BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI II
NGUYỄN THỊ BÍCH HẠNH
NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT
VIẾT VỀ ĐỀ TÀI ĐỒNG TÍNH CỦA
BÙI ANH TẤN
Chuyên nghành : Lí luận văn học
Mã số: 60.22.32
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
HÀ NỘI, 2012
LỜI CAM ĐOAN
Luận văn được hoàn thành dưới sự hướng dẫn trực tiếp của TS. Nguyễn
Thị Kiều Anh. Tôi xin cam đoan rằng:
- Luận văn này là kết quả nghiên cứu, tìm tòi của riêng tác giả.
- Những tư liệu được trích dẫn trong luận văn là trung thực.
- Kết quả nghiên cứu này không hề trùng khít với bất cứ công trình
nghiên cứu của tác giả nào đã được công bố trước đó.
Nếu sai, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Bích Hạnh
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo - TS. Nguyễn Thị Kiều
Anh, người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo đã giảng dạy các chuyên
đề trong thời gian học tập tại trường, ban chủ nhiệm khoa ngữ văn, phòng
sau đại học - trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã đóng góp ý kiến và tạo
điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ, động viên của bạn bè và gia đình.
Hà Nội, ngày 10 tháng 7 năm 2012
Tác giả
Nguyễn Thị Bích Hạnh
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 3
3. Mục đích nghiên cứu 5
4. Nhiệm vụ nghiên cứu 6
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 6
6. Phương pháp nghiên cứu 6
7. Đóng góp của luận văn 7
8. Cấu trúc của luận văn 7
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NHÂN VẬT VĂN HỌC
VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC CỦA BÙI ANH TẤN VỚI ĐỀ TÀI
ĐỒNG TÍNH 8
1.1. Quan niệm chung về nhân vật văn học 8
1.1.1. Khái niệm nhân vật văn học 8
1.1.1.1. Về phương diện thuật ngữ 8
1.1.1.2. Một số quan niệm trong nghiên cứu và phê bình về nhân vật
văn học 9
1.1.2. Các chức năng của nhân vật văn học 11
1.1.3. Các tiêu chí phân loại nhân vật văn học 13
1.1.3.1. Phân loại theo tầm quan trọng và vai trò của nhân vật trong
tác phẩm (xét từ góc độ kết cấu) 13
1.1.3.2. Phân loại theo quan hệ thuận - nghịch giữa nhân vật và lí
tưởng (xét từ góc độ nội dung tư tưởng hay phẩm chất nhân vật) 14
1.1.3.3. Phân loại theo hình thức cấu trúc nhân vật 15
1.1.3.4. Phân loại nhân vật theo thể loại 18
1.1.4. Vài nét về nhân vật tiểu thuyết và nhân vật trong tiểu thuyết Việt
Nam trong thời kì đổi mới 19
1.1.4.1. Vài nét về nhân vật tiểu thuyết 19
1.1.4.2. Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam trong thời kì đổi mới 21
1.2. Tác giả Bùi Anh Tấn và hành trình sáng tác với đề tài đồng tính 24
1.2.1. Giới thuyết về “đồng tính” 24
1.2.1.1. “Đồng tính” trong lịch sử - xã hội 24
1.2.1.2. “Đồng tính” trong văn học nghệ thuật 29
1.2.2. Bùi Anh Tấn với những sáng tác viết về đồng tính 37
CHƯƠNG 2: THẾ GIỚI NHÂN VẬT ĐỒNG TÍNH TRONG TIỂU
THUYẾT CỦA BÙI ANH TẦN 42
2.1. Bảng thống kê, phân loại các nhân vật đồng tính trong tiểu thuyết
của Bùi Anh Tấn 42
2.1.1. Bảng thống kê, phân loại 42
2.1.1.1. Số lượng 42
2.1.1.2. Thống kê, phân loại theo tiêu chí dựa vào đặc điểm nổi bật
trong cuộc đời, số phận, phẩm chất, tính cách của các nhân vật 42
2.1.2. Nhận xét chung 44
2.2.2. Nhân vật cô đơn 56
2.2.3. Nhân vật đi tìm bản thân (Truy tìm và hoài nghi bản thể) 64
2.2.4. Nhân vật bản năng, tha hoá 72
CHƯƠNG 3: NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT ĐỒNG TÍNH 76
TRONG TIỂU THUYẾT CỦA BÙI ANH TẤN 76
3.1. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình, hành động nhân vật 76
3.1.1. Miêu tả ngoại hình nhân vật 77
3.1.2. Miêu tả hành động nhân vật 83
3.2. Nghệ thuật khắc hoạ tâm lí nhân vật 85
3.3. Nghệ thuật khắc hoạ nhân vật qua ngôn ngữ đối thoại và độc
thoại 100
3.3.1. Ngôn ngữ đối thoại 101
3.3.2. Ngôn ngữ độc thoại nội tâm 109
KẾT LUẬN 117
DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO 119
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Đồng tính là một đề tài phong phú, đang là mối quan tâm của xã
hội, điện ảnh, văn học nghệ thuật. Tuy nhiên, do định kiến xã hội về “giới thứ
ba” cho nên số lượng tác phẩm văn học viết về đề tài này còn khiêm tốn.
