽ được thực hành việc nghiên cứu
khoa học, biết phương pháp phân bổ thời gian hợp lý để đạt hiệu quả cao trong quá
trình làm việc, đồng thời là cơ sở để củng cố những kiến thức đã học trong nhà
trường vào hoạt động thực tiễn .
1.4.2. Ý nghĩa thực tiễn sản xuất
- Thúc đẩy việc trồng rừng của người dân, giúp người dân hiểu rõ được
chu kỳ của rừng trồng để thu được lợi ích trong việc trồng và phát triển rừng
sản xuất.

4

Phần 2
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
2.1. Nghiên cứu về sinh khối và năng suất rừng
2.1.1. Trên thế giới
Sinh khối và năng suất rừng là những vấn đề đã được rất nhiều tác giả

quan tâm nghiên cứu. Từ những năm 1840 trở về trước, đã có những công
trình nghiên cứu về lĩnh vực sinh lý thực vật, đặc biệt là vai trò hoạt động của
diệp lục trong quá trình quang hợp để tạo nên các sản phẩm hữu cơ dưới tác
động của các nhân tố tự nhiên như: Đất, nước, không khí, và năng lượng ánh
sáng mặt trời. sang thế kỷ 19 nhờ áp dụng các thành tựu khoa học như hóa
phân tích, hóa thực vật và đặc biệt là vận dụng nguyên lý tuần hoàn vật chất
trong thiên nhiên, các nhà khoa học đã thu được những thành tựu đáng kể.
Tiêu biểu cho lĩnh vực này có thể kể tới một số tác giả sau:
Liebig (1862) lần đầu tiên đã định lượng về sự tác động của thực vật tới
không khí và phát triển thành định luật tối thiểu, sau đó Mitscherlich (1954) đã
phát triển luật tối thiểu của Liebig thành luật "năng suất" [32].
Lieth (1964) đã thể hiện năng suất trên toàn thế giới bằng bản đồ năng
suất [31], đồng thời với sự ra đời của chương trình sinh học quốc tế “IBP”
(1964) và chương trình sinh quyển con người “MAB” (1971) đã tác động
mạnh mẽ tới việc nghiên cứu sinh khối. Những nghiên cứu trong giai đoạn
này tập trung vào các đối tượng đồng cỏ, savan, rừng rụng lá, rừng mưa
thường xanh.
Duyiho cho biết hệ sinh thái rừng nhiệt đới năng suất chất khô thuần từ
10-50 tấn/ha/năm, trung bình là 20 tấn/ha/năm, sinh khối chất khô từ 60-800
tấn/ha/năm, trung bình là 450 tấn/ha/năm (theo Lê Hồng Phúc, 1996) [10].
Dajoz (1971) đưa ra năng suất của một số hệ sinh thái rừng như sau:
+ Rừng nhiệt đới thứ sinh ở Yangambi: 20 tấn/ha/năm.

5

+ Đồng cỏ tự nhiên ở Fustuca (Đức): 10,5-15,5 tấn/ha/năm (dẫn
theo Lê Hồng Phúc, 1996) [10].
Theo Rodel (2002), mặc dù rừng chỉ che phủ 21% diện tích bề mặt trái
đất, nhưng sinh khối thực vật của nó chiếm đến 75% so với tổng sinh khối
thực vật trên cạn và lượng tăng trưởng sinh khối hàng năm chiếm 37% [36].

