Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Sự giao thoa thể loại trong truyện ngắn Vũ Trọng Phụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (855.69 KB, 116 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
===========



NGUYỄN THỊ LAN HƯƠNG





SỰ GIAO THOA THỂ LOẠI
TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG

Chuyên ngành: Lý luận văn học
Mã số: 60 22 01 20




LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM



Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Phạm Thành Hưng



HÀ NỘI - 2013


LỜI CẢM ƠN

Với lòng kính trọng sâu sắc và tình cảm chân thành tôi xin trân trọng
cảm ơn:
Phòng sau Đại học Trường Đại học sư phạm Hà nội 2 cùng các thầy cô
giáo đã trực tiếp giảng dạy và góp ý cho tôi trong suốt quá trình học tập,
nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.
Đặc biệt tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đối với
PGS.TS Phạm Thành Hưng đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo, dìu dắt và giúp đỡ
tôi trong suốt thời gian tôi thực hiện và hoàn thành luận văn.
Tôi cũng vô cùng cảm ơn những tình cảm tốt đẹp của những người thân
trong gia đình, đồng nghiệp và bạn bè đã luôn dành cho tôi, động viên và tạo
mọi điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu.
Mặc dù tôi có nhiều cố gắng nhưng chắc chắn luận văn không tránh
khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được sự góp ý của quý Thầy cô và bạn
bè, đồng nghiệp quan tâm đến đề tài này.

Hà nội, tháng 01 năm 2013
Học viên



Nguyễn Thị Lan Hương
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất cứ
công trình nào.
Trong quá trình nghiên cứu, tôi có tìm hiểu, tham khảo thành quả khoa
học của các tác giả khác với sự trân trọng và biết ơn, nhưng những nội dung

tôi nghiên cứu không trùng với kết quả nghiên cứu của các tác giả khác.

Hà nội, tháng 01 năm 2013
Học viên


Nguyễn Thị Lan Hương
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 3
3. Mục đích nghiên cứu 4
4. Nhiệm vụ nghiên cứu 4
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 5
6.Phương pháp nghiên cứu 5
7. Dự kiến đóng góp luận văn 5
8. Cấu trúc luận văn 6
CHƯƠNG 1: TRUYỆN NGẮN VŨ TRỌNG PHỤNG TỪ GÓC NHÌN
ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI 7
1.1. Khái niệm truyện ngắn 7
1.2. Một số nét đặc trưng thể loại 8
1.2.1. Dung lượng 9
1.2.2. Cốt truyện 10
1.2.3 Kết cấu 11
1.2.4. Tình huống trong truyện ngắn 18
1.2.5. Nhân vật. 21
1.3. Truyện ngắn Vũ Trọng Phụng 26
1.3.1. Truyện ngắn – những đường biên thể loại 26
1.3.2 Ranh giới thể loại và vấn đề liên văn bản 32
CHƯƠNG 2: CHẤT PHÓNG SỰ VÀ CHẤT TIỂU THUYẾT TRONG

TRUYỆN NGẮN VŨ TRỌNG PHỤNG 35
2.1.Giới thuyết về thể loại phóng sự 35
2.2. Đặc trưng của thể loại phóng sự 37
2.2.1. Tính chân thực 37
2.2.2. Tính thời sự 38
2.2.3. Tính nghệ thuật 40
2.2.4. Phương thức phản ánh cuộc sống thông qua hư cấu nghệ thuật 40
2.2.5. Sự xuất hiện của cái tôi trần thuật 41
2.3. Phóng sự , một thuộc tính tự nhiên trong truyện ngắn Vũ Trọng Phụng. 42
2.3.1. Phản ánh trực tiếp những vấn đề thời sự của đời sống chính trị, xã 42
hội đương thời. 42
2.3.2. Nhân vật có tính xác thực, như có địa chỉ, hộ khẩu ngoài đời 44
2.3.3. Lối văn báo chí thông tấn (ngắn gọn, súc tích, giàu thông tin) 46
2.3.4. Sự nối tiếp dồn dập về thời gian, diễn biến sự kiện 49
2.3.5. Cái tôi trần thuật trong truyện ngắn 50
2.4. Sự phát triển của tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn 1930-1945 52
2.4.1. Đặc trưng của tiểu thuyết 56
2.4.2. Chất tiểu thuyết trong truyện ngắn Vũ Trọng Phụng. 64
2.4.3. Khả năng tổng hợp về mặt thể loại 79
CHƯƠNG 3: CHẤT KỊCH TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA VŨ
TRỌNG PHỤNG 86
3.1. Sự định hình của thể loại kịch 86
3.2. Những đặc trưng cơ bản của thể loại kịch 89
3.2.1. Xung đột kịch 89
3.2.2. Hành động kịch 90
3.2.3. Ngôn ngữ kịch 91
3.3. Sự giao thoa với thể loại kịch trong truyện ngắn Vũ Trọng Phụng 92
3.3.1. Xung đột kịch trong truyện ngắn Vũ Trọng Phụng 92
3.3.2. Hành động kịch trong truyện ngắn Vũ Trọng Phụng 99
KẾT LUẬN 103

TÀI LIỆU THAM KHẢO 107
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Vũ Trọng Phụng là một tác gia tiêu biểu của nền văn học Việt Nam
hiện đại với những đóng góp ở nhiều thể loại như: phóng sự, tiểu thuyết,
truyện ngắn. Ông là một hiện tượng độc đáo, là nhà văn được giới nghiên cứu
đánh giá, bình luận khác nhau, thậm chí cả trái chiều. Nhưng xưa nay, các
công trình nghiên cứu thường xoáy sâu vào tiểu thuyết của nhà văn này mà
lãng quên mảng truyện ngắn của ông. Trong khi đó, thành tựu truyện ngắn
Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 không chỉ được tạo nên bởi những cây bút
tài năng với phong cách nghệ thuật độc đáo như Nguyễn Công Hoan, Nhất
Linh, Khái Hưng, Thạch Lam, Tô Hoài, Nguyên Hồng, Nam Cao mà truyện
ngắn Vũ Trọng Phụng cũng đã góp phần xứng đáng vào sự phát triển của nền
văn học Việt Nam thế kỷ XX. Chân dung của nhà văn sẽ hoàn thiện và tỏa
sáng hơn nếu chúng ta đặt lại vị trí cho những truyện ngắn xuất sắc của ông.
Có thể nói, truyện ngắn chính là mối duyên đầu đưa Vũ Trọng Phụng
đến với nghiệp văn. Điều cần thiết để khẳng định giá trị của sự sáng tạo nghệ
thuật của bất kì tác giả nào là phải đi sâu vào toàn bộ sự nghiệp sáng tác của
tác giả. Có như vậy mới tạo được cái nhìn toàn diện, chính xác, khái quát về
những đóng góp đối với nền văn học nước nhà. Vũ Trọng Phụng cũng không
phải là ngoại lệ. Vì vậy, việc nghiên cứu truyện ngắn của Vũ Trọng Phụng là
một yêu cầu hết sức cần thiết, là công việc vô cùng quan trọng giúp đánh giá
chuẩn xác hơn về sự nghiệp văn chương của ông.
Những tiểu thuyết Số đỏ hay Giông tố của Vũ Trọng Phụng đã được
nghiên cứu rất nhiều và ở đó người ta thấy được một tài năng văn chương
tổng hợp của ông. Những tiểu thuyết đó đã thể hiện được tầm vóc và khả năng
đan xen với thể loại khác trong dung lượng lớn của nó. Có nhà nghiên cứu đã
gọi đó là những tiểu thuyết phóng sự. Nhưng có một điều không ai ngờ rằng,
2

