Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

nghiên cứu đặc điểm của một số trạng thái thảm thực vật thứ sinh tại xã ký phú, huyện đại từ, tỉnh thái nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (980.53 KB, 105 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
000



NGUYỄN VĂN TƢỜNG



NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM CỦA MỘT SỐ TRẠNG THÁI THẢM
THỰC VẬT THỨ SINH TẠI XÃ KÝ PHÖ, HUYỆN ĐẠI TỪ,
TỈNH THÁI NGUYÊN





LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC







THÁI NGUYÊN – 2011
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
000



NGUYỄN VĂN TƢỜNG



NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM CỦA MỘT SỐ TRẠNG THÁI THẢM
THỰC VẬT THỨ SINH TẠI XÃ KÝ PHÖ, HUYỆN ĐẠI TỪ,
TỈNH THÁI NGUYÊN

Chuyên ngành : Sinh thái học
Mã số : 60.42.60.


LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC



Ngƣời hƣớng dẫn khoa học : PGS.TS. LÊ NGỌC CÔNG



THÁI NGUYÊN – 2011


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Các số liệu, kết
quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa được ai công bố trong
bất cứ công trình nào khác. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Tác giả


Nguyễn Văn Tƣờng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


LỜI CẢM ƠN

Trước tiên tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất tới PGS. TS Lê
Ngọc Công - Người thầy đã tận tình hướng dẫn, truyền đạt kiến thức và kinh
nghiệm quý báu để tôi có thể hoàn thành được luận văn này.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến các thầy cô giáo Khoa Sinh-
KTNN, Khoa Sau Đại học – Trường Đại học Sư phạm đã giúp đỡ tôi trong
suốt quá trình học tập và nghiên cứu tại trường.
Tôi xin chân thành cảm ơn cán bộ và nhân dân xã Ký Phú, huyện Đại
Từ đã nhiệt tình giúp đỡ và cung cấp những tài liệu quan trọng. Qua đây, tôi
cũng gửi lời cảm ơn chân thành tới Trường THPT Sơn Nam, Sở Giáo dục và
Đào tạo tỉnh Tuyên Quang đã tạo mọi điều kiện thuận lợi và giúp đỡ tôi trong
thời gian học cao học.
Cuối cùng, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới toàn thể gia đình, bạn bè và
đồng nghiệp đã luôn cổ vũ, động viên trong suốt thời gian qua.

Trong quá trình thực hiện luận văn do còn hạn chế về thời gian cũng
như trình độ chuyên môn nên không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong
nhận được những ý kiến quý báu của các thầy cô giáo, các nhà khoa học, bạn
bè và đồng nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, ngày 10 tháng 8 năm 2011
Tác giả

Nguyễn Văn Tƣờng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Mục tiêu nghiên cứu 2
3. Giới hạn nghiên cứu 2
4. Đóng góp mới của luận văn 3
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 4
1.1. Khái niệm về thảm thực vật 4
1.2. Những nghiên cứu về thảm thực vật và hệ thực vật trên thế giới và Việt
Nam 5
1.2.1. Trên thế giới 5
1.2.1.1. Những nghiên cứu về thảm thực vật 5
1.2.1.2. Những nghiên cứu về hệ thực vật 6
1.2.1.3. Những nghiên cứu về thành phần loài 8
1.2.1.4. Những nghiên cứu về thành phần dạng sống 9
1.2.1.5. Những nghiên cứu về tái sinh rừng 11
1.2.2. Những nghiên cứu ở Việt Nam 15

1.2.2.1. Những nghiên cứu về thảm thực vật 15
1.2.2.2. Những nghiên cứu về hệ thực vật 17
1.2.2.3. Những nghiên cứu về thành phần loài 18
1.2.2.4. Những nghiên cứu về thành phần dạng sống 21
1.2.2.5. Những nghiên cứu về tái sinh rừng 23
1.2.2.6. Những nghiên cứu về thảm thực vật, hệ thực vật ở Thái Nguyên và
khu vực nghiên cứu 27
Chƣơng 2: ĐỐI TƢỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU 29
2.1. Đối tượng và nội dung nghiên cứu 29
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu 29
2.1.2. Nội dung nghiên cứu 29

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2.1.2.1. Các trạng thái đặc trưng của TTV thứ sinh tại KVNC. 29
2.1.2.2. Đặc điểm của các trạng thái TTV thứ sinh tại KVNC. 29
2.1.2.3. Đặc điểm tái sinh tự nhiên trong các trạng thái TTV thứ sinh tại KVNC.29
2.1.2.4. Đánh giá năng lực tái sinh và khả năng phục hồi tự nhiên của các
trạng thái thảm thực vật thứ sinh tại KVNC. 29
2.1.2.5. Đề xuất một số biện pháp lâm sinh nhằm phục hồi thảm thực vật
rừng. 29
2.2. Phương pháp nghiên cứu 29
2.2.1. Phương pháp tuyến điều tra và ô tiêu chuẩn 29
2.2.2. Phương pháp thu thập số liệu 31
2.2.3. Phương pháp phân tích mẫu thực vật 33
2.2.4. Phương pháp xử lý số liệu 33
Chƣơng 3: ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN XÃ HỘI VÙNG NGHIÊN CỨU 34
3.1. Điều kiện tự nhiên vùng nghiên cứu 34
3.1.1. Vị trí địa lý, ranh giới 34

3.1.2. Địa hình 34
3.1.3. Đất đai 35
3.1.4. Khí hậu, thuỷ văn 35
3.1.5. Tài nguyên khoáng sản 36
3.1.6. Tài nguyên rừng 38
3.2. Điều kiện xã hội vùng nghiên cứu 38
3.2.1. Dân số, dân tộc 38
3.2.2. Hoạt động nông lâm nghiệp 39
3.2.3. Giao thông, thuỷ lợi 40
3.2.4. Văn hoá, giáo dục, y tế 41
3.2.5. Điện, nước sạch 41
Chƣơng 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 42
4.1. Các trạng thái đặc trưng của thảm thực vật thứ sinh tại KVNC 42
4.2. Đặc điểm của các trạng thái thảm thực vật thứ sinh tại KVNC 42
4.2.1. Sự phân bố các taxon thực vật trong các trạng thái nghiên cứu 42
4.2.2. Đặc điểm thành phần loài thực vật trong các trạng thái nghiên cứu 46