Canell (1982) đã cho ra đời cuốn sách “Sinh khối và năng suất sơ cấp
của rừng thế giới", cho đến nay nó vẫn là tác phẩm quy mô nhất. Tác phẩm đã
tổng hợp 600 công trình nghiên cứu được tóm tắt xuất bản về sinh khối khô,
thân, cành, lá và một số thành phần sản phẩm sơ cấp của hơn 1.200 lâm phần
thuộc 46 nước trên thế giới [30].
2.1.2. Ở Việt Nam
Nghiên cứu về sinh khối rừng ở nước ta tiến hành muộn nhưng cũng đã
có một số công trình nghiên cứu sau:
Nguyễn Hoàng Trí (1986) thực hiện nghiên cứu “Sinh khối và năng suất
rừng đước” đã áp dụng phương pháp “cây mẫu” để nghiên cứu năng suất, sinh
khối một số quần xã rừng Đước đôi rừng ngập mặn ven biển Minh Hải [19].
Hà Văn Tuế (1994) cũng dùng phương pháp “cây mẫu” để nghiên cứu
năng suất, sinh khối một số rừng trồng nguyên liệu giấy tại Vĩnh Phúc [21].
Lê Hồng Phúc (1996) đã có công trình nghiên cứu về sinh khối hoàn
chỉnh, đây được xem là tác phẩm mang tính chất đi đầu trong lĩnh vực nghiên
cứu sinh khối ở nước ta. Với đối tượng nghiên cứu là Thông ba lá tại Đà Lạt.
Sau khi nghiên cứu, tác giả đã lập được một số phương trình tương quan giữa
sinh khối của các bộ phận của cây rừng với đường kính D
1.3
[10].
Vũ Văn Thông (1997) với luận văn Thạc sỹ của mình đã xác lập được
mối quan hệ giữa sinh khối của các bộ phận với đường kính D
1.3
cho loài Keo
lá tràm [17].

6

Đặng Trung Tấn (2001) cũng đã nghiên cứu về “Sinh khối rừng Đước”
và đã nhận định tổng sinh khối khô rừng Đước ở Cà Mau là 327m

3
/ha và tăng
trưởng sinh khối bình quân hàng năm là 9.500kg/ha [15].
Nguyễn Ngọc Lung (2004) đã có công trình nghiên cứu về sinh khối
rừng Thông ba lá để tính toán thử khả năng cố định CO
2
mà cây rừng hấp thụ.
Từ việc nghiên cứu này tác giả đã xác định được một số hàm tương quan
mang tích chất định lượng sinh khối [8].
Nguyễn Văn Dũng (2005) đã đưa ra nhận định rừng trồng Thông mã vĩ
thuần loài 20 tuổi có tổng sinh khối tươi (trong cây và vật rơi rụng) là 321,7 -
495,4 tấn/ha, tương đương với lượng sinh khối khô là 173,4-266,2 tấn. Rừng
keo lá tràm trồng thuần loài 15 tuổi có tổng sinh khối tươi (trong cây và vật
rơi rụng) là 251,1-433,7 tấn/ha, tương đương lượng sinh khối khô là 132 -223
tấn/ha [2].
Vũ Tấn Phương (2006) đã nghiên cứu về cây bụi, thảm tươi tại Hoà
Bình và Thanh Hoá, kết quả cho thấy sinh khối của lau lách khoảng 104
tấn/ha, trảng cây bụi cao 2-3m khoảng 61 tấn/ha, cỏ lá tre, cỏ tranh, cỏ chỉ có
sinh khối từ 22-31 tấn/ha. Về sinh khối khô: Lau lách là 40 tấn/ha, cây bụi cao
2-3m là 27 tấn/ha, cây bụi cao dưới 2m và tế guột là 20 tấn/ha, cỏ lá tre 13
tấn/ha, cỏ tranh 10 tấn/ha [12].
Nguyễn Văn Tấn (2006) nghiên cứu về sinh khối rừng Bạch đàn Urophylla
ở Yên Bái cho kết quả cho thấy với sinh khối tươi ở tuổi 4 bằng 183,54 tấn/ha,
ở tuổi 5 là 219,77 tấn/ha và ở tuổi 5 là 239,19 tấn/ha. Trong đó sinh khối trên
mặt đất chiếm từ 77,78% - 89,12%. Tương ứng sinh khối khô ở tuổi 4 là 66,87
tấn/ha, tuổi 5 là 73,53 tấn/ha, tuổi 6 là 96,02 tấn/ha. Trong đó sinh khối khô
trên mặt đất chiếm từ 64,27% - 85,92% [16].
Lý Thu Quỳnh (2007) nghiên cứu về cây Mỡ tại tỉnh Phú Thọ và
Tuyên Quang kết quả cho thấy tổng sinh khối tươi của 1ha rừng trồng Mỡ dao