khả năng đan xen của những thể loại khác nhau ấy trong sáng tác của Vũ
Trọng Phụng không phải đến tiểu thuyết mới có mà nó xuất hiện ngay từ
những truyện ngắn đầu tay của ông vào những năm 1931 như: Nhân quả, Tội
người cô, Cái tin vặt, Thủ đoạn Chính vì vậy, việc tìm hiểu nghệ thuật viết
truyện ngắn đặc biệt là sự giao thoa thể loại trong truyện ngắn Vũ Trọng
Phụng là một vấn đề rất cần thiết, có giá trị tạo cái nhìn toàn diện trong sáng
tác của ông, nhằm đánh giá chính xác hơn những giá trị truyện ngắn đó.
Thực tế hiện nay, những nghiên cứu về truyện ngắn của Vũ Trọng
Phụng không nhiều vì vậy giá trị những truyện ngắn của ông chưa được thừa
nhận. Trước đây, cũng có một số cuốn sách tập hợp truyện ngắn của ông song
chưa đầy đủ. Năm 2004, Tuyển tập truyện ngắn Vũ Trọng Phụng do TS Tôn
Thảo Miên tuyển chọn, giới thiệu, do nhà xuất bản Văn học ấn hành ra đời đã
tạo điều kiện cho việc nghiên cứu, tìm hiểu truyện ngắn của ông một cách
toàn diện hơn. Và đó cũng chính là nguồn tư liệu mới nhất, được tập hợp,
tuyển chọn dựa trên những tuyển tập trước đó giúp chúng ta có thể đánh giá
chính xác hơn về những truyện ngắn Vũ Trọng Phụng, đặc biệt ở vấn đề giao
thoa thể loại, bởi nghiên cứu văn học theo thể loại đang là một nhu cầu, một
xu thế cấp thiết của giới nghiên cứu văn học hiện nay.
Chính vì những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài: Sự giao thoa thể loại
trong truyện ngắn Vũ Trọng Phụng với mong muốn được hiểu sâu hơn những
giá trị trong truyện ngắn của ông, có những mối liên hệ với tiểu thuyết của
ông để thêm một lần nữa đóng góp tiếng nói của mình vào việc khẳng định và
tìm chỗ đứng cho những sáng tác truyện ngắn của Vũ Trọng Phụng. Ngoài ra,
đây cũng là một lời tri ân đến nhà văn, lời khẳng định cho tài năng nghệ thuật
kiệt xuất của một con người đa tài, mang trong mình nhiều phẩm chất nghệ
thuật đáng quý.
3
2. Lịch sử vấn đề
Thể loại truyện ngắn đã được rất nhiều nhà nghiên cứu đề cập như:
Nguyễn Hoành Khung, Bùi Hiển, Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn Đức Nam,

với công trình Truyện ngắn Việt Nam 1930-1945, Nxb Giáo dục, 2008, Trần
Đình Sử, Phương Lựu, Nguyễn Xuân Nam với Lý luận văn học, tập 2, Nxb
Giáo dục, 1987; Bùi Việt Thắng với Bình luận truyện ngắn, Nxb Văn học,
1999; và Truyện ngắn những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại, Nxb Đại
học Quốc gia, Hà nội, 2000; Vương Trí Nhàn với Sổ tay truyện ngắn, Nxb
Thành phố Hồ Chí Minh, 2001;
Bên cạnh đó cũng có rất nhiều các nghiên cứu về vấn đề lý luận thể loại
như: Năm bài giảng về thể loại, Hoàng Ngọc Hiến, Nxb Giáo dục, H, 1999,
Lý luận văn học, Hà Minh Đức chủ biên, Nxb Giáo dục, H, 2003, Các từ điển,
thuật ngữ viết về khái niệm các thể loại khác nhau như: Lại Nguyên Ân với
150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004;
Hầu hết các công trình vừa nêu đều tập trung đi sâu phân tích khái niệm
thể loại, chức năng thể loại, cũng như những đặc trưng của truyện ngắn hiện
đại, trong đó có truyện ngắn hiện đại Việt Nam, tuy nhiên vấn đề giao thoa
các thể loại trong một tác phẩm hay một chuỗi tác phẩm truyện ngắn của một
tác giả thì gần như vắng bóng.
Là một trong những tác gia tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại,
Vũ Trọng Phụng cũng được nhiều nhà nghiên cứu, phê bình tìm hiểu. Có rất
nhiều công trình nghiên cứu về ông như: Văn Tâm với Vũ Trọng Phụng, nhà
văn hiện thực, Nxb Kim Đức, Hà Nội, 1975; Tạp chí văn học số 2, 1990 có
bài của Vương Trí Nhàn với tiêu đề Vũ Trọng Phụng và một lớp người thành
thị, một nền văn chương đô thị; Đỗ Đức Hiểu – Nguyễn Huệ Chi – Phùng
Văn Tửu – Trần Hữu Tá (chủ biên)
Tác phẩm của Vũ Trọng Phụng đã trở thành một hiện tượng “nóng” và
là đề tài quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu nhưng họ lại chủ yếu hướng tới
4
các tiểu thuyết và phóng sự của ông mà đôi khi quên mất rằng ông có một số
lượng truyện ngắn và kịch cũng không kém phần xuất sắc. Cũng vì vậy,
những công trình nghiên cứu riêng về truyện ngắn Vũ Trọng Phụng không
nhiều. Truyện ngắn Vũ Trọng Phụng chỉ mới xuất hiện gần đây bằng những