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4.2.2.1. Trạng thái rừng thứ sinh 46
4.2.2.2. Trạng thái thảm cây bụi 48
4.2.2.3. Trạng thái thảm cỏ 51
4.2.3. Đặc điểm thành phần dạng sống trong các trạng thái nghiên cứu 52
4.2.3.1. Trạng thái rừng thứ sinh 55
4.2.3.2. Trạng thái thảm cây bụi 57
4.2.3.3. Trạng thái thảm cỏ 58
4.3. Đặc điểm tái sinh tự nhiên trong các trạng thái thảm thực vật thứ sinh tại
KVNC 59
4.3.1. Đặc điểm cấu trúc tổ thành, mật độ cây tái sinh 60
4.3.1.1. Trạng thái rừng thứ sinh. 61

4.3.1.2. Trạng thái thảm cây bụi 61
4.3.1.3. Trạng thái thảm cỏ 62
4.3.2. Chất lượng và nguồn gốc cây tái sinh 62
4.3.3. Phân bố cây tái sinh theo cấp chiều cao 64
4.3.4. Phân bố cây theo mặt phẳng nằm ngang 65
4.4. Đánh giá năng lực tái sinh và khả năng phục hồi tự nhiên của các trạng
thái thảm thực vật thứ sinh tại KVNC 67
4.4.1. Năng lực tái sinh và khả năng phục hồi thảm thực vật 67
4.4.2. Xu hướng biến đổi của các trạng thái TTV trong KVNC 68
4.5. Đề xuất một số biện pháp lâm sinh phục hồi thảm thực vật 68
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 70
TÀI LIỆU THAM KHẢO 72


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

DANH MỤC CÁC BẢNG VÀ HÌNH

Bảng 3.1. Số hộ, số khẩu và các dân tộc trên địa bàn xã Ký Phú 39
Bảng 4.1. Số lượng và tỷ lệ các taxon thực vật ở KVNC 43
Bảng 4.2. Số lượng và tỷ lệ (%) các họ, chi, loài trong các trạng thái 44
Bảng 4.3 Thành phần dạng sống thực vật trong khu vực nghiên cứu 53
Bảng 4.4 Thành phần dạng sống trong các trạng thái thảm thực vật 54
Bảng 4.5. Cấu trúc tổ thành, mật độ cây tái sinh ở ba TTV 60
Bảng 4.6. Chất lượng và nguồn gốc cây tái sinh ở KVNC 63
Bảng 4.7. Mật độ cây tái sinh theo cấp chiều cao ở trạng thái TTV 64
Bảng 4.8. - Phân bố cây theo mặt phẳng nằm ngang ở ba TTV 66
Hình 2.1. Sơ đồ bố trí OTC và ODB ở các trạng thái TTV 31
Hình 4.1. Biểu đồ phân bố của các bậc taxon ở KVNC 43
Hình 4.2. Biểu đồ tỷ lệ các loài, chi, họ trong các trạng thái TTV ở KVNC . 45

Hình 4.3 .Biểu đồ thành phần dạng sống trong khu vực nghiên cứu 53
Hình 4.4. Biểu đồ sự phân bố dạng sống thực vật trong các trạng thái TTV . 54
Hình 4.5. Biểu đồ phổ dạng sống thực vật trong các trạng thái nghiên cứu. 55
Hình 4.6. Biểu đồ phân bố số cây tái sinh theo cấp chiều cao ở ba trạng thái TTV 65

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Viết tắt

Viết đầy đủ
KVNC
TTV
Khu vực nghiên cứu
Thảm thực vật
ODB

Ô dạng bản
OTC

Ô tiêu chuẩn
TĐT

Tuyến điều tra
TB

Trung bình
SĐVN


Sách đỏ Việt Nam
IUCN


The International Union for Conservation of nature and
Natural Resources – Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên và Tài
nguyên thiên nhiên Quốc tế
PTNN

Phát triển nông thôn
Nxb

Nhà xuất bản
H
VN

Chiều cao vút ngọn


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

1




MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Rừng là nguồn tài nguyên thiên nhiên vô cùng quí giá. Rừng có vai trò
quan trọng trong việc bảo vệ đất chống xói mòn lũ lụt, giữ cân bằng sinh thái

và sự phát triển bền vững trên trái đất. Bên cạnh đó, rừng còn là nơi cung cấp
trữ lượng gỗ lớn, các loài cây thuốc quí và những lâm sản có giá trị khác nữa.
Xuất phát từ những lợi ích to lớn mà rừng đem lại, chúng ta cần phải kết hợp
giữa khai thác hợp lý, bảo vệ và phục hồi nguồn tài nguyên quí giá này.
Theo thống kê của Liên Hợp Quốc, hàng năm trên thế giới có 11
triệu ha rừng bị phá huỷ, riêng khu vực Châu Á Thái Bình Dương hàng
năm có 1,8 triệu ha rừng bị phá mất, tương đương mỗi ngày mất đi 5000
ha rừng nhiệt đới. Ở Việt Nam, trong vòng 50 năm qua, diện tích rừng bị
suy giảm nghiêm trọng. Năm 1943 độ che phủ rừng là 43%, đến năm 1993
chỉ còn 26%. Mặc dù năm 1999 con số này đã tăng lên 33,2% nhưng vẫn
chưa đảm bảo mức an toàn sinh thái cho sự phát triển bền vững của nước
nhà. Chính vì vậy trong những năm gần đây Đảng và nhà nước ta hết sức
chú trọng vấn đề bảo vệ, phát triển và phục hồi rừng nói riêng và thảm
thực vật nói chung.
Phục hồi rừng là một trong những nội dung quan trọng nhất hiện nay
đối với ngành Lâm nghiệp Việt Nam cũng như của tất cả các nước nhiệt đới,
khi độ che phủ rừng giảm xuống dưới mức an toàn sinh thái không đảm bảo
được sự phát triển bền vững của đất nước.
Tuỳ theo mức độ tác động mà các nhà nghiên cứu phân thành các giải
pháp : Phục hồi tự nhiên, phục hồi bán tự nhiên hay xúc tiến tái sinh và phục
hồi nhân tạo hay trồng rừng.
Đại Từ là huyện trung du miền núi, nằm ở phía Tây Bắc của tỉnh Thái
Nguyên và nằm ở sườn Đông của dãy núi Tam Đảo, có diện tích tự nhiên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2
57.790 ha, trong đó diện tích đất lâm nghiệp là 28.021 ha với diện tích rừng tự
nhiên 16.021 ha, rừng trồng 11.999 ha.
Khu vực nghiên cứu là xã Ký Phú nằm ở phía Nam huyện Đại Từ với