Trên thế giới, dòng văn học đồng tính không còn mới mẻ, xa lạ nhưng
cũng chỉ có một số tác phẩm nổi tiếng, tiêu biểu - những tác phẩm đồng tính
làm say mê hàng triệu độc giả như: tiểu thuyết “Annie on my mind” (Annie
trong trái tim tôi) của nữ văn sĩ người Mỹ Nacy Garden ra mắt bạn đọc vào
tháng 7 năm 1982; tiểu thuyết “RainBow High” (cầu vồng ở trên cao) của
Alex Sancher - nhà văn Mỹ gốc Mexicô; nhà văn Ronald L.Donaghe (người
Mexico) với tiểu thuyết “Common Sons” (những chàng trai vùng thị trấn
Common)…
Ở Việt Nam, các sáng tác văn học về đề tài đồng tính xuất hiện còn lẻ
tẻ, rải rác. Chỉ có vài đầu sách của một số tác giả được nhắc đi nhắc lại trong
nhiều bài báo. Đó là: tiểu thuyết “Song song” (2007) của Vũ Đình Giang, tự
truyện “Bóng” (2008) của Nguyễn văn Dũng do hai nhà báo Hoàng Nguyên
và Đoan Trang chấp bút; tập truyện ngắn “Những đốm lửa trên vịnh Tây
Tử” (2007) của Trang Hạ; tự truyện “Thành phố không lạc loài” (2008) của
Phạm Thành Trung được Lê Văn Hoài ghi, “Dị bản” (2008) của Keng, …
Trong đó vấn đề được đề cập còn “dịu dàng”, kín đáo, trìu tượng hoặc có khi
chỉ là câu chuyện mang tính cá nhân riêng biệt. Nhân vật trong các sáng tác
đó chưa thể đại diện cho “giới thứ ba” nên không được những người đồng
tính nồng nhiệt đón nhận và chưa thu hút được độc giả. Chỉ đến khi cuốn tiểu
thuyết “Một thế giới không có đàn bà”, “Les - vòng tay không đàn ông” và
“Phương pháp của A.C.Kinsey” của tác giả Bùi Anh Tấn ra đời, thì những
người đồng tính mới thực sự tìm thấy hình ảnh, con người, tâm tư, nỗi đau
2
của mình ở trong đó. Qua mỗi trang viết của Bùi Anh Tấn, những người đồng
tính như sống cùng các nhân vật của anh bởi đó cũng chính là họ với “cả một
thế giới nội tâm rất phong phú, có nhiều màu sắc cả bi lẫn hài…” [18].
1.2. Bùi Anh Tấn là nhà văn công an. Anh bắt đầu sáng tác từ những
năm đầu thập niên 90 nhưng chỉ thực sự nổi tiếng từ sau cuốn tiểu thuyết
“Một thế giới không có đàn bà” (1999). Hai năm sau đó, cuốn tiểu thuyết
này đoạt liền hai giải: giải A cuộc thi tiểu thuyết và ký năm 1999-2002 và giải
thưởng văn học 1995-2005 (Bộ công an và Hội nhà văn tổ chức). Bùi Anh
Tấn trở thành người đầu tiên trong làng văn học Việt đi sâu vào đề tài đồng
tính. Không chỉ dừng lại ở “Một thế giới không có đàn bà”, anh còn cho ra
đời ngay tiếp sau đó hai cuốn tiểu thuyết cũng về đề tài này là: “Les - vòng
tay không đàn ông”, “Phương pháp của A.C.Kinsey” và tập truyện ngắn
“Cô đơn”.
Tác giả tâm sự: “Thật ra lúc đầu tôi quan tâm đến những người đồng
tính chỉ vì không thể tưởng tượng được trong cuộc đời này lại có những người
đàn ông - đàn ông, đàn bà - đàn bà “yêu” nhau. Vậy họ yêu nhau như thế nào
và tại sao lạ thế? Lúc đó tôi không có ý định sẽ viết hẳn một cuốn tiểu thuyết
về đề tài những người đồng tính. Nhưng sau một thời gian tìm hiểu, từ những
điều mình biết, đã nảy sinh trong tôi những hứng thú muốn tìm hiểu sâu hơn
về những con người này với tư cách người cầm bút.
Đấy là cả một thế giới nội tâm rất phong phú, có nhiều màu sắc cả bi
lẫn hài… Hãy nhân ái hơn, tạo hoá đã quá nghiệt ngã với họ, thì chúng ta,
những con người với con người, lẽ nào lại không hiểu nổi nhau…” [18].
Nhân vật trong các tiểu thuyết viết về đồng tính của Bùi Anh Tấn là
những số phận bất hạnh. Mỗi nhân vật là một mảnh đời, một thân phận khác
nhau nhưng đều có chung nỗi đau: bị đồng tính, phải đối mặt với những rắc
rối của bản thân cũng như sức ép của dư luận. Qua những trang viết của anh,
3
có thể nhận ra một lối tư duy hết sức sắc sảo, văn phong chặt chẽ, hấp dẫn.
Bùi Anh Tấn có sở trường nắm bắt cái mới, thời sự của cuộc sống đương đại.
Các tiểu thuyết của anh về đề tài này đều thể hiện cái nhìn nhạy bén, có nhiều
phát hiện đối với hiện thực và đặc biệt mang tính nhân văn sâu sắc. Tác phẩm
của Bùi Anh Tấn chứa đựng nét độc đáo, mới lạ của một cây bút tiềm tàng
khả năng sáng tạo. Đặc biệt, thế giới nhân vật trong tiểu thuyết đồng tính của
Bùi Anh Tấn đã làm nên dấu ấn riêng cho sáng tác của anh trong việc khám
phá thế giới hiện thực nghiệt ngã về những con người thuộc “giới thứ ba”.
Việc nghiên cứu nhân vật trong tiểu thuyết viết về đề tài đồng tính của
Bùi Anh Tấn có ý nghĩa quan trọng vừa nhằm nhìn nhận, đánh giá những
thành công về một trong những phương diện nghệ thuật viết tiểu thuyết của
tác giả vừa thấy được những đóng góp của nhà văn ở mảng đề tài mới mẻ này
của văn học Việt Nam đương đại.
Vì những lí do trên, chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài: “Nhân vật trong
tiểu thuyết viết về đề tài đồng tính của Bùi Anh Tấn”.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Bùi Anh Tấn là một tác giả mới xuất hiện trên văn đàn. Bởi vậy,
nguồn tài liệu về tác giả này còn ít ỏi. Hơn nữa, với tinh thần sáng tác có tính
chất “mở” như hiện nay tất yếu sẽ có những ý kiến khen, chê khác nhau. Trên
cơ sở những hiểu biết ban đầu, chúng tôi sẽ cố gắng chọn lọc và tiếp thu
những ý kiến được xem là xác đáng, sát hợp với những đóng góp của tiểu
thuyết viết về đề tài đồng tính của Bùi Anh Tấn.
2.2. Sự độc đáo, mới lạ, mang tính thời sự trong những cuốn tiểu thuyết
viết về đề tài đồng tính của Bùi Anh Tấn trên thực tế đã được dư luận quan
tâm. Đã có nhiều bài báo, bài phê bình, cuộc trao đổi trên các diễn đàn về
những tiểu thuyết này của anh. Nhiều hơn cả vẫn là những bài viết trên các
website văn học.
4
Tác giả Ngô thị Kim Cúc trong bài viết :“Khoảng trống khó gọi tên”
đăng trên báo Thanh Niên ngày 17 tháng 10 năm 2000 khi bàn luận về cuốn
tiểu thuyết Một thế giới không có đàn bà của Bùi Anh Tấn đã khẳng định:
“Thế giới ấy đáng được biết đến, đáng được thông cảm hơn người ta tưởng.