7

động trong khoảng 53.440 - 309.689 kg/ha còn tổng sinh khối khô dao động
trong khoảng 22.965-105.026 kg/ha [6].
Đỗ Hoàng Chung (2012) đã nghiên cứu về đa dạng nhóm sinh vật phân
giải và cường độ phân giải thảm mục trong rừng thứ sinh phục hồi tự nhiên tại
trạm đa dạng sinh học Mê Linh, Vĩnh Phúc kết quả cho thấy sinh khối khô
của tầng thảm mục tại các quần xã rừng có sự khác biệt. Tổng sinh khối khô
của tầng thảm mục tại các quần xã rừng nghiên cứu nằm trong khoảng 8,35 -
12,91 tấn/ha [24].
Nguyễn Thanh Tiến (2012) nghiên cứu khả năng hấp thụ CO
2
của trạng
thái rừng thứ sinh phục hồi tự nhiên sau khai thác kiệt tại tỉnh Thái Nguyên
đã cho thấy sinh khối khô rừng thứ sinh phục hồi tự nhiên trạng thái IIb tại
Thái Nguyên là 76,46 tấn/ha. Trong đó: Sinh khối khô tầng cây gỗ trung bình
63,38 tấn/ha; Sinh khối tầng cây dưới tán (cây bụi thảm tươi, cây tái sinh)
trung bình 4,86 tấn/ha; Sinh khối khô vật rơi rụng trung bình 8,22 tấn/ha [25].
2.2. Nghiên cứu khả năng hấp thụ CO
2
của rừng
2.2.1. Trên thế giới
Nơi có khả năng hấp thụ một khối lượng lớn CO
2
phát thải vào không
khí bởi các hoạt động của con người đó là đại dương và thảm thực vật. Trong
đó thảm thực vật đã lưu giữ một lượng CO
2
lớn hơn 1 nửa khối lượng chất khí
phát thải đó và cũng chính từ nguyên liệu carbon này hàng năm thảm thực vật

trên trái đất đã tạo ra được 150 tỷ tấn vật chất khô thực vật. Rừng nhiệt đới
toàn cầu có diện tích khoảng 17,6 triệu km
2
tích lũy 547 tỷ tấn carbon trong
sinh khối và trong đất.
Năm 1980, Brawn và cộng sự đã sử dụng công nghệ GIS dự tính lượng
carbon trung bình trong rừng nhiệt đới châu Á là 144 tấn/ha trong phần sinh
khối và 148 tấn /ha trong lớp đất mặt với độ sâu 1m, tương đương 42-43 tỷ
tấn carbon trong toàn châu lục. Tuy nhiên, lượng carbon có biến động rất lớn

8

giữa các vùng và các kiểu thảm thực bì khác nhau. Thông thường lượng
carbon trong sinh khối biến động từ dưới 50 tấn/ha đến 360 tấn/ha, phần lớn ở
các kiểu rừng là 100-200 tấn/ha (dẫn theo Phạm Xuân Hoàn, 2005) [4].
Một số nghiên cứu về khả năng hấp thụ carbon của các dạng rừng:
• Margaret Kraenzel và cộng sự (2001), đã kết luận cây gỗ Tếch tại
các đồn điền Panama được nghiên cứu có lượng carbon tích lũy rất lớn, lớn
hơn rất nhiều so với lượng tích lũy của thảm rơi lá rụng ở đồng cỏ. Trồng
rừng sẽ là biện pháp tốt nhất để tăng hàm lượng tích lũy carbon, giảm thiểu ô
nhiễm môi trường và hằng năm sẽ tích lũy được khoảng 120 tấn C/ha. Ngoài
ra lượng vật rơi rụng sẽ tích lũy được khoảng 6 tấn C/ha/năm. Tổng tiềm năng
tích lũy carbon ở rừng trồng gỗ Tếch là tương đối lớn và lâu dài [37].
• Houghton (1991) đã nhận định lượng carbon rừng nhiệt đới Châu Á
là 40-250 tấn/ha, trong đó 50-120 tấn/ha ở phần thực vật và đất.
Brawn (1991) Rừng nhiệt đới Đông nam á có lượng sinh khối trên mặt
đất từ 50-430 tấn/ha (tương đương 25-215 tấn C/ha) và trước khi có tác động
của con người thì các trị số tương ứng là 350-400 tấn/ha (tương đương 175-
200 tấn C/ha) (dẫn theo Phạm Xuân Hoàn, 2005) [4].
• Theo Mckenzie và cộng sự (2001) Carbon trong hệ sinh thái rừng

thường tập trung ở 4 bộ phận chính: Thảm thực vật còn sống trên mặt đất, vật
rơi rụng, rễ cây và đất rừng. Việc xác định lượng carbon trong rừng thường
được thực hiện thông qua xác định sinh khối rừng [34].
Kết quả nghiên cứu về sự biến động carbon sau khai thác rừng:
- Brown, S. (1997) đã nhận định rằng: Một khu rừng nguyên sinh có
thể hấp thụ được 280 tấn carbon và sẽ giải phóng 200 tấn carbon nếu chuyển
thành du canh du cư và sẽ giải phóng nhiều hơn một chút nếu được chuyển
thành đồng cỏ hay đất nông nghiệp. Rừng trồng có thể hấp thụ khoảng 115