tuyển tập được sưu tầm và công bố. Ngoài những lời giới thiệu của nhà sưu
tầm Lại Nguyên Ân in đầu các tuyển tập truyện ngắn của Vũ Trọng Phụng và
Tuyển tập truyện ngắn Vũ Trọng Phụng của TS. Tôn Thảo Miên được coi là
những công trình sưu tập và nghiên cứu về truyện ngắn Vũ Trọng Phụng thì
đến nay chưa có công trình nghiên cứu về sự giao thoa thể loại trong truyện
ngắn Vũ Trọng Phụng. Đó là một vấn đề hoàn toàn mới mẻ.
3. Mục đích nghiên cứu
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu: “ Sự
giao thoa thể loại trong truyện ngắn Vũ Trọng Phụng” nhằm tạo nên
những bước tiến mới cho sự phát triển các thể loại khác nhau. Từ đó có cái
nhìn đầy đủ và toàn diện hơn về những đóng góp của Vũ Trọng Phụng trong
nền Văn học Việt Nam hiện đại.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Triển khai đề tài: “ Sự giao thoa thể loại trong truyện ngắn Vũ
Trọng Phụng” chúng tôi đặt ra mục tiêu sau:
- Tìm hiểu vấn đề giao thoa thể loại: Là sự đan xen, hòa quyện, phức
hợp giữa các thể loại.
- Tìm hiểu những giới thuyết về thể loại truyện ngắn, truyện ngắn Vũ
Trọng Phụng, những vấn đề lý luận về thể loại tiểu thuyết, kịch và phóng sự.
Soi chiếu những vấn đề của lý thuyết thể loại vào truyện ngắn Vũ
Trọng Phụng để thấy được chất kịch, chất tiểu thuyết, chất phóng sự trong
truyện ngắn của ông.
- Tìm hiểu cuộc đời, thời đại và đưa ra những kiến giải ban đầu về sự
giao thoa thể loại trong truyện ngắn Vũ Trọng Phụng.
5
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng: Đối tượng nghiên cứu trung tâm của luận văn này là sự
giao thoa thể loại trong các truyện ngắn Vũ Trọng Phụng. Văn bản các truyện
ngắn đó tập trung trong “Tuyển tập truyện ngắn Vũ Trọng Phụng”, do TS.
Tôn Thảo Miên tuyển chọn, giới thiệu, Nxb Văn học, H, 2004.

Phạm vi nghiên cứu: Trên cơ sở tìm hiểu những truyện ngắn trong
tuyển tập trên của Vũ Trọng Phụng, chúng tôi có sự đối chiếu, so sánh với đặc
trưng của các thể loại khác để tìm ra sự đan xen, hòa quyện của các thể loại
trong sáng tác truyện ngắn của Vũ Trọng Phụng. Qua đó, cũng có những liên
hệ với các tác phẩm thuộc thể loại khác của ông.
6.Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích và giải quyết được những nhiệm vụ mà luận văn
đặt ra, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: Phương pháp cấu
trúc hệ thống, Phương pháp phân tích tổng hợp, Phương pháp đối chiếu và so
sánh. Trong ba phương pháp trên , phương pháp đối chiếu so sánh là phương
pháp ưu tiên sử dụng, vì chúng tôi xuất phát từ quan niệm cho rằng, chỉ có thể
thấy được tính giao thoa thể loại trong tác phẩm của nhà văn khi những đặc điểm
nghệ thuật truyện ngắn đó được tham chiếu từ những tiêu chí thể loại khác.
7. Dự kiến đóng góp luận văn
Việc thực hiện đề tài này có khả năng giúp chúng ta có một cái nhìn
toàn diện, chính xác hơn về những đóng góp của Vũ Trọng Phụng cho sự phát
triển của nền văn học dân tộc, đặc biệt đóng góp trong lĩnh vực truyện ngắn
và nghệ thuật viết truyện ngắn. Đồng thời cũng giúp ta hiểu sâu hơn về những
vấn đề liên quan đến giao thoa thể loại.
Bên cạnh đó, đề tài cũng góp phần khẳng định giá trị truyện ngắn Vũ
Trọng Phụng, tạo cái nhìn khách quan và chính xác về tài năng cũng như sức
sáng tạo nghệ thuật trong toàn bộ sự nghiệp sáng tác của ông, thấy được bản
chất nghệ thuật được bồi đắp trong chính con người Vũ Trọng Phụng.
6
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phần nội dung
luận văn gồm 3 chương sau:
Chương 1: Truyện ngắn Vũ Trọng Phụng từ góc nhìn đặc trưng
thể loại.
Chương 2: Chất phóng sự và chất tiểu thuyết trong truyện ngắn Vũ

Trọng Phụng
Chương 3: Chất kịch trong truyện ngăn Vũ Trọng Phụng












7
CHƯƠNG 1
TRUYỆN NGẮN VŨ TRỌNG PHỤNG
TỪ GÓC NHÌN ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI

1.1. Khái niệm truyện ngắn
Thuật ngữ truyện ngắn được dùng rất nhiều trong thực tiễn nghiên cứu
văn học nhưng để hiểu được nó thì không phải là vấn đề đơn giản. Truyện
ngắn, tiếng Pháp: Nouvelle, tiếng Anh: Short story, tiếng Trung Quốc: đoản
thiên tiểu thuyết, và ở Việt Nam, nó được gọi bằng cái tên truyện ngắn. Nhà
văn Nguyễn Công Hoan đã giải thích về sự có mặt của thuật ngữ truyện ngắn
ở Việt Nam như sau: “ loại truyện viết theo nghệ thuật Âu Tây, ta theo
Trung Quốc mà gọi là tiểu thuyết, cái nào viết trên trăm trang gọi là trung
thiên – tiểu thuyết và cái nào viết hàng trăm trang gọi là trường thiên – tiểu
thuyết Năm 1932, báo Phong hóa dịch đoản thiên – tiểu thuyết ra tiếng ta
gọi là truyện ngắn và trung thiên – tiểu thuyết gọi là truyện vừa” [56,tr.12].