Trong tiểu thuyết đầu tay của mình, Bùi Anh Tấn đã phơi bày một thực tế
đang có mặt bên cạnh cuộc sống của đa số công chúng: cuộc sống của những
người sinh ra đã bị đồng tính luyến ái. Đề tài quá mới lạ trong văn học Việt
Nam và hoàn toàn không dễ viết, chỉ cần non tay một chút có thể trở thành
bất cập, còn lơi tay một chút sẽ dễ dẫn đến thái quá. Bùi Anh Tấn đã tránh
được cả hai (…). Suốt gần 500 trang sách, người đọc được dẫn vào một thế
giới thực sự lạ lùng. Những vũ trường, nhà hàng, quán xá đang là tụ điểm
sinh hoạt của giới đồng tính. Những Hoa bóng chúa, Ngũ Long công chúa,
Quang A, buông thả bản năng. Nhưng cũng có những Phạm Hồng Bàng, Lê
Viễn đáng thương…” [11].
Trong bài viết: “Niềm đam mê của cây bút trẻ” của tác giả Nguyễn
Tuấn đăng trên báo An Ninh thủ đô ra ngày 3 tháng 11 năm 2000 có đoạn :
“Cuốn tiểu thuyết này (Một thế giới không có đàn bà) đề cập tới một vấn đề
mà ngay cả trong văn học các nước chịu ảnh hưởng của văn hoá phương Tây
cũng “ngại” nói tới. Đó là thế giới của những người đồng tính luyến ái tại
thành phố Hồ Chí Minh. Các tuyến nhân vật được dàn dựng hợp lí với sự tiết
chế khôn khéo…” [36].
Nhà báo Nguyễn Vịnh trong bài : “Nhà văn trẻ Bùi Anh Tấn cầm bút
đã là sự phiêu lưu” (Tạp chí Đẹp, số 6, 2003) có viết: “Bùi Anh Tấn đã bình
thản đặt những bước đi của mình vào ngôi đền văn học, giành lại cho mình
một chút dư vang. Ở người đàn ông này có một cái gì đó cứ âm trầm, da diết
chảy, một cái gì đó - dù rất nhỏ nhoi nhưng sâu khuất các ý niệm - đang cọ
cựa. Tác giả như muốn chống lại sự lãng quên, như muốn thổi tung lớp bụi cũ
5
kỹ của thời gian và bạc bẽo của nhân thế đang bao phủ lên từng mảng lớp
của cuộc đời” [43].
Ngoài ra, tác giả luận văn còn tham khảo một số bài viết, phỏng vấn,
giới thiệu về tác giả Bùi Anh Tấn và các tiểu thuyết đồng tính của anh được
đăng tải trên các website như:
Nhà văn Bùi Anh Tấn: Tôi đã chán chủ đề đồng tính, Bình Nguyên
(thực hiện), [cand.com].
“Tôi muốn cất lên tiếng nói của đồng tính nữ”, Thu Hà (thực hiện),
[chaobuoisang.net]
Bùi Anh Tấn nói tiếp về “Les ”, Anh Vân (thực hiện), [tamsubantre.org]
Nhìn chung, qua khảo sát những ý kiến, bài viết về tác giả Bùi Anh Tấn
và các tiểu thuyết viết về đề tài đồng tính của anh, chúng tôi nhận thấy, mặc
dù đã có những kiến giải thuyết phục về cái mới trong tiểu thuyết - đặc biệt ở
đó vấn đề nhân vật cũng đã được tìm hiểu, đánh giá, song hầu hết các ý kiến
nhận xét, lời phê bình mới chỉ tồn tại dưới dạng một bài viết, một cuộc trao
đổi. Chưa có một công trình nào đi sâu nghiên cứu một cách hệ thống vấn đề
nhân vật. Nhận ra khoảng trống đó, chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Nhân
vật trong tiểu thuyết viết về đề tài đồng tính của Bùi Anh Tấn”.
Chúng tôi hy vọng sẽ góp thêm một tiếng nói vào việc tìm hiểu, nghiên
cứu thành công của Bùi Anh Tấn ở mảng đề tài này. Những bài viết, đánh giá
kể trên sẽ là những gợi ý, tham khảo quý báu cho chúng tôi trong quá trình
thực hiện luận văn .
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của chúng tôi khi triển khai đề tài này là khám
phá thế giới của những người đồng tính với cái nhìn nhân văn cũng như nghệ
thuật xây dựng nhân vật độc đáo của Bùi Anh Tấn.
6
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn là chỉ ra
các laọi nhân vật và nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết viết về đề
tài đồng tính của Bùi Anh Tấn: nghệ thuật miêu tả ngoại hình, hành động,
nghệ thuật khắc hoạ tâm lí nhân vật, ngôn ngữ nghệ thuật.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu
Nhân vật đồng tính trong các tiểu thuyết viết về đề tài đồng tính của
Bùi Anh Tấn.
- Phạm vi nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, chúng tôi tiến hành khảo sát, thống kê, phân loại,
phân tích và lí giải vấn đề trong phạm vi ba tiểu thuyết về đề tài đồng tính của
Bùi Anh Tấn: “Một thế giới không có đàn bà” (1999), “Les - vòng tay
không đàn ông” (2004), “Phương pháp của A.C.Kinsey” (2005).
6. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu, chúng tôi sử dụng đồng thời
các phương pháp sau:
- Phương pháp thống kê - phân loại
Khảo sát, thống kê toàn bộ hệ thống nhân vật đồng tính trong ba tiểu
thuyết viết về đồng tính của Bùi Anh Tấn, từ đó tiến hành phân loại nhân vật
theo những tiêu chí riêng.
- Phương pháp phân tích
Tiến hành phân tích cụ thể các loại hình nhân vật chủ yếu được xây
dựng trong ba tiểu thuyết viết về đồng tính của Bùi Anh Tấn.
- Phương pháp so sánh
Tiến hành so sánh, đối chiếu giữa các nhân vật trong tiểu thuyết đồng
tính của Bùi Anh Tấn với nhân vật trong một số truyện ngắn đồng tính của
7
chính tác giả và một số tác giả khác cùng thời cũng viết về đề tài này để thấy
được những sáng tạo của Bùi Anh Tấn.