9

tấn carbon và con số này sẽ giảm từ 1/3 đến 1/4 khi rừng bị chuyển đổi sang
canh tác nông nghiệp [27].
- Rodel D. Lasco (2002) lượng sinh khối và carbon của rừng nhiệt đới
Châu Á bị giảm khoảng 22-67% sau khai thác. Tại Philippines sau khai thác
thì lượng CO
2
bị mất là 50% so với rừng thành thục trước khai thác và ở
Indonesia là 38-75% [36].
- Theo Putz và Pinard (1993) ở Malaisia nếu khai thác chọn lấy đi 8-15
cây/ha (tương đương 80m
3
/ha hay 22 tấn carbon/ha) sẽ làm tổn thương 50%
số cây được giữ lại. Ở Sabah sau khai thác 1 năm lượng sinh khối đã đạt 44-
67% so với trước khai thác (nếu khai thác theo phương thức "Khai thác giảm
thiểu tác động" (dẫn theo Phạm Xuân Hoàn, 2005) [4].
- Xét trên phạm vi toàn cầu, số liệu thống kê năm 2003 cho thấy lượng
carbon lưu trữ trong rừng khoảng 800-1.000 tỷ tấn. Trong 1 năm rừng hấp thụ
khoảng 100 tỷ tấn khí carbonic và thải ra khoảng 80 tỷ tấn oxy [4].
- Tổng lượng hấp thu dự trữ carbon của rừng trên thế giới khoảng 830

PgC, trong đó carbon trong đất lớn hơn 1,5 lần carbon dự trữ trong thảm thực
vật (Brown, 1997) 26. Đối với rừng nhiệt đới, có tới 50% lượng carbon dự trữ
trong thảm thực vật và 50% dự trữ trong đất (IPCC,2000) [27].
- Brown và cộng sự (1996) đã ước lượng tổng lượng carbon mà hoạt
động trồng rừng trên thế giới có thể hấp thu tối đa trong vòng 5 năm (1995 -
2000) là khoảng 60 - 87 Gt C, với 70% ở rừng nhiệt đới, 25% ở rừng ôn đới
và 5% ở rừng cực bắc (Cairns và cộng sự, 1997)27. Tính tổng lại rừng trồng
có thể hấp thu được 11 - 15% tổng lượng CO
2
phát thải từ nguyên liệu hoá
thạch trong thời gian tương đương (Brown, 1997) [27].
- Năm 1991, Houghton đã chứng minh lượng carbon trong rừng nhiệt
đới châu Á là 40 - 250 tấn/ha, trong đó 50 - 120 tấn/ha ở phần thực vật và đất
(dẫn theo Phạm Xuân Hoàn, 2005) [4].

10

- Brown và Pearce (1997) đưa ra các số liệu đánh giá lượng carbon và
tỷ lệ thất thoát đối với rừng nhiệt đới. Theo đó một khu rừng nguyên sinh có
thể hấp thu được 280 tấn carbon/ha và sẽ giải phóng 200 tấn carbon/ha nếu bị
chuyển thành du canh du cư và sẽ giải phóng carbon nhiều hơn một chút nếu
được chuyển thành đồng cỏ hay đất nông nghiệp. Rừng trồng có thể hấp thụ
khoảng 115 tấn carbon và con số này sẽ giảm từ 1/3 đến 1/4 khi rừng chuyển
đối sang canh tác nông nghiệp [26].
- Tại Philippines, năm 1999 Lasco cho biết ở rừng tự nhiên thứ sinh có
86 - 201 tấn C/ha (tương đương 370 - 52 tấn sinh khối khô/ha, lượng carbon
ước chiếm 50% sinh khối) [37].
- Tại Thái Lan, Noonpragop đã xác định lượng carbon trong sinh khối
trên mặt đất là 72 - 182 tấn/ha [31].
- Ở Malayxia, lượng carbon trong rừng biến động từ 100 - 160 tấn/ha