diện tích đất tự nhiên 1.949,62 ha trong đó có 696,4 ha là đất lâm nghiệp. Đây
là một xã có nhiều rừng của huyện Đại Từ, đặc biệt là các trạng thái TTV thứ
sinh. Vì vậy chúng tôi chọn đề tài: “Nghiên cứu đặc điểm của một số trạng
thái thảm thực vật thứ sinh tại xã Ký Phú, huyện Đại Từ, tỉnh Thái
Nguyên” nhằm nghiên cứu thành phần loài, dạng sống thực vật và quá trình
tái sinh tự nhiên của một số trạng thái thảm thực vật làm cơ sở khoa học cho
việc đề xuất giải pháp lâm sinh trong khoanh nuôi phục hồi rừng tại các tỉnh
miền núi phía Bắc nói chung và xã Ký Phú (huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên)
nói riêng.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Xác định thành phần loài, thành phần dạng sống thực vật trong các
trạng thái thảm thực vật thứ sinh trong khu vực nghiên cứu.
- Đánh giá năng lực tái sinh tự nhiên của một số trạng thái TTV làm cơ
sở khoa học cho việc đề xuất giải pháp lâm sinh thúc đẩy nhanh quá trình diễn
thế và nâng cao chất lượng rừng phục hồi.
3. Giới hạn nghiên cứu
3.1. Giới hạn về khu vực nghiên cứu
Khu vực nghiên cứu là xã Ký Phú, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, đây
là xã vùng cao nằm ở phía Tây Bắc tỉnh Thái Nguyên.
3.2. Giới hạn về đối tượng nghiên cứu
Là ba trạng thái thảm thực vật thứ sinh: Rừng thứ sinh, thảm cây bụi, thảm cỏ
tại xã Ký Phú, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên.
3.3. Giới hạn về nội dung nghiên cứu
Do điều kiện hạn chế về thời gian và kinh phí, đề tài chỉ tập trung nghiên
cứu một số đặc điểm thành phần loài, thành phần dạng sống thực vật, đặc điểm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3
tái sinh tự nhiên và khả năng phục hồi tự nhiên trong 3 trạng thái thảm thực vật

tại xã Ký Phú (rừng thứ sinh, thảm cây bụi, thảm cỏ).
4. Đóng góp mới của luận văn
- Bước đầu đã xác định được thành phần loài, thành phần dạng sống, đặc
điểm tái sinh tự nhiên, của 3 trạng thái thảm thực vật ở KVNC. Từ đó thấy
được quy luật diễn thế của thảm thực vật tại khu vực nghiên cứu.
- Đánh giá được năng lực tái sinh và khả năng phục hồi tự nhiên của ba
trạng thái TTV và đề xuất một số biện pháp lâm sinh nhằm phục hồi thảm
thực vật rừng.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Khái niệm về thảm thực vật
Thảm thực vật (vegetation) là khái niệm rất quen thuộc, có nhiều nhà
khoa học trong và ngoài nước đưa ra các định nghĩa khác nhau. Theo
J.Schmithusen (1959) thì thảm thực vật là lớp thực bì của trái đất và các
bộ phận cấu thành khác nhau của nó. Thái Văn Trừng (1978) [49] cho
rằng thảm thực vật là các quần hệ thực vật phủ trên mặt đất như một tấm
thảm xanh. Trần Đình Lý (1998) [35] cho rằng thảm thực vật là toàn bộ
lớp phủ thực vật ở một vùng cụ thể hay toàn bộ lớp phủ thảm thực vật trên
toàn bộ bề mặt trái đất.
Như vậy thảm thực vật là một khái niệm chung chưa chỉ rõ đối tượng cụ
thể nào. Nó chỉ có ý nghĩa và giá trị cụ thể khi có định ngữ kèm theo như:
thảm thực vật cây bụi, thảm thực vật rừng ngập mặn…
Thảm thực vật thứ sinh là các trạng thái thảm thực vật xuất hiện sau khi
thảm thực vật nguyên sinh bị tác động làm thay đổi hoặc bị phá hoại. Thảm
thực vật thứ sinh thường bao gồm các trạng thái sau: thảm cỏ, thảm cây bụi,
rừng tái sinh tự nhiên ở các giai đoạn khác nhau (rừng non, rừng trưởng

thành, rừng già…). Nếu so sánh ta sẽ thấy thảm thực vật thứ sinh sẽ khác biệt
so với thảm thực vật nguyên sinh ở thành phần thực vật, cấu trúc tầng tán,
năng lực phát triển, sinh khối, hoàn cảnh rừng và nhiều yếu tố khác.
Tái sinh (Regeneration) là một thuật ngữ dùng để chỉ khả năng tự tái
tạo, hay tự hồi sinh từ mức độ tế bào đến mức độ mô, cơ quan, cá thể và
thậm chí cả một quần lạc sinh vật trong tự nhiên. Cùng với thuật ngữ này,
còn có nhiều thuật ngữ khác đang được sử dụng rộng rãi hiện nay. Các nhà
khoa học Rordan, Peter và Allan (1998) sử dụng thuật ngữ: “Restoration” để
diễn tả sự hoàn trả, sự lặp lại của toàn bộ quần xã sinh vật giống như nó đã
xuất hiện trong tự nhiên. Schereckenbeg, Hadley và Dyer (1990) đã sử dụng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