7. Đóng góp của luận văn
- Tìm ra những đặc sắc về thế giới nhân vật và nghệ thuật xây dựng
nhân vật trong tiểu thuyết viết về đề tài đồng tính của Bùi Anh Tấn.
- Đánh giá những đóng góp mới của Bùi Anh Tấn ở mảng đề tài được
xem là “hiện tượng” của văn học Việt Nam đương đại. Thông qua đó góp
phần khẳng định tài năng và vị trí của Bùi Anh Tấn trong nền Văn học mới.
Đồng thời, qua những nghiên cứu, phân tích, người đọc sẽ có cái nhìn cảm
thông, chia sẻ hơn với những người đồng tính trong xã hội.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phần nội dung của luận văn chúng tôi sẽ
triển khai thành ba chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về nhân vật văn học và hành trình
sáng tác của Bùi Anh Tấn với đề tài đồng tính
Chương 2: Thế giới nhân vật đồng tính trong tiểu thuyết của B
ùi
Anh Tấn
Chương 3: Nghệ thuật xây dựng nhân vật đồng tính trong tiểu thuyết
của Bùi Anh Tấn
8
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NHÂN VẬT VĂN HỌC VÀ HÀNH
TRÌNH SÁNG TÁC CỦA BÙI ANH TẤN VỚI ĐỀ TÀI ĐỒNG TÍNH
1.1. Quan niệm chung về nhân vật văn học
1.1.1. Khái niệm nhân vật văn học
Đối tượng chung của văn học là cuộc đời nhưng trong đó con người
luôn giữ vị trí trung tâm. Những sự kiện kinh tế, chính trị, xã hội, những bức
tranh thiên nhiên, những lời bình luận… đều góp phần tạo nên sự phong phú,
đa dạng cho tác phẩm văn học nhưng cái quyết định chất lượng tác phẩm văn
học chính là việc xây dựng nhân vật. Đọc một tác phẩm, cái đọng lại sâu sắc
nhất trong tâm hồn người đọc thường là số phận, cảm xúc, suy tư của những
con người được nhà văn thể hiện. Vì vậy, Tô Hoài đã có lý khi cho rằng
“nhân vật là nơi duy nhất, giải quyết hết thảy trong mọi sáng tác”.
1.1.1.1. Về phương diện thuật ngữ
Thuật ngữ “nhân vật” xuất hiện từ rất sớm (tiếng Hy Lạp: persona,
tiếng Anh: personage, tiếng Nga: pesonoy). Hơn hai nghìn năm trước đây,
trong tiếng Hi Lạp cổ, “persona” vốn mang nghĩa là “cái mặt nạ” một dụng cụ
biểu diễn của diễn viên trên sân khấu. Nhưng sau đó nó trở thành thuật ngữ để
chỉ nhân vật văn học.
Đôi khi nhân vật văn học còn được người ta gọi bằng các thuật ngữ
khác như “vai” (actor), “tính cách” (character). Tuy nhiên, các thuật ngữ này
có một nội hàm hẹp hơn so với “nhân vật”. Thuật ngữ “vai” chủ yếu nhấn
mạnh đến tính chất hành động của cá nhân, thích hợp với loại nhân vật hành
động còn thuật ngữ “tính cách” lại thiên về chỉ những nhân vật có tính cách.
Trong thực tế sáng tác, không phải nhân vật nào cũng hành động, đặc biệt là
9
những nhân vật thiên về suy tư và cũng không phải nhân vật nào cũng có tính
cách rõ rệt (nhân vật vô danh). Từ đó, có thể thấy, các thuật ngữ “vai”, “tính
cách” không bao quát được hết những biểu hiện khác nhau của các loại nhân
vật trong sáng tác văn học.
Như vậy, “nhân vật” là thuật ngữ có nội hàm phong phú, đủ khả năng
bao quát những hiện tượng phổ biến của hiện tượng văn học ở mọi bình diện
và cấp độ.
1.1.1.2. Một số quan niệm trong nghiên cứu và phê bình về nhân vật văn học
Đã có nhiều quan điểm khác nhau về nhân vật văn học trong giới
nghiên cứu, phê bình:
* Các tác giả “Từ điển văn học” (tập 2) đã xác nhận: “Nhân vật là yếu
tố cơ bản nhất trong tác phẩm văn học, tâm điểm để bộc lộ chủ đề, tư tưởng
chủ đề và đến lượt mình nó lại được các yếu tố có tính chất hình thức của tác
phẩm tập trung khắc hoạ. Nhân vật, do đó, là nơi tập trung giá trị tư tưởng -
nghệ thuật của tác phẩm văn học” [26, tr.86]. Với định nghĩa này, các nhà
biên soạn từ điển đã nhìn nhận nhân vật từ khía cạnh vai trò, chức năng của
nó đối với tác phẩm văn học và từ mối quan hệ của nó với các yếu tố hình
thức tác phẩm. Có thể coi đây là một định nghĩa tương đối toàn diện về nhân
vật văn học.
* Trong cuốn “150 thuật ngữ văn học”, tác giả Lại Nguyên Ân đề xuất
một quan điểm khác. Ông xem xét nhân vật trong mối tương quan với cá tính
sáng tạo, phong cách nhà văn, trường phái văn học:
“Nhân vật văn học là một trong những khái niệm trung tâm để xem xét
sáng tác của một nhà văn, một khuynh hướng, trường phái hoặc dòng phong
cách. Nhân vật văn học là hình tượng nghệ thuật về con người, một trong
những dấu hiệu về sự tồn tại toàn vẹn của con người trong nghệ thuật. Bên
cạnh con người nhân vật văn học có khi còn là các con vật, các loài cây, các
10
sinh thể hoang đường được gán cho những đặc điểm giống con người” [7,
tr.241].
Theo Lại Nguyên Ân, nhân vật văn học sẽ là một trong những yếu tố
tạo nên phong cách nhà văn và màu sắc riêng của một trường phái văn học.
Nhà nghiên cứu này còn chỉ ra những đối tượng tiềm tàng khả năng trở thành
nhân vật văn học.