Về phía các nhà văn sáng tác truyện ngắn thì mỗi người lại có những
quan niệm truyện ngắn rất riêng. Nhà văn Nguyễn Kiên: “ Tôi cho rằng mỗi
truyện ngắn là một trường hợp Trường hợp ở đây là một màn kịch chớp
nhoáng, có khi là một trạng thái tâm lý, một biến chuyển tình cảm kéo dài,
chậm rãi trong nhiều ngày. Nhưng nhìn chung thì vẫn có thể gọi là một trường
hợp” [28,tr.38]. Như vậy, chúng ta có thể thấy, cụm từ một trường hợp đã thể
hiện được tính chất của truyện ngắn, một: dung lượng thuộc về số ít, trường
hợp thể hiện rõ ý nghĩa điển hình của sự vật, sự việc, tình huống
Nhà văn Nguyên Ngọc lại có quan niệm: “ Truyện ngắn là một bộ phận
của tiểu thuyết nói chung” vì thế “ không nên nhất thiết trói buộc truyện ngắn
vào những khuôn mẫu gò bó. Truyện ngắn vốn nhiều vẻ. Có truyện viết về cả
một đời người, lại có truyện chỉ ghi lại một vài giây phút thoáng qua”
8
[56,tr.23]. Và thực tế, trong văn học Việt Nam, giới nghiên cứu đã nhận xét
về những mầm mống tiểu thuyết trong một số truyện ngắn của các tác giả như
Nguyễn Minh Châu, Nam Cao và còn có cả những tác giả của giai đoạn văn
học trước đó mà chúng ta sẽ tìm hiểu trong phần sau.
Tuy có những quan niệm rất khác nhau về truyện ngắn như vậy, nhưng
trên cơ sở của những nghiên cứu có tính hàn lâm, được rút ra từ những cuốn
từ điển văn học, thuật ngữ nghiên cứu văn học, chúng ta vẫn có những định
nghĩa truyện ngắn mang tính nền tảng cho mọi nghiên cứu, mọi quan niệm.
Từ điển văn học (tập 2, Nxb Khoa học xã hội, H, 1984) đã đưa ra cách hiểu
truyện ngắn: “Hình thức tự sự cỡ nhỏ. Truyện ngắn khác với truyện vừa ở
dung lượng nhỏ hơn, tập trung mô tả một mảnh cuộc sống: một biến cố hay
một vài biến cố xảy ra trong một giai đoạn nào đó của đời sống nhân vật, thể
hiện một khía cạnh nào đó của vấn đề xã hội. Cốt truyện của truyện ngắn
trường diễn ra trong một không gian và thời gian hạn chế. Kết cấu của truyện
ngắn cũng không chia thành nhiều tuyến phức tạp. Truyện ngắn được viết ra
để tiếp thu liền một mạch, đọc một hơi không nghỉ nên đặc điểm của truyện
ngắn là tính ngắn gọn ”. Từ điển thuật ngữ Văn học ( Nxb Đại học Quốc gia

Hà Nội, H, 1998) có viết về truyện ngắn: “Tác phẩm tự sự cỡ nhỏ. Nội dung
thể loại của truyện ngắn bao trùm hầu hết các phương diện của đời sống: đời
tư, thế sự hay sử thi, nhưng cái độc đáo của nó là ngắn ” [56,tr.26].
Như vậy, qua những quan điểm và những định nghĩa trên về truyện
ngắn, chúng ta có thể rút ra được những đặc điểm chính của thể loại truyện
ngắn. Đó sẽ là những đặc trưng giúp chúng ta phân biệt một tác phẩm truyện
ngắn với một tác phẩm văn chương thuộc thể loại khác.
1.2. Một số nét đặc trưng thể loại
Trong một số giai đoạn lịch sử và ở một số tác gia văn xuôi cận hiện
đại, truyện ngắn được quan niệm là một tiểu thể nằm trong phạm trù tiểu
9
thuyết, là dạng “tiểu thuyết đoản thiên”. Quan niệm này cũng xuất phát từ
quan niệm về tiểu thuyết và văn xuôi tự sự nói chung của các nhà văn Trung
Hoa cổ đại. Tiểu thuyết theo quan niệm của Tư Mã Thiên trong bộ Sử ký, chỉ
là những chuyện ghi chép có nội dung phi chính thống, là những “chuyện nhỏ
nhặt, tầm thường” thu lượm được từ các nơi thôn dã, lều tranh Đối với ông
và những nhà văn đương thời (thế kỷ I-II trước Công nguyên) truyện ngắn
đồng nhất với tiểu thuyết. Vì thế trong truyền thống văn học Nho gia và Đông
phương nói chung, rất ít lý thuyết riêng cho truyện ngắn. Lý thuyết thể loại về
nó về cơ bản thường dựa vào lý thuyết của tiểu thuyết. Tuy nhiên, không phải
vì vậy mà lý luận văn học hiện đại không thể xây dựng một lý thuyết riêng
cho thể loại “nhỏ” này, nghĩa là xem xét nó trong mối tương quan ngang
hàng, bình đẳng với tiểu thuyết. Tổng hợp các nghiên cứu lý thuyết về thể loại
văn học nói chung và truyện ngắn nói riêng, chúng tôi thấy có thể xem xét đặc
trưng của truyện ngắn từ 5 “điểm nhìn” thi pháp, bao gồm: Dung lượng, Cốt
truyện, Kết cấu, Tình huống và Nhân vật.
Trước khi đi vào khảo sát những nét giao thoa thể loại trong truyện
ngắn Vũ Trọng Phụng (được trình bày trong chương 2 và chương 3), chúng
tôi sẽ cố gắng nắm bắt những đặc nét đặc trưng thi pháp thể loại truyện ngắn
trên thực tế cứ liệu truyện ngắn của chính nhà văn.

1.2.1. Dung lượng
Dung lượng được hiểu là kích cỡ, sức chứa, lớn nhỏ, là khả năng bao
quát hiện thực, là sức chứa chất liệu đời sống, dung lượng được hiểu theo
nghĩa khả năng của nội dung phản ánh hiện thực của thể loại. Nếu tiểu thuyết
là một hình thức tự sự cỡ lớn, miêu tả cuộc sống trong quá trình phát triển với
một cấu trúc phức tạp (nhiều cốt truyện, chủ đề, nhân vật) với nhiều số phận,
tính cách đan xen thì truyện ngắn là một hình thức tự sự cỡ nhỏ, chỉ thể hiện
một bước ngoặt, một trường hợp hay một tâm trạng nhân vật. Nếu tiểu thuyết

10
miêu tả quá trình thì truyện ngắn miêu tả kết quả, nếu tiểu thuyết mở ra một
diện rộng thì truyện ngắn tập trung xoáy vào một điểm. Tuy nhiên, dung
lượng nhỏ gọn đó của truyện ngắn không ảnh hưởng đến hiệu quả và chất
lượng tác phẩm, mà ngược lại nhiều tác phẩm truyện ngắn nhưng về dung
lượng và chất lượng không hề thua kém tiểu thuyết như các sáng tác của
Nguyễn Minh Châu, nguyễn Huy Thiệp
Hiện nay, các nhà văn Việt Nam đã dần khẳng định xu thế tiểu thuyết
hóa truyện ngắn: “Dung lượng truyện ngắn hiện nay rất lớn, trong độ ba trang
mấy nghìn chữ mà rõ mặt cuộc đời, một kiếp người, một thời đại. Các truyện
ngắn bây giờ rất nặng. Dung lượng của nó là dung lượng của cả cuốn tiểu
thuyết” [56,tr.67]. Sự thay đổi dần về dung lượng và sự mở rộng về khả năng
phản ánh, tái hiện của truyện ngắn đã giúp nó tiến gần đến với tiểu thuyết
hơn. Tuy nhiên, dù có chứa đựng những đặc trưng của tiểu thuyết thì truyện
ngắn vẫn có sự khác biệt để khu biệt nó với tiểu thuyết.
1.2.2. Cốt truyện
Arixtốt, nhà triết học vĩ đại của Hy Lạp cổ đại trong tác phẩm Nghệ
thuật thi ca đã định nghĩa cốt truyện như sau: “ cốt truyện dùng để mô phỏng
hành động cũng phải là sự miêu tả một hành động, hành động hoàn chỉnh và
các phần của sự kiện cần phải sắp xếp như thế nào để khi thay đổi hay bỏ đi
một phần thì cái chỉnh thể cũng biến động theo bởi cái gì mà có hoặc thiếu nó

cũng được thì cái đó không phải là bộ phận hữu cơ của thể thống nhất ấy”
[56,tr.69,70].
Cốt truyện bao gồm các phần: trình bày, khai đoạn (thắt nút), phát triển,
đỉnh điểm (cao trào) và kết thúc (mở nút) (theo Từ điển thuật ngữ Văn học),
còn sách giáo khoa Lý luận văn học do Giáo sư G.N Pôxpêlôp chủ biên thì cốt
truyện chia làm bốn phần: Thắt nút, Phát triển hành động, Cao trào và Mở
nút [56,tr.72]. Như vậy, dẫu chia thành các thành phần khác nhau thì vẫn có