5
thuật ngữ: “Rehabitilation” để chỉ sự phục hồi lại bằng biện pháp quản lý,
điều chế rừng bị thoái hóa….
Tái sinh rừng (Forest regeneration) là một thuật ngữ được nhiều nhà
khoa học sử dụng để mô tả sự tái tạo (phục hồi) của lớp cây con dưới tán
rừng. Căn cứ vào nguồn sống, người ta chia 3 mức độ tái sinh như sau:
- Tái sinh nhân tạo: nguồn giống do con người tạo ra bằng cách gieo giống
trực tiếp.
- Tái sinh bán nhân tạo: nguồn giống được con người tạo ra bằng cách trồng
bổ sung các cây giống, sau đó chính cây giống sẽ là tạo ra nguồn hạt cho quá
trình tái sinh.
- Tái sinh tự nhiên: nguồn hạt (nguồn giống) hoàn toàn tự nhiên. Theo Phùng
Ngọc Lan (1986) [28], tái sinh được coi là một quá trình sinh học mang tính đặc
thù của hệ sinh thái rừng. Biểu hiện đặc trưng của tái sinh rừng là sự xuất hiện một
thế hệ cây con của những loài cây gỗ ở nơi còn hoàn cảnh rừng. Theo ông vai trò
lịch sử của thế hệ cây con là thay thế thế hệ cây gỗ già cỗi. Vì vậy, tái sinh rừng
hiểu theo nghĩa hẹp là quá trình phục hồi lại thành phần cơ bản của rừng, chủ yếu

là tầng cây gỗ. Ông cũng khẳng định tái sinh rừng có thể hiểu theo nghĩa rộng là
sự tái sinh của một hệ sinh thái rừng.
Như vậy, tái sinh rừng là một khái niệm chỉ khả năng và quá trình thiết lập
lớp cây con dưới tán rừng. Đặc điểm cơ bản của quá trình này là lớp cây con đều
có nguồn gốc từ hạt và chồi có sẵn, kể cả trong trường hợp tái sinh nhân tạo thì
cây con cũng phải mọc từ nguồn hạt do con người gieo trước đó. Nó được phân
biệt với các khái niệm khác (như trồng rừng) là sự thiết lập lớp cây con bằng
việc trồng cây giống đã được chuẩn bị trong vườn ươm. Vì đặc trưng đó nên tái
sinh là một quá trình sinh học mang tính đặc thù của các hệ sinh thái rừng.
1.2. Những nghiên cứu về thảm thực vật và hệ thực vật trên thế giới và Việt
Nam
1.2.1. Trên thế giới
1.2.1.1. Những nghiên cứu về thảm thực vật

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

6
Trên thế giới, những công trình nghiên cứu về thảm thực vật đã được
công bố nhiều, trong đó tiêu biểu là các tác giả sau đây:
Theo Thái Văn Trừng (1978) [49], hệ thống phân loại đầu tiên về thảm thực
vật rừng nhiệt đới là của A.F.Schimper (1898), ông đã chia thảm thực vật thành
3 quần hệ: quần hệ khí hậu, quần hệ thổ nhưỡng và quần hệ vùng núi.
H.G. Champion (1936) khi nghiên cứu các kiểu rừng Ấn Độ - Miến Điện
đã phân chia 4 kiểu thảm thực vật lớn theo nhiệt độ đó là: nhiệt đới, á nhiệt
đới, ôn đới và núi cao [49].
J. Beard (1938) đưa ra hệ thống phân loại gồm 3 cấp (quần hợp, quần hệ
và loạt quần hệ). Ông cho rằng rừng nhiệt đới có 5 loạt quần hệ: loạt quần hệ
rừng xanh từng mùa; loạt quần hệ khô thường xanh; loạt quần hệ miền núi;
loạt quần hệ ngập từng mùa và loạt quần hệ ngập quanh năm [49].
Maurand (1943) [54] nghiên cứu về thảm thực vật Đông Dương đã chia

thảm thực vật Đông Dương thành 3 vùng: Bắc Đông Dương, Nam Đông
Dương và vùng trung gian. Đồng thời ông đã liệt kê 8 kiểu quần lạc trong
các vùng đó.
Tuy nhiên, nhược điểm lớn nhất của các hệ thống phân loại thảm thực vật
nói trên là không thấy rõ mối quan hệ nhân quả giữa các yếu tố sinh thái với
thảm thực vật, hoặc là không làm nổi bật mối quan hệ qua lại giữa các nhân tố
sinh thái với nhau.
Năm 1973, UNESCO đã công bố một khung phân loại thảm thực vật thế
giới dựa trên nguyên tắc ngoại mạo và cấu trúc, chia thảm thực vật thế giới
thành 5 lớp quần hệ (Lớp quần hệ rừng kín, lớp quần hệ rừng thưa, lớp quần
hệ cây bụi, lớp quần hệ cây bụi lùn, lớp quần hệ cây thảo) [14].
1.2.1.2. Những nghiên cứu về hệ thực vật
Trên thế giới, việc nghiên cứu về hệ thực vật đã được tiến hành từ rất
sớm.Tổng số loài thực vật hiện nay trên thế giới có nhiều biến động và chưa
cụ thể, tuỳ từng tác giả do chưa có sự nghiên cứu và điều tra đầy đủ. Các nhà

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

7
thực vật học dự đoán số loài thực vật bậc cao hiện có trên thế giới vào khoảng
500.000 – 600.000 loài.
Năm 1965, Al. A. Phêđôrốp đã dự đoán trên thế giới có khoảng: 300.000
loài thực vật hạt kín; 5.000 – 7.000 loài thực vật hạt trần; 6.000 – 10.000 loài
quyết thực vật; 14.000 – 18.000 loài rêu; 19.000 – 40.000 loài tảo; 15.000 –
20.000 loài địa y; 85.000 – 100.000 loài nấm và các loài thực vật bậc thấp khác.
Năm 1962, G. N. Slucop đã đưa ra số lượng các loài thực vật hạt kín
phân bố ở các châu lục như sau:
Châu Mỹ có khoảng 97.000 loài trong đó: Hoa Kỳ + Canada: 25.000 loài;
Mehico + Trung Mỹ: 17.000 loài; Nam Mỹ: 56.000 loài; Đất lửa + Nam cực:
1.000 loài.