* Khái niệm “nhân vật văn học” còn được định nghĩa trong cuốn “Từ
điển thuật ngữ văn học” của nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn
Khắc Phi:
“Nhân vật văn học là con người cụ thể được miêu tả trong tác phẩm
văn học. Nhân vật văn học có thể có tên riêng (Tấm, Cám, chị Dậu, anh
Pha,…), cũng có thể không có tên riêng (thằng bán tơ, ). Khái niệm nhân vật
văn học có khi được sử dụng như một ẩn dụ, không chỉ một con người cụ thể
mà chỉ một hiện tượng nổi bật nào đó trong tác phẩm Nhân vật văn học là
một đơn vị đầy tính ước lệ, không thể đồng nhất nó với con người có thật
trong đời sống” [16, tr.235].
Quan niệm trên của nhóm tác giả cuốn “Từ điển thuật ngữ văn học” về
nhân vật văn học có phần thu hẹp hơn.
* Một số nhà nghiên cứu khác lại định nghĩa nhân vật dựa trên tiêu chí
chức năng phản ánh hiện thực của tác phẩm văn học. Nhân vật là phương tiện
để nhà văn tái hiện đời sống, mở rộng thế giới nghệ thuật cho tác phẩm:
“Nói đến nhân vật văn học là nói đến con người được miêu tả, thể hiện
trong tác phẩm bằng phương tiện văn học” [23, tr.277].
Như vậy, các nhà nghiên cứu, nhà lí luận văn học, bằng cách này hay
cách khác đã đưa ra những quan điểm, định nghĩa cụ thể về nhân vật văn học
trên cơ sở tìm hiểu những nét nổi bật về nhân vật. Song, xét một cách chung
nhất, các ý kiến vẫn cơ bản gặp nhau trong sự khẳng định: thứ nhất, nó phải là
11
đối tượng mà văn học miêu tả, thể hiện bằng phương tiện văn học. Thứ hai,
đó là những con người hoặc những con vật, sự vật, đồ vật, hiện tượng mang
linh hồn con người, là hình ảnh gần gũi của con người. Thứ ba, đó là đối
tượng mang tính ước lệ và có cách điệu so với đời sống hiện thực bởi nó đã
được khúc xạ qua lăng kính chủ quan của nhà văn. Nghiên cứu về tác phẩm
văn chương cần phải tiếp cận nhân vật để chỉ ra cái mới trong ngòi bút nhà
văn và đưa ra kết luận về những đóng góp riêng nhà văn đó.
Những quan niệm về nhân vật văn học như trên là những chỉ dẫn cho
chúng tôi trong quá trình tìm hiểu về nhân vật nói chung và nhân vật đồng
tính trong các tiểu thuyết của Bùi Anh Tấn nói riêng.
1.1.2. Các chức năng của nhân vật văn học
Nhân vật đóng vai trò là tâm điểm của sự thể hiện đời sống trong tác
phẩm văn học. Nó không chỉ là “tiêu điểm để bộc lộ chủ đề” mà còn là nơi
“tập trung giá trị tư tưởng, nghệ thuật của tác phẩm”. Một tác phẩm có thể
vắng nhân vật nhưng văn học nói chung không thể thiếu nó. Khi nhân vật xuất
hiện, cái gọi là “hiện thực cuộc sống” không còn tồn tại như một khái niệm
khô khan trừu tượng nữa mà trở nên có hình khối rõ ràng, mời gọi người đọc
tưởng tượng, khám phá suy ngẫm, những vấn đề có ý nghĩa về cuộc đời.
Thứ nhất, nhân vật trong tác phẩm văn học có chức năng khái quát các
loại tính cách xã hội. Với chức năng này, nhân vật chứng tỏ được ưu thế vô
song của văn học trong việc phản ánh bản chất của xã hội trong một hiện
tượng mang tính chất kết tinh là tính cách. Trong đời sống, ta được tiếp xúc
với nhiều loại tính cách khác nhau. Đây là hiện tượng thú vị của thực tế khách
quan, đòi hỏi được văn học nghiên cứu và tìm hiểu. Mỗi nhân vật có phẩm
chất riêng nổi bật. Với nhân vật HămLet trong vở kịch “Hamlet” của W.
Shakespeare, ta bắt gặp một tính cách cao thượng, đặc trưng của thời Phục
Hưng. Với nhân vật Grăngđê (trong tiểu thuyết Eugénie Grandet), H.de
12
Banlzac đã tạo ra một loại tính cách keo kiệt, bủn xỉn đặc trưng của giai cấp
tư sản (thời tích luỹ tư bản),…
Nhà văn Nga - Xô viết K. A Fedin từng hình dung nhân vật giống như
“một công cụ” hữu hiệu giúp người viết nhận ra bản chất của đời sống và giúp
độc giả thấu hiểu những quy luật sâu sa đang ngầm chi phối mọi diễn biến
lịch sử. Quả vậy, nếu không có một nhân vật mang tính cách đa điện của thời
Âu hoá và có số phận may mắn lạ lùng là Xuân tóc đỏ làm sao Vũ Trọng
Phụng có thể thâu tóm thần tình đến vậy bản chất của một xã hội (xã hội thực
dân nửa phong kiến) mà ông gọi là xã hội “chó đểu”.
Thứ hai, ngoài chức năng khái quát các loại tính cách xã hội, nhân vật
văn học còn có chức năng tương tự “chức năng của một chiếc chìa khoá”,
giúp nhà văn mở một cánh cửa bước vào hiện thực rộng lớn, tiếp cận những
đề tài chủ đề mới mẻ.
Đề cập hai chức năng cụ thể nói trên của nhân vật cũng chính là nhấn
mạnh vào khả năng tái hiện bức tranh thế giới khách quan của thế giới văn
học.
Thứ ba, nhân vật văn học có chức năng biểu hiện quan niệm nghệ thuật
của nhà văn về thế giới và con người. Khi xây dựng nhân vật, nhà văn có mục
đích gắn liền nó với những vấn đề mà nhà văn muốn đề cập trong tác phẩm.
Do đó, bên cạnh việc xác định những tính cách của nhân vật trong tác phẩm,
cần nhận ra hiện thực và quan niệm của nhà văn mà nhân vật thể hiện.
Một chức năng khác của nhân vật trong tác phẩm là chức năng tạo nên
mối liên kết giữa các sự kiện trong tác phẩm và cốt truyện. Nhờ nhân vật mà
kết cấu của nhiều tác phẩm đạt được sự thống nhất, hoàn chỉnh, chặt chẽ và
nhiều tiềm năng biểu đạt của các phương tiện ngôn từ được phát lộ, để rồi tự
chúng trở thành những phương diện nghệ thuật độc lập có thể được nghiên
cứu riêng như một đối tượng thẩm mĩ chuyên biệt.