11
các thành phần chính như: Mở đầu,cao trào,kết thúc. Khi tìm hiểu hay nghiên
cứu bất kì một truyện ngắn nào chúng ta đều phải nắm được cốt truyện. Và
yếu tố chi tiết trở thành yếu tố góp phần bộc lộ được không khí, cảnh trí, tình
huống, tính cách, hành động và tâm tư nhân vật. Những chi tiết hay còn nâng
tác phẩm lên cấp độ tượng trưng, tạo sức ám ảnh. Bên cạnh đó, cách kết thúc,
đoạn kết trong tác phẩm truyện ngắn cũng thể hiện “sức mạnh của cú đấm
nghệ thuật” (Phuôcmanôp). Việc nắm chắc những đặc trưng về cốt truyện khi
nghiên cứu truyện ngắn là yêu cầu hết sức quan trọng.
1.2.3 Kết cấu
Theo Từ điển thuật ngữ Văn học, kết cấu là toàn bộ tổ chức phức tạp và
sinh động của tác phẩm.
Thuật ngữ kết cấu thể hiện một nội dung rộng rãi và phức tạp hơn bố
cục. Tổ chức tác phẩm không chỉ giới hạn ở sự tiếp nối bề mặt, ở những
tương quan bên ngoài giữa các bộ phận, chương đoạn mà còn bao hàm sự liên
kết bên trong nghệ thuật kiến trúc nội dung cụ thể của tác phẩm.
Bất cứ tác phẩm văn học nào cũng có kết cấu nhất định. Kết cấu là
phương tiện cơ bản và tất yếu của khái quát nghệ thuật. Kết cấu đảm bảo các
chức năng rất đa dạng: bộc lộ tốt chủ đề và tư tưởng các tác phẩm: triển khai,
trình bày hấp dẫn cốt truyện; cấu trúc hợp lý hệ thống tính cách; tổ chức điểm
nhìn trần thuật của tác giả: tạo ra tính toàn vẹn của tác phẩm như một hiện
tượng thẩm mỹ.

1.2.3.1. Kết cấu trần thuật dạng “truyện lồng trong truyện”
Trong bài viết “Sự di chuyển của kết cấu truyện lồng truyện và kiểu
truyện khung trong văn học từ Ấn Độ sang Đông Nam Á (trích từ trang web
www. khoavanhocngonngu.edu.vn), tác giả Nguyễn Ngọc Bảo Trâm cho ta
biết được kết cấu truyện lồng truyện ở góc độ một thủ pháp văn chương đã
xuất hiện rất sớm trong lịch sử văn học thế giới. Nói một cách đơn giản, đây

12
là thủ pháp để lồng ghép một câu chuyện độc lập (có liên quan hoặc không về
mặt nội dung) vào tác phẩm chính trong quá trình diễn tiến của tác phẩm. Có
thể thấy biểu hiện xa xưa của nó trong sử thi Odysseus của Hy Lạp (khoảng
thế kỷ IX - VIII trước công nguyên) khi người anh hùng Uylix tự kể lại những
chuyện phiêu lưu của mình trong bữa tiệc. Từ thời cổ đại, kết cấu truyện lồng
truyện đã được văn học Ấn Độ sử dụng triệt để để tạo nên hai thiên sử thi đồ
sộ nhất trong lịch sử nhân loại là Mahabharata (thế kỷ V trước công nguyên)
và Ramayana (khoảng thế kỷ IV-III trước công nguyên).
Với truyện ngắn Việt Nam đầu thế kỷ XX, kết cấu truyện lồng trong
truyện là một lối kết cấu mới mẻ, thể hiện việc chịu ảnh hưởng phương Tây
rõ nét, mà tác phẩm đầu tiên cần kể là Truyện thầy Lazarô Phiền của
Nguyễn Trọng Quản. Trong Truyện Thầy Lazarô Phiền có tới hai chuyện:
chuyện thứ nhất là của nhân vật “tôi” kể cho bạn đọc nghe về cuộc gặp gỡ
giữa bản thân và thầy Phiền, chuyện thứ hai chính thầy Phiền đã kể lại
chuyện đời mình cho nhân vật “tôi” nghe từ việc thầy đã lấy được một người
vợ đáng yêu như thế nào, thầy đã nghi ngờ và tìm cách giết vợ ra sao, và
những ăn năn dằn vặt của thầy …).
Một đặc điểm đáng lưu ý nữa là ở những tác phẩm có kết cấu truyện lồng
trong truyện như vừa nêu trên là những câu chuyện trong một truyện không tách
rời mà luôn được đan cài vào nhau rất linh hoạt, tự nhiên, cho người đọc những
ấn tượng về sự chân thực của chuyện được kể, kéo họ lại gần với thế giới nghệ
thuật của tác phẩm hơn, đồng thời tạo sự sinh động cho truyện.

Mặt khác, sự đan cài hai câu chuyện vào nhau là một cách thức tạo sự
luân phiên điểm nhìn, góp phần làm cho nhân vật (nhất là thế giới nội tâm của
nó) dược xem xét dưới nhiều góc độ và được xây dựng một cách tự nhiên
hơn. Đó chính là thế mạnh của kết cấu truyện lồng trong chuyện, góp phần tạo
dựng cho truyện một nghệ thuật trần thuật hiện đại.