Châu Âu có khoảng 15.000 loài trong đó: Trung và Bắc Âu: 5.000 loài;
Nam Âu, vùng Ban căng và Capcasơ: 10.000 loài.
Châu Phi có khoảng 40.500 loài trong đó: các vùng nhiệt đới ẩm: 15.500
loài; Madagasca: 7.000 loài; Nam Phi: 6.500 loài; Bắc Phi, Angieri, Ma Rốc
và các vùng phụ cận khác: 4.500 loài; Abitxini: 4.000 loài; Tuynidi và Ai cập:
2.000 loài; Xomali và Eritrea: 1.000 loài.
Châu Á có khoảng 125.000 loài trong đó: Đông Nam Á: 80.000 loài; các
khu vực nhiệt đới Ấn Độ: 26.000 loài; Tiểu Á: 8.000 loài; Viễn đông thuộc
Liên bang Nga, Triều Tiên, Đông bắc Trung Quốc: 6.000 loài; Xibêria thuộc
Liên bang Nga, Mông Cổ và Trung Á: 5.000 loài.
Châu Úc có khoảng 21.000 loài trong đó: Đông Bắc Úc: 6.000 loài; Tây
Nam Úc: 5.500 loài; Lục địa Úc: 5.000 loài; Taxman và Tây tây lan: 4.500
loài [Theo Lê Trọng Cúc, 2002]
Lecointre và Guyader (2001) [17] đã đưa ra bảng đánh giá số loài thực
vật bậc cao được mô tả trên toàn thế giới được trình bày ở bảng 1.1.
Qua số liệu ở bảng 1.1 có thể thấy thực vật ngành Ngọc Lan có số loài
được mô tả nhiều nhất trên thế giới.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

8


Bảng 1.1. Bảng đánh giá số loài thực vật được mô tả trên toàn thế giới
Bậc phân loại
Tên thường gọi
Số loài mô tả
% số loài đã được mô tả
Fungi

Nấm
100.800
5,80
Bryophyta
Ngành Rêu
15.000
0,90
Lycopodiophyta
Ngành Thông đất
1.275
0,07
Polypodiophyta
Ngành Dương xỉ
9.500
0,50
Pinophyta
Ngành Thông
601
0,03
Magnoliophyta
Ngành Ngọc lan
233.885
13,40

1.2.1.3. Những nghiên cứu về thành phần loài
Những nghiên cứu về thành phần loài là một trong những nội dung được
tiến hành từ lâu trên thế giới. Ở Liên Xô (cũ) có nhiều công trình nghiên cứu
của Vưsotxki (1915), Alokhin (1904), Craxit (1927), Sennhicốp (1933),
Creepva (1978)… Nói chung theo các tác giả thì mỗi vùng sinh thái sẽ hình
thành thảm thực vật đặc trưng, sự khác biệt của thảm này so với thảm khác

biểu thị bởi thành phần loài, thành phần dạng sống, cấu trúc và động thái của
nó. Vì vậy, việc nghiên cứu thành phần loài, thành phần dạng sống là chỉ tiêu
quan trọng trong phân loại loại hình thảm thực vật.
Ramakrishman (1981 – 1992) nghiên cứu thảm thực vật sau nương rẫy ở
vùng Tây bắc Ấn Độ đã khẳng định: chỉ số đa dạng loài rất thấp, chỉ số loài
ưu thế đạt cao nhất ở pha đầu của quá trình diễn thế và giảm dần theo thời
gian bỏ hoá.
Long chun và cộng sự (1993), nghiên cứu về đa dạng thực vật ở hệ sinh
thái nương rẫy tại Xishuang Bana tỉnh Vân Nam Trung Quốc đã nhận xét: khi
nương rẫy bỏ hoá được 3 năm thì có 17 họ, 21 chi, 21 loài; bỏ hoá 19 năm thì
có 60 họ, 134 chi và 167 loài .

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

9
Từ những dẫn liệu trên ta thấy những nghiên cứu về thành phần loài của
các tác giả trên thế giới đều tập trung nghiên cứu và đánh giá thành phần loài
ở một vùng và khu vực cụ thể, phản ánh hệ thực vật đặc trưng trong mối
tương quan với điều kiện địa hình và khí hậu. Tuy vậy, số lượng các công
trình nghiên cứu còn chưa nhiều, cần có những nghiên cứu cụ thể hơn rộng rãi
hơn nhằm mục đích có thể đánh giá chính xác thành phần loài thực vật đặc
trưng của một khu vực hoặc một quốc gia.
1.2.1.4. Những nghiên cứu về thành phần dạng sống
Dạng sống của thực vật là sự biểu hiện về hình thái cấu trúc cơ thể thực
vật thích nghi với điều kiện môi trường của nó, nên đã được nhiều nhà khoa
học quan tâm nghiên cứu từ rất sớm.
I. K. Patsoxki (1915) chia thảm thực vật thành 6 nhóm: thực vật thường
xanh; thực vật rụng lá vào thời kỳ bất lợi trong năm; thực vật tàn lụi phần trên
mặt đất trong thời kỳ bất lợi; thực vật tàn lụi vào thời kỳ bất lợi; thực vật có
thời kỳ sinh trưởng và phát triển ngắn; thực vật có thời kỳ sinh trưởng và phát

triển lâu năm. G. N. Vưxôxki (1915) chia thực vật thảo nguyên làm 2 lớp: lớp
cây nhiều năm và lớp cây hàng năm .
Braun – Blanquet (1951) đánh giá cách mọc của thực vật dựa vào tính
liên tục hay đơn độc của loài đã chia thành 5 thang: mọc lẻ; mọc thành vạt;
mọc thành dải nhỏ; mọc thành vạt lớn và mọc thành khóm lớn [2].
Cho đến nay, khi phân tích bản chất sinh thái của mỗi hệ thực vật, nhất
là hệ thực vật của các vùng ôn đới, người ta vẫn dùng hệ thống của Raunkiaer
(1934) [8] để sắp xếp các loài của hệ thực vật nghiên cứu vào một trong các
dạng sống đó. Cơ sở phân chia dạng sống của ông là sự khác nhau về khả
năng thích nghi của thực vật qua thời gian bất lợi trong năm. Từ tổ hợp các
dấu hiệu thích nghi, Raunkiaer chỉ chọn một dấu hiệu là vị trí của chồi nằm ở
đâu trên mặt đất trong suốt thời gian bất lợi trong năm.
Raunkiaer đã chia 5 nhóm dạng sống cơ bản:
1. Phanerophytes (Ph): nhóm cây có chồi trên mặt đất