và tính cả trong sinh khố và đất là 90 - 780 tấn/ha [32].
- Năm 2000 tại Indonesia, Noordwijk đã nghiên cứu khả năng tích luỹ
carbon của các rừng thứ sinh, các hệ thống nông lâm kết hợp và thâm canh
cây lâu năm. Kết quả cho thấy lượng carbon hấp thụ trung bình là 2,5
tấn/ha/năm [32].
Công trình nghiên cứu tương đối toàn diện và có hệ thống về lượng
carbon tích luỹ của rừng được thực hiện bởi Ilic (2000) và Mc Kenzie (2001).
Theo Mc Kenzie, carbon trong hệ sinh thái rừng thương tập trung ở bốn bộ
phận chính: thảm thực vật còn sống trên mặt đất, vật rơi rụng, rễ cây và đất
rừng. Việc xác định lượng carbon trong rừng thường được thực hiện thông
qua xác định sinh khối rừng [34].
2.2.2. Ở Việt Nam
Nguyễn Ngọc Lung (2004), công bố nghiên cứu sinh khối rừng Thông ba
lá để tính toán khả năng cố định CO
2
mà cây rừng hấp thụ. Đây là công trình

11

nghiên cứu có ý nghĩa trong lĩnh vực khoa học nghiên cứu khả năng hấp thụ
CO
2
của rừng, tạo tiền đề cho việc xây dựng dự án trồng rừng CDM sau này [8].
Nguyễn Văn Dũng (2005) nghiên cứu về rừng Thông Mã vỹ tại Núi
Luốt - Đại học lâm nghiệp cho thấy rừng Thông mã vỹ thuần loài 20 tuổi
lượng carbon tích luỹ là 80,7-122 tấn/ha, giá trị carbon tích luỹ ước tính đạt
25,8-39 triệu VNĐ/ha. Rừng Keo lá tràm trồng thuần loài 15 tuổi có tổng
lượng carbon tích luỹ là 62,5-103,1 tấn/ha, giá trị tích luỹ carbon ước tính đạt
20-33 triệu VNĐ [2].
Vũ Tấn Phương (2006) đã nghiên cứu trữ lượng carbon theo các trạng

thái rừng cho biết: Rừng giàu có tổng trữ lượng CO
2
là 694,9 - 733,9 tấn
CO
2
/ha; rừng trung bình là 539,6-577,8 tấn CO
2
/ha; rừng nghèo 387,0-478,9 tấn
CO
2
/ha; rừng phục hồi 164,9 - 330,5 tấn CO
2
/ha; rừng tre nứa là 116,5 - 277,1 tấn
CO
2
/ha [11].
Nguyễn Văn Tấn (2006) Nghiên cứu rừng Bạch đàn Urophylla tuổi 4,
5, 6 tại Yên Bái cho thấy:
+ Ở tuổi 4: Tổng trữ lượng carbon là 32,81 tấn C/ha, trong đó phần trên
mặt đất là 25,51 tấn C/ha chiếm 77,77%; trữ lượng carbon dưới mặt đất là
5,48 tấn C/ha chiếm 16,69% và trữ lượng carbon trong thảm mục là 1,82 tấn
C/ha chiếm 5,54% tổng trữ lượng carbon.
+ Ở tuổi 5: Tổng trữ lượng carbon là 36,38 tấn C/ha, trong đó phần trên
mặt đất là 25,32 tấn C/ha chiếm 69,60%; trữ lượng carbon dưới mặt đất là
9,32 tấn C/ha chiếm 25,36% và trữ lượng carbon trong thảm mục là 1,83 tấn
C/ha chiếm 5,04% tổng trữ lượng carbon.
+ Ở tuổi 6: Tổng trữ lượng carbon là 47,37 tấn C/ha, trong đó phần trên
mặt đất là 37,17 tấn C/ha chiếm 78,47%; trữ lượng carbon dưới mặt đất là
8,40 tấn C/ha chiếm 17,74% và trữ lượng carbon trong thảm mục là 1,79 tấn
C/ha chiếm 3,79% tổng trữ lượng carbon [16].