13
Như vậy, nhân vật văn học có nhiều chức năng tương ứng với nhiều vai
trò khác nhau trong tác phẩm. Hiểu được đúng đắn chức năng của nhân vật
văn học của người viết có thêm cơ sở lý luận để nghiên cứu đề tài này.
1.1.3. Các tiêu chí phân loại nhân vật văn học
Nhân vật văn học là một hiện tượng hết sức đa dạng. Những nhân vật
được xây dựng thành công từ xưa tới nay bao giờ cũng là những sáng tạo
độc đáo không lặp lại. Tuy nhiên, xét về mặt nội dung tư tưởng, kết cấu, chất
lượng miêu tả…, có thể thấy những hiện tượng lặp đi lặp lại tạo thành các
loại nhân vật khác nhau. Để nắm được thế giới nhân vật văn học đa dạng,
phong phú, có thể tiến hành phân loại dưới nhiều góc độ, theo nhiều tiêu chí
khác nhau.
1.1.3.1. Phân loại theo tầm quan trọng và vai trò của nhân vật trong tác
phẩm (xét từ góc độ kết cấu)
Xem xét vai trò và vị trí của nhân vật trong tác phẩm văn học có thể
chia thành: nhân vật chính, nhân vật phụ, nhân vật trung tâm.
* Nhân vật chính
Nhân vật chính là nhân vật xuất hiện nhiều trong tác phẩm, tham gia
hầu hết các sự kiện chính được miêu tả, giữ vai trò then chốt trong việc thúc
đẩy sự phát triển của cốt truyện và là cơ sở quan trọng để nhà văn triển khai
đề tài trung tâm hay tư tưởng nghệ thuật cơ bản của mình.
Nhân vật chính thường được tập trung miêu tả, khắc hoạ tỉ mỉ từ ngoại
hình, nội tâm, quá trình phát triển tính cách. Nhân vật chính có thể có nhiều
hoặc ít tuỳ theo dung lượng hiện thực và những vấn đề đặt ra trong tác phẩm.
Trong “Truyện Kiều” (Nguyễn Du), nhân vật chính là Thuý Kiều, Kim Trọng,
Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh, Thúc Sinh, Hoạn Thư, Từ Hải, Hồ Tôn
Hiến. Trong “Chí Phèo” (Nam Cao) nhân vật chính là Chí Phèo, Bá Kiến. Ở
những tác phẩm có nhiều tuyến cốt truyện hoặc có quy mô sử thi đồ sộ, số
14
lượng nhân vật có thể lên đến hàng chục, thậm chí hàng trăm. Đó là trường
hợp của những tác phẩm như: “Tam Quốc Diễn Nghĩa” (La Quán Trung),
“Thuỷ Hử” (Thi Lại An),…
* Nhân vật trung tâm
Trong một tác phẩm có nhiều nhân vật chính, nhân vật chính có vai trò
quan trọng hơn cả xuyên suốt toàn bộ tác phẩm được gọi là nhân vật trung
tâm. Ở một số tác phẩm, số lượng nhân vật trung tâm không phải chỉ có một,
do chỗ các nhân vật đó đều có vai trò tương đương nhau trong việc thể hiện
những xung đột cơ bản của tác phẩm. Tào Tháo, Lưu Bị, Quan Công, Trương
Phi, Gia Cát Lượng, Tôn Quyền đều là những nhân vật trung tâm của “Tam
Quốc Diễn Nghĩa”,…
* Nhân vật phụ
Trong hệ thống nhân vật của một tác phẩm, ngoài nhân vật chính (bao
hàm trong đó cả nhân vật trung tâm) còn lại là nhân vật phụ. Nhân vật phụ giữ
vai trò thứ yếu so với nhân vật chính trong quá trình phát triển diễn biến của
cốt truyện, của việc thể hiện chủ đề tác phẩm. Nhân vật phụ góp phần hỗ trợ,
bổ sung cho nhân vật chính nhưng không được làm mờ nhạt nhân vật chính.
Có nhiều nhân vật phụ vẫn được nhà văn miêu tả đậm nét, có cuộc đời và tính
cách riêng, cùng với những nhân vật khác trong tác phẩm tạo nên một bức
tranh đời sống sinh động và hoàn chỉnh (Thị Nở trong “Chí Phèo” của Nam
Cao, thầy thơ lại trong “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân)…
1.1.3.2. Phân loại theo quan hệ thuận - nghịch giữa nhân vật và lí tưởng (xét
từ góc độ nội dung tư tưởng hay phẩm chất nhân vật)
Có thể chia ra làm nhân vật chính diện (nhân vật tích cực) và nhân vật
phản diện (nhân vật tiêu cực).
* Nhân vật chính diện: là loại nhân vật chiếm được tình yêu và niềm tin
khẳng định của nhà văn, mang trong mình những phẩm chất tốt đẹp, có thể trở
15
thành đại diện cho những giá trị tư tuởng, đạo đức thẩm mĩ mà nhà văn cùng
thời đại nhân vật đó hướng tới. Đó là những nhân vật Ôtenlô, HămLét,
Rômêô, Juliet trong các vở kịch của W.Shakespeare; Chị Út Tịch, Chiến, Việt
trong các tác phẩm của Nguyễn Thi,…
* Nhân vật phản diện: là loại nhân vật có phẩm chất ngược lại với nhân
vật chính diện, bị miêu tả trong tác phẩm với thái độ phê phán, phủ định. Đó
là những nhân vật như: Giave trong “Những người khốn khổ” của V.Huygô,
thằng Xăm trong “Hòn đất” của Anh Đức, Bá Kiến trong “Chí Phèo” của
Nam Cao… Nhân vật chính diện và nhân vật phản diện là những phạm trù
lịch sử. Việc miêu tả và đối lập chúng với nhau chỉ diễn ra khi trong xã hội có
sự đối kháng giai cấp và khi nhà văn đã xác định rõ lập trường chỉ đứng về
một phía nhất định của mình.