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

10
2. Chamaetophytes (Ch): nhóm cây có chồi sát mặt đất
3. Hemicryptophytes (He): nhóm cây có chồi nửa ẩn
4. Cryptophytes (Cr): nhóm cây có chồi ẩn
5. Therophytes (Th): nhóm cây sống 1 năm
Ông đã xây dựng phổ chuẩn của các dạng sống ở các vùng khác nhau
trên trái đất (SB):
SB = 46Ph + 9Ch + 26He + 6Cr + 13Th
Hệ thống phân chia dạng sống của Raunkiaer có ý nghĩa quan trọng, đảm
bảo tính khoa học, dễ áp dụng. Phân chia dạng sống của Raunkiaer dựa trên
những đặc điểm cơ bản của thực vật, nghĩa là dựa trên đặc điểm cấu tạo,
phương thức sống của thực vật, đó là kết quả tác động tổng hợp của các yếu
tố môi trường tạo nên. Thuộc về những đặc điểm này có hình dạng ngoài của

thực vật, đặc điểm qua đông, sinh sản… Vì lẽ đó, trong nghiên cứu của mình,
tôi cũng chọn lựa cách phân chia dạng sống này của Raunkiaer.
Xêrêbriacốp (1964) đưa ra bảng phân loại dạng sống mang tính chất sinh
thái học hơn của Raunkiaer. Trong bảng phân loại này, ngoài những dấu hiệu
hình thái sinh thái Xêrêbriacốp sử dụng cả những dấu hiệu như ra quả nhiều
lần hay một lần trong cả đời của cá thể bao gồm: ngành, kiểu, lớp và lớp phụ.
Trong bảng phân loại này không bao gồm những cây thuỷ sinh. Trong bảng
phân loại này ông còn chia ra các đơn vị nhỏ hơn là nhóm, nhóm phụ, tổ và
các dạng đặc thù.
Bảng phân loại dạng sống cây thuộc thảo đã được lập ra lần đầu tiên bởi
Canon (1911), sau đó hàng loạt bảng đã được đưa ra. Với cây thảo, đặc điểm
phần dưới đất đóng vai trò rất quan trọng trong phân chia dạng sống, nó biểu thị
mức độ khắc nghiệt khác nhau của môi trường sống, là phần sống lâu năm của
cây. Vì thế việc sử dụng phần dưới đất để làm tiêu chuẩn phân chia dạng sống sẽ
giúp cho ta đánh giá đúng hơn kiểu thảm, những đặc điểm đặc trưng của môi
trường [8].


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11
1.2.1.5. Những nghiên cứu về tái sinh rừng
Tái sinh rừng là một quá trình sinh học mang tính đặc thù của hệ sinh
thái rừng, biểu hiện của nó là sự xuất hiện của một thế hệ cây con của
những loài cây gỗ ở những nơi còn hoàn cảnh rừng: dưới tán rừng, chỗ
trống trong rừng, đất rừng sau khai thác, đất rừng sau nương rẫy. Vai trò
lịch sử của lớp cây con này là thay thế thế hệ cây già cỗi. Vì vậy tái sinh
từng hiểu theo nghĩa hẹp là quá trình phục hồi thành phần cơ bản của rừng,
chủ yếu là tầng cây gỗ.
Theo quan điểm của các nhà nghiên cứu thì hiệu quả tái sinh rừng được

xác định bởi mật độ, tổ thành loài cây, cấu trúc tuổi, chất lượng cây con,
đặc điểm phân bố. Sự tương đồng hay khác biệt giữa tổ thành lớp cây tái
sinh và tầng cây gỗ lớn đã được nhiều nhà khoa học quan tâm (Mibbre.ad,
1930; Richards, 1933; 1939; Aubreville, 1938; Beard, 1946; Lebrun và
Gilbert, 1954; Joné, 1955-1956; Schultz, 1960; Baur, 1964; Rollet, 1969).
Do tính chất phức tạp về tổ thành loài cây, trong đó chỉ có một số loài có
giá trị nên trong thực tiễn, người ta chỉ khảo sát những loài cây có ý nghĩa
nhất định [49].
Quá trình tái sinh tự nhiên ở rừng nhiệt đới vô cùng phức tạp và còn ít
được nghiên cứu. Phần lớn tài liệu nghiên cứu về tái sinh tự nhiên của rừng
mưa thường chỉ tập trung vào một số loài cây có giá trị kinh tế dưới điều kiện
rừng đã ít nhiều bị biến đổi. Van Steenis (1956) đã nghiên cứu hai đặc điểm
tái sinh phổ biến của rừng mưa nhiệt đới là tái sinh phân tán liên tục của các
loài cây chịu bóng và tái sinh vệt của các loài cây ưa sáng. Vấn đề tái sinh
rừng nhiệt đới được thảo luận nhiều nhất là hiệu quả các cách thức xử lý lâm
sinh liên quan đến tái sinh của các loài cây mục đích ở các kiểu rừng. Từ đó
các nhà lâm sinh học đã xây dựng thành công nhiều phương thức chặt tái sinh.
Công trình của Bernard (1954, 1959); Wyatt Smith (1961, 1963) với phương
thức rừng đều tuổi ở Mã Lai; Nicholson (1958) ở Bắc Borneo; Donis và
Maudoux (1951, 1954) với công thức đồng nhất hoá tầng trên ở Zaia; Taylor
(1954), Jones (1960) với phương thức chặt dần tái sinh dưới tán ở Nijêria và

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

12
Gana; Barnarji (1959) với phương thức chặt dần nâng cao vòm lá ở
Andamann [2].
Nội dung chi tiết các bước và hiệu quả của từng phương thức đối với tái
sinh đã được Baur (1964) [2] tổng kết trong tác phẩm: Cơ sở sinh thái học của
kinh doanh rừng mưa.