12

Lý Thu Huỳnh (2007) nghiên cứu về khả năng hấp thụ carbon của rừng
Mỡ, kết quả thu được tổng lượng carbon tích luỹ dao động từ 40.933 -
145.041 kg/ha; trong đó chủ yếu tập trung vào carbon trong đất trung bình là
59%, tầng cây gỗ 30%, vật rơi rụng 4% và cây bụi thảm tươi là 2% [6].
Phạm Tuấn Anh (2007) Nghiên cứu về năng lực hấp thụ CO
2
của rừng
tự nhiên lá rộng thường xanh ở Đăk Nông cho kết quả: Lượng tích luỹ CO
2

hàng năm từ 1,73 đến 5,18 tấn/ha/năm tuỳ theo trạng thái rừng [1].
Ngô Đình Quế (2005) 12 khi nghiên cứu, xây dựng các tiêu chí, chỉ tiêu
trồng rừng theo cơ chế phát triển sạch ở Việt Nam đã tiến hành đánh giá khả
năng hấp thụ CO
2
thực tế của một số loại rừng trồng ở Việt Nam gồm: Thông
nhựa, keo lai, Mỡ, keo lá tràm và bạch đàn Uro ở các tuổi khác nhau. Kết quả
tính toán cho thấy khả năng hấp thụ CO
2
của các lâm phần khác nhau tuỳ
thuộc vào năng suất lâm phần đó ở các tuổi nhất định. Để tích luỹ khoảng 100
tấn CO
2
/ha Thông nhựa phải đến tuổi 16 - 17, Thông mã vĩ và Thông ba lá ở
tuổi 10, Keo lai 4 - 5 tuổi, Keo tai tượng 5 - 6 tuổi, Bạch đàn Uro 4 - 5 tuổi.
Kết quả này là rất quan trọng nhằm làm cơ sở cho việc quy hoạch vùng trồng,
xây dựng các dự án trồng rừng theo cơ chế phát triển sạch (CDM). Tác giả đã

lập phương trình tương quan hồi quy - tuyến tính giữa các yếu tố lượng CO
2

hấp thụ hàng năm với năng suất gỗ và năng suất sinh học. Từ đó tính ra được
khả năng hấp thụ CO
2
thực tế ở nước ta đối với 5 loài cây trên.
Ngô Đình Quế (2006) cho biết, với tổng diện tích là 123,95 ha sau khi
trồng Keo lai 3 tuổi, Quế 17 tuổi, Thông ba lá 17 tuổi, Keo lá tràm 12 tuổi thì
sau khi trừ đi tổng lượng carbon của đường làm cơ sở, lượng carbon thực tế
thu được qua việc trồng rừng theo dự án CDM là 7.553,6 tấn carbon hoặc
27.721,9 tấn CO
2
[14].

Nguyễn Ngọc Lung và Nguyễn Tường Vân (2004) đã sử dụng công
thức tổng quát của quá trình quang hợp để tính ra hệ số chuyển đổi từ sinh

13

khối khô sang CO
2
đã hấp thụ là 1,630/1. Căn cứ vào biểu quá trình sinh
trưởng và biểu Biomass các tác giả tính được 1 ha rừng Thông 60 tuổi ở cấp
đất III chứa đựng 707,75 tấn CO
2
[8].
Các tác giả thiết lập mối quan hệ giữa lượng carbon tích luỹ của rừng
với các nhân tố điều tra cơ bản như đường kính (D
1.3

), chiều cao vút ngọn
(H
vn
), mật độ (N), như Nguyễn Văn Dũng (2005) 2 đã xây dựng quan hệ
cho 2 loài Thông mã vĩ và Keo lá tràm; Ngô Đình Quế (2005) 13 đã xây dựng
mối quan hệ cho các loài Thông nhựa, Keo lai, Keo tai tượng, Keo lá tràm,
Bạch đàn Uro; Vũ Tấn Phương (2006) xây dựng các phương trình quan hệ
Keo lai, Keo tai tượng, Keo lá tràm, Bạch đàn Urophylla và Quế 12. Đây là
những cơ sở quan trọng cho việc xác định nhanh lượng carbon tích luỹ của
rừng trồng nước ta thông qua điều tra một số chỉ tiêu đơn giản.
Khả năng hấp thụ của rừng tự nhiên cũng được quan tâm nghiên cứu.
Vũ Tấn Phương (2006) đã nghiên cứu trữ lượng carbon theo các trạng thái
rừng, kết quả cho thấy rừng giàu có tổng trữ lượng carbon là 694,9 - 733,9 tấn
CO
2
/ha, rừng trung bình 539,6 - 577,8 tấn CO
2
/ha, rừng nghèo 387,0 - 478,9
tấn CO
2
/ha, rừng phục hồi 164,9 - 330,5 tấn CO
2
/ha và rừng tre nứa là 116,5 -
277,1 tấn CO
2
/ha [12].
Theo Hoàng Xuân Tý (2004), nếu tăng trưởng rừng đạt 15m
3
/ha/năm,
tổng sinh khối tươi và chất hữu cơ của rừng sẽ đạt được xấp xỉ 10 tấn/ha/năm