Trong quá trình phát triển của văn học, ở mỗi giai đoạn lịch sử khác
nhau, việc xây dựng các loại nhân vật chính diện và phản diện cũng khác
nhau. Nếu như trong thần thoại chưa có sự phân biệt rạch ròi giữa nhân vật
chính diện và phản diện thì trong truyện cổ tích, các truyện thơ Nôm, các
nhân vật thường được xây dựng thành hai tuyến rõ rệt có tính chất đối kháng
quyết liệt. Ở đây, hễ là nhân vật chính diện thường tập trung vào những tính
chất tốt đẹp còn nhân vật phản diện thì hoàn toàn ngược lại. Trong văn học
hiện đại nhiều khi khó phân biệt đâu là chính diện, đâu là phản diện. Chính vì
vậy, ở đây, sự phân biệt chính diện, phản diện chỉ có ý nghĩa tương đối.
1.1.3.3. Phân loại theo hình thức cấu trúc nhân vật
Với tiêu chí phân loại này, theo gợi ý của E.M. Forster trong cuốn:
“Diện mạo tiểu thuyết” (1927), có thể nói tới nhân vật dẹt, nhân vật tròn.
Ngoài ra còn có thể nhắc tới nhân vật tư tưởng, nhân vật tâm lý.
* Nhân vật dẹt
16
Là loại nhân vật không được khắc hoạ đầy đặn các mặt, “ít giống thực”
nhất theo đánh giá của một kiểu tri giác đơn giản về nghệ thuật.
Trong loại nhân vật dẹt, có thể nói tới: nhân vật chức năng ( hay mặt
nạ), nhân vật loại hình (các thuật ngữ này do L.Ghinzburg đề xuất).
Nhân vật chức năng: chủ yếu xuất hiện trong văn học cổ đại và trung
đại (nhất là ở cổ tích). Đây là loại nhân vật “được giao cho nhiệm vụ” thực
hiện một chức năng nhất định trong tác phẩm và phản ánh đời sống. Chẳng
hạn, nhân vật Bụt có chức năng ban hạnh phúc, đem lại điều may mắn cho
người lương thiện, giúp họ vượt qua những trở ngại của cuộc sống; nhân vật
phù thuỷ có chức năng gieo rắc những rủi ro, những điều xấu, ngăn trở cuộc
sống của người lương thiện… Các nhân vật của “Tấm Cám”, “Thạch Sanh”,
“Nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn”… đều là những nhân vật chức năng.
Nhân vật chức năng không có đời sống nội tâm, các phẩm chất, đặc
điểm nhân vật cố định không thay đổi từ đầu tới cuối, nó hành động gần như
theo những công thức đã vạch sẵn. Do đặc điểm này mà chúng dễ dàng trở
thành cái biểu trưng trong đời sống tinh thần và hình thức hoá trong sáng tác.
Những vai trung, vai nịnh trong văn học cổ, tuồng cổ đều ít nhiều mang tính
chất chức năng như vậy. Vai trung thực hiện đạo lý, cương trực. Vai nịnh thể
hiện sự phản trắc, hãm hại người tốt. Phân tích các nhân vật này cần tìm hiểu
vai trò và chức năng mang nội dung xã hội thẩm mỹ của chúng.
Loại nhân vật chức năng không hoàn toàn mất bóng trong văn học các
thời đại sau này, chỉ có điều nó không tồn tại ở dạng thuần tuý như trước.
Chẳng hạn, những nhân vật Giăngvangiăng, Giave,… trong tiểu thuyết
“Những người khốn khổ” (Victo Huygô) đều có những nét gợi nghĩ đến các
nhân vật chức năng.
Nhân vật loại hình: là loại nhân vật thể hiện tập trung các phẩm chất
xã hội, đạo đức của một loại người nhất định của một thời. Đó là nhân vật
17
khái quát chung về “loại” của các tính cách và nhờ vậy mà được gọi là điển
hình. Acpagông (Lão hà tiện của Môlie) thể hiện tập trung cho thói keo kiệt.
Ông Giuốcđanh (Trưởng giả học làm sang của Môlie) là hiện thân cho thói
phù phiếm, hiếu danh của các gã tư sản muốn làm quý tộc.
Hạt nhân của loại nhân vật này là nét khu biệt về mặt tính cách xã hội
của một loại người nào đó. Đúng như Puskin nhận xét: “Ở Môlie người keo
kiệt thì keo kiệt, và chỉ có thế”. Dĩ nhiên, nhân vật điển hình loại này, như
mọi loại nhân vật văn học khác, đòi hỏi một cá tính nhất định được thực hiện
qua một số chi tiết chân thực, sống động nào đó chứ không phải là một khái
niệm trừu tượng, điều đáng nói là trong khi đắp da, đắp thịt cho tính cách, nhà
văn không quên chủ đích của mình là làm sao gọi cho đúng cái “thần” của
“loại”. Nhân vật chị Út Tịch trong “Người mẹ cầm súng” của Nguyễn Thi
mang nhiều đặc điểm của nhân vật loại hình. Chị chính là “khái niệm” về
người phụ nữ Việt Nam “anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”. Tuy vậy,
vẫn có nét hấp dẫn nhất định của một cá tính.
* Nhân vật tròn
Là loại nhân vật được khắc hoạ soi chiếu trên nhiều bình diện, đưa tới
cho độc giả cảm tưởng “thực” về nhân vật.
Nhân vật tròn thực chất cũng là nhân vật tính cách ( theo một kiểu gọi
tên khác của L. Ghinzburg). Khi xây dựng nhân vật tính cách, điều nhà văn
chú ý trước hết là cái cá tính làm nên một nhân cách độc lập. Cá tính đó luôn
có mối liên hệ sống động với môi trường xung quanh. Qua việc nhìn vào
những mối liên hệ đó người ta nhận ra những quy luật tồn tại của con người.
Sức hấp dẫn của loại tính cách này nằm ở cá tính cùng cấu trúc phức tạp của
nó. Nhân vật tính cách thường đa diện, chứa đầy mâu thuẫn và chính những
mâu thuẫn ấy làm cho tính cách không tĩnh tại mà vận động phát triển, đôi khi
làm bất ngờ cả người sáng tạo ra nó.
18
* Nhân vật tư tưởng
Trong văn học, có những nhân vật mà hạt nhân cấu trúc của nó không
phải là cá tính, cũng không phải là các phẩm chất loại hình, mà là một tư
tưởng, một ý thức. Xây dựng loại nhân vật này, các nhà văn nhằm tới việc
phát biểu hoặc tuyên truyền cho một tư tưởng nào đó về đời sống. Các nhân
vật như Hoàng, Hộ trong các sáng tác của Nam Cao; nhân vật “tôi” trong
truyện ngắn “Bức tranh” của Nguyễn Minh Châu,… đều mang những nét cơ
bản của nhân vật tư tưởng.