Nghiên cứu tái sinh ở rừng nhiệt đới Châu Phi, Aubreville (1938) nhận
thấy cây con của các loài cây ưu thế trong rừng mưa là rất hiếm. Aubreville
đã khái quát hoá các hiện tượng tái sinh ở rừng nhiệt đới Châu Phi để đúc kết
nên lý luận bức khảm tái sinh, nhưng phần lý giải các hiện tượng đó còn bị
hạn chế. Vì vậy lý luận của ông còn ít sức thuyết phục, chưa giúp ích cho thực
tiễn sản xuất các biện pháp kỹ thuật điều khiển tái sinh rừng theo những mục
tiêu kinh doanh đã đề ra.
Tuy nhiên, những kết quả quan sát của Davit và P.W. Richards (1933), Bơt
(1946), Sun (1960), Richards (1969) ở rừng nhiệt đới Nam Mỹ lại khác hẳn với
nhận định của A.Obrevin. Đó là hiện tượng tái sinh tại chỗ và liên tục của các
loài cây và tổ thành loài cây có khả năng giữ nguyên không đổi trong một thời
gian dài [55].
Về phương pháp điều tra tái sinh tự nhiên, nhiều tác giả đã sử dụng cách
lấy mẫu ô vuông theo hệ thống của Lowdermilk (1927), với diện tích ô đo
đếm thông thường từ 1 đến 4 m
2
. Diện tích ô đo đếm nhỏ nên thuận lợi trong
điều tra nhưng số lượng ô phải đủ lớn mới phản ánh trung thực tình hình tái
sinh rừng. Để giảm sai số trong khi thống kê tái sinh tự nhiên, Barnard (1950)
đã đề nghị một phương pháp "điều tra chẩn đoán" mà theo đó kích thước ô đo
đếm có thể thay đổi tuỳ theo giai đoạn phát triển của cây tái sinh ở các trạng
thái rừng khác nhau [55].
Những công trình nghiên cứu về phân bố tái sinh tự nhiên rừng nhiệt
đới đáng chú ý là công trình nghiên cứu của P. W. Richards (1952) [55],
Bernard Rollet (1974) tổng kết các kết quả nghiên cứu về phân bố số cây tái
sinh tự nhiên đã nhận xét: trong các ô có kích thước nhỏ (1m x 1m; 1m

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

13

x1,5m) cây tái sinh có dạng phân bố cụm, một số ít có phân bố Poison. Ở
châu Phi trên cơ sở các số liệu thu thập Taylo (1954), Barnard (1955) xác
định số cây tái sinh trong rừng nhiệt đới thiếu hụt cần thiết phải bổ sung bằng
rừng nhân tạo. Ngược lại các tác giả nghiên cứu về tái sinh tự nhiên rừng
nhiệt đới Châu Á như Bava (1954), Budowski (1956), Atinot (1965) lại nhận
định dưới tán rừng nhiệt đới nhìn chung có đủ số lượng cây tái sinh có giá trị
kinh tế, do vậy các biện pháp lâm sinh đề ra cần thiết để bảo vệ và phát triển
cây tái sinh có sẵn dưới tán rừng [10].
Đối với rừng nhiệt đới thì các nhân tố sinh thái như nhân tố ánh sáng
thông qua độ tàn che của rừng, độ ẩm của đất, kết cấu quần thụ, cây bụi, thảm
tươi là những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình tái sinh rừng, cho đến
nay đã có nhiều công trình nghiên cứu, đề cập đến vấn đề này. G.N. Baur
(1976) [2] cho rằng, sự thiếu hụt ánh sáng ảnh hưởng đến phát triển của cây
con còn đối với sự nẩy mầm và phát triển của cây mầm ảnh hưởng này không
rõ ràng và thảm cỏ, cây bụi có ảnh hưởng đến sinh trưởng của cây tái sinh. Ở
những quần tụ kín tán, thảm cỏ và cây bụi kém phát triển nhưng chúng vẫn có
ảnh hưởng đến cây tái sinh. Nhìn chung ở rừng nhiệt đới, tổ thành và mật độ
cây tái sinh thường khá lớn nhưng số lượng loài cây có giá trị kinh tế thấp
thường ít được nghiên cứu, đặc biệt là đối với tái sinh ở các trạng thái rừng
phục hồi sau nương rẫy.
Trong nghiên cứu tái sinh rừng người ta nhận thấy tầng cây cỏ và cây bụi
qua thu nhận ánh sáng, độ ẩm và các nguyên tố dinh dưỡng khoáng của tầng
đất mặt đã ảnh hưởng xấu đến cây con tái sinh của các loài cây gỗ. Những
quần tụ kín tán, đất khô và nghèo dinh dưỡng khoáng do đó thảm cỏ và thảm
cây bụi sinh trưởng kém nên ảnh hưởng của nó đến các cây gỗ tái sinh không
đáng kể. Ngược lại, những lâm phần thưa, rừng đã qua khai thác thì thảm cỏ
có điều kiện phát sinh mạnh mẽ. Trong điều kiện này chúng là nhân tố gây trở
ngại rất lớn cho tái sinh rừng (Xannikov, 1967; Vipper, 1973) [10]

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


14
Như vậy, các công trình nghiên cứu được đề cập ở trên đã phần nào làm
sáng tỏ đặc điểm tái sinh tự nhiên ở rừng nhiệt đới. Đó là cơ sở để xây dựng
các phương thức lâm sinh hợp lý.
Tái sinh tự nhiên của thảm thực vật sau nương rẫy được một số tác giả
nghiên cứu . Saldarriaga (1991) nghiên cứu tại rừng nhiệt đới ở Colombia và
Venezuela nhận xét: Sau khi bỏ hóa, số lượng loài thực vật tăng dần từ ban
đầu đến rừng thành thục. Thành phần của các loài cây trưởng thành phụ thuộc
vào tỷ lệ các loài nguyên thủy mà nó được sống sót từ thời gian đầu của quá
trình tái sinh, thời gian phục hồi khác nhau phụ thuộc vào mức độ, tần số canh
tác của khu vực đó [1]. Kết quả nghiên cứu của các tác giả Lambertetal
(1989), Warner (1991), Rouw (1991) đều cho thấy quá trình diễn thế sau
nương rẫy như sau: đầu tiên đám nương rẫy được các loài cỏ xâm chiếm,
nhưng sau một năm loài cây gỗ tiên phong được gieo giống từ vùng lân cận
hỗ trợ cho việc hình thành quần thụ các loài cây gỗ, tạo ra tiểu hoàn cảnh
thích hợp cho việc sinh trưởng của cây con. Những loài cây gỗ tiên phong
chết đi sau 5-10 năm và được thay thế dần bằng các loài cây rừng mọc chậm,
ước tính cần phải mất hàng trăm năm thì nương rẫy cũ mới chuyển thành loại
hình rừng gần với dạng nguyên sinh ban đầu.
Nghiên cứu khả năng tái sinh tự nhiên của thảm thực vật sau nương rẫy
từ 1- 20 năm ở vùng Tây Bắc Ấn Độ, Ramakrishnan (1981 – 1992) đã cho
biết chỉ số đa dạng loài rất thấp. Chỉ số loài ưu thế đạt đỉnh cao nhất ở pha
đầu của quá trình diễn thế và giảm dần theo thời gian bỏ hóa. Long Chun và
cộng sự (1993) đã nghiên cứu đa dạng thực vật ở hệ sinh thái nương rẫy tại
Xishuangbanna tỉnh Vân Nam, Trung Quốc nhận xét: tại Baka khi nương rẫy
bỏ hóa được 3 năm thì có 17 họ, 21 chi, 21 loài thực vật, bỏ hóa 19 năm thì
có 60 họ, 134 chi, 167 loài [1].
Kết quả nghiên cứu tái sinh tự nhiên của thảm thực vật rừng trên thế giới
cho chúng ta những hiểu biết các phương pháp nghiên cứu, quy luật tái sinh tự

nhiên ở một số nơi. Đặc biệt sự vận dụng các hiểu biết về quy luật tái sinh để xây