13
Như đã nêu trên, kết cấu “truyện lồng trong truyện” không phải một
dạng kết cấu mới lạ đối với loại hình tự sự. Và kết cấu này đã đi vào truyện
ngắn Vũ Trọng Phụng với những giá trị riêng của nó. Lỡ lời, Cái ghen đàn
ông, Một cái chết, Lấy vợ xấu, Sống để mà lo, Bà lão lòa, … là những truyện
ngắn được kết cấu theo dạng thức như vậy.
Truyện ngắn Bà lão lòa, một trong những truyện ngắn đầu tay xuất sắc
của Vũ trọng Phụng. Trong diễn biến cuộc đời cơ cực của bà lão tội nghiệp
chịu cảnh tật nguyền sống nhờ nhục nhã bỗng xuất hiện ba câu chuyện nhỏ về
những hành động nhân đức của một người phụ nữ: thấy người ăn mày lụ khụ
đến xin ăn bị mấy con chó “nhảy xổ ra cắn xa xả”, bà đã “quát thằng nhỏ ra
mắng chó, dắt ông ăn mày vào thiết một lưng cơm”; trước gia cảnh bác nhiêu
B. Vợ chết, nhà bị hỏa hoạn, đàn con nheo nhóc, đói kém, bà đã “cởi hầu bao,
lấy ra một cuộn giấy bạc” đem cho; và cuối cùng trước cảnh đau xót của một
người phụ nữ phải bán con để mong cứu chồng bênh liệt giường liệt chiếu đã
hơn nửa tháng, bà cũng đã cho năm đồng về lo thuốc men cho chồng mà
không phải bán con. Đến cuối cùng Vũ Trọng Phụng mới cho ta biết hóa ra đó
chính là bà lão lòa tội nghiệp bây giờ. Ba câu chuyện nhỏ về sự phúc đức để
góp phần làm rõ một nghịch lí: bà đã từng rất tử tế với người không ruột thịt
thân thích, bà đã từng động lòng trắc ẩn trước bao số phận vật vờ tận đáy cuộc
đời; song giờ đây, người thân thích ruột rà không mảy may động lòng xót xa
cho thân già tật nguyền cô độc của bà, nhẫn tâm tàn tệ với bà hơn cả với
người dưng nước lã, đay nghiến chà đạp lên thân phận sống nhờ đầy nghịch
cảnh bà đang phải chịu. Trần thuật với kết cấu “truyện lồng trong truyện”, Vũ

Trọng Phụng đã dựng lên sự đối lập gay gắt giữa quá khứ và thực tại, giữa
thiện tâm và ác tâm, giữa vị tha và ích kỉ để phê phán sự bội bạc, bất nhân của
người đời và tố cáo cái nghèo làm nhân cách con người dần thảm hại như nó.

14
Mỗi một truyện ngắn có kết cấu “truyện lồng trong truyện” dường như
đều mang trong đó một nghĩa lí nào đó mà tác giả muốn đem lại cho người
đọc. Lồng ghép những mảnh đời vào câu chuyện, tác giả không chỉ làm đa
dạng hóa kết cấu trần thuật mà phần nào đó đã nêu bật được tình cảm, thái độ
của ông dành cho cuộc đời, cho kiếp người. Có cảm giác đọc truyện ngắn Vũ
Trọng Phụng như đến với một quyển sách với nhiều chương, mỗi một chương
lần giở ra lại thấy hiện lên một cảnh đời, một câu chuyện khác nhau. Điều ấy
khiến quyển sách chưa bao giờ nhàm chán, luôn mới lạ, hấp dẫn, kích thích
người đọc khám phá tiếp tục để hiểu thêm bao nhiêu trang đời đã nén chặt, đã
được lồng ghép trong quyển sách số phận ấy. Lại có một hình dung khác về
những câu chuyện trên, nó cứ như những bông hoa đang chớm nở. Ta phải
bóc dần từng cánh từng cánh để thấy được cái nhụy bên trong – một cái nhụy
mang ý nghĩa nhân sinh sâu sắc như một hạt giống lành để lại mùa sau.
1.2.3.2. Kết cấu đảo trình tự thời gian
Trong truyện ngắn Người có quyền, tác giả lại kể về cuộc đời một nhân
vật “văn dốt, vũ dát, hai mươi bảy tuổi đầu còn ăn bám vào mẹ, cả ngày đi
tìm mấy gia đình nhàn cư bất thiện để gạ đánh cờ không tiền hay là chầu rìa
tổ tôm”, nói tóm lại là dở ông dở thằng. Nhưng ông không bắt đầu câu chuyện
từ điều ấy mà khơi nguồn từ tâm trạng hớn hở của nhân vật khi hôm nay anh
ta đã được làm cha một đứa trẻ con – kết quả mối tình của anh và “một người
đàn bà góa chồng rất trẻ, cũng vui vẻ, nhí nhảnh…mà anh đã chim”. Để nhân
vật triết lí về hạnh phúc, sung sướng với thực tại trong sự hồi tưởng ngược
dòng về quá khứ, Vũ trọng Phụng cho người đọc những bất ngờ: con người
như thế mà sao may mắn đến vậy? Nhưng không, đó chỉ là cách nhà văn che
giấu cho một tương lai gần rất bi kịch mà hợp lí: con là con người ta, nhân

tình bấy lâu đầu ấp tay gối đã lừa gạt và phũ phàng xua đuổi không thương
tiếc. Lối trần thuật như vậy quả thật có giá trị riêng của nó: không chỉ lí giải

15
cho hoàn cảnh, tâm lí nhân vật trong thực tại và chuẩn bị cho những bất ngờ
phía trước; nó còn giúp ta hiểu rõ về nhân vật qua cái nhìn ngược thời gian
đầy ấn tượng.
Cách trần thuật đưa kết quả sự việc lên trước rồi lần lượt kể lại nhằm lí
giải nguyên nhân, truy tìm nguồn gốc cũng là kết cấu được sử dụng trong một
số truyện ngắn như: Phép ông láng giềng, Bẫy tình, Chống nạng lên đường,
Tội người cô, Duyên không đi lại, cái hàng rào, Bà lão lòa, Gương …tống
tiền, Lòng tự ái…
Chống nạng lên đường và Tội người cô cũng trình bày cho ta thảm
cảnh hiện tại của hai nhân vật Hai Xuân và người cô ông chủ nhà. Hai Xuân
chịu cảnh tật nguyền, phải sống nhờ vào anh và hằng ngày chứng kiến cảnh vì
một người làm nuôi cả nhà, vì thiếu cơm mà anh của Xuân “mắng bố, gắt mẹ,
chửi rế, chửi đôi gốc đang đi mà quai đứt, chửi xó nhà lắm muỗi vo vo…”.Tất
cả cũng chỉ vì một buổi kéo xe Hai Xuân đã bị xe hơi chẹt phải đến nỗi đành
cưa chân thành tật nguyền. Cả một số phận con người rẽ sang bước ngoặt tăm
tối trong một tích tắc oan trái của quá khứ. Bên cạnh đó, tác giả còn để cho
nhân vật hồi tưởng lại ngày xưa nghèo khổ mà vui vẻ khi sau mỗi ngày làm
việc mệt nhọc được trở về nhà, “đến chĩnh nước ngửa cổ “tu” một hơi nước
lã thật dài xong thở đánh “hà à à” một cái rất khoái chí rồi cầm mảnh mo
vừa quạt vừa bước vào nhà ngơ ngác nhìn xem bố mẹ đã thổi chín cơm chưa
để liệu dọn mâm bát”, một ngày xưa thân ái với cảnh “ mâm cơm dọn xong,
nó chỉ còn chờ anh Cả cho nó đi làm về là cùng ngồi vào, tuy bữa nào cũng
chẳng hơn gì bữa nào, chỉ nhặt cà, tương, dưa muối mà thằng Xuân ăn thấy
rất ngon”. Thế nhưng quá khứ ấy chỉ là thoáng chốc còn hiện tại đau đớn
khốn khổ khốn nạn mới kéo dài chưa biết đến đâu. Khởi đầu với hiện thực
phũ phàng, cay đắng rồi sống lại với quá khứ giản dị mà tươi đẹp, câu chuyện

đã khiến chúng ta thêm ngậm ngùi buồn đau cho số phận con người.