tương đương với 15 tấn CO
2
/ha/năm, với giá thương mại CO
2
tháng 4/2004
biến động từ 3 - 5 USD/tấn CO
2
, thì một ha rừng như vậy có thể đem 45 - 75
USD (tương đương 675.000 - 1.120.000 VNĐ/ năm) [22].
Nguyễn Thanh Tiến (2012) nghiên cứu khả năng hấp thụ CO
2
của trạng
thái rừng thứ sinh phục hồi tự nhiên sau khai thác kiệt tại tỉnh Thái Nguyên đã
xác định được tổng lượng CO
2
hấp thụ của rừng IIb tại Thái Nguyên dao động
từ 383,68 - 505,87 tấn CO
2
/ha, trung bình 460,69 tấn CO
2
/ha (trong đó lượng

14

CO
2
hấp thụ tập trung chủ yếu ở tầng đất dưới tán rừng là 322,83 tấn/ha, tầng
cây cao 106,91 tấn/ha, tầng cây dưới tán 15,6 tấn/ha và vật rơi rụng là 15,34
tấn/ha) [25].
2.3. Phương pháp xác định sinh khối và xác định CO

2
trong sinh khối
2.3.1. Phương pháp xác định sinh khối
Phương pháp xác định có ý nghĩa rất quan trọng khi nghiên cứu về sinh
khối, vì nó liên quan đến độ chính xác của công trình nghiên cứu. Tùy từng
tác giả với những điều kiện khác nhau mà sử dụng các phương pháp xác định
sinh khối khác nhau, trong đó có thể kể đến một số tác giả chính như sau:
• Một số tác giả như Transnean (1926), Huber (Đức, 1952),
Monteith (Anh, 1960 - 1962), Lemon (Mỹ, 1960 - 1987), Innone (Nhật, 1965 -
1968), … đã dùng phương pháp dioxit carbon để xác định sinh khối. Theo đó
sinh khối được đánh giá bằng cách xác định tốc độ đồng hóa CO
2
.
• Aruga và Maidi (1963) đưa ra phương pháp “Chlorophyll” để xác
định sinh khối thông qua hàm lượng Chlorophyll trên một đơn vị diện tích
mặt đất. Đây là chỉ tiêu biểu thị khả năng của hệ sinh thái hấp thụ các tia bức
xạ hoạt động quang tổng hợp.
• Edmonton (1968) đề xướng phương pháp Oxygen nhằm định
lượng oxygen tạo ra trong quá trình quang hợp của thực vật màu xanh. Từ đó
tính ra được năng suất và sinh khối rừng.
• Schumarcher, Spurr, Prodan, Alder, Abadie: đã sử dụng mô hình
toán học để mô phỏng sinh khối, năng suất rừng thông qua một số nhân tố
điều tra như: đường kính, chiều cao, cấp tuổi, mật độ…
• Whitaker (1961, 1966), Mark (1971) cho rằng “số đo năng suất
chính là số đo tăng trưởng, tích lũy sinh khối ở cơ thể thực vật trong quần xã”
• Newbuold (1967) đề nghị phương pháp “cây mẫu” để nghiên cứu
sinh khối và năng suất của quần xã từ các ô tiêu chuẩn.