* Nhân vật tâm lí
Với loại nhân vật này, nhà văn tập trung vào việc tái hiện “hiện thực
tâm lí”, vào những hành động bên trong chứ không phải hành động bên ngoài
của nhân vật. Nhiều khi hiện thực tâm lí đó không chỉ làm nên nhân vật mà
còn làm nên chính câu chuyện, làm nên những tác phẩm được gọi là “truyện
không có cốt truyện”. Từ đây, vô số các thủ pháp miêu tả được thể hiện, dẫn
đến sự ra đời của thủ pháp “dòng ý thức”. Loại nhân vật này xuất hiện nhiều
trong văn học hiện đại (sáng tác của Nguyễn Bình Phương,…)
1.1.3.4. Phân loại nhân vật theo thể loại
Có thể phân thành: nhân vật tự sự, nhân vật kịch, nhân vật trữ tình.
* Nhân vật tự sự: là loại nhân vật xuất hiện trong các tác phẩm truyện.
Đó là những con người bình thường, hàng ngày được thể hiện một cách tập
trung và sống động trong tác phẩm. Đây là loại nhân vật hành động, có đời
sống nội tâm phong phú,
* Nhân vật trữ tình: là loại nhân vật nghiêng về cảm xúc, không có
hành động, ít được chú ý miêu tả về ngoại hình. Mọi tác động của môi trường
sống chỉ dẫn đến cảm xúc của nhân vật chứ không dẫn đến hành động.
19
* Nhân vật kịch: là loại nhân vật hành động, xuất hiện vào thời điểm
sóng gió nhất, trong vòng xoáy cuộc đời. Mọi tác động của môi trường sống
đều dẫn đến hành động của nhân vật.
Trên đây là các loại nhân vật thường gặp. Trong văn học còn có thể gặp
một số kiểu loại nhân vật khác nữa. Sự phân loại trên đây chỉ có tính chất
tương đối vì trong loại này có thể bao hàm một số yếu tố của loại kia và
ngược lại. Không có gì khó hiểu khi ta thấy một nhân vật cụ thể nào đó có
mặt trong nhiều “danh sách” khác nhau. Thực tế ấy đòi hỏi việc nghiên cứu
nhân vật phải tránh sự cứng nhắc, tuyệt đối hoá.
1.1.4. Vài nét về nhân vật tiểu thuyết và nhân vật trong tiểu thuyết Việt
Nam trong thời kì đổi mới
1.1.4.1. Vài nét về nhân vật tiểu thuyết
Tiểu thuyết là thể loại thuộc phương thức tự sự. Nó có sức bao chứa
dung lượng hiện thực rộng lớn, có khả năng phản ánh một cách toàn vẹn và
sinh động hiện thực đời sống theo hướng tiếp xúc hết sức gần gũi từ nhiều
chiều khác nhau. Cũng giống như tác phẩm tự sự khác, nhân vật trong tiểu
thuyết có một vị trí vai trò và ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Đó là hạt nhân của
sự sáng tạo, là trọng điểm để nhà văn lí giải tất cả mọi vấn đề của xã hội.
Nhân vật tiểu thuyết được xây dựng theo những cách riêng nhằm đáp ứng đến
mức cao nhất yêu cầu nhận thức hiện thực theo cả chiều rộng và chiều sâu của
thể loại này
M. Bakhtin - tác giả của công trình nghiên cứu nổi tiếng “Lí luận và thi
pháp tiểu thuyết” - đã dành nhiều công sức để tìm hiểu về đặc trưng của tiểu
thuyết trên nhiều bình diện, trong đó có nhân vật. Những nhận định của M.
Bakhtin về đặc trưng nhân vật tiểu thuyết rất xác đáng, có giá trị lí luận cao và
còn nguyên tính thời sự. Theo nhà nghiên cứu, nhân vật tiểu thuyết cần và
20
phải được phân biệt với nhân vật sử thi, nhân vật kịch, nhân vật truyện trung
đại ở những đặc trưng cơ bản sau:
Trước hết, nhân vật tiểu thuyết được thể hiện ở thì hiện tại chưa hoàn
thành, trong quá trình biến đổi, trưởng thành và chịu mọi tác động của đời
sống. Do đó, nhân vật tiểu thuyết sẽ là những “con người nếm trải”, những
“con người chưa hoàn kết” và phải tự làm ra chính mình bằng hành động của
mình. Trong khi đó, nhân vật trong các thể loại kia lại được thể hiện trong thì
quá khứ, là những nhân cách đã được hình thành.
Nhân vật tiểu thuyết không tương hợp với số phận và vị thế của nó bởi
thực tế con người không thể hoá thân đến cùng vào cái thân xác lịch sử - xã
hội hiện hữu. Trong tiểu thuyết, tính thuần toàn của con người biến mất. Thay
vào đó, xuất hiện sự phân lập giữa con người bên ngoài và con người bên
trong. Ở nhân vật tiểu thuyết, luôn luôn tồn tại “con người bên trong con
người”. Tuy nhiên, sự phân lập đó không làm giảm đi sức sống và tính chân
thực trong hình tượng nhân vật. Ngược lại, sự sống đích thực của cái bản ngã
diễn ra dường như ở chính cái điểm con người không trùng hợp với bản thân
mình ấy, ở cái điểm con người vượt ra ngoài giới hạn của toàn bộ cái hiện
hữu của nó, như một vật thể sinh tồn mà ta có thể rình xem, có thể nhận định,
tiên đoán ngoài ý muốn của nó, sau lưng nó.
M. Bakhtin còn khẳng định: nhân vật trong tiểu thuyết chủ yếu được
khám phá từ chiều sâu tâm lí. Tiểu thuyết truyền thống hay hiện đại đều
hướng tới tìm tòi và thể hiện thế giới bên trong đầy ảo diệu của con người, cái
được gọi là “sự thật ý thức của bản thân” hay “ẩn mật bản ngã”. Nhân vật tiểu
thuyết, trong tư cách là một quan điểm, một cách nhìn về thế giới và bản thân,
được miêu tả thực sự, không hoà lẫn với tác giả, không trở thành cái loa phát
tiếng nói tác giả. Cái được khám phá và thể hiện ở nhân vật không phải là
“hiện thực về nó” mà là “cái kết quả cuối cùng của sự tự ý thức của nó”, xét