16
Những truyện ngắn trên là minh chứng tiêu biểu cho lối trần thuật đảo
trình tự thời gian của Vũ Trọng Phụng. Xét ở khía cạnh kết cấu trần thuật,
cách kể chuyện này ít nhiều cũng đã hình thành nên một nét đặc sắc cho
truyện ngắn của tác giả.
1.2.3.3. Kết cấu theo diễn biến tâm lí của nhân vật
Có thể nói đây là kiểu kết cấu mới mẻ nhất trong văn học Việt Nam
giai đoạn đầu thế kỷ XX. Đó là kiểu kết cấu của những tác phẩm có cốt truyện
tâm lí nhằm miêu tả những diễn biến tinh vi, phức tạp của đời sống nội tâm
con người. Trong những truyện này, chỉ có một vài sự việc, còn lại là cảm
giác, suy nghĩ của nhân vật với những hồi ức, liên tưởng và độc thoại nội tâm.
Nếu có sự kiện thì sự kiện chỉ đóng vai trò khơi gợi cho dòng chảy tâm lý.
Tiêu biểu cho truyện có kết cấu tâm lý này là những truyện của tác giả thuộc
dòng truyện ngắn trữ tình như Thạch Lam, Thanh Tịnh và sau này được tiếp
nối, phát huy, thành công rực rỡ với Nam Cao.
Hẳn nhiên mạch truyện được triển khai theo tâm lý nhân vật nhưng vẫn
phải bám sát vào cá sự kiện, dựa vào sự kiện. Do vậy, để có một truyện hay,
người viết không chỉ miêu tả tâm lý mà là phân tích tâm lý, phân tích gắn với
sự kiện, vì sao chỉ có sự kiện ấy thì tâm lý nhân vật mới có biểu hiện như vậy.
Dẫu không nhiều nhưng một số truyện ngắn của Vũ Trọng Phụng đã
được cấu trúc theo chính diễn biến tâm lý của nhân vật. Rửa hờn, nhân quả,
Duyên không đi lại, Chống nạng lên đường…là những truyện ngắn như vậy.
Với Chống nạng lên đường, tác giả cấu trúc truyện ngắn này phần lớn
theo diễn biến tâm lý nhân vật Hai Xuân. Câu chuyện bắt đầu với nỗi buồn,
dần chuyển sang hoài niệm xa xôi về một quá khứ đẹp tươi, rồi ai oán khi
nghĩ đến cảnh nhà túng thiếu và phận ăn nhờ của mình. Dần dần tác giả mở
rộng ra những cảnh mà Hai Xuân đã trông thấy ở trên cầu, bao nhiêu cảnh
tượng yên bình mở ra nhưng thực chất đó là cố nhìn, cố quên để qua cơn đói


17
cồn cào trong người. Những ý nghĩ tốt đẹp, rồi hài hước, thoáng qua để trở về
với nỗi cay đắng , xót xa cho số phận. Sau đó Hai Xuân nhớ về những kí ức
đau khổ của nghề kéo xe tay phải chiến đấu hằng ngày cùng “những tia nắng
mặt trời dữ dội chiếu xuống đốt lưng, đốt gáy”, “những trận mưa gió phũ
phàng ném những giọt nước nặng nề thẳng vào mặt” hoặc “thổi tung cát bụi
lên lam tối mắt”, chiến đấu với sự cạnh tranh không cân sức với những chiếc
xe cơ khí hóa lăm le cướp cơm của mình. Tận cùng trong dòng hồi ức ấy là
bao ai oán, ngỡ ngàng, uất ức với bước ngặt cuộc đời: ngày bị tật nguyền.
Những điều đó đưa hai Xuân trở về với nỗi buồn ghê gớm, buồn vì nỗi mặc
cảm: hổ thẹn khi cụt chân, buồn đến độ muốn chết ngay đi được. Và rồi ,
nhân vật ngủ quên đi trước khi bị đánh thức dậy bởi tiếng đoàn tàu. Và khi
tỉnh dậy, Hai Xuân sợ chết, lần lần tìm về nhà nhưng lại buồn hơn khi chứng
kiến cảnh nhà. Trước sự tàn nhẫn lạnh lùng và hỗn láo của anh mình, hai
Xuân đã thấy giận sôi lên nhưng mà vì sợ, vì thương bố mẹ nên đành ra đi,
dẫu rằng không biết đi về đâu, dẫu rằng “đau lòng quá đỗi”. Chịu trận ngoài
đường qua cơn mưa đêm xối xả, anh trở về nhà và chọn cách ra đi để cha mẹ
đỡ tụi nhục, tê tái. Cả một quá trình tâm lý của Hai Xuân trong khoảng thời
gian ngắn ngủi từ chiều hôm trước đến sáng hôm sau được diễn ra sinh động,
chân thực và đầy thương tâm. Câu chuyện cũng chỉ diễn ra trong chừng ấy
thời gian, tuy ngắn ngủi mà gây nhiều xúc động. Ta phục cái tài của Vũ Trọng
Phụng đã cấu trúc, nối kết những diễn biến tâm lý của nhân vật vào câu
chuyện hoàn chỉnh, nhưng càng kính trọng hơn cái tâm đã xúc động biết bao
với số phận đau khổ của nhân vật mà tác giả đã ẩn sâu vào từng dòng tâm lý
ấy. Nếu không xót xa chân thành và yêu thương sâu sắc, làm sao nhà văn có
thể miêu tả được đến như vậy.
Qua đó, Vũ Trọng Phụng đã giúp ta hiểu thấu hơn một lẽ: đôi khi lòng
tự ái khiến người ta trở nên độc ác, tàn nhẫn; vì mình đau nên người khác phải