15


• Whittaker (1966), Tritton và Hornbeck (1982) cho rằng sinh khối
rừng có thể xác định nhanh chóng dựa vào mối liên hệ giữa sinh khối với kích
thước của cây hoặc từng bộ phận cây theo dạng hàm toán học nào đó. Phương
pháp này đã được sử dụng phổ biến ở Bắc Mỹ và Châu Âu.
• Bộ phận cây bụi là những cây tầng dưới của tán rừng đóng góp một
phần quan trọng trong tổng sinh khối rừng. Có nhiều phương pháp để ước tính
sinh khối cho bộ phận này, các phương pháp bao gồm: (1) lấy mẫu toàn bộ
cây, (2) phương pháp kẻ theo đường, (3) phương pháp mục trắc, (4) phương
pháp lấy mẫu kép sử dụng tương quan (Catchpole và Wheeler, 1992).
- Burton và Barner (1998) đã đưa ra phương pháp xác định sinh khối
dựa vào mối liên hệ giữa sinh khối với kích thước của cây hoặc của từng bộ
phận cây theo dạng hàm toán học (thường áp dụng cho việc xác định sinh
khối của bộ phận trên mặt đất).
- Catchpole và Wecler (1992) đã đưa ra một số phương pháp ước tính
sinh khối cho cây bụi và cây tầng dưới như lấy mẫu toàn bộ cây, phương pháp
kẻ theo đường, phương pháp mục trắc và phương pháp lấy mẫu kép sử dụng
tương quan.
- Mekenzie (2001) đã đưa ra phương pháp lấy mẫu rễ để xác định sinh
khối [32].
2.3.2. Phương pháp xác định các bon trong sinh khối
Carbon được xác định thông qua việc tính toán sự thu nhận và điều hòa
CO
2
và O
2
trong khí quyển của thực vật bằng cách phân tích hàm lượng hóa
học của carbon, hydro, oxy, nitơ và tro trong 1 tấn chất khô.
Để tạo được 510,4 kg carbon, cây rừng cần phải hấp thụ 1 lượng CO
2


được xác định theo phương trình hóa học sau:
CO
2
= C + O
2
= 510,4 + (510,4 * 2,67) = 1873,17kg

16

Tương tự, trong quá trình hình thành nên 61,9 kg Hydro, cây rừng sản
xuất 1 lượng ôxy là:
H
2
O - H
2
+ 1/2 O
2
= 61,9 + (61,9*8) = 557,10 kg
Như vậy để tạo thành 1 tấn sinh khối khô tuyệt đối, cây rừng đã sử
dụng khoảng 1873,17kg CO
2
và thải vào khí quyển 1.449,97kg O
2
. Vậy, dựa
vào đường carbon trong sinh khối thực vật, chúng ta xác định được lượng
CO
2
mà cây hấp thụ được trong không khí.
Xác định trữ lượng carbon bằng cách sử dụng hệ số mặc định về trữ
lượng cacbon trong sinh khối khô là 0,5 (IPCC, 2005) và lượng carbon tương

đương theo hệ số quy đổi 1C = 3,67 CO
2
2.4. Khái quát vấn đề nghiên cứu
Xác định được tổng trữ lượng các bon tích lũy của các trạng thái rừng
Keo trồng tại xã Tân Thái huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên.
Khả năng tích lũy carbon của rừng được đánh giá qua sinh khối mà rừng
đạt được. Sinh khối rừng được định nghĩa là tổng khối lượng khô kiệt của rừng
trên một đơn vị diện tích (thường tính bằng tấn/ha). Sinh khối của rừng thường
bao gồm các bộ phận: sinh khối trên mặt đất (gồm sinh khối cây sống, sinh khối
thảm mục, sinh khối cây chết) và sinh khối dưới mặt đất (là sinh khối rễ) (Vũ Tấn
Phương, 2009)[12].
2.5. Kết luận chung
Trên đây là một vài nét cơ bản về các công trình nghiên cứu về tích lũy
carbon trong và ngoài nước. Thông qua các công trình nghiên cứu của các nhà
khoa học ta có thể nhận thấy lĩnh vực nghiên cứu trữ lượng carbon, động thái hấp
thụ carbon của rừng còn rất mới và rất cần sự quan tâm của các nhà khoa học.
Việc định lượng carbon mà rừng hấp thụ là một vấn đề phức tạp, liên
quan đến nhiều vấn đề nội tại của thực vật, vì vậy phần lớn các nghiên cứu
mới chỉ tập trung và xác định lượng các bon tích lũy tại thời điểm nghiên cứu.

×