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

15
dựng các biện pháp kỹ thuật lâm sinh hợp lý nhằm quản lý tài nguyên rừng một
cách bền vững.
1.2.2. Những nghiên cứu ở Việt Nam
1.2.2.1. Những nghiên cứu về thảm thực vật
Đến nay những công trình nghiên cứu về thảm thực vật ở Việt Nam còn
ít và tản mạn. Năm 1953 ở Miền nam Việt Nam xuất hiện bảng phân loại
thảm thực vật rừng Miền nam của Maurand khi ông tổng kết về các công trình
nghiên cứu các quần thể rừng thưa của Rollet, Lý Văn Hội, Neang Sam Oil.
Bảng phân loại đầu tiên của ngành Lâm nghiệp Việt Nam về thảm thực
vật rừng ở Việt Nam là bảng phân loại của Cục điều tra và quy hoạch rừng
(1960). Theo bảng phân loại này rừng trên toàn lãnh thổ Việt Nam được chia
làm 4 loại hình lớn:
Loại I: đất đai hoang trọc, những trảng cỏ và cây bụi, trên loại này cần
phải trồng rừng.
Loại II: gồm những rừng non mới mọc, cần phải tra dặm thêm cây hoặc tỉa
thưa.
Loại III: gồm tất cả các loại hình rừng bị khai thác mạnh trở nên nghèo kiệt
tuy còn có thể khai thác lấy gỗ, trụ mỏ, củi, nhưng cần phải xúc tiến tái sinh, tu
bổ, cải tạo.
Loại IV: gồm những rừng già nguyên sinh còn nhiều nguyên liệu, chưa
bị phá hoại, cần khai thác hợp lý [49].
Phan Nguyên Hồng (1970) [21], phân chia kiểu thảm thực vật ven bờ biển
Miền bắc Việt Nam thành rừng ngập mặn, rừng gỗ ven biển và thực vật bãi cát
trống.
Trần Ngũ Phương (1970) [38] đưa ra bảng phân loại rừng ở Miền bắc

Việt Nam, chia thành 3 đai lớn theo độ cao: đai rừng nhiệt đới mưa mùa; đai
rừng á nhiệt đới mưa mùa; đai rừng á nhiệt đới mưa mùa núi cao.
Thái Văn Trừng (1978) [49] đã đưa ra 5 kiểu quần lạc lớn (quần lạc thân
gỗ kín tán; quần lạc thân gỗ thưa; quần lạc thân cỏ kín rậm; quần lạc thân cỏ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

16
thưa và những kiểu hoang mạc) và nguyên tắc đặt tên cho các thảm thực vật.
Năm 1975, trên cơ sở các điều kiện lập địa trên toàn lãnh thổ Việt Nam, tại
hội nghị thực vật học quốc tế lần thứ XII (Leningrat), ông đưa ra bảng phân
loại thảm thực vật rừng Việt Nam theo quan điểm sinh thái, đây được xem là
bảng phân loại thảm thực vật rừng ở Việt Nam phù hợp nhất theo quan điểm
sinh thái cho đến nay [58].
Phan Kế Lộc (1985) [33] dựa trên bảng phân loại của UNESCO 1973,
cũng đã xây dựng thang phân loại thảm thực vật rừng Việt Nam thành 5 lớp
quần hệ, 15 dưới lớp, 32 nhóm quần hệ và 77 quần hệ khác nhau. Nguyễn
Nghĩa Thìn (1997) [41] cũng đã áp dụng cách phân loại này trong những
nghiên cứu của ông.
Nguyễn Hải Tuất (1991) [51] nghiên cứu một số đặc trưng chủ yếu về
sinh thái của các quần thể thực vật tại vùng núi cao Ba Vì đã chia ra 3 kiểu
rừng cơ bản: kiểu rừng hỗn giao ẩm á nhiệt đới; kiểu rừng kín hỗn giao ẩm á
nhiệt đới núi cao; kiểu rừng kín hỗn giao cây hạt kín và hạt trần.
Vũ Tự Lập và cộng sự (1995) [29] cho rằng khí hậu ảnh hưởng đến sự
hình thành và phân bố các kiểu thực bì thông qua nhiệt độ và độ ẩm. Dựa vào
mối quan hệ giữa hình thái thực bì và khí hậu chia ra 15 kiểu thực bì khác
nhau: kiểu rừng rậm nhiệt đới gió mùa rụng lá; kiểu rừng rậm nhiệt đới ẩm
thường xanh; kiểu rừng rậm nhiệt đới gió mùa nửa rụng lá; kiểu rừng khô
nhiệt đới gió mùa khô rụng lá; kiểu rừng thưa nhiệt đới khô lá kim; kiểu sa
van nhiệt đới khô; kiểu truông nhiệt đới khô; kiểu rừng nhiệt đới trên đất đá

vôi; kiểu rừng nhiệt đới trên đất mặn; kiểu rừng nhiệt đới trên đất phèn; kiểu
rừng rậm á nhiệt đới ẩm lá rộng thường xanh; kiểu rừng rậm á nhiệt đới ẩm
hỗn giao; kiểu rừng thưa á nhiệt đới hơi ẩm lá kín; kiểu rừng rêu á nhiệt đới
mưa mùa; kiểu rừng lùn đỉnh cao.
Thái Văn Trừng (1998) [50] khi nghiên cứu hệ sinh thái rừng nhiệt đới
Việt Nam đã kết hợp 2 hệ thống phân loại (hệ thống phân loại lấy đặc điểm
cấu trúc ngoại mạo làm tiêu chuẩn và hệ thống phân loại thực vật dựa trên yếu

×