18
chịu cùng, chịu hơn thế thì mới hả. Khám phá, cắt nghĩa và rồi tái hiện cụ thể
tâm lý ấy qua diễn biến câu chuyện, Vũ Trọng Phụng khiến ta khó lòng nhẹ
nhõm dù tác phẩm đã kết lại bằng cái cười to sung sướng của nhân vật.
1.2.4. Tình huống trong truyện ngắn
Vấn đề tình huống đã được giới nghiên cứu quan tâm từ rất sớm. Thế
kỷ thứ XIX nhà triết học, mỹ học lỗi lạc người Đức Hêghen (1770 – 1831),
trong công trình Triết học về Mỹ học đã dành nhiều trang bàn về tình huống
trong nghệ thuật.
Các nhà văn Việt Nam quen dùng chữ tình thế hơn là tình huống. tình
huống chính là tạo hành động cho nhân vật của mình. Các nhà văn coi trọng
việc lựa chọn tình huống đặc thù cho các nhân vật. Các tình huống truyện
không mở ra cái thế thúc đẩy hành động thông thường cho nhân vật phát triển
mà nhằm thúc đẩy một hành động khác – hành động tâm lý.
Tóm lại, tình huống là cái “khoảnh khắc cốt yếu”, khi nhân vật đặt
trong hoàn cảnh đó, nhất định phải bộc lộ tính cách chủ yếu của mình,
tính cách ấy chi phối cách sống, cách nghĩ, cách ứng xử, đường đi nước
bước và cả số phận của cuộc đời mình.
1.2.4.1. Tình huống hài kịch
Hài kịch thiên về phê phán cái xấu, cái lố bịch, cái lỗi thời để tống tiễn
nó ra khỏi đời sống xã hội. Nhân vật của tình huống hài kịch thường không có
sự tương xứng giữa thực chất bên trong với danh nghĩa bên ngoài của mình
nên trở thành lố bịch.
Qua khảo sát của chúng tôi, tình huống “hài kịch” ở truyện ngắn của
Vũ Trọng Phụng xuất hiện khá nhiều. Trong Sư cụ triết lý, tình huống bắt đầu
từ nguy cơ nhà chùa quẫn bách đến nơi bởi lẽ ít lâu nay khách thập phương
không năng lui tới cửa thiền. Song, điều đó đối với Sư Tăng Sương không
phải là vấn đề: đã có chí tu đến thành Phật, ai nỡ đâu quan tâm đến chuyện

19

tiền. Nghĩ đến chuyện tiền, chẳng còn là từ bi; và ngài triết lý: Trên thế gian
cũng như trong vũ trụ, vật nào cũng có một nghĩa, sự nào cũng có một
lý…[2,tr.613].
Một trong những biểu hiện của tình huống “hài kịch” là sự mâu thuẫn
giữa nội dung và hình thức. Truyện Cuộc vui ít có là vở hài kịch “ít có” khi
nhà văn đã xây dựng rất thành công những nhân vật không có sự tương xứng
giữa thực chất của bọn lang băm và cái danh nghĩa thầy lang của chúng. Tình
huống hài kịch trong Một con chó hay chim chuột (hay Tình là dây oan) lại
có tác dụng thể hiện xu hướng chống văn chương lãng mạn ở ngòi bút của tác
giả. (chú thích của Lại Nguyên Ân).
Thông qua tiếng cười, ông đã phơi bày một cách nghiêm khắc những
cái lố bịch của cuộc đời, mà cái căn cơ chính là thế lực của đồng tiền. Tuy
không cụ thể nhưng trong tiểu thuyết, người đọc có thể thấy cái sức mạnh của
đồng tiền chi phối trong các truyện ngắn của ông. Để báo chạy, nhà báo Nhất
Đông Dương không ngại thêu dệt, thậm chí bóp méo cả sự việc (Sao mày
không vỡ, nắp ơi); người không có quyền làm bố chỉ tại không có tiền
(Người có quyền); các ông thầy lang lừa người cũng chỉ vì tiền (Chữa bệnh
lao bằng mồn; Cuộc vui ít có). Đồng tiền làm cho con người ta trở thành
những người vô nghĩa lý, tha hóa (Piere Quyền, con người Âu hóa). Có khi
tiếng cười được bật ra từ tình huống mang tính nghịch lý, ngược đời; Đôi khi
tình huống hài kịch trong truyện Vũ Trọng Phụng là sự giễu cợt, mỉa mai lối
sống lãng mạn rởm, con người trở thành những biếm họa, tha hóa, là nạn
nhân của những lối sống lãng mạn ấy. (Cái ghen đàn ông; Lòng tự ái).
1.2.4.2.Tình huống bi kịch
Theo nhóm tác giả của Từ điển thuật ngữ văn học, “Bi kịch phản ánh
không phải bằng tự sự mà bằng hành động của nhân vật chính…diễn ra trong
một tình huống cực kỳ căng thẳng mà nhân vật thường chỉ thoát ra khỏi nó

20
bằng cái chết bi thảm gây nên những suy nghĩ và xúc động mạnh mẽ đối với

công chúng…kết thúc bi thảm của số phận nhân vật bi kịch thường có ý nghĩa
thức tỉnh…”[18-19]
Khảo sát từ thực tế truyện ngắn Vũ Trọng Phụng, chúng tôi thấy tình
huống này không nhiều nhưng có. Cụ thể chúng ta có thể thấy ở Bà lão lòa;
Một cái chết; Chống nạng lên đường.
Trong truyện ngắn Một cái chết , bi kịch ở cuộc đời Hợi là mâu thuẫn
và sự đối lập giữa trái tim nhân hậu, giàu tình thương của một đứa bé mười
một. mười hai tuổi với sự phũ phàng, lạnh lùng của người cha và cuộc đời.
Một khối óc còn non mà đã thấy cái chân tướng cuộc đời, trong lòng xúc cảm
bao mối thương tâm mà chỉ biết phát lộ ra bằng một tiếng thở dài.[2,tr.553].
Vũ Trọng Phụng là một nhà văn, một nhà văn đích thực, viết về sự tha hóa
của con người. Tác phẩm của ông, xuất phát từ xã hội Việt Nam dưới thời
Pháp thuộc, những năm 1930 – 1940, với tất cả những tệ đoan của thời đó. Từ
những truyện ngắn đầu tiên như Một cái chết (1931), Bà lão lòa (1931), ông
đã nêu đích danh thủ phạm của những cái chết bi thương, đói khát, là lòng dạ
ác độc, không cưu mang nhau, sự nhẫn tâm giữa người với người.
1.2.4.3 Tình huống bi hài kịch
Tình huống “bi hài kịch” chính là sự phối trộn giữa hai yếu tố: bi và
hài. Nếu như tình huống “bi hài” trong truyện ngắn lãng mạn thường là cái
cười nhẹ nhàng thi vị, trữ tình, thì cái “bi hài” của truyện ngắn hiện thực phê
phán là cái cười chua chát trước thực tại đời sống.
Xã hội Việt Nam từ những năm 1930 – 1940 “không thiếu những tiếng
não nùng, ai oán, nỉ non, tiếng thở dài và cả tiếng khóc”. Trong những truyện
ngắn của mình, Vũ Trọng Phụng không chỉ cười cợt, phê phán trước những
mặt trái của xã hội mà ông cười cả trong sự buồn